Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đề 14 Bài Tập Học Kỳ Tố Tụng Dân Sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.76 KB, 12 trang )

LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

MỞ ĐẦU
Hiện nay, việc thực hiện các qui định của pháp luật nói chung và pháp luật về TTDS
nói riêng mà đặc biệt là các qui định về thủ tục về phiên tòa phúc thẩm đang có nhiều
những điểm đáng lưu ý. Vấn đề này luôn dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu, sửa đổi
bổ sung cho hoàn thiện từ đó mà yêu cầu thực tiễn đặt ra cần có những quy định đầy đủ
hơn, có những văn bản hướng dẫn cụ thể hơn để có sự thống nhất trong áp dụng, đạt được
hiệu quả trong tố tụng, đảm bảo quyền lợi ích của đương sự, phù hợp với chế độ nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ lí do đó, với yêu cầu của đề tài “Thủ tục tiến hành phiên tòa
phúc thẩm dân sự và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thủ tục tiến hành phiên tòa phúc
thẩm dân sự” em xin được làm rõ những nội dung cơ bản sau.
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN
SỰ
1. Khái niệm
Phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án dân sự đã được
Tòa án cấp dưới giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật nhưng
bị kháng cáo, kháng nghị nhằm xác lập tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết
định đó theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định.
Về mặt thuật ngữ, theo từ điển Tiếng Việt thì phiên tòa “ là lần họp mặt để xét xử của
Tòa án”. Theo cách giải thích này thì phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự là phiên họp của
Tòa án cấp trên xét xử lại một vụ án mà Tòa án cấp dưới đã xét xử sơ thẩm mà có chống
án.
Dưới góc độ pháp lí “ phiên tòa” đã được giải thích trong từ điển Luật học, “phiên
tòa” được hiểu là “hình thức hoạt động xét xử của Tòa án”. Dưới góc độ này thì phiên tòa
phúc thẩm vụ án dân sự là hoạt động xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định dân sự sơ
thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, khánh nghj của Tòa án.
Như vậy, Phiên tòa phúc thẩm dân sự là phiên họp củ tòa án cấp trên trực tiếp xét xử
lại vụ án dân sự đã được tòa án cấp dưới giải quyết bằng bản án hoặc quyết định chưa có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng nghị với sự tham gia của những người tố


tụng nhằm xác định tính hợp pháp và có căn cứ của bản án quyết định đó theo những
nguyên tắc và thủ tục luật định.
2. Đặc điểm
Phiên tòa trong tố tụng dân sự đều có những đặc điểm chung là nhằm xét xử vụ án
một cách có căn cứ và hợp pháp, tuy nhiên mỗi phiên tòa trong tố tụng dân sự đều có
những đặc điểm khác nhau. Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự cũng có những đặc điểm
riêng phân biệt với phiên tòa sơ thẩm, khác với giám đốc thẩm, tái thẩm:

Thứ nhất, cơ sở tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự là dựa trên kháng cáo,
kháng nghị đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật.

Thứ hai, phiên tòa phúc thẩm dân sự là phiên họp của tòa án để xét xử lần thứ
hai một vụ án dân sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị.

Thứ ba, phiên tòa phúc thẩm dân sự được tiến hành công khai với sự có mặt
của những người tham gia tố tụng có liên quan đến giai quyết kháng cáo, kháng nghị

Thứ tư, thẩm quyền xét xử phúc thẩm vụ án dân sự do tòa án cấp trên trực tiếp
của tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ án dân sự đó tiến hành.

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

page║1


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM


Thứ năm, nội dung của phiên tòa phúc thẩm là kiểm tra tính hợp pháp, tính

có căn cứ của bản án quyết định sơ thẩm trên cơ sở đánh giá chứng cứ đã thu thập được ở
cấp sơ thẩm và những chứng cứ mới thu thập được trong quá trình phúc thẩm để xác định
tính có căn cứ, tính hợp pháp của bản án, quyết định sơ thẩm. đây là điểm khác biệt của
phiên tòa phúc thẩm với phiên tòa sơ thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

Thứ sáu, xét xử phúc thẩm dựa trên kháng cáo, kháng nghị nên phạm vi xét
xử là những phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị hoặc những phần
bản án quyết định có liên quan đến khang cáo, kháng nghị.

