Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

bài tập học kỳ môn luật hình sự 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.13 KB, 11 trang )

NỘI DUNG

1


TÌNH HUỐNG
Đề 1 :‘P là thợ sơn được thuê hoàn thiện nhà riêng cho một gia đình.
Trong thời gian làm việc P để ý thấy gia đình đối diện không làm lưới bảo
hiểm ban công, trong khi khoảng cách giữa hai nhà khá gần. Một đêm thấy
nhà đối diện quên đóng cửa ban công P đã trèo sang và vào nhà lấy một chiếc
túi xách có chứa điện thoại di động, tiền. Trong lúc lục tìm thêm tài sản, P gây
ra tiếng động và bị G (chủ nhà) phát hiện. G giữ lại chiếc túi, P đã dùng tay
đấm rất mạnh vào mặt làm G choáng váng, ngã xuống sàn nhà. P sau đó tẩu
thoát cùng chiếc túi đựng tiền và chiếc điện thoại di động. Tổng giá trị tài sản
bị chiếm đoạt là 20 triệu đồng. G sau đó được người nhà phát hiện đưa đi cấp
cứu và bị tổn hại sức khỏe 25%’.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Hành vi của P cấu thành tội gì? Tại sao?
P phạm tội Cướp tài sản được quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 133
BLHS.
Ban đầu, mục đích của P chỉ là lợi dụng đêm tối nhân lúc nhà G quên đóng cửa
ban công, lẻn vào thực hiện hành vi trộm cắp. Thế nhưng, khi bị chủ nhà là G
phát hiện và giành lại chiếc túi, P đã sử dụng vũ lực đối với G không phải với
mục đích tẩu thoát mà là nhằm để giữ bằng được tài sản vừa trộm được. Theo
quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2011/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCABTP ngày 25/12/2001: “Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản
hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác
giành lại, mà người phạm tội tiếp tục dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức
2



khắc tấn công người bị hại hoặc người khác nhằm chiếm đoạt cho được tài
sản, thì trường hợp này không phải là "hành hung để tẩu thoát" mà đã có đầy
đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”.
Do đó, trong trường hợp này, hành vi của P thuộc trường hợp chuyển hóa từ
Trộm cắp tài sản thành Cướp tài sản. Theo đó, hành vi của P đã thỏa mãn 4 yếu
tố cấu thành tội Cướp tài sản theo cấu thành tội phạm cơ bản được quy định tại
khoản 1 Điều 133 BLHS : “.. dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc
hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản..”.
Về mặt khách thể của tội phạm, hành vi của P không chỉ xâm hại đến quan
hệ nhân thân mà còn xâm hại đến quan hệ sở hữu. Thông qua việc xâm hại đến
quan hệ nhân thân mà P xâm hại đến quan hệ sở hữu. Mục đích của P trong
trường hợp này là xâm phạm quan hệ sở hữu (chiếm đoạt tài sản), và để đạt
được mục đích đó, P đã xâm hại đến quan hệ nhân thân (dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công rơi
vào tình trạng không thể chống cự được). Cụ thể là trong trường hợp này, bằng
hành vi của mình, P đã xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ về sức
khỏe (được thể hiện dưới hành động dùng sức đấm thật mạnh vào mặt G khiến
G choáng váng và ngã xuống sàn nhà) và quyền sở hữu của G (P đã lấy một
chiếc túi xách có chứa điện thoại di động, tiền và một số đồ vật khác với tổng
giá trị tài sản là 20 triệu đồng).
Về mặt khách quan của tội phạm:
*Hành vi khách quan : trong trường hợp này, P đã có hành vi dùng vũ lực đối
với G. Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất ( có
sử dụng vũ khí hoặc công cụ phương tiện phạm tội hoặc không) để chủ động
tấn công ; hành động tấn công này có khả năng phương hại đến tính mạng, sức
3


khỏe của người bị tấn công nhằm đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của

người này chống lại việc chiếm đoạt. Cụ thể là trong trường hợp này, P đã
dùng sức đấm rất mạnh vào mặt G khiến G choáng váng, ngã ra sàn nhà và
không thể ngăn cản việc P lấy đi chiếc túi xách đựng tiền và điện thoại di động.


Hậu quả: Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 20 triệu đồng và G bị tổn
hại sức khỏe 25%. Tội cướp tài sản được quy định tại điều 133 có CTTP hình thức,
tức là hậu quả của hành vi không phải là dấu hiệu bắt buộc khi định tội danh.
Trong trường hợp này, hậu quả G bị tổn hại sức khỏe 25% sẽ là tình tiết tăng nặng
định khung của tội phạm được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 133 BLHS.

