Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học BIỆN CHỨNG GIỮA vấn đề dân tộc và GIAI cấp TRONG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.6 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Xã hội loài người luôn tồn tại rất nhiều dạng quan hệ giữa người với
người.Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quan hệ giữa giai cấp
và dân tộc...Trong đó quan hệ giữa dân tộc và giai cấp là mối quan hệ cơ bản và có
tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới mỗi thành viên nói riêng và của toàn xã hội nói
chung.Vì vậy việc nghiên cứu vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp,nghiên cứu mối quan
hệ giữa hai vấn đề dân tộc và giai cấp là rất cần thiết.C.Mac,V.Lênin và chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu vấn đề giai cấp,dân tộc và mối quan hệ giữa chúng rất
chi tiết,khoa học,có hệ thống và được ứng dụng vào thực tiễn của công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã cho chúng ta thấy rằng,
khi nào và ở đâu, vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc không được kết hợp một cách
đúng đắn, quá trình xử lý và vận dụng vào thực tiễn cứng nhắc, giáo điều và xem
trọng khác nhau đã làm cho cách mạng rơi vào hoàn cảnh khó khăn và tổn thất
nặng nề.Những bài học xương máu và thiết thực đó cần được gi nhận và vận dụng
vào việc xem xét các vấn đề dân tộc và giai cấp trong mối quan hệ biện chứng với
nhau trong công cuộc xây dựng va bảo vệ đất nước nhất là trong bối cảnh toàn cầu
hóa,hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều khó khăn và thử thách.

I.Các quan niệm về dân tộc và giai cấp
1.Quan niêm về giai cấp
Quan niệm trước Mac cho rằng giai cấp là một tập hợp những người có cùng
một chức năng xã hội,cùng một lối sống hoặc mức sống,cùng một địa vị và uy tín
1


xó hi.Quan nim ú ch l m h, khụng i vo c trng c bn ca xó hi.Cỏc
lý thuyt ú trỏnh ng n vn c bn c bit l cỏc vn quan h sn xut
v t liu sn xut.
Quan nim ca ch ngha Mac-Lờnin: Trong tỏc phm Sỏng kin v i,
Lờnin nh ngha: Ngi ta gi giai cp, nhng tp on to ln gm nhng
ngi khỏc nhau v a v ca h trong mt h thng sn xut xó hi nht nh


trong lch s, khỏc nhau v quan h ca h i vi nhng t liu sn xut,v vai trũ
ca h trong t chc lao ng xó hi v nh vy l khỏc nhau v cỏch hng th
v phn ca ci xó hi ớt nhiu m h c hng. Giai cp l nhng tp on
ngi, m tp on ny cú th chim ot lao ng ca tp on khỏc, do ch cỏc
tp on ú cú a v khỏc nhau trong mt ch kinh t xó hi nht nh.
Mi giai cp cú nhng c trng riờng, giai cp khụng phi l ca sn xut núi
chung m l sn phm ca h thng sn xut xó hi nht nh trong lch s. Mi
giai cp v bn cht l th thng nht ca cỏc mt i lp vỡ vy mun hiu c
c trnng ca giai cp phi t trong h thng cỏc giai cp i lp vi nú.
Mi giai cp khỏc nhau v nm gi t liu sn xut trong cung xó hi,khỏc
nhau v vai trũ qun lý, phõn cụng lao ng xó hi, khỏc nhau v phõn phi sn
phm,khỏc nhau v a v trong nn sn xut. Nh vy giai cp khụng phi l phm
trự xó hi thụng thng m l phm trự kinh t, xó hi cú tớnh cht lch s.
Giai cp c hỡnh thnh da trờn hai con ng: Mt l nhmg k cú chc cú
quyn trong th tc, b lc dựng quyn uy ca mỡnh chim ot t liu sn xut
lm ca riờng t ú hỡnh thnh giai cp thng tr.hai l tự binh bt c trong
nhng cuc chin tranh b bin thnh nụ l,cũn bao gm c nhng ngi nghốo
kh tronh th tc, b lc b mt ht t liu sn xut.
2. Quan nim v dõn tc
Khái niệm: Để chỉ một cộng đồng ngời ổn định làm thành nhân dân một nớc có
lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có ý thức về sự thống
nhất của mình, gắn bó với nhau bởi những quyền lợi về: chính trị, dinh tế, truyền

