Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

BÁO cáo KHÓA LUẬN PHÉP BIỆN CHỨNG DUY vật, cơ sở PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG NHẤT CHO HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC và THỰC TIỄN vận DỤNG vào HOẠT ĐỘNG KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.54 KB, 105 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới được tạo thành từ những sự vật, những hiện tượng, những quá trình... khác nhau.
Vậy giữa chúng có mối liên hệ qua lại với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biệt lập,
tách rời nhau? Chúng luôn vận động, đổi mới, phát triển hay đứng yên?
Trong thực tiễn và nhận thức, hoạt động của con người tồn tại trên rất nhiều lĩnh vực
khác nhau, với nhiều mối liên hệ khác nhau và với những mục tiêu khác nhau. Vậy, làm thế nào
để con người có thể đạt được những mục tiêu đó và tránh những sai lầm trong nhận thức tư duy?
Để trả lời cho những câu hỏi trên, chúng ta cùng nghiên cứu đề tài:
“PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT, CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG NHẤT CHO
HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC VÀ THỰC TIỄN. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG DUY
VẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TÉ.”
Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và phát triển
của hiện thực. Do đó, nó không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự diễn tả quan niệm về
thế giới, là lý luận về thế giới quan. Hệ thống các quan điểm của phép biện chứng duy vật, do
tính đúng đắn và triệt để của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho quá trình nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người, giúp con người đạt dược nhiều thành quả tích cực, đặc biệt
trong các hoạt động kinh tế.
Do trình độ kiến thức còn có nhiều hạn chế, chắc chắn bài viết của nhóm em sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong thầy và các bạn góp ý để kiến thức của chúng
em về vấn đề này được hoàn chỉnh hơn. Bài tiểu luận này được hoàn thành với sự giúp đỡ hướng
dẫn tận tình của TS. Trần Nguyên Ký - Trưởng Bộ môn Những NLCB CN Mác - Lênin:
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy!
PHỤ LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
1.1.
1.1.1.

Một số yêu cầu phương pháp luận được rút ra từ nội dụng của cặp phạm

1



KÉT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC HÌNH

PHẦN 1. PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1.1.
Phép biện chứng và các hình thức cơ bản của phép biện chứng
a. Khái niệm biện chứng và phép biện chứng
Trong chủ nghĩa Mac - Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối quan hệ,
tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình
trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng khách
quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng
khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.
Theo Ph.Ăngghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự
nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối
trong toàn bộ giới tự nhiên.”
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ
thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp
luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ
quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình - phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng
của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến.
b. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

2


Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức cơ bản: phép biện chứng chất phát thời cổ
đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩ Mác Lênin.

Phép biện chứng chất phát thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng trong
lịch sử triết học. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ân
Độ và Hy Lạp cổ đại. Tiêu biểu cho những tư tưởng biện chứng của triết học Trung Quốc là
“biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và
“ngũ hành luận” (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể
trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ân Độ, biểu hiện rõ nét của tư tưởng biện chứng
là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”. Đặc biệt, triết
học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát.
Ph.Ăngghen viết: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm
sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình
thức căn bản nhất của tư duy biện chứng. Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực
chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được
Hêraclít trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật
đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu
vong”. Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về cơ bản vẫn còn mang tính chất ngây thơ,
chất phát. Ph.Ăngghen nhận xét: “Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất
thuần phác tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu. Chính vì người Hy Lạp
chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên
là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện
tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự
quan sát trực tiếp”. Phép biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện chứng của thế
giới nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, thiếu sự chứng minh bởi
những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.

