Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ tư TƯỞNG BIỆN CHỨNG hồ CHÍ MINH TRONG xây DỰNG QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM về CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.37 KB, 101 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một di sản lý luận quý báu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, là
ngọn cờ đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại..." [2,
tr.83].
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam muốn thành công, trước hết phải có một
Đảng cách mạng, đề ra con đường chính trị đúng, con đường tổ chức đúng. Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời tạo ra tiền đề cơ bản cho sự xuất hiện một quân đội kiểu mới, "quân đội công nông"
mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc. Trong quá trình tổ chức, xây dựng quân đội Hồ Chí
Minh đặc biệt chú trọng vấn đề xây dựng quân đội về chính trị, lấy chính trị làm gốc, "chính trị
trọng hơn quân sự".
Trong thực tiễn cách mạng từ khi ra đời tới nay quân đội ta trưởng thành lớn mạnh được là
nhờ Đảng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh vào trong quá trình xây
dựng quân đội. Chính vì vậy, dù trong điều kiện hoàn cảnh nào quân đội ta vẫn luôn trung thành
vô hạn với Đảng, Nhà nước và nhân dân; luôn hoàn thành vai trò công cụ bạo lực chủ yếu, lực
lượng nòng cốt trong đấu tranh cách mạng, cùng toàn dân giành thắng lợi trong Cách mạng tháng
8 năm 1945, kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc trong chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc, làm tròn sứ mệnh quốc tế cao
cả cứu nhân dân Cămpuchia thoát khỏi hoạ diệt chủng do bọn Pônpốt tiến hành. Những năm hoà
bình vừa qua, quân đội là một lực lượng rất quan trọng đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội của
đất nước.
Tuy nhiên, vấn đề xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị theo tư tưởng biện chứng Hồ
Chí Minh, trong nhiều năm qua còn có những biểu hiện nhận thức và vận dụng thiếu sáng tạo,


không đầy đủ tư tưởng biện chứng của Người ở các đơn vị quân đội. Mặt khác, hiện nay yêu cầu
mới của nhiệm vụ cách mạng tiếp tục đặt ra cho quân đội những nhiệm vụ mới nặng nề hơn, thực


sự là lực lượng trụ cột trong nền quốc phòng toàn dân, đủ sức làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới. Vì vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng quân đội trong giai đoạn mới,
mà trước hết là xây dựng quân đội về chính trị, cần phải tiếp tục quán triệt sâu sắc và vận dụng
sáng tạo tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh.
Do đó, việc nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng quân đội không chỉ là công việc thường xuyên, mà còn là một nhiệm vụ trọng
yếu, cấp thiết hiện nay của quân đội ta. Để góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng quân đội
theo tư tưởng Hồ Chí Minh, luận văn đã chọn "Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây
dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu như: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng quân đội nhân dân" của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam ", Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, Hà Nội, 1996; "Công tác tư tưởng - văn hoá trong xây dựng quân đội về chính trị" của Đại
tá, PGS, TS Đinh Xuân Dũng làm chủ nhiệm, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000;
"Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn cách mạng
mới" của Tổng cục Chính trị, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999; "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về lực lượng vũ trang nhân dân"trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Giáo trình đào tạo
bậc đại học trong các nhà trường quân đội, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2002,
trang 74 - 79; "Tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh - Một số vấn đề lý luận và vận dụng
vào quân sự hiện nay", đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện của tập thể tác giả Khoa
Triết học, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, 2003; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng của người cán bộ quân đội", TS Phạm Văn Nhuận (chủ biên), Nhà xuất bản Quân
đội nhân dân, Hà Nội, 2004; Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Xây dựng quân đội về chính trị
theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới" của Học viện Chính trị quân sự 15/12/2004.v.v...
Tất cả những công trình trên đã tập trung đề cập trên nhiều phương diện, góc độ khác nhau
trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Song chưa có công


trình nào nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng
quân đội về chính trị. Do vậy, tác giả chọn vấn đề "Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong

xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị" làm đề tài nghiên cứu của mình là không
có sự trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích: Góp phần tìm hiểu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam về chính trị. Từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng xây
dựng quân đội ta về chính trị trong tình hình hiện nay.
* Nhiệm vụ của đề tài:
- Chỉ rõ thực chất và biểu hiện của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam về chính trị.
- Đánh giá thực trạng nhận thức, vận dụng tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng
quân đội về chính trị hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng vận dụng tư tưởng biện
chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội ta về chính trị hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở thế giới quan phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Đảng
uỷ Quân sự Trung ương, Chỉ thị của Bộ Quốc phòng.
- Cơ sở thực tiễn: Luận văn dựa trên số liệu của các báo cáo tổng kết, các công trình nghiên
cứu khoa học các cấp đã công bố và số liệu điều tra của tác giả luận văn ở một số đơn vị.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phép biện chứng duy vật mác xít, kết hợp
các phương pháp khác như: lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát
hoá, điều tra, so sánh và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa của luận văn


Đề tài luận văn nghiên cứu có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, góp phần làm phong phú và
sáng tỏ hơn tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính trị. Đồng thời,
kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị theo tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh.
6. Kết cấu luận văn

Bao gồm lời mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

Chương 1
THỰC CHẤT TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG HỒ CHÍ MINH TRONG XÂY DỰNG QUÂN
ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỀ CHÍNH TRỊ
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam về chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Với sự
nghiệp xây dựng quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cha thân yêu của các lực lượng vũ
trang nhân dân, người sáng lập, giáo dục và rèn luyện quân đội ta. Trong di sản tư tưởng vô giá
mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, có "Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh
trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị".
Để góp phần tìm hiểu sâu sắc di sản "Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam về chính trị" của Người, trước hết chúng ta cần đi sâu nghiên cứu làm rõ
cơ sở hình thành của tư tưởng đó với tính cách là kết quả của sự thống nhất biện chứng của
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
1.1.1. Điều kiện khách quan
Được Đảng và Bác Hồ trực tiếp tổ chức, xây dựng, lãnh đạo và giáo dục, rèn luyện, quân đội
ta đã tỏ rõ là một quân đội cách mạng, quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động Việt Nam có sức mạnh vô địch, bách chiến bách thắng, cùng toàn dân tộc viết lên những
trang sử vàng chói lọi. Chưa tròn một tuổi, quân đội ta đã cùng toàn Đảng, toàn dân tiến hành


Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công lập nên Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam
châu Á. Và ngay sau đó, đã tiến hành cuộc kháng chiến 30 năm (1945 -1975) đánh thắng hai tên
đế quốc to là Pháp và Mỹ giành độc lập cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước bước
vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, Quân đội nhân dân Việt Nam đang trên con đường xây dựng để trở thành một quân
đội nhân dân, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, với cơ cấu tổ chức, quân số
hợp lý, lấy xây dựng chất lượng về chính trị làm then chốt thể hiện ở những tiêu chí cơ bản trong

xây dựng quân đội mà Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: "Có bản lĩnh chính trị vững
vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân; có trình độ học vấn và chuyên
môn nghiệp vụ ngày càng cao; quý trọng và hết lòng phục vụ nhân dân; có phẩm chất đạo đức,
lối sống lành mạnh, giản dị, kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang; có năng lực chỉ huy và
tác chiến thắng lợi trong bất cứ tình huống nào; có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu
ngày càng cao, thường xuyên cảnh giác, kịp thời đập tan mọi âm mưu và hành động xâm phạm
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và an ninh quốc gia, ngăn chặn và đẩy lùi các
tội phạm nguy hiểm và các tệ nạn xã hội, bảo đảm tốt trật tự an toàn xã hội" [2, tr.186]. Chính là
sự quán triệt sâu sắc và vận dụng nhuần nhuyễn tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung mà trong đó có
tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính trị của Đảng ta hiện nay.
Tìm hiểu tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về
chính trị cho thấy: sự hình thành tư tưởng của Người được bắt nguồn từ sự kế thừa di sản tư
tưởng quân sự truyền thống của dân tộc Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa tư tưởng quân sự
phương Đông, phương Tây. Qua đó rút ra những tư tưởng biện chứng nói chung và tư tưởng biện
chứng trong lĩnh vực quân sự, trực tiếp là tư tưởng về tổ chức xây dựng quân đội kiểu mới của
giai cấp vô sản mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra. Đó là tiền đề lý luận quyết định nhất bước
phát triển mới của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính trị. Đồng
thời, thực tiễn đấu tranh cách mạng sôi nổi, phong phú của cả dân tộc đứng lên giành và giữ
vững nền độc lập dân tộc, chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng đất nước đi theo con đường lên
chủ nghĩa xã hội hơn 60 năm qua đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận mới cần giải đáp. Và chính Hồ
Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu đó của dân tộc, trong đó có quân đội ta .