Về mặt chủ quan của tội phạm,
* Lỗi của P là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực hiện hành vi cướp tài sản , P nhận
thức rõ được rằng hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được
hậu quả do hành vi mà hình thực hiện, đồng thời cũng mong muốn thực hiện
hành vi đó đến cùng để hậu quả xảy ra.
* Mục đích : Trong trường hợp này, mục đích của P là giữ bằng được tài sản
(là chiếc túi xách có chứa điện thoại di động, tiền) vừa chiếm đoạt được bằng
thủ đoạn trộm cắp ( vì P đã chiếm đoạt được với sự lén lút).
Ở đây, hành vi phạm tội của P không cấu thành nên tội trộm cắp tài sản quy
định tại Điều 138 BLHS, dù cho hành vi của P được thực hiện một cách lén lút
( trèo sang nhà G qua ban công vào ban đêm), vì khi bị G phát hiện và giật lại
chiếc túi, P đã sử dụng vũ lực làm cho G bất tỉnh, với mục đích chiếm đoạt bằng
được tài sản. Vì vậy, theo tiểu mục 6.2, mục 6, khoản I Thông tư liên tịch số
02/2011/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001, hành vi của P
đã cấu thành tội cướp tài sản.
4


Về mặt chủ thể ,Chủ thể tội cướp tài sản là chủ thể thường, do vậy chỉ đòi hỏi

P là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Đề bài
không nói thêm về vấn đề này, vì vậy ta mặc định P đã thỏa mãn những điều
kiện đó.
=> Vì vậy, trên cơ sở phân tích những căn cứ pháp lý và xét tình huống cụ
thể cho phép ta khẳng định hành vi phạm tội của P cấu thành tội cướp tài
sản được quy định tại điểm đ khoản 2 điều 133 BLHS .

2. Giả sử, G do bị ngã xuống đập đầu vào nền gạch nên đã chết thì tội
danh của P có thay đổi không? Tại sao?
Nếu như G do bị ngã xuống đập đầu vào nền gạch nên đã chết thì tội
danh của P vẫn không đổi chỉ có điều là P sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự
ở mức nặng hơn theo cấu thành tội phạm tăng nặng quy định tại Điểm a
khoản 4 Điều 133 BLHS : “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ
của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người”.
Hành vi của P trong trường hợp này vẫn chỉ cấu thành tội Cướp tài sản
bởi việc G chết trong trường hợp này là việc xảy ra ngoài ý muốn vì mục
đích của việc P dùng vũ lực, đấm thật mạnh vào mặt G là nhằm đẩy G vào
tình trạng không thể chống cự được là nhằm chiếm đoạt tài sản chứ P không
có chủ ý gây ra cái chết của G. Xét về mặt chủ quan của tội phạm thì việc
gây ra cái chết của G được P thực hiện với lỗi vô ý. Nếu P cố tình gây ra cái
chết cho G thì P sẽ phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự với hai tội là tội
Giết người và tội Cướp tài sản.

5


3. Trường hợp, P chưa lấy được túi đựng tiền, khi bị phát hiện đã có hành

vi xô ngã G và bỏ chạy. G bị ngã xuống cầu thang, đập đầu vào lan can cầu
thang gây thương tích 25%, thì tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với

P được xác định thế nào? Tại sao?
Trong trường hợp này, P phạm tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác được quy định tại khoản 1 Điều 104 BLHS: “Người nào
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30% … thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc
phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Theo như giả thiết thì hành vi của P không cấu thành tội Trộm cắp tài sản bởi
căn cứ vào nghị quyết của hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao số
01/2000/NQ-HĐTP ngày 4 tháng 8 năm 2000: “Trong trường hợp xác định được
hành vi vi phạm mà người đó thực hiện không đạt vì những nguyên nhân ngoài ý
muốn chủ quan của họ không có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hoặc
trong trường hợp không thể xác định được hành vi vi phạm mà họ thực hiện không
đạt đã có đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm hay chưa thì… tuyên bố bị cáo
không phạm tội mà họ đã bị truy tố”. Như vậy trong trường hợp này, nếu như P
chưa từng vị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa bị kết án về
tội chiếm đoạt tài sản hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nhưng đã được xóa
án tích hoặc không gây ra hậu quả nghiêm trọng thì P hoàn toàn không phạm tội
Trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS bởi P đột nhập vào nhà G với
ý thức có tài sản gì thì sẽ lấy trộm tài sản đó nhưng chưa lấy được gì đã bị G phát
hiện (do đó không thể xác định được tài sản mà P nếu thực hiện hành vi trộm cắp
chiếm đoạt được có đạt mức giá trị từ 2 triệu đồng trở lên được quy định trong điều
luật hay không)

6


Hành vi của P cấu thành tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác vì đã thỏa mãn bốn yếu tố cấu thành tội phạm của tội này:
*Mặt khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội phạm nói chung được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình

sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại được quy định tại Điều 8 BLHS bao gồm: “độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ Nhà nước Xã
hội Chủ nghĩa, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của công dân, vi phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật Xã hội Chủ nghĩa”. Theo như quy định tại Điều 104 BLHS, ta có thể
nhận thấy rằng hành vi của người thực hiện tội phạm này xâm phạm trực tiếp đến
sức khỏe của người khác. Người khác ở đây được hiểu là một con người cụ thể
đang sống, đang tồn tại . Nếu một người mà gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của chính mình thì không được coi là tội phạm.
Cụ thể trong trường hợp này, P đã xô ngã G khiến G ngã xuống cầu thang gây
thương tích 25%. Thông qua hành vi của mình, P đã xâm phạm tới quyền được tôn
trọng và bảo vệ về sức khỏe của G.
*Mặt khách quan của tội phạm:
Mặt khách quan của tội phạm nói chung là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan. Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm.
Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do
vậy cũng không có tội phạm. Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thể hiện bằng hành vi cụ thể tác động vào
người khác gây ra thiệt hại đáng kể về thể chất và do tội cố ý gây thương tích hoặc