3


Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đi sâu vào phân tích,
nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của thế giới tự nhiên, dẫn tới sự ra đời của phương pháp siêu
hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong tư duy

triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ việc nghiên cứu
đối tượng riêng biệt sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối liên hệ,
thì phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải chuyển sang một hình thức tư duy
mới cao hơn là tư duy biện chứng.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở Hêghen.
Theo Ph.Ăngghen: “Hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các
nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen.”
Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện
chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy tâm trong triết học Hêghen biểu hiện ở chỗ
ông coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi biện chứng chủ
quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo Hêghen, “ý niệm tuyệt đối” là điểm khởi đầu của
tồn tại, tự “tha hóa” thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. “Tinh
thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép của ý niệm”.
Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen, đã xây dựng phép biện chứng duy
tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có lôgích chặt chẽ của ý thức, tinh thần. V.I. Lênin
cho rằng: “Hêghen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng,
của thế giới, của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm. Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh tư
tưởng của C.Mác: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt
nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức
những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược
đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát triển được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau
cái vỏ thần bí của nó”.

4


Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết học Hêghen
là hạn chế cần phải vượt qua. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên
phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử
triết học, là sự kế thừa trên tinh thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức. Ph.Ăngghen

tự nhận xét: “Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng
tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về
lịch sử”.
1.2. Phép biện chứng duy vật
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật
Định nghĩa khái quát về phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen cho rằng: “Phép biện
chứng. là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin còn có một số định nghĩa khác về phép
biện chứng duy vật. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen
đã định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”; còn khi nhấn mạnh vai trò
của nguyên lý về sự phát triển (trong đó có bao hàm học thuyết về sự phát triển của nhận thức)
trong phép biện chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I. Lênin đã khẳng định:
“Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự
phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính
tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển
không ngừng”...
b. Những đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin có hai đặc trưng cơ bản sau:
Một là, Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng được
xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này, phép biện chứng
duy vật chẳng những có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, đặc biệt

5


là với phép biện chứng của Hêghen (là phép biện chứng được xác lập trên nền tảng thế giới quan
duy tâm) mà còn có sự khác biệt về trình độ phát triển so với nhiều tư tưởng biện chứng đã từng
có trong lịch sử triết học từ thời cổ đại (là phép biện chứng về căn bản được xây dựng trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật nhưng đó là chủ nghĩa duy vật còn ở trình độ trực quan, ngây thơ

và chất phác).
Hai là, trong Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có sự thống nhất giữa
nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận (biện chứng duy vật), do đó nó
không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế
giới. Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin không
chỉ là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà còn là phương pháp luận khoa
học của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Trên cơ sở khái quát các mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển, những quy luật phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của tất thảy mọi sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin
cung cấp những nguyên tắc phương pháp luận chung nhất cho quá trình nhận thức thế giới và cải
tạo thế giới, đó không chỉ là nguyên tắc phương pháp luận khách quan mà còn là phương pháp
luận toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể phương pháp luận phân tích mâu thuẫn nhằm tìm ra
nguồn gốc, động lực cơ bản của các quá trình vận động, phát triển.. .Với tư cách đó, phép biện
chứng duy vật chính là công cụ khoa học vĩ đại để giai cấp cách mạng nhận thức và cải tạo thế
giới.
Với những đặc trưng cơ bản đó mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là một nội dung
đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời nó cũng là thế giới
quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu
khoa học.
PHẦN 2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
2.1.

Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật

6


Nguyên lý là những luận điểm xuất phát (tư tưởng chủ đạo) của một học thuyết (lý luận)
mà tính chân lý của nó là hiển nhiên, tức không thể hay không cần phải chứng minh nhưng

không mâu thuẫn với thực tiễn và nhận thức về lĩnh vực mà học thuyết đó phản ánh.
Nguyên lý được khái quát từ kết quả hoạt động thực tiễn - nhận thức lâu dài của con
người1. Nó vừa là cơ sở lý luận của học thuyết, vừa là công cụ tinh thần để nhận thức (lý giải tiên đoán) và cải tạo thế giới. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý thể hiện qua các nguyên
tắc (tức những yêu cầu nền tảng đòi hỏi chủ thể phải tuân thủ đúng trình tự nhằm mục đích đề ra
một cách tối ưu) tương ứng.
Có hai loại nguyên lý: nguyên lý của khoa học (công lý, tiên đề, quy luật nền tảng) và
nguyên lý của triết học. Phép biện chứng duy vật có hai nguyên lý cơ bản. Đó là nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển.
2.1.1.

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến

2.1.1.1.

Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ là sự tác động (ràng buộc, thâm nhập...) lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng

hay quá trình (vạn vật) mà trong đó, sự thay đổi của cái này sẽ tất yếu kéo theo sự thay đổi của
cái kia.
Đối lập với mối liên hệ là sự tách biệt. Sự tách biệt cũng là sự tác động qua lại giữa các
sự vật, hiện tượng hay quá trình nhưng sự thay đổi của cái này sẽ không tất yếu kéo theo sự thay
đổi của cái kia. Do vậy mà vạn vật trong thế giới đều luôn tác động lẫn nhau, nhưng có một số
tác động dẫn đến sự thay đổi, còn một số tác động khác chưa tạo nên sự thay đổi, tức còn nằm
trong trạng thái ổn định. Vạn vật vừa tách biệt vừa liên hệ, vừa là nó vừa không là nó. Thế giới
vật chất là một hệ thống thống nhất mọi yếu tố, bộ phận của nó. Chính nhờ sự thống nhất vật
chất mà vạn vật luôn tác động qua lại lẫn nhau.

1 Chủ nghĩa duy lý I duy tâm cho rằng, nguyên lý xuất hiện trong linh hồn (lý tính) của con người nhờ vào năng lực
trực giác I mách bảo của đấng siêu nhiên.


7


Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự
vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực.
Mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật hiện
tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của
thế giới, trong đó những mối liên hệ phổ biến nhất là những mối liên hệ tồn tại ở mọi sự vật, hiện
tượng của thế giới, nó thuộc đối tượng nghiên cứu của phép biện chứng. Đó là các mối liên hệ
giữa: các mặt đối lập, lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái chung và cái riêng, bản chất và
hiện tượng,... Như vậy, giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa tồn tại những mối liên hệ đặc
thù vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến ở những phạm vi nhất định. Đồng thời, cũng tồn tại
những mối liên hệ phố biến nhất, trong đó những mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện những mối
liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định. Toàn bộ những mối liên hệ đặc thù và phổ biến
đó tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng và ngược lại, tính đa dạng trong tính thống nhất của
các mối liên hệ trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
2.1.1.2. Tính chất của các mối liên hệ
Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú là những tính chất cơ bản của
các mối liên hệ.
Tính khách quan của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên
hệ của các sự vật, hiện tượng của thế giới là có tính khách quan. Theo quan điểm đó, sự quy định
lẫn nhau, tác động lẫn nhau và làm chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng (hoặc trong
bản thân chúng) là cái vốn có của nó, tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý chí con người; con
người chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó trong hoạt động thực tiễn của mình.
Tính phổ biến của các mối liên hệ: Theo quan điểm biện chứng thì không có bất cứ sự
vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác. Đồng thời, cũng không bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống,
bao gồm những yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất cứ một tồn

8



tại nào cũng là một hệ thống, hơn nữa là một hệ thống mở, tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống
khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ: Quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của các mối liên hệ mà còn nhấn
mạnh tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ. Tính đa dạng phong phú của các mối liên hệ
được thể hiện ở chỗ: các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ
thể khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng
một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai
đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai
trò khác nhau. Như vậy, không thể đồng nhất tính chất và vị trí, vai trò cụ thể của các mối liên hệ
khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định, trong những điều kiện xác định. Mối liên hệ có thể chia
thành: mối liên hệ bên trong và bên ngoài sự vật; mối liên hệ bản chất và hiện tượng; mối liên hệ
chủ yếu và thứ yếu; mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp; mối liên hệ trong tự nhiên, mối liên hệ
trong xã hội và mối liên hệ trong tư duy; mối liên hệ riêng, mối liên hệ chung và mối liên hệ phổ
biến...
Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của các mối liên hệ còn bao hàm quan niệm về sự
thể hiện phong phú, đa dạng của các mối liên hệ phổ biến ở các mối liên hệ đặc thù trong mối sự
vật, mỗi hiện tượng, mỗi quá trình cụ thể, trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể.
Mối liên hệ phổ biến cũng mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự
tồn tại, vận động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xảy ra trong thế giới; và là đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng.
2.1.1.3. Nội dung nguyên lý
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn
mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.