Trước hết, về sự kế thừa truyền thống xây dựng quân đội của dân tộc. Trong đấu tranh dựng
nước và giữ nước, dân tộc ta luôn phải đương đầu với nhiều nước lớn, có tiềm lực mạnh, quân
đội có lực lượng đông hơn quân đội của ông cha ta nhiều lần. Bởi thế, lấy nhỏ chống lớn, lấy ít
địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh là yêu cầu tất yếu, một quy luật khách quan của lịch sử quân sự
dân tộc. Để chiến thắng những kẻ thù to lớn và hung bạo, gần như hầu hết các cuộc chiến tranh
giữ nước của dân tộc Việt Nam trong nhiều triều đại đều là các cuộc chiến tranh nhân dân, toàn
dân chống xâm lược. Khi có giặc thì vua tôi đồng tâm, trên dưới một lòng, quân với dân cùng

một ý chí, quyết tâm tiêu diệt quân xâm lược. Lực lượng chiến đấu là lực lượng của toàn dân,
của cả nước, trong đó quân đội là lực lượng trụ cột. Vì vậy, việc xây dựng quân đội vững mạnh
toàn diện, trong đó lấy sự vững mạnh về chính trị tinh thần làm nền tảng luôn luôn được các triều
đại quan tâm và đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta.
Điển hình trong lịch sử dân tộc với các triều đại: Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Tây Sơn có
những thời kỳ đã xây dựng được quân đội của mình thực sự hùng mạnh, tinh nhuệ, thiện chiến,
có tinh thần chiến đấu rất cao, tựa hồ có thể rời non, lấp biển, nuốt trôi cả sao Ngưu, sao Đẩu. Đó
là tinh thần của một đội quân "chúng chí thàng thành", "phụ tử chi binh" (Phạm Ngũ Lão); khí thế
xung thiên, tinh thần "Sát Thát", quyết chiến, quyết thắng của quân đội nhà Trần. Lịch sử còn ghi
nhớ mãi lời "Hịch tướng sĩ" của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn giáo dục, khích lệ tinh thần
tướng sĩ trước giờ ra trận phải biết vì danh dự của nước nhà và của chính mình mà sẵn sàng xả
thân. Người lính phải "biết hổ thẹn" khi nước mình, dân mình đang lâm vòng nô lệ. Phải luôn cảnh
giác không được phép một phút thờ ơ trước vận mệnh của dân tộc; cần phải tránh lối sống hưởng
lạc xa hoa; phải bồi dưỡng tinh thần thượng võ, siêng năng tập dượt cung tên..., Vì vậy, lịch sử
dân tộc còn mãi mãi ghi nhớ những tấm gương chiến đấu quả cảm như: Lê Tần, Trần Bình
Trọng, Trần Quốc Toản v.v...
Đó là quân đội của triều đại Lê Sơ, khởi nguồn từ nghĩa quân Lam Sơn, nhưng trên dưới
đồng lòng, quyết chí, có mục đích chiến đấu rõ ràng vì dân, vì nước, sử sách còn lưu: "Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo", dù phải "nếm mật nằm gai", nguyện đồng
tâm diệt giặc "tướng sĩ một lòng phụ tử" / "hoà nước sông chén rượu ngọt ngào"...


Đó là quân đội của triều đại Tây Sơn - một đội quân thần tốc, táo bạo, dũng mãnh "đánh cho
giặc không còn một chiếc xe, một mảnh giáp quay về, đánh cho chúng biết rằng nước Nam anh
hùng là có chủ" (Nguyễn Huệ)".
Tất cả những truyền thống vẻ vang ấy trong lịch sử xây dựng quân đội của các triều đại phong
kiến Việt Nam đã được Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới là: chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam nói chung, và của quân đội nói riêng.
Trong "thư gửi các chiến sĩ cảm tử quân Thủ đô" (1946) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Các em
là đội cảm tử. Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn

tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà
Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa
Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại
cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau" [20, tr.35]. Cũng như hàng loạt các bài nói, bài viết
của Người sau này đề cập đến xây dựng quân đội về chính trị đều toát lên tinh thần kế thừa
truyền thống xây dựng quân đội trong lịch sử dân tộc ta.
Trên con đường hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu nhiều tinh hoa trong tư tưởng
quân sự, trong đó có tư tưởng về xây dựng quân đội của nhiều nhà tư tưởng quân sự phương
Đông, phương Tây để lại. Ngay nền học vấn đầu tiên mà Hồ Chí Minh đã tiếp xúc là Nho học từ
triết lý nhân sinh, chính trị - đạo đức Khổng - Mạnh qua những sách kinh điển như "Tứ thư",
"Ngũ kinh", đến những tinh hoa trong truyền thống quân sự Trung Quốc cổ đại khi được Người
tiếp thu đã thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa quân sự và chính trị trong tác chiến, xây dựng lực
lượng. Mối quan hệ giữa yêu cầu xây dựng kỷ luật của người lính "quân lệnh như sơn" với yêu
cầu bồi dưỡng phẩm chất, năng lực của người làm tướng: mệnh lệnh người chỉ huy phát ra phải
đúng, trong mọi công việc phải làm gương, luôn có mối tình thân với người cấp dưới như tình
"phụ - tử".
Nổi bật nhất trong sự kế thừa tinh hoa tư tưởng quân sự phương Đông của Hồ Chí Minh, là sự
tiếp thu tư tưởng của binh pháp Tôn Tử, mưu kế của Khổng Minh. Người đã viết cả một tác
phẩm về binh pháp của Tôn Tử làm tài liệu cho quân đội và nhân dân ta học tập trong những
năm đầu kháng chiến thực dân Pháp xâm lược.


Hồ Chí Minh đã đề cập nhiều luận điểm của binh pháp Tôn Tử như: "Phép dùng binh của ông
Tôn Tử - đánh bằng mưu". Cách đánh giỏi nhất của người làm tướng là "đánh bằng mưu", cách
đánh kém nhất là cách đánh vây thành; hay xây dựng quân đội vững mạnh điều cốt yếu nhất của
Tôn Tử đưa ra là vấn đề xây dựng nhân cách của người làm tướng thì trong tác phẩm "Phép dùng
binh của ông Tôn Tử - Kế hoạch", Người đã trích dẫn ra tư tưởng của ông Tôn Tử: "là tướng,
tướng phải có mưu trí, phải được người ta tin cậy, phải tốt với dân và lính, phải gan góc, phải có
thái độ nghiêm trang và kỷ luật tề chỉnh. Tướng phải đủ: trí, tín, nhân, dũng, nghiêm" [18,
tr.514]. Hoặc trong xây dựng quân đội về chính trị tinh thần, ông luôn đề cao yếu tố chính trị đó

là lòng dân yên bình, lòng quân nhất tâm, trăm người như một, đồng tâm nhất trí. Trong tác
phẩm "Phép dùng binh", Hồ Chí Minh cũng đã viết: "Ông Khổng Minh nói: trước nhất cốt lấy
lòng dân, quân; thứ hai mới cốt lấy thành trì của địch" [18, tr.537] và "người làm tướng có mưu
trí bao giờ cũng lo lắng đến lợi, đến hại. Lo đến lợi mới có đủ tin tưởng làm tròn được nhiệm vụ.
Lo đến hại mới tìm mưu kế để giải trừ được gian nguy" [19, tr.232].
Chúng ta không thể làm một sự thống kê hết được những bài viết của Hồ Chí Minh thấm
đượm tinh hoa xây dựng quân đội của các học giả phương Đông. Song, cái cốt yếu là tư tưởng
quân sự của người phương Đông trong thực tiễn đã thực sự là một cơ sở để Hồ Chí Minh kế
thừa, tiếp thu xây dựng nên tư tưởng biện chứng trong xây dựng quân đội ta về chính trị.
Về sự kế thừa những tinh hoa tư tưởng quân sự phương Tây, với Hồ Chí Minh: thực tiễn là
tiêu chuẩn của chân lý, là khởi điểm và thước đo mọi luận thuyết chân chính. Nguyên lý này đã
được chứng thực trong suốt cuộc đời hoạt động sôi nổi của Hồ Chí Minh. Người không bao giờ
có sự tả khuynh, hay hữu khuynh trong việc tiếp thu tinh hoa văn hoá của người phương Tây,
trong đó có tinh hoa tư tưởng quân sự. Bằng sự quan sát tinh tế, óc phân tích, tổng hợp sắc sảo,
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra một nghịch lý (ngay tại xứ sở gây tai họa cho dân tộc mình) rằng,
không chỉ có một mà có hai nước Pháp; một nước Pháp "hải ngoại", với chính sách cai trị tàn
bạo, mang "tâm địa thực dân", nhưng lại rất tạm thời, nhỏ bé, bên cạnh một nước Pháp khác,
vĩnh cửu và vĩ đại, "nước Pháp của đại cách mạng 1789, của Công xã Pari, của cuộc kháng chiến
chống Đức" với nền văn hoá rực rỡ, ôm ấp trong lòng khát vọng về sự giải phóng con người. Vì
vậy, Hồ Chí Minh đã không phủ định sạch trơn những tư tưởng quân sự của các học giả và tướng