2


thống, văn hoá, truyền thống đấu tranh chung trong suốt quá trình dựng nớc và bảo
vệ đất nớc.
Dõn tc ra i cựng vi s ra i ca ch ngha t bn. Dõn tc cú tớnh thng
nht cao va n nh bn vng m bo bi nguyờn tc phỏp lý cao,tụn trng quyn

t quyt ca mi dõn tc. Trong qua trỡnh phỏt trin ca mỡnh mi dõn tc u cú
s thc tnh v ý thc dõn tc,thc tnh v quyn sng ca mỡnh.Cỏc dõn tc
mun liờn hip vi nhau da trờn nguyờn tc bỡnh ng nhm cú s giao lu kinh
t v vn hoỏ trong xó hi t bn xut hin nhu cu xoỏ b hng ro ngn cỏch
gia cỏc dõn tc. iu ny to ra s t ch,phn do nhng tinh hoa, nhng giai tr
ca nhng dõn tc, b sung cho nhau.Nhng giỏi tr chung hũa quyn ú khụng
xúa nhũa nhng c thự dõn tc m ngc li,nú m bo lu,gi gỡn, phỏt huy
nhng tinh hoa, bn sc dõn tc.
Ch ngha Mỏc-Lờnin cho rng, dõn tc l sn phm ca quỏ trỡnh phỏt trin lõu
di ca lch s. Trc dõn tc l cỏc hỡnh thc cng ng tin dõn tc nh th tc,
b lc, b tc. S phỏt trin ca ch ngha t bn ó dn ti s ra i v phỏt trin
ca cỏc nh nc dõn tc t bn ch ngha. Khi ch ngha t bn chuyn sang giai
on quc ch ngha, cỏc quc thc hin chớnh sỏch v trang xõm lc, cp
búc, nụ dch cỏc nc nhc tiu, vn dõn tc tr nờn gay gt v t ú xut hin
vn dõn tc v thuc a. Sau cỏch mng Thỏng Mi Nga v s ra i h thng
xó hi ch ngha th gii, phong tro gii phúng dõn tc phỏt trin mnh, dn ti s
tan ró ca h thng thuc a ca ch ngha quc v xut hin nhiu quc gia
dõn tc c lp tr tui.
Trong tng H Chớ Minh vn dõn tc c th hin tp trung ch yu cỏc
ni dung v dõn tc trong hon cnh cỏc nc thuc a,quyn thiờng liờng dõn
tc,quan h gia dõn tc v giai cp,c lp dõn tc gn lin vi ch ngha xó
hi,ch ngha yờu nc gn vi ch ngha quc t cng sn.

3


Nếu như C.Mac bàn về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, V.I.Lênin bàn
nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc,thi Hồ Chi Minh tập trung bàn
về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giải phóng dân tộc xác lập quyền tự
quyết dân tộc và xây dựng một nhà nước độc lập.Con đường phát triện của dân tộc

đúng đắn là sự cần thiết để giải phóng dân tộc.Hồ Chí Minh đã vách ra rõ trong
luận cương chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam,Hồ Chí Minh viết: ”
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Về quyền dân tộc, Hồ Chí Minh cho rằng tất cả các dân tộc trên thế giới đều bình
đẳng; tức độc lập tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân
tộc. Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, tận mắt chứng kiến sự chà đạp của ngoại
bang lên tự do độc lập của đất nước, được kết tinh, hun đúc từ tinh thần nồng nàn
yêu nước của người dân nước Việt, Hồ Chí Minh cho rằng: đối với một người dân
mất nước, cái quí nhất trên đời là độc lập của tổ quốc, tự do của nhân dân. Trên
đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những tư tưởng bất hủ
trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền
1791 của cách mạng Pháp. Từ những tinh hoa của dân tộc và thế giới, Người đã
khái quát nên chân lý bất di bất dịch, lẽ phải không ai có thể chối cãi được: Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do. Đây là một tư tưởng vĩ đại, chẳng những mang
tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, phải là độc lập thật sự và độc lập hoàn toàn.
Tức là, dân tộc đó phải có đầy đủ chủ quyền (về chính trị, kinh tế, an ninh, v.v.) và
toàn vẹn lãnh thổ, chứ không phải là chiếc bánh vẽ mà người khác (bọn thực dân,
đế quốc) bố thí. Độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, theo Người, phải được hiểu
một cách đơn giản: nước Việt Nam là của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ
quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Và giá trị đích
thực của độc lập dân tộc phải được thể hiện bằng quyền tự do hạnh phúc của nhân
4


dân, mà theo Người, độc lập dân tộc là đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai
cũng được học hành. Tư tưởng độc lập dân tộc, khát vọng độc lập dân tộc của
Người được thể hiện ở tinh thần “thà hy sinh tất cả”, “dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn” và vượt lên tất cả là tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do.”