9


Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến.

Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chi phối một cách tổng quát quá trình vận
động, phát triển của mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
2.1.1.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho

thấy trong

hoạt động

nhận thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi trong nhận thức và xử lý các tình huống thực tiễn cần phải
xem xét sự vật trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các
mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác. Chỉ trên cơ
sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật và xử lý hiệu quả các vấn đề của đời sống thực tiễn.
Như vậy, quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện, siêu hình trong nhận thức và
thực tiễn.
V.I.Lênin cho rằng: “Muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải

nhìnbao quát và

nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ giao tiếp”của sự vật đó”2.
Từ tính chất đa dạng, phong phú của các mối liên hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn khi thực hiện quan điểm toàn diện thì đồng thời cũng cần phải kết hợp với quan
điểm lịch sử - cụ thể.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lý các tình huống trong
thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải
giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của mỗi mối liên
hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể, để từ đó có được những giải pháp đúng đắn và hiệu quả
trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn. Như vậy, trong nhận thức và thực tiễn không những cần
phải tránh và khắc phục quan điểm phiến diện, siêu hình mà còn tránh và khắc phục quan điểm

chiết trung, ngụy biện.
2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển
2 V.I.Lênin: Toàn tập, t42, Nxb: Tiến bộ, Mátxcơva, tr364.

1
0


2.12.1. Khái niệm sự vận động và sự phát triển
Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu
như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi
và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”3.
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần
tuý về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, nó cũng xem sự phát triển là
quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng, phát triển là khuynh hướng vận
động tiến lên từ thấp đến cao (thay đổi về lượng), từ đơn giản đến phức tạp (thay đổi về chất), từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện (thay đổi về lượng - chất), do việc giải quyết mâu thuẫn trong bản
thân sự vật gây ra, được thực hiện thông qua bước nhảy về chất, và diễn ra theo xu hướng theo
phủ định của phủ định.
Ở khía cạnh khác, phát triển cũng được xem là một khuynh hướng vận động tổng hợp của
một hệ thống - sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi kết cấu
- tổ chức) của hệ thống - sự vật theo hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có thay
đổi những quy định về chất của hệ thống - sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có
thay đổi những quy định về lượng của hệ thống - sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ
đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên. Theo cách hiểu này, trong quá trình phát triển của các
hệ thống - sự vật vật chất xảy ra trong thế giới, không chỉ là sự thay đổi tiến bộ mà còn chứa
trong mình những thay đổi thoái bộ tạm thời, không chỉ là sự thay đổi mà còn chứa trong mình
những sự ổn định tương đối nữa.

Khi bàn về phát triển, V.I. Lênin viết: “Hai quan điểm cơ bản... về sự phát triển (sự tiến
hoá): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như lập lại; và phát triển coi như sự thống nhất
của các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ hai
là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ hai mới cho ta chìa khoá của “sự tự vận động”, của tất thảy
3 C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, T20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr 519.

1
1


mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khoá của những “bước nhảy vọt”, của “sự gián
đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hoá thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy
sinh cái mới”4.
2.1.2.2. Tính chất của sự phát triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong
phú.
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết mâu thuẫn
của sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách quan, không phụ thuộc
vào ý thức của con người.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, trong
mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó. Trong mỗi quá trình biến đổi đã có thể bao hàm khả
năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực hiện
thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không gian và thời
gian khác nhau sự vật phát triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình phát triển của mình, sự
vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác, của rất nhiều yếu tố
và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật,

thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái
hoá ở những mặt khác... Đó đều là những biểu hiện của tính phong phú, đa dạng của các quá
trình phát triển.
Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa
dạng: phát triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển
4 V.I.Lênin: Toàn tập, T. 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 379.