lĩnh tư sản; ngược lại Người đã tiếp thu có chọn lọc những nhân tố tích cực, tiến bộ mà các học
giả, tướng lĩnh tư sản đã tiến hành trong xây dựng quân đội của họ để vận dụng vào quá trình xây
dựng quân đội ta.
Chẳng hạn như quan điểm về xây dựng quân đội của Napôlêông - một danh tướng quân sự nổi
tiếng ở nước Pháp thế kỷ thứ XVIII, bỏ qua những hạn chế trong tư tưởng về xây dựng, rèn
luyện quân đội của ông ta, Hồ Chí Minh đã tiếp thu nhiều giá trị tích cực như: xây dựng tính kỷ
luật nghiêm minh, gương mẫu, sâu sát chăm lo đời sống cho người lính, đề cao vai trò của người
chỉ huy... Napôlêông đã từng đề cập nếu ông ta trực tiếp tăng cường cho một mặt trận nào thì giá

trị của nó bằng cả một sư đoàn quân.
Hoặc quan điểm của Cutudốp một nhà tư tưởng quân sự, một vị tướng lỗi lạc Nga (thế kỷ
XVIII); chính ông đã trực tiếp tổ chức chỉ huy quân đội và nhân dân Nga đánh bại sự xâm lược
của 50 vạn quân Pháp đập tan mộng bành trướng, bá chủ châu Âu của Napôlêông lúc bấy giờ.
Trong xây dựng, giáo dục, rèn luyện quân đội, Cutudốp rất coi trọng nhân tố con người, mà
trong đó yếu tố chính trị, tinh thần, tư tưởng được ông hết sức quan tâm. Theo Cutudốp nếu
người lính không thực sự an tâm tư tưởng, không có ý chí vượt qua mọi khó khăn thử thách,
không đồng tâm hiệp lực, chung sức, chung lòng, đoàn kết nhất trí v.v... thì khi lâm trận sẽ thất
bại. Theo ông, người chỉ huy mà không gương mẫu, không đồng cam cộng khổ với người lính,
không có bản lĩnh của người cầm quân, không có tài thao lược chỉ huy, thì không chỉ huy được
cấp dưới của mình và trong thực tiễn ông đã lấy chính mình làm gương cho cấp dưới noi theo.
Hồ Chí Minh, tuy không viết tác phẩm nghiên cứu riêng về tư tưởng quân sự và xây dựng
quân đội của các nhà tư tưởng quân sự, tướng lĩnh phương Tây giống như Người viết về Tôn Tử
(Phương Đông), song trong hệ thống tư tưởng của Người về xây dựng quân đội và nhất là bằng
chính những việc làm thể hiện sự sâu sát, quan tâm tới hoạt động của quân đội và đời sống vật
chất, tinh thần của bộ đội, (như: "cưỡi ngựa lên non xem trận địa", đến tận từng mâm pháo, chiến
hào của bộ đội v.v...). Điều đó cũng cho chúng ta thấy tinh thần Người đã tiếp thu tinh hoa quân
sự trong xây dựng quân đội của các nhà tư tưởng, tướng lĩnh phương Tây điển hình là
Napôlêông, Cutudốp như thế nào.