Thứ bảy, bản án, quyết định phúc thẩm được tuyên sẽ có hiệu lực pháp luật
ngay.
3. Ý nghĩa của phiên tòa phúc thẩm

Thứ nhất, về mặt pháp lí: Thông qua việc xét xử tại phiên tòa phúc thẩm, tòa
án có thể xem xét, sửa chữa những sai lầm, vi phạm của tòa án cấp dưới để đảm bảo bản án
đã tuyên là có hợp pháp, có căn cứ. tại phiên tòa phúc thẩm bản án quyết định bị kháng
cáo, kháng nghị căn cứ tài liệu được xem xét đánh giá dựa trên các quy định pháp luật vì
thế tòa án cấp trên có thể có thể kiểm tra, đánh giá được chất lượng hoạt động của tòa án
câp dưới, phát hiện và khắc phục kịp thời những sai sót, vi phạm pháp luật của tòa án cấp
dưới. qua đó có thêt rút kinh nghiệm, hướng dẫn công tác xét xử, bảo đảm việc áp dụng
pháp luật thống nhất trong hoạt động xét xử tại tòa án. Đồng thời, tòa án cấp phúc thẩm
còn kịp thời phát hiện những lỗ hổng của quy định pháp luật về nội dung và hình thức, từ
đó đề xuất những biện pháp sửa đổi, bổ sung nhằm nâng cao chất lượng xét xử.

Thứ hai, về mặt xã hội: Phiên tòa phúc thẩm nhằm khắc phục những sai sót
của tòa sơ thẩm trong việc giải quyết vụ án làm cho các quyền và lợi ích chính đáng của
đương sự được đảm bảo một cách đúng đắn, đầy đủ.

Thứ ba, về mặt chính trị: với việc xét xử lại vụ án phiên tòa phúc thẩm góp
phần khắc phục những thiếu sót của bản án quyết định sơ thẩm hoặc là lần nữa khăng định

tính đúng đắn của bản án, quyết định sơ thẩm dựa trên những quy định của pháp luật. đảm
bảo xét xử đúng pháp luật không những giúp đương sự ý thức được những xử sự của họ
đã thực hiện là phù hợp với quy đinh pháp luật hay không mà còn đảm bảo, bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với quyền lợi ích hợp pháp
của các chủ thể, đảm bảo nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, góp phần nâng
cao địa vị chính trị của nhà nước.
II.
QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC TIẾN HÀNH PHIÊN TÒA PHÚC THẨM
DÂN SƯ
Nguyên tắc tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự về cơ bản là các nguyên tắc của tố
tụng dân sự như nguyên tắc đảm bảo tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán
và hội thẩm nhân dân, nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc tòa án xét xử tập thể…
được áp dụng triệt để tại phiên tòa phúc thẩm dân sự cũng như đối với phiên tòa sơ thẩm.
1. Phạm vi xét xử tại phiên tòa phúc thẩm dân sự
Điều 263 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Phạm vi xét xử phúc thẩm
Tòa án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng
cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị.”
Phiên tòa xét xử phúc thẩm vụ án dân sự diễn ra sau phiên tòa sơ thẩm nên theo
nguyên tắc hai cấp xét xử thì phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự chỉ xem xét những nội

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║2


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

dung đã được cấp sơ thẩm xem xét. Phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự xem xét lại dựa trên
yêu của đương sự (kháng cáo) hoặc yêu cầu (kháng nghị) từ phía cơ quan Nhà nước giám
sát hoạt động xét xử của Tòa án (Viện kiểm sát) hoặc có liên quan đến việc xem xét, giải

quyết kháng cáo, kháng nghị. Nội dung của phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự là kiểm tra
tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm.
2. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa phúc thẩm dân sự và thủ tục bắt đầu phiên tòa
Theo quy định điều 267 Bộ luật Tố tụng dân sự và theo hướng dẫn Điều 17 Nghị
quyết 06/2012/HĐTP thì việc chuẩn bị phiên tòa phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên tòa thì
được thực hiện theo các Điều 212, 213, 214,215 và 216 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó,
khi khai mạc phiên tòa phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử
phải thi hành đúng các quy định tại các điều luật nêu trên của Bộ luật Tố tụng dân sự và sự
hướng dẫn tại Điều 31 Nghị quyết 05/2012/NQ-HĐTP.
a. Chuẩn bị khai mạc phiên tòa phúc thẩm
Theo những qui định và hướng dẫn trên thì việc thực hiện các công việc trong bước
chuẩn bị khai mạc là nhiệm vụ của Thư kí tòa án. Đây là thủ tục bắt buộc đảm bảo cho
phiên tòa diễn ra có sự tham gia đầy đủ của những người tham gia tố tụng, kiểm tra xem có
trường hợp nào phải hoãn phiên tòa không? Đồng thời còn nhằm xác lập trật tự của phiên
tòa trước khi khai mạc.
Theo qui định tại Điều 212 Bộ luật Tố tụng dân sự, việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa
do Thư kí thực hiện. Khi chuẩn bị khai mạc phiên tòa, Thư kí tiến hành các công việc sau:
- Phổ biến nội quy phiên tòa cho mọi người biết;
- Kiểm tra xác định sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên tòa theo
giấy triệu tập, giấy báo của tòa án;
- Ổn định trật tự phòng xử án, yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy khi
Hội đồng xét xử vào phòng xử án.
b. Thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên tòa tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự bao gồm những việc:
 Khai mạc phiên tòa: là thủ tục bắt buộc phải thực hiện trước khi Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử. Theo quy định Điều 267, Điều 213 và Điều 31 Nghị Quyết 05/2012/NQ HĐTP, khai mạc phiên tòa gồm những bước sau:
- Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử. khi
khai mạc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa yêu cầu mọi người trong phòng xử án đứng dậy.
Khác với phiên tòa sơ thẩm, xuất phát từ tính chất và phạm vi xét xử phúc thẩm, ở
thủ tục khai mạc phiên tòa phúc thẩm, chủ tọa phiên tòa phải tuyên bố tòa án xét lại vụ án