1
2


trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần. Phát triển xảy ra khi có sự thay đổi/chuyển hoá
giữa các mặt đối lập, giữa chất và lượng, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái riêng và cái chung, giữa
nguyên nhân và kết quả, giữa nội dung và hình thức, giữa bản chất và hiện tượng, giữa tất nhiên
và ngẫu nhiên, giữa khả năng và hiện thực.
2.1.2.3. Nội dung nguyên lý
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển. Phát triển
mang tính khách quan - phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng hợp tiến lên từ thấp đến cao,
từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện của một hệ thống vật chất, do việc
giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ
định.
2.1.2.4. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhân thức và thực tiễn cần phải có quan
điểm phát triển. Theo V.I.Lênin, “Lôgich biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển,
trong “sự tự vận động”..., trong sự biến đổi của nó”.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập
với sự phát triển. Theo quan điểm phát triển, để nhận thức và giải quyết bất cứ vấn đề gì trong
thực tiễn, một mặt cần phải đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên của nó; mặt khác,
con đường của sự phát triển lại là một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu

thuẫn, vì vậy đòi hỏi phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong
quá trình phát triển của nó, tức là cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể trong nhận thức và giải
quyết các vấn đề thực tiễn, phù hợp với tình chất phong phú, đa dạng, phức tạp của nó.
Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận thức và
thực tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ph.Ăngghen viết: “...Phép biện
chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng

1
3


trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự
phát sinh và sự tiêu vong của chúng”5. V.I.Lênin cũng cho rằng: “Phép biện chứng đòi hỏi người
ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối
quan hệ đó”6.
2.2.
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa
các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong của mỗi một sự vật, hay giữa các sự vật, hiện tượng
với nhau và chi phối sự vận động, phát triển của chúng.
Quy luật là đối tượng nghiên cứu của mọi ngành khoa học, là cốt lõi lý thuyết khoa học.
Quy luật và bản chất là những khái niệm cùng trình độ. Quy luật là công cụ tinh thần để nhận
thức (lý giải - tiên đoán) và cải tạo thế giới. Dựa trên nội dung quy luật, phương pháp luận xây
dựng các quy tắc, phương pháp để chỉ đạo hoạt động của chủ thể trong quá trình nhận thức và
thực tiễn. Muốn hoạt động thành công phải hiểu đúng quy luật và làm theo quy luật, tức làm theo
các quy tắc, phương pháp,... do phương pháp luận đưa ra.
Phân loại quy luật
Trong thế giới tồn tại nhiều quy luật, chúng khác nhau về mức độ phổ biến, về phạm vi
bao quát, về tính chất, về vai trò của chúng đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật

trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Do vậy, việc phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và
vận dụng có hiệu quả các quy luật vào hoạt động thực tiễn của con người.
Nếu căn cứ vào mức độ của tính phổ biến để phân loại thì các quy luật được chia thành:
những quy luật riêng, những quy luật chung và những quy luật phổ biến. Những quy luật riêng là
những quy luật chỉ tác động trong phạm vi nhất định của các sự vật hiện tượng cùng loại. Thí dụ:
những quy luật vận động cơ giới, vận động hoá học, vận động sinh học,... Những quy luật chung
là những quy luật tác động trong phạm vi rộng hơn quy luật riêng, tác động trong nhiều loại sự
vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn: quy luật bảo toàn khối lượng, quy luật bảo toàn năng
5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr. 38.
6 V.I.Lênin: Toàn tập, T. 42, Nxb: Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 359.

1
4


lượng,... Những quy luật phổ biến là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực: từ tự
nhiên, xã hội cho đến tư duy. Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến đó.
Nếu căn cứ vào lĩnh vực tác động để phân loại thì các quy luật được chia thành ba nhóm
lớn: những quy luật tự nhiên, những quy luật xã hội và những quy luật của tư duy. Những quy
luật tự nhiên là quy luật nảy sinh và tác động trong giới tự nhiên, kể cả cơ thể con người, không
phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Những quy luật xã hội là quy luật hoạt động
của chính con người trong các quan hệ xã hội; những quy luật đó không thể nảy sinh và tác động
ngoài hoạt động có ý thức của con người, nhưng những quy luật xã hội vẫn mang t ính khách
quan. Những quy luật của tư duy là những quy luật thuộc mối liên hệ nội tại của những khái
niệm, phạm trù, phán đoán, suy luận và của quá trình phát triển nhận thức lý tính ở con người.
Với tư cách là một khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng
duy vật nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong toàn bộ các lĩnh vực tự nhiên, xã
hội và tư duy của con người. Đó là: quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập; quy
luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, và ngược lại; quy
luật phủ định của phủ định.