Nhưng vấn đề mang giá trị quyết định đến tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng
quân đội về chính trị, chính là sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh
cụ thể ở nước ta. Như một sự hẹn trước của lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin mà trực tiếp là lý luận
về xây dựng quân đội của giai cấp vô sản đã hợp lực cùng tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo nên nét đặc
sắc của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong
xây dựng quân đội về chính trị nói riêng.
Trong lịch sử, các nhà tư tưởng tư sản luôn tìm mọi cách để che giấu bản chất giai cấp của
quân đội, che giấu thực chất quân đội là công cụ của chính sách đối nội phản động, đối ngoại
xâm lược của nhà nước thống trị, bóc lột. Họ cố chứng minh quân đội là một hiện tượng vĩnh

viễn, "trung lập về chính trị", "phi giai cấp". Ngược lại, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin đã khẳng định: "Không phải chỉ dưới chính thể quân chủ, quân đội mới là công cụ đàn áp.
Nó vẫn là công cụ đàn áp của tất cả các chính thể cộng hoà tư sản, kể cả những chính thể cộng hoà
dân chủ nhất" [9, tr.610 ] và "Quân đội của nhà nước tư sản là công cụ vững chắc nhất để duy trì
bảo vệ chế độ cũ, là phương tiện quan trọng để đạt được các mục tiêu chính trị phi nghĩa" [7,
tr.361]. Quân đội tư sản là công cụ đắc lực của thế lực phản động, là tôi tớ của tư bản"
[6, tr.137]. Rõ ràng lý luận mác xít chỉ rõ quân đội tồn tại và phát triển trong mối quan hệ biện
chứng với giai cấp và nhà nước. Trong đó giai cấp, nhà nước luôn luôn giữ vai trò quyết định đối
với quân đội về các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Về chính trị, bản chất giai cấp của nhà nước luôn giữ vai trò quyết định bản chất giai cấp của
quân đội do nhà nước đó sinh ra; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và hệ tư tưởng của quân đội
không có gì khác, nó chính là sự thực hiện, quán triệt mục tiêu, lý tưởng, hệ tư tưởng của giai
cấp, nhà nước đã sinh ra quân đội.
Về tổ chức, giai cấp, nhà nước quyết định đường lối và nguyên tắc tổ chức, xây dựng lực
lượng của quân đội, quyết định cơ chế lãnh đạo, chỉ huy và từng con người trong quân đội, kiểm
soát hoạt động của các tổ chức trong quân đội. Cũng từ lý luận mác xít đã chỉ ra quân đội là một
hiện tượng chính trị xã hội, là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định
nhằm mục đích phục vụ lợi ích của một giai cấp, nhà nước đã tổ chức nuôi dưỡng nó.


Bản chất giai cấp của quân đội là bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức ra quân đội đó.
Quân đội do giai cấp, nhà nước tổ chức, nuôi dưỡng và xây dựng theo đường lối, quan điểm
chính trị, quân sự của giai cấp mình. Đó là cơ sở để quân đội trung thành, là công cụ trong bảo
vệ lợi ích của giai cấp, nhà nước tổ chức ra quân đội. Trong lịch sử chưa có một quân đội chiến
đấu vì lợi ích chung của mọi giai cấp. Vì thế, bất cứ giai cấp, nhà nước nào khi tổ chức ra quân
đội cũng đều quan tâm xây dựng, củng cố bản chất giai cấp của nó, làm cho quân đội ấy phục
tùng bảo vệ quyền lợi chính trị, kinh tế của giai cấp, nhà nước đã tổ chức ra nó.
Có thể nói, mọi giai cấp, nhà nước tổ chức ra quân đội đều tập trung chăm lo xây dựng quân
đội về chính trị, đều hướng việc xây dựng quân đội về chính trị theo chính trị của giai cấp mình.
Do đó, các kiểu quân đội khác nhau thì chính trị khác nhau. Song, chính trị của kiểu quân đội
nào cũng đều phản ánh trung thành lợi ích cơ bản của giai cấp, nhà nước đã sinh ra và nuôi