Hồ Chí Minh luôn giương cao ngọn cờ đấu tranh vì độc lập dân tộc, song người
cũng là hiện thân của khát vọng hoà bình. Đó là tư tưởng độc lập dân tộc trong hoà
bình chân chính của Người. Tinh thần “chúng ta muốn hoà bình” đã dẫn dắt nhân
dân ta chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực xâm lược ngoại bang.
Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống
của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân
tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì lẽ đó, Người
không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn
là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong
thế kỷ 20”.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngay từ
khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã
hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc
và CNXH. Người nói: “ Cả hai cuộc giải phóng này (dân tộc và giai cấp) chỉ có thể
là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.” Tiếp đó, ngay
trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
cộng sảnViệt Nam tháng 2/1930, Hồ Chí Minh đã xác định Cách mạng Việt Nam
trải qua hai giai đoạn: Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng (tức
cách mạng dân tộc-dân chủ) để đi tới xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
sự gắn bó thống nhất giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa phản ảnh quy luật khách
quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản
ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá
5


bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải
phóng. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hạnh phúc, tự do, thì
độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì.” Do đó giành được độc lập rồi, thì phải tiến lên

CNXH, vì mục tiêu của CNXH là dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Như vậy, ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển
thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu
tranh cho độc lập dân tộc của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu
nước chân chính luôn gắn liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói:
“ Chúng ta phải tranh đấu cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu
cho dân tộc ta vậy.” Chủ trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn
nêu cao tinh thần dân tộc tự quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình. Với Người, phải thông qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp
vào thắng lợi chung của Cách mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố
với thế giới: “ Căn cứ trên quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng
hòasắn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình
đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau
bảo vệ hoà bình và xây đắp dân chủ thế giới.”
II.Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đối với
Người, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng có nghĩa là đến với con đường cách
mạng vô sản. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con đường cứu nước chân chính,
triệt để.Người khặng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vô
sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới". Kết luận trên đây của
Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới,
mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các
6


phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào
quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của

giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và
chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền
bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Quá trình đi giải quyết vấn đề dân tộc và
giai cấp của người được thể hiện trong các quan điểm lớn sau:
Thứ nhất, vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.Hồ
Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước,nhưng người luôn đứng trên quan điểm giai cấp để nhận thức và giải quyết
vấn đề dân tộc. sự kết hợp nhuẫn nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ
Chí Minh thể hiện: khặng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và lãnh đạo
duy nhấy của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam;chủ trương đại
đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nông,nông dân và tầng lớp
tri thức dưới sự lãnh đạo của đảng;sự dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để
chống lại đảo lực phản cách mạng của kẻ thù;thiết lập nhà nước của dân,do dân và
vì dân;gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai,giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền
với chủ ghĩa xã hội.Khác với các cong đường cứu nước của ông cha,gắn độc lập
dân tộc với chủ nghĩa phong kiến,con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc
theo con đường của cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thongsw
nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội.
7


Năm 1960, Người nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải
phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách

nô lệ”.
Tư tượng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải
phóng dân tộc trong thờ đại chủ nghĩa đế quốc,vừa phản ánh moois quan hệ khăng
khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải
phóng con người.chỉ xóa bỏ tình trạng ap bức bóc lột; thiết lập một nhà nước thực
sự của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ,mới
thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân với xã hội,giữa độc lập dân tộc
với tự do và hạnh phúc con người.Hồ Chí Minh nói: “nước được độc lập mà dân
không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chặng có nghĩa lý gì”.Do đó,
sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội,lam cho dân giàu,
nước mạnh, mọi người được sung sướng, tự do.
Người khặng định: “yêu tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa
xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi một no ấm thêm, tổ
quốc mỗi ngày một giàu thêm”.
Thư ba,giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp.Hồ Chí Minh giải
quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm giai cấp,nhưng đồng thời đặt vấn ddeeef giai
cấp trong vấn đề dân tộc.giải phong dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực
dân là điều kiện để giải phóng giai cấp.vì thế lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi
ích giai cấp.
Tháng 5-1941,Người cùng với Trung ương đảng khặng định: “Trong lúc này
quyền lợi của bộ phận,của giai cấp phải đặt dưới sự sing tự,tồn vong của quốc gia,
của dân tộc.Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải
phóng,không đòi được độc lập,tự do cho toàn thể dân tộc,thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu,mà quyền lợi của bộ phận,giai cấp đến
vạn năm cũng không đòi lại được”.
8