2.2.1. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là “hạt nhân” của phép biện chứng.
Theo V.I.Lênin, “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của
các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải
có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”7.
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật gốc, động lực cơ bản,
phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ
bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của
sự vật.
2.2.1.1. Mặt đối lập; thống nhất, đấu tranh, chuyển hoá của các mặt đối lập
7 V.I.Lênin: Toàn tập, T. 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr. 240.

1
5


Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược
nhau.Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hoá và dị hoá; trong kinh tế
thị trường có cung và cầu, hàng và tiền... Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng
duy vật gọi là mặt đối lập.
Mặt đối lập: Sự vật là một tập hợp các yếu tố (thuộc tính) tương tác với nhau và với môi
trường. Sự tương tác này làm cho các yếu tố tạo nên bản thân sự vật có một sự biến đổi nhất
định, trong đó có vài yếu tố (biến đổi) trái ngược nhau. Những yếu tố trái ngược nhau (bên cạnh
những yếu tố khác hay giống nhau) tạo nên cơ sở của các mặt đối lập trong sự vật. Mặt đối lập
tồn tại khách quan và phổ biến. Thí dụ, điện tích âm và điện tích dương trong một nguyên tử,
đồng hoá và dị hoá của một cơ thể sống, sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã
hội, chân lý và sai lầm trong quá trình phát triển của nhận thức,...
Thống nhất của các mặt đối lập là các mặt đối lập khẳng định nhau, nương tựa vào nhau,
thâm nhập lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau (mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm điều
kiện, tiền đề cho sự tồn tại của mình); là các mặt đối lập đồng nhất nhau, tức trong chúng chứa

những yếu tố giống nhau cho phép chúng đồng tồn tại trong sự vật; là các mặt đối lập tác động
ngang nhau, tức sự thay đổi trong mặt đối lập này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong mặt đối
lập kia, và ngược lại.
Đấu tranh của các mặt đối lập: dù tồn tại trong sự thống nhất, song các mặt đối lập luôn
luôn đấu tranh với nhau, tức chúng luôn tác động qua lại theo xu hướng phủ định, bài trừ hay loại
bỏ lẫn nhau. Tính đa dạng của hình thức đấu tranh của các mặt đối lập tùy thuộc vào tính chất
của các mặt đối lập, của mối liên hệ qua lại giữa chúng, vào điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu
tranh của các mặt đối lập. Sự thủ tiêu lẫn nhau của các mặt đối lập chỉ là một trong những hình
thức đấu tranh của các mặt đối lập. Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời,
tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập, cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối.
Chuyển hoá của các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn biện chứng) : sự thống nhất mang
tính tương đối gắn liền với sự ổn định của sự vật; sự đấu tranh mang tính tuyệt đối gắn liền với

1
6


sự vận động, thay đổi của bản thân sự vật. Mâu thuẫn biện chứng phát triển tương ứng với quá
trình thống nhất của các mặt đối lập chuyển từ mức độ trừu tượng sang cụ thể; còn sự đấu tranh
của các mặt đối lập chuyển từ mức bình lặng sang quyết liệt. Điều này làm xuất hiện khả năng
chuyển hoá của các mặt đối lập. Khi điều kiện khách quan hội đủ, một trong các khả năng đó sẽ
biến thành hiện thực, các mặt đối lập tự thực hiện quá trình chuyển hoá. Mâu thuẫn biện chứng
sẽ được giải quyết khi các mặt đối lập tự phủ định chính mình để biến thành cái khác. Có hai
phương thức chuyển hoá:


Một là, mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia ở trình độ mới;