nào, theo kháng cáo, kháng nghị của ai đối với bản án của tòa án nào.
Đối với trường hợp Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, chủ tọa phiên tòa
không đọc lại quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Thư kí tòa án báo cáo với Hội đồng xét xử về sự có mặt, vắng mặt của những
người tham gia phiên tòa
- Chủ tọa phiên tòa kiểm tra lại sự có mặt của những người tham gia phiên tòa trên
cơ sở báo cáo của thư kí tòa và kiểm tra căn cước của các đương sự.
- Chủ tọa phiên tòa phổ biến quyền và nghĩa vụ các đương sự và những người tham
gia tố tụng khác.

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║3


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

- Chủ tọa phiên tòa giới thiệu họ, tên những người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch. Sau đó, chủ tọa phiên tòa hỏi những người có quyền yêu cầu thay
đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch xem họ có yêu cầu thay
đổi ai không.
 Sau khi khai mạc phiên tòa, trong trường hợp có người yêu cầu thay đổi người
tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải xem xét,
nghe ý kiến của họ trước khi chấp nhận hoặc không chấp nhận, trường hợp không chấp
nhận thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do.
Quyết định thay đổi người tố tụng, người giam định, người phiên dịch phải đươc Hội
đồng xét xử thảo luận, thông qua theo đa số tại phòng nghị án và phải lập thành văn bản.
trong trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch
mà không có người thay thế ngay thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa (Điều
214). Theo Điều 15 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP việc tiến hành giải quyết yêu cầu thay

đổi người tiến hành tố tụng tại phiên tòa như sau:
- Tại phiên tòa người yêu cầu thay đổi phải trình bày lý do, căn cứ của việc xin thay
đổi đó và được ghi đầy đủ vào biên bản phiên tòa.
Trường hợp quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng thì trong quyết định phải ghi
rõ việc hoãn phiên tòa và đề nghị người có thẩm quyền cử người khác thay thế.
- Quyết định thay đổi hoặc không thay đổi người tiến hành tố tụng phải được Hội
đồng xét xử công bố công khai tại phiên tòa.
 Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt.
 Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng.
- Trước khi người làm chứng được hỏi về những vấn đề mà họ biết có liên quan đến
vụ án, chủ tọa phiên tòa có thể quyết định những biện pháp cần thiết để người làm chứng
không nghe được những lời khai của nhau, hoặc tiếp xúc với người có liên quan.
- Trong trường hợp lời khai của đương sự và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn
nhau thì chủ tọa có thể quyết định cách li trước khi hỏi.
Như vậy, với các quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa của Bộ luật Tố tụng dân sự rất
cụ thể và chi tiết. với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thủ tục bắt đầu phiên tòa thì
vai trò của thẩm phán - chủ tọa phiên tòa là rất lớn. tất cả các hoạt động của thẩm phán tại
thủ tục này nhằm đảm bảo cho việc quản lý vụ án của tòa án được chặt chẽ, đảm bảo cho
việc xét xử đúng đối tượng, đúng thủ tục tố tụng và những người tham gia tố tụng được
biết rõ các quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa phúc thẩm dân sự.
3. Thủ tục hỏi tại phiên tòa
So với các pháp lệnh trước đây thì Bộ luật Tố tụng dân sự có nhiều thay đổi hợp lý,
khoa học với các quy định chặt chẽ hơn. Ngay cả như tên gọi cũng đổi từ “thủ tục xét hỏi
thành thủ tục hỏi tại phiên tòa, cách gọi này phản ánh đúng bản chất của thủ tục giải quyết
vụ án dân sự khác với các vụ án hình sự, trình tự thủ tục hỏi cũng khác trước nhiều. trước
đây tòa án chủ động hỏi tất cả các vấn đề nội dung thậm chí theo kế hoạch đã định trước,
không có phần để tự các đương sự trình bày..điều này gây khó khăn cho công tác xét xử,
khắc phục những hạn chế của các pháp lệnh trước đây, Bộ luật Tố tụng dân sự có những
quy định cụ thể hơn từ Điều 268 đến Điều 272 và từ Điều 222 đến Điều 231 Bộ luật Tố
tụng dân sự.


LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║4


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

 Theo khoản 1 Điều 268 Bộ luật Tố tụng dân sự, sau khi kết thúc thủ tục bắt đầu
phiên tòa phúc thẩm, một thành viên của Hội đồng xét xử phúc thẩm công bố nội dung của
vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo kháng nghị.
 Tiếp theo khoản 2 Điều 268, 269, 270 Bộ luật Tố tụng dân sự chủ tọa phiên tòa
tiến hành hỏi các đương sự và giải quyết các vấn đề như sau:
 Hỏi nguyên đơn có rút đơn kiện hay không. Nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì
HĐXX hỏi bị đơn có đồng ý không. Nếu bị đơn không đồng ý thì Hội đồng xét xử không
chấp nhận việc rút đơn của nguyên đơn và phiên tòa phúc thẩm vẫn tiến hành bình thường.
nếu bị đơn đồng ý thì Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút đơn và ra quyết định hủy bỏ bản
án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này các đương sự vẫn phải chịu
án phí thẩm theo quyết định của bản án sơ thẩm và chịu một nửa án phí phúc thẩm theo
quy định pháp luật.
Việc quy định hỏi ý kiến của bị đơn trước khi xét xử phúc thẩm trong trường hợp
nguyên đơn rút đơn kiện là cần thiết bởi mọi vấn đề phát sinh, thay đổi chấm dứt trong
quá trình tố tụng thực chất là dựa trên yêu cầu của các đương sự, cùng với đó việc hỏi này
đảm bảo quyền lợi, sụ bình đẳng trong tố tụng
 Hỏi người kháng cáo, kiểm sát viên có thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng
nghị hay không. Nếu có thì Hội đồng xét xử phải xem xét xem có vượt quá nội dung kháng
cáo kháng nghị ban đầu không. Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị được hướng
dẫn cụ thể chi tiết tại khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 06/2012/NQ - HĐTP. Về việc rút toàn
bộ kháng cáo, kháng nghị thì Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối
với phần có kháng cáo, kháng nghị đã rút (Điều 256). Trong trường hợp người kháng cáo,

Viện kiểm sát kháng nghị rút một phần thì Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với phần đã rút khi có đủ điều kiện quy định tại phần điểm a khoản 1 Điều
11 Nghị quyết 06/2012/NQ - HĐTP.
 Về hình thức thay đổi bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị thì phần khoản 3 Điều
11 của Nghị quyết 06/2012/HĐTP có hướng dẫn “ việc thay đôi, bổ sung, rút kháng cáo,
kháng nghị tại phiên tòa phải được ghi vào biên bản phiên tòa.
 Hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án không.
Nếu họ thỏa thuận được và việc thỏa thuận là không trái đạo đức, không trái pháp luật thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra các bản án phúc thẩm sửa lại bản án sơ thẩm và công nhận
sự thỏa thuận. quy định này nhằm bảo vệ quyền tự định đoạt của đương sự, phù hợp với lý
luận về tố tụng dân sự.
 Theo quy định tại Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự: sau khi chủ tọa phiên tòa đã
hỏi mà nguyên đơn không rút đơn khơi kiện, người kháng cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo,
Viện kiểm sát vẫn giữ kháng nghị mà các đương sự không thỏa thuận được với nhau thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự.
 Sau khi nghe các đương sự trình bày về yêu cầu, đề nghị của mình, Hội đồng xét
xử tiến hành hỏi, công bố tài liệu và xem xét vật chứng.
Theo Điều 272 Bộ luật Tố tụng dân sự. thủ tục hỏi và công bố tài liệu và xem xét vật
chứng tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện giống như tại phiên tòa sơ thẩm, tuy nhiên ở
phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ hỏi những vấn đề thuộc phạm vi xét
xử phúc thẩm quy định tại Điều 263 Bộ luật Tố tụng dân sự.
4. Thủ tục tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║5