7


gây tổn hại sức khỏe của người khác thuộc về tội có cấu thành vật chất nên tội này
có những dấu hiệu bắt buộc là:
+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội.
+ Hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Thứ nhất, hành vi của P là hành vi nguy hiểm xâm hại đến quan hệ xã hội là

khách thể bảo vệ của luật hình sự, cụ thể ở đây là quyền được tôn trọng và bảo vệ
về sức khỏe của G được P thực hiện dưới dạng hành động ( xô ngã G ).
Thứ hai, hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở đây chính là mức độ thương tích 25%
của G.
Thứ ba, hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp này chính là do hành
vi vi phạm pháp luật của P gây ra với lỗi cố ý. Hành vi gây thương tích của P xảy
ra trước hậu quả gây thương tích về mặt thời gian. Việc G chịu thương tích 25%
chính là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi gây
thương tích của P. Chính việc P xô ngã G khiến G ngã xuống cầu thang là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thương tích 25% ở G chứ không phải do bất cứ một hành vi
hay nguyên nhân nào khác.
*Mặt chủ quan của tội phạm.
Nếu mặt khách quan của tội phạm là sự biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm thì
mặt chủ quan của tội phạm là tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt chủ quan
của tội cố ý gây thương tích là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của
chủ thể đối với hành vi cố ý gây thương tích và hậu quả phát sinh từ hành vi gây
thương tích gây ra. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích là động cơ.
Trong đó, lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ cấu thành tội phạm nào.
Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội được coi là có lỗi nếu hành vi đó
8


là sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa
chọn một hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Lỗi là thái độ tâm lý của
con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả nguy
hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra được biểu hiện dưới hình thức lỗi vô ý
hoặc cố ý. Lỗi bao giờ cũng đi liền với hành vi nguy hiểm cho xã hội. Lỗi trong
Luật hình sự Việt Nam là lỗi cá nhân, là lỗi của một người khi thực hiện một hành
vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong trường hợp này, P đã thực hiện hành vi gây thương tích cho G với lỗi cố

ý. P hoàn toàn có thể nhận thức rõ được rằng hành vi của mình sẽ gây ra thương
tích cho G, thấy trước hậu quả của hành vi đó tuy không mong muốn nhưng vẫn có
ý thức để mặc hậu quả xảy ra. Sở dĩ khẳng định như vậy là vì trong trường hợp
này, P và G hoàn toàn không có xích mích hay thù hằn gì với nhau. P xô ngã G với
mục đích trên hết là để tẩu thoát, do đó P ý thức được rằng việc P xô ngã G sẽ
khiến G không còn đủ sức lực để chạy theo đuổi bắt mình, hành động đó có thể
gây ra thương tích cho G ở mức rất nhẹ ( chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự) hoặc ở mức nặng ( đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự) . Vì thế mà hậu
quả do hành vi gây thương tích của P gây ra là hậu quả không mong muốn nhưng P
vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.
*Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đạt độ tuổi do pháp luật quy định. Chủ thể tội Cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là chủ thể thường, do vậy chỉ đòi hỏi
P là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Đề bài
không nói thêm về vấn đề này, vì vậy ta mặc định P đã thỏa mãn những điều kiện
đó.
=> Vì vậy, trên cơ sở phân tích những căn cứ pháp lý và xét tình huống cụ
thể cho phép ta khẳng định hành vi phạm tội của P cấu thành tội Cố ý gây
9


thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định
tại khoản 1 điều 104 BLHS .
Căn cứ vào khoản 1 Điều 104 BLHS thì khung hình phạt áp dụng do P trong
trường hợp này sẽ là phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu
tháng đến ba năm.

10



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Tập I, nxb Công an Nhân dân, trường Đại
học Luật Hà Nội 2013.
2. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Tập II, Nxb Công an Nhân dân, trường
Đại học Luật Hà Nội 2013.
3. Bộ Luật hình sự Việt Nam năm 1999 ( sửa đổi bổ sung năm 2009 ).
4. Thông tư liên tịch số 02/2011/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP
ngày 25/12/2001 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương
XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự năm 1999.
5. Nghị quyết của hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao

số

01/2000/NQ-HĐTP ngày 4 tháng 8 năm 2000 hướng dẫn áp dụng một số
quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999.
6. “ Tội cướp tài sản trong Luật hình sự VIệt Nam” , khóa luật tốt nghiệp, Hoàng
Thị Huyền trường Đại học Luật Hà Nội, 2011.

11



×