Hai là, cả hai mặt đối lập cùng chuyển hóa thành những cái thứ ba nào đó mà quy luật

khách quan và điều kiện, tình hình cho phép.
Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hoá giữa các mặt đối lập là một quá trình. Lúc mới

xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối
lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gây gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng sẽ chuyển
hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành
và quá trình tác động, chuyển hoá giữa các mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng
luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hoá giữa các mặt đối
lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển thế giới. V.I.Lênin khẳng định: “Sự
phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
Mâu thuẫn biện chứng, tức sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, tồn tại khách
quan, phổ biến và rất đa dạng (mâu thuẫn bên trong - mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu - mâu thuẫn thứ yếu, mâu thuẫn trong tự nhiên mâu thuẫn trong xã hội - mâu thuẫn trong tư duy,...). Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là sự
phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức, của tư duy trên
con đường nhận thức chân lý khách quan. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy không phải là ngẫu
nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn trong lôgích hình thức. Những mâu thuẫn lôgích

1
7


hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, nó xuất hiện do sai lầm của tư duy. Mâu thuẫn lôgích hình thức
là mâu thuẫn được tạo thành từ hai phán đoán phủ định nhau về cùng một phẩm chất của sự vật
tại cùng một thời điểm. Các mâu thuẫn khác nhau có vai trò không giống nhau đối với sự vận
động, phát triển của bản thân sự vật. Sự tác động của mâu thuẫn biện chứng lên bản thân sự vật là
nguồn gốc, động lực của mọi sự tự vận động, phát triển xảy ra trong thế giới.
Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn
phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú đa dạng được quy
định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác động qua lại của

chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt thành mâu thuẫn bên
trong và mâu thuẫn bên ngoài.


Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của
cùng một sự vật.



Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan
hệ sự vật đó với các sự vật khác.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự

tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ này là
mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong. Thí dụ:
Trong phạm vi nước ta mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là mâu thuẫn bên trong; còn
mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước ASEAN khác lại là mâu thuẫn bên ngoài. Nếu
trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối lại là mâu thuẫn bên trong. Vì
vậy, để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước
hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Tuy nhiên

1
8


mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn nhau. Việc
giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải

quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. Thực tiễn cách mạng
nước ta cũng cho thấy: việc giải quyết những mâu thuẫn trong nước ta không tách rời việc giải
quyết mâu thuẫn giữa nước ta với các nước khác.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được
chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:


Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất
cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn
cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.



Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự
vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết
không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một

giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu.


Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển nhất định
của sự vật và chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn
chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ
yếu có thể là một hình thức biển hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận
động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.




Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển
nào đó của sự vật nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi
phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu.

1
9


Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội
thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.


Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp những tập đoàn người, có lợi ích
cơ bản đối lập nhau. Thí dụ: Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa vô sản với tư sản,
giữa dân tộc bị xâm lược với bọn đi xâm lược.



Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản
thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Chẳng
hạn mâu thuẫn giữa lao động trí óc với lao động chân tay, giữa thành thị với nông thôn,...
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định

đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương
pháp đối kháng; giải quyết mâu thuẫn không đối kháng phải bằng thì phải bằng phương pháp
trong nội bộ nhân dân.
2.2.1.2. Nội dung quy luật
Mọi sự vật đều liên hệ lẫn nhau và luôn vận đông, phát triển. Vận động, phát triển do các

mâu thuẫn gây ra. Các mâu thuẫn biện chứng khác nhau tác động không giống nhau đến quá
trình vận động và phát triển của sự vật.
Mỗi mâu thuẫn biện chứng đều trải qua ba giai đoạn: sinh thành (sự xuất hiện của các mặt
đối lập) - hiện hữu (sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập) - giải quyết (sự chuyển hoá
của các mặt đối lập).
Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết, cái cũ mất đi, cái mới ra đời với mâu thuẫn biện
chứng mới hay thay đổi vai trì tác động của các mâu thuẫn biện chứng cũ. Mâu thuẫn biện chứng
là nguồn gốc của mọi sự vận động và phát triển. Vận động và phát triển xảy ra trong thế giới vật
chất mang tính tự thân.
2.2.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận

2
0


Vì mâu thuẫn có tính khách quan, phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển, do vậy trong nhận thức và thực tiễn cần tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn,
phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động
và phát triển. V.I.Lênin đã cho rằng: “Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ
phận mâu thuẫn của nó... đó là thực chất... của phép biện chứng”.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải quyết mâu
thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử, cụ thể, tức là phải biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn
và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần
phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định,
những đặc điểm của mâu thuẫn đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng loại mâu thuẫn một
cách đúng đắn nhất.
2.2.2.

Quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất,


và ngược lại
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát
triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Theo quy luật này, phương thức chung của các quá trình
vận động, phát triển là: những sự thay đổi về chất của sự vật có cơ sở tất yếu từ những thay đổi
về lượng của sự vật và ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật lại tạo ra những biến đổi
mới về lượng của sự vật trên các phương diện khác nhau,... Đó là mối liên hệ tất yếu, khách quan
phổ biến lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, thuộc mọi lĩnh vực tự
nhiên, xã hội và tư duy.
2.2.2.1. Chất, lượng, độ, điểm nút, bước nhảy
a. Khái niệm về chất
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm mặt chất và mặt lượng. Hai mặt đó
thống nhất hữu cơ với nhau trong sự vật, hiện tượng.

2
1


Phép biện chứng duy vật ra đời đem lại quan điểm đúng đắn về khái niệm chất, lượng và
quan hệ qua lại giữa chúng; từ đó khái quát thành quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về
lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự
thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật nó chứ không phải là cái khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều có những chất vốn có, làm nên chính chúng.
Nhờ đó chúng mới khác với các sự vật, hiện tượng khác; nhờ đó mà con người mới có thể phân
biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác. Con người khác với động vật chính là
nhờ những tính quy định vốn có của con người: có khả năng chế tạo và sử dụng công cụ lao
động, có khả năng tư duy.
Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật.
Đó là những cái vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận

động và phát triển của nó. Tuy nhiên những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện tượng chỉ được
bộc lộ ra thông qua sự tác động qua lại với các sự vật, hiện tượng khác. Chất của một người cụ
thể chỉ được bộc lộ thông qua quan hệ của người đó với người khác, với môi trường xung quanh,
thông qua lời nói và việc làm của người ấy. Như vậy, muốn nhận thức đúng đắn về những thuộc
tính của sự vật, chúng ta phải thông qua sự tác động qua lại của sự vật đó với bản thân chúng ta
hoặc thông qua quan hệ, mối liên hệ qua lại của nó với các sự vật khác.
Mỗi sự vật có rất nhiều thuộc tính; mỗi thuộc tính lại biểu hiện một chất của sự vật. Do
vậy, mỗi sự vật có rất nhiều chất. Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau.
Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm
ngoài sự vật.
Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ
thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và
thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật.

2
2


Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay
đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi.

2
3


Những thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ qua các mối liên hệ cụ thể với các sự vật khác.
Bởi vậy sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ
mang tính chất tương đối, tùy theo từng mối quan hệ. Thí dụ: Trong mối quan hệ với động vật thì
các thuộc tính có khả năng chế tạo sử dụng công cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người
còn những thuộc tính khác không là thuộc tính cơ bản. Song trong quan hệ giữa những con người

cụ thể với nhau thì những thuộc tính con người về nhận dạng, về dấu vân tay... lại trở thành
thuộc tính cơ bản.
Chất của sự vật không những quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Trong hiện thực
các sự vật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau, song chất của chúng lại khác nhau. Kim
cương và than chì đều có cùng thành phần hoá học là nguyên tố các bon tạo nên; nhưng do
phương thức liên kết giữa các nguyên tử các bon là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn
khác nhau. Kim cương rất cứng, còn than chì lại rất mềm. Từ đó có thể thấy sự thay đổi về chất
của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành sự vật lẫn sự thay đổi phương thức
liên kết giữa các yếu tố ấy.
Cùng được cấu tạo từ carbon nhưng với cấu trúc liên kểt khác nhau cho ra
than đá và kim cương

Than đá

Kim cương

Hình 2.1. Cấu trúc liên kết của than đá và kim cương

2
4


2
5


×