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM


Theo mô hình tố tụng xét hỏi thì sau thủ tục hỏi sẽ là thủ tục tranh luận. Tranh luận
tại phiên tòa là hoạt động trung tâm của phiên tòa, bảo đảm cho đương sự bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án. Bộ luật Tố tụng dân sự mở rộng quyền
tranh luận của đương sự, đề cao vai trò chủ động của đương sự trong việc tranh luận tại
phiên tòa. Điều đó thể hiện tầm quan trọng của hoạt động tranh luận trong việc tìm ra sự
thật khách quan của vụ án và phù hợp với xu hướng đổi mới hoạt động tư pháp ở nước ta
là mở rộng quyền tranh luận của đương sự. Theo Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh
luận tại phiên tòa phúc thẩm được thự hiện như tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm, thứ tự
phát biểu khi tranh luận được thực hiện theo quy định tại Điều 271 của bộ luật này và chỉ
được tranh luận và chỉ được tranh luận về các vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và
đã được hỏi tại phiên tòa phúc thẩm. như vậy, ngoài việc vận dụng quy định Điều 273 Bộ
luật Tố tụng dân sự còn phải vận dụng các quy định từ Điều 232 đến Điều 235 Bộ luật Tố
tụng dân sự.

Căn cứ tranh luận:
Pháp lệnh trước kia không quy định căn cứ khi tranh luận, còn Điều 233 BLTTDS
quy định việc tranh luận của các bên đương sự phải dựa trên các căn cứ sau:
- Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án,
người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được
- Khi tham gia tranh luận các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác
không được dựa vào suy đoán cảm tính để tranh luận.

Nội dung tranh luận cần tập trung hai nội dung quan trọng:
- Phân tích đánh giá chứng cứ, tranh luận bảo vệ lý lẽ của mình, đưa ra các chứng
cứ để bác bỏ lý lẽ bên kia và chi rõ việc áp dụng quy phạm pháp luật nào để giải quyết vụ
án.
- Trong khi phát biểu tranh luận các bên đề xuất quan điểm của mình về hướng giải
quyết trên cơ sở các tài liệu chứng cứ đã thu thập được và đã được các bên thảo luận, xem
xét, xác minh, thừa nhận tại phiên tòa.


Phạm vi tranh luận:
Tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự ,phạm vi tranh luận chỉ giới hạn ở những vấn
đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm, nghĩa là những vấn đề có khánh cáo, kháng nghị hoặc
liên quan đến vấn đề giải quyết kháng cáo, kháng nghị.

Trình tự tranh luận:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo trình bày nội dung
kháng cáo và căn cứ của kháng cáo, người kháng cáo có quyền bổ sung. Trường hợp tất
các các đương sự cùng kháng cáo thì việc trình bày theo thứ tự người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là nguyên đơn và nguyên đơn, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là bị đơn và bị đơn, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự kháng cáo là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
- Nếu chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì kiểm sát viên trình bày nội dung kháng
nghị và các căn cứ kháng nghị, trong trường hợp vừa có căn cứ kháng cáo và vừa có kháng
nghị thì nguyên đơn trình bày trước sau đó đến kiểm sát viên.
Trong trường hợp đương sự không có người bảo vê quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình thì họ tự trình bày về nội dung kháng cáo và căn cứ kháng cáo.

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║6


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Sau khi người tham gia tố tụng dân sự phát biểu tranh luận và đối đáp xong, trong
trường hợp có Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đề nghị kiểm sát viên
phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về hướng giải quyết vụ án
 Vai trò của thẩm phán chủ tọa phiên tòa đối với tranh luận của các bên là rất lớn,

chủ tọa phiên tòa là người điều khiển quá trình tranh luận nhằm đảm bảo tính khách quan,
toàn diện và đúng trọng tâm.
5. Nghị án
Nghị án là việc Hội đồng xét xử xem xét quyết đinh giải quyết vụ án dựa trên cơ sở
kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự việc nghị án
được thực hiện theo tinh thần đổi mới hoạt động tư pháp : việc phán quyết của tòa án phải
căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ các chứng
cứ, ý kiến… của nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi ích hợp pháp để ra bản
án đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Theo Điều 274 Bộ luật Tố tụng dân sự thì việc nghị
án, trở lại việc hỏi và tranh luận, thời gian nghị án, sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm
được tiến hành như thủ tục sơ thẩm. so với các quy định tố tụng trước đây về thủ tục nghị
án, điều 236 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định khá đầy đủ và chi tiết về nguyên tăc, trình tự,
căn cứ và nội dung nghị án.
 Về nguyên tắc và trình tự nghị án, khoản 2 Điều 236 Bộ luật Tố tụng dân sự quy
định chỉ có các thành viên Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án, giải quyết các vấn đề
bằng biểu quyết theo đa số, hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, thẩm phán biểu quyết sau
cùng…người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến bằng văn bản. như vậy, việc nghị
án là bí mật.
 Căn cứ nghị án được quy đinh tại khoản 3 Điều 236 Bộ luật Tố tụng dân sự theo
đó khi nghị án các thành viên Hội đồng xét xử chỉ được căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã
được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả hỏi tại phiên tòa và xem xét đầy đủ các ý
kiến của người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên.
 Về nội dung nghị án, khoản 2 Điều 236 Bộ luật Tố tụng dân sự có quy định khi
nghị án các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án. Đối với
phiên tòa phúc thẩm dân sự phải giải quyết các vấn đề trong phạm vi kháng cáo, kháng
nghị và những vấn đề có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Theo khoản 4 Điều 236 thì
khi nghị án phải có biên bản ghi lại ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử.
 Về thời gian nghị án, quy định tại khoản 5 Điều 236 Bộ luật Tố tụng dân sự :
trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian
dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án, nhưng không quá 5 ngày kể từ

khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Đây là điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự so với
các quy đinh trước đây.
Khi nghị án có thể xảy ta hai trường hợp:
- Qua nghị án, nếu thấy tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ
hoặc cần xem xét thêm chứng cứ, Hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận.
(Điều 237 Bộ luật Tố tụng dân sự )
- Hội đồng xét xử ra bản án, quyết định về giải quyết vụ án dân sự.
6. Tuyên án

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║7


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Theo quy định Điều 274 Bộ luật Tố tụng dân sự thủ tục tuyên án tại phiên tòa phúc
thẩm được thực hiện như phiên tòa sơ thẩm được quy định tại Điều 239 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
Sau khi bản án được thông qua, Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để tuyên án,
theo Điều 239 Bộ luật Tố tụng dân sự khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng
dậy, trừ trường hợp đặc biệt được phép của chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa hoặc một
thành viễn khác của Hội đồng xét xử đọc bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm
về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo. Trong trường hợp đương sự không biết
tieesnh việt thì sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch cho họ nghe toàn bộ bản án
sang ngôn ngữ mà họ biết. để thực hiện quy định này thống nhất, Điều 37 của Nghị quyết
05/2012/NQ-HĐTP đã có quy định hướng dẫn cụ thể hơn.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC TIẾN HÀNH PHIÊN TÒA PHÚC THẨM DÂN
SỰ:

1. Thực tiễn áp dụng những quy định về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm
dân sự:
a. Một số thành tựu
Theo thống kê của tòa án nhân dân tối cao trong những báo cáo tổng kết của ngành
tòa án thì thực trạng thụ lý giải quyết theo trình tự phúc thẩm các vụ án dân sự trên cả nước
ta qua các năm như sau:
Năm 2008, việc giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình:
các tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý 16.862 vụ việc, đã giải quyết 16.098 vụ việc, đối với
công tác giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mai và yêu cầu tuyên bố
phá sản, tòa án cấp phúc thẩm đã thụ lý 626 vụ viêc, đã giải quyết được 538 vụ việc, công
tác giải quyết tranh chấp, yêu cầu về lao động tòa án phúc thẩm đã thụ lý 193 vụ việc, đã
giải quyết 189 vụ việc.
Năm 2009, vê dân sự, tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý 214.174 vụ việc, đã giải
quyết, xét xử được 194.358 vụ việc đã đạt được 90,7 %. Trong đó, giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm 15.893 vụ việc.
Qua số liệu cho thấy, hàng năm số lượng vụ án tòa án các cấp đã thụ lý, giải quyết
theo trình tự phúc thẩm có xu hướng tăng, tuy nhiên tỉ lệ giải quyết các vụ án đã thụ lý của
tòa án phúc thẩm còn đạt tỷ lệ cao. Có thể nói từ khi Bộ luật Tố tụng dân sự có hiệu lực
cùng với những văn bản hướng dẫn thi hành, công tác áp dụng pháp luật để giải quyết các
tranh chấp có nhiều thuận lợi, tòa án các cấp đã hoàn thành các tiêu chí công tác đề ra, chất
lượng xét xử tại phiên tòa phúc thẩm dân sự được đảm bảo hơn.
b. Một số bất cập trong việc áp dụng các quy định về thủ tục phiên tòa phúc thẩm
dân sự

Sai sót do không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng
Việc bỏ sót người tham gia tố tụng là một trong những sai lầm nghiêm trọng nên tòa
án cấp trên phải hủy bản án hoặc kháng nghị bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật để
giải quyết lại các sai lầm thường gặp là việc tòa án không đưa ra đầy đủ người tham gia tố
tụng trong trường hợp giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi của một người
nào đó mà không ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền và

nghĩa vụ liên quan. Trên thực tế, có tòa án không đưa đầy đủ các đồng sở hữu hoặc các

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║8


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

đồng thừa kế tham gia tố tụng nhưng lại giải quyết cả phần tài sản của họ trong khối tài sản
chung với người khác có tranh chấp trong vụ án nên việc giải quyết là sai.