Thứ tư,giữ vững độc lập dân tộc mình đồng thời tôn trọng độc lập của dân tộc
khác. Là một chiến sỹ quốc tế chân chính, xuất phát từ quan điểm độc lập tự do là

quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, Hồ Chí Minh không
chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập dân tộc
của tất cả các dân tộc bị áp bức. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế cao cả, trong sáng. Người nói: “ Chúng ta phải tranh đấu
cho tự do độc lập của các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy.” Chủ
trương “ giúp bạn là tự giúp mình”, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần dân tộc tự
quyết song không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình. Với Người, phải thông
qua thắng lợi của Cách mạng mỗi nước mà đóng góp vào thắng lợi chung của Cách
mạng thế giới. Về quan hệ quốc tế, Người tuyên bố với thế giới: “ Căn cứ trên
quyền lợi chung, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòasắn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với chính phủ nước nào trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và
chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo vệ hoà bình và xây đắp
dân chủ thế giới.”
Như vậy quá trình xử lý mối quan hệ biện chứng dân tộc và giai cấp của chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển một cách sáng tạo
học thuyết Mac-LêNin. Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp là một trong những sáng tạo đó.
Tiếp thu chủ nghĩa Mac-Lênin trên nền tảng truyền thống yêu nước và nhân ái của
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo về vấn đề giai cấp và
vấn đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải quyết hài hòa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc lên trên hết và trước hết.
Luận điểm này của Người xuất phát từ cơ sở thực tiễn của phương Đông và Việt
Nam:
Năm 1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ Người cho rằng: "Mac
đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch
9


sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại.
Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Marx bằng

cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Marx ở thời mình không thể có được". Và
người đề nghị: "Xem xét lại chủ nghĩa Marx về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó
bằng dân tộc học phương Đông". Ở phương Đông, "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra
không giống như ở phương Tây, bởi vì xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung
Quốc, xét về mặt cấu trúc kinh tế không giống như xã hội phương Tây thời trung
cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở
đây…".
Đối với Việt Nam, Hồ Chí Minh cho rằng Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc và tay sai nổi
trội hơn mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, giữa tư sản với
vô sản. Do đó, không phải giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân
tộc như ở phương Tây. Ngược lại chỉ có thể giải quyết vấn đề dân tộc mới giải
phóng được giai cấp. Quyền lợi dân tộc và giai cấp là thống nhất, quyền lợi dân tộc
không còn, thì quyền lợi mỗi giai cấp, mỗi bộ phận trong dân tộc cũng không thể
thực hiện được. Quan điểm này sau này thể hiện rõ ở Nghị quyết Hội nghị Trung
ương VIII, năm 1941 do Người chủ trì: "Trong lúc này quyền lợi của bộ phận giai
cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này nếu
không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được tự do độc lập
cho toàn dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa
trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được."
Trái lại với quan điểm mới mẻ và sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí Minh,trong Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản Mac –Ăngghen đề cập đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp như sau:

10


Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân tộc, vì
phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối
đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản,

không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình thức dân tộc. Như
vậy, Mac –Ăngghen đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, hai ông không đi
sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì:
Tại các nước này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp
đối kháng: tư sản và vô sản.
Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư
sản.
Vào thời của C.Mac, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các cuộc đấu tranh giành
độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng giai cấp
công nhân. Mac-Ăngghen viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình
trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi mà sự đối kháng
giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân
tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo Mac-Ăngghen, để giải quyết sự đối
kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp
là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để giải phóng dân tộc. Lenin từng nhận xét, đối
với C. Mac so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu
thôi.
Đến thời LêNin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, cách mạng
giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, Lenin mới có cơ
sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận.
LêNin cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc sẽ không giành
được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
11


bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung khẩu hiệu nêu trong Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại."