Tòa án cấp sơ thẩm bỏ sót người tham gia tố tụng, tòa án cấp phúc thẩm phát
hiện ra việc này đưa họ ra tham gia tố tụng và buộc người đó phải chịu nghĩa vụ là vi
phạm nghiêm trọng trong tố tụng về phạm vi xét xử phúc thẩm. Khi giải quyết vụ án, Tòa
án cấp sơ thẩm đã không xác minh đầy đủ những người có liên quan đến nội dung đang
tranh chấp để họ tham gia tố tụng. Bản án sơ thẩm có kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm
phát hiện ra những sai xót này, nhưng thay vì phải hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại sơ
thẩm, thì Tòa án cấp phúc thẩm lại đưa thêm người tham gia tố tụng, đồng thời buộc họ
phải thực hiện nghĩa vụ là xét xử cả phần cấp sơ thẩm chưa xét xử và vi phạm.

Bị đơn chết, tòa án không đưa người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của
bị đơn vào tham gia tố tụng. Điều 62 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng: “ trường hợp đương sự là cá nhân…tham gia tố tụng..”
Do đó, chỉ có đương sự trong vụ án chết thì tòa án phải làm rõ là họ để lại tài sản thừa
kế hay không và ai là người được thừa kế tài sản. để từ đó, triệu tập người thừa kế tham gia
tố tụng và giải quyết vụ án. Nếu chưa có người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng thì căn cứ
khoản 1 điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự để tạm đình chỉ giải quyết vụ án, nếu đương sự
chết mà quyền và nghĩa vụ không được thừa kế thì căn cứ điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự
để đình chỉ.

Thực tế khi tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án thì bị đơn chết hoặc sau khi xét xử
sơ thẩm bị đơn chết và người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng nhưng tòa án không triệu
tập người thừa kế của bị đơn tham gia tố tụng là không đúng pháp luật.

Tòa án giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Pháp luật tố tụng dân sự đã qui định rõ về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện, nội
dung, hình thức đơn khởi kiện…của đương sự. Tại phiên tòa thì người khởi kiện vẫn có
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng viậc bổ sung, sửa đổi của họ không được
vuợt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện. Trong thực tế, có một số trường hợp người khởi kiện
đã thể hiện rõ yêu cầu, nhưng khi xét xử thì Tòa án phúc thẩm lại buộc bị đơn phải thực
hiện nghĩa vụ vuợt quá yêu cầu của nguyên đơn.
Trong thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm vụ
án dân sự còn nhiều tồn tại bất cập như việc Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện một số sai
lầm nghiêm trọng của Tòa án cấp sơ thẩm, nhưng không hủy bản án sơ thẩm mà lại kiến
nghị Giám đốc thẩm bản án.
c.
Nguyên nhân dẫn đến hạn chế, bất cập
Qua những bất cập nêu trên, nguyên nhân của nó có cả nguyên nhân khách quan và
chủ quan, tuy nhiên chủ yếu là do một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự còn chưa rõ
ràng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có những văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến
nhiều cách hiểu khác nhau, cách giai quyết khác nhau. Một số quy định của bộ luật tố tụng
dân sự còn thiếu, chưa đầy đủ, chưa phù hợp. bên canh đó tình trạng thiếu thẩm phán cũng
là nguyên nhân dẫn đến yếu kém của chất lượng xét xử , năng lực kiến thức xét xử của một
số thẩm phán trong một số vụ án còn hạn chế, trách nhiệm ý thức kỷ luật còn chưa đáp ứng
được yêu cầu của đòi hỏi xét xử trng tình hình hiện nay.
2.
Một số kiến nghị hoàn thiện:

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3


Page║9


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

- Về thời hạn kháng cáo, thông thường khi vụ án đã được xét xử tại phiền tòa phúc
thẩm thì cũng đã hết thời hạn kháng cáo, có nghĩa thường thì tại phiên tòa phúc thẩm nếu
đương sự, Viện kiểm sát có thay đổi, bổ sung kháng cáo kháng nghị thì Hội đồng xét xử
phải xem xét xem việc bổ sung thay đổi có vượt quá nội dung kháng cáo, kháng nghị ban
đầu không, tuy nhiên thế nào là vượt quá nội dung kháng cáo, kháng nghị ban đầu thì Bộ
luật Tố tụng dân sự cũng như Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP lại không có quy định cụ thể,
vì thế cần thiết phải có văn bản ban hành hướng dẫn vấn đề này.
- Về việc hoãn phiên tòa, đối với trường hợp vụ án có nhiều đương sự phải tham gia
phiên tòa phúc thâm có thể xảy ra trường hợp phải hoãn phiên tòa nhiều lần do họ vắng
mặt lần lượt tại các phiên tòa vì nhiều lý do. Bộ luật Tố tụng dân sự hiện nay chưa có quy
đinh nhằm chi phối vấn đề này. Để đưa ra biện pháp hạn chế số lần hoãn phiên tòa mà vẫn
bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của các đương sự là hết sức khó khăn, đây cũng là khe hở
cho các đương sự không có thiện chí cố ý kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
- Vấn đề đình chỉ tại phiên tòa phúc thẩm vụ án dân sự:
Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử có thể đình chỉ xét xử phúc thẩm hoặc có
thể đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. đình chỉ xét xử phúc thẩm khác biệt với đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự dân sự trong thủ tục phúc thẩm. tính chất của đình chỉ xét xử phúc thẩm
không làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ về mặt nội dung mà chỉ chấm dứt thủ tục tố
tụng phúc thẩm. nói cách khác, đình chỉ xét xử phúc thẩm làm chấm dứt hoạt động hoạt
động xét xử phúc thẩm nhưng cũng đồng thời làm phát sinh hiệu lực pháp luật của bản án,
quyết định sơ thẩm, như vậy quyền và nghĩa vụ trong bản án, quyết định sơ thẩm của các
đương sự phải được đương sự tôn trọng và thi hành. Căn cứ của việc đình chỉ xét xử phúc
thẩm được quy định tại điều 192, 260 Bộ luật Tố tụng dân sự .Như vậy theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự thì hai căn cứ đầu của điều 192 cùng với quy định điều 260 Bộ luật
Tố tụng dân sự ta thấy nó vừa là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án tại thủ tục phúc thẩm vừa

là căn cứ đình chỉ xét xử phúc thẩm. quy định này đã gây ra khó khăn trong thực tiễn áp
dụng khi nào tòa án cấp phúc thẩm sẽ đình chỉ giải quyết vụ án và khi nào sẽ đình chỉ xét
xử phúc thẩm. Nghị định 06/2012/NQ-HĐTP cũng không có hướng dẫn về quy đinh này.
Vậy nên sự bổ sung quy định hướng dẫn vấn đề này là cần thiết.
- Về tranh luận tại phiên tòa:
Hiện nay tranh luận tại phiên tòa trong Bộ luật Tố tụng dân sự cũng chỉ mới đề cập
đến trình tự phát biểu khi tranh luận, phát biểu khi tranh luận và đối đáp, phát biểu của
viện kiểm sát và trở lại việc xét hỏi mà chưa đề cập cụ thể đến những người có quyền tham
gia tranh luận, phạm vi, căn cứ của việc tranh luận trong khi đó đây là những vấn đề có ý
nghĩa quan trọng để ra những bản án, quyết định có căn cứ và hợp pháp. Về những người
tham gia tranh luận cần bổ sung thêm điều luật quy định về người có quyền tham gia tranh
luận tại phiên tòa phúc thẩm đó là đương sự, người đại diện của đương sự hoặc người bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền tham gia tranh luận. trong trường hợp
viện kiểm sát kháng nghị thì viện kiểm sát cso quyền tranh luận.
Ngoài ra về phương diện thực hiện pháp luật cần phải triển khai mạnh mẽ thường
xuyên công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết pháp
luật; xây dựng đội ngũ thẩm phán giàu kiến thức, kinh nghiệm, trau dồi nghiệp vụ chuyên
môn cũng như phẩm chất đạo đức.

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║10


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, phân tích như trên chúng ta thấy rằng việc quy định thủ tục tiến hành
phiên tòa phúc thẩm dân sự có ý nghĩa quan trọng và cần thiết, tuy nhiên trên thực tế
những quy định này còn thiếu sót, chưa chặt chẽ nên dẫn đến việc áp dụng thực hiện thiếu

tính đồng nhất, gây ra những vi phạm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích các bên. Vì vậy cho
đến bây giờ vấn đề này luôn dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu, sửa đổi bổ sung cho
hoàn thiên từ đó mà yêu cầu thực tiễn đặt ra cần có những quy định đầy đủ hơn, có những
văn bản hướng dẫn cụ thể hơn để có sự thống nhất trong áp dụng, đạt được hiệu quả trong
tố tung, đảm bảo quyền lợi ích của đương sự, phù hợp với chế độ nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trường đại học luật hà nôi, GIÁO TRÌNH LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ, nxb.
CAND, hà nội, 2013.
2.
Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung 2011
3.
Bùi Thị Huyền, “phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự”, tạp chí luật học, đặc san
về BLTTDS 2005.
4.
Nghị quyết 05/2012/ NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS về thủ tục giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm.
5.
Nghị quyết 06/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS về thủ tục giải quyết vụ án tại tòa phúc thẩm.

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║11


LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM


MỤC LỤC

LỚP N04.TL3 – NHÓM 3

Page║12



×