Sau khi Lênin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài đã nhấn
mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan tâm đến chủ
nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm chí còn coi đó là
biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tóm lại, Mac -Ăngghen, Lênin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về mối quan
hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, mục
tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề
giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân
tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Sử vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin trong quá trình giải
quyết vấn đề dân tộc ,vấn đề giai cấp và mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp trên quá trình nghiên cứu thực tiễn trong các xã hội khác nhau đặc biệt là ở
các nước thuộc điạ. Nó có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa nói chung.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp. Người khẳng định, phải đi từ giải
phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp; dân tộc không thoát khỏi kiếp ngựa trâu thì
ngàn năm giai cấp cũng không được giải phóng. Đường lối của cách mạng Việt
Nam là đi từ giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, từng bước tiến
lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Động lực cơ
bản của toàn bộ sự nghiệp cách mạng đó là đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên
minh công nhân, nông dân, trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Thực tiễn phát triển của cách mạng đã phản ánh những tư tưởng đúng đắn của
12


Người. Trong cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng Sản Việt Nam, Hồ Chí
Minh viết: “ làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ điạ cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản” nhưng nó đã bị phủ nhận và thay thế bằng chiến lược đấu tranh giai
cấpcủa luận cương chính trị tháng 10-1930,nhưng nó đã được khặng định trợ lại

trong thời kỳ trực tiếp vận động cứu nước 1939-1945,đặc biệt trong hội nghị lần
thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941). Tính đúng đắn đó là sự
thắng lợi cách mạng tháng tám 1945.Trong giai đoạn chiến tranh cách mạng19451975,nắm vững tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh cả dân
tộc Việt Nam đã hành hai cuộcủ nghiã thực dân cũ và mới suốt 30 năm. Kết quả là
thắng lợi vẻ vang cho dân tộc ta. Sự thắng lợi đó không chỉ có ý nghiã lớn lao đối
với dân tộc Việt Nam ma còn là nguồn động lực to lớn cho phong trào cách mạng
thế giới.
Sau những thắng lợi đó,khi bắt tay vào công cuộc khôi phục và xây dựng lại đất
nước sau chiến tranh,chung ta đã mắc sai lầm chủ quan nòng vội,quá trú trọng đến
vấn đề lợi ích giai cấp mà có phần coi nhẹ vấn đề lợi ích của toàn dân tộc.Đại hội
VI Đảng ta đã sớm nhận ra sai lầm và tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện một
cách kiện quyết và nhất quán. Đảng ta đã tiến hành nhận thức lại và vận dụng sáng
tạo theo cách nhận thức mới quan điểm của của chủ nghĩa Mac-Lênin,đặc biệt là tư
tượng Hồ Chí Minh về mối quan hệ dân tộc và giai cấp, để giải quyết vấn đề giai
cấp và vấn đề dân tộc trong những điều kiện mới của đất nước và của thời đại.Nhờ
vậy mà ta đã khắc phục được một cách đáng kể sự quá tải và máy móc của cách
nhìn nhận trước đây về vấn đề dân tộc và giai cấp.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay. Đảng, nhà nước cần phải tiếp
tục giữ vững hệ tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mac-Lênin về mối quan hệ
biện chứng dân tộc và giai cấp đồng thời vận dụng sáng tạo phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước. Co như vậy mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với

13


chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mới
sớm đạt được.

KẾT LUẬN
Nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và

giai cấp không chỉ giúp ta hiểu rõ về nguồn gốc, quá trình tồn tại và phát triện của
các cộng đồng dân tộc trên thế giới,giúp ta thấy rõ giữa dân tộc, giai cấp,nhân loại
có mối quan hệ biện chứng gắn bó mật thiết. Đồng thời trong tình hình mới, làm cơ
sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước
trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.

14


MC LC
M U
..1
I.Cỏc quan nim v dõn tc v giai cp2
1.Cỏc quan nim v giai cp.2
2.Cỏc quan nim v dõn tc..2
II.Bin chng gia vn dõn tc v giai cp trong t tng H Chớ Minh....5
KT LUN
...12
TI LIU THAM KHO

TI LIU THAM KHO
1.
2.
3.
4.
5.

Giáo trình triết học Mác- Lênin.

Tạp chí triết học
Tạp chí cộng sản
Những vấn đề lý luận đặt ra tại văn kiện Đại hội IX của Đảng
Hồ Chí Minh toàn tập
15


6.Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập,Nxb.Chính trị
quốc

gia.

16



×