dưỡng nó. Không có và không thể có quân đội "siêu giai cấp", "đứng ngoài chính trị". Những thủ
đoạn đòi "phi chính trị hoá" quân đội các nước xã hội chủ nghĩa (trong đó có Việt Nam) thực
chất nhằm chuyển hoá chính trị vô sản của quân đội các nước này sang lập trường chính trị tư
sản.
Quân đội của giai cấp vô sản là quân đội kiểu mới khác hẳn về chất so với tất cả các kiểu quân
đội trước đây. Quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản tất yếu phải mang bản chất của giai cấp
công nhân, bản chất cách mạng sâu sắc, và là công cụ bạo lực sắc bén của giai cấp và nhà nước
vô sản. Quân đội vô sản lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, chiến đấu vì mục tiêu,
lý tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, cùng mọi áp
bức, bất công, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Đảng Cộng sản là hạt nhân lãnh đạo theo nguyên tắc: tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
quân đội. Thực hiện nguyên tắc tổ chức Đảng lãnh đạo đi đôi với chế độ một người chỉ huy trong
toàn quân. Thực hiện trọn vẹn các chức năng, nhiệm vụ của một quân đội cách mạng vì lợi ích
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Quân đội của giai cấp vô sản là một quân đội có kỷ
luật nghiêm minh, tự giác. Kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Mọi quan hệ quân nhân đều trên
cơ sở bình đẳng về lợi ích, đồng cam cộng khổ vì sự nghiệp chung của cách mạng vô sản. Xây
dựng đội ngũ cán bộ quân đội trở thành những con người ưu tú tiêu biểu hội tụ đầy đủ phẩm chất


năng lực của người quân nhân cách mạng vừa có "đức", vừa có "tài" của người cộng sản chân
chính... Tất cả các nội dung trên đây đã được Lênin đề cập và thực thi trong quá trình xây dựng
"Hồng quân Công nông" của nước Nga xô viết, quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân xuất
hiện lần đầu tiên trên thế giới.
Lý luận về xây dựng quân đội của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã đề cập khẳng định sức
mạnh chiến đấu của quân đội là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần đảm bảo
cho quân đội hoàn thành mọi nhiệm vụ mà giai cấp, nhà nước tổ chức ra nó giao cho. Trong hệ
thống các yếu tố tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội thì yếu tố chính trị, tinh thần luôn
đóng vai trò cơ bản, quyết định nhất trong sức mạnh chiến đấu của quân đội. Các nhà kinh điển
đã khẳng định: "Cố nhiên vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán của vũ
khí: lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở

thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng" [10, tr.25] và "suy cho cùng sự
thắng lợi hay thất bại của cuộc chiến tranh phụ thuộc vào tâm trạng của người lính đổ máu trên
chiến trường" [8, tr.147]. Vì vậy, cần đặc biệt chăm lo xây dựng quân đội về chính trị, nhất là
củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, coi đó là vấn đề sống còn của quân đội cách
mạng. Đó là nguyên lý nhất cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản.
Tất cả các luận điểm mác xít về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản đã được Hồ
Chí Minh vận dụng sáng tạo vào quá trình tổ chức, xây dựng, giáo dục, rèn luyện, chiến đấu và
trưởng thành của quân đội ta.
Song, còn một vấn đề nữa thường xuyên tác động tới sự hình thành tư tưởng biện chứng Hồ
Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính trị đó là sự đòi hỏi của thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Người khẳng định, cách mạng bạo lực là con đường duy nhất đem lại thắng lợi cho cách
mạng Việt Nam. Do đó, phải quán triệt quan điểm bạo lực. Phải sử dụng bạo lực cách mạng có tổ
chức, mà nòng cốt là phải xây dựng được một quân đội cách mạng vững mạnh về chính trị, để đập
tan bạo lực phản cách mạng của bọn thực dân, phong kiến, của bọn thực dân, đế quốc, phong kiến
tay sai phản động. Đồng thời, từ thực tiễn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược, chúng ta phải đương đầu với các đội quân xâm lược nhà nghề có tiềm lực mạnh cả
về kinh tế và quân sự, vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại. Ngược lại, điều kiện kinh tế, quân


sự nước ta còn nghèo, lạc hậu. Quân đội ta còn non trẻ, trang bị vũ khí còn quá thô sơ (nhất là
những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp). Vì vậy, cần phải phát huy nhân tố chính trị,
tinh thần trong xây dựng quân đội để bù vào sự thiếu thốn về vật chất, vũ khí, trang bị của quân đội
ta.
Mặt khác, từ thực tiễn chiến đấu của quân đội ta với ý chí quyết tâm: "Thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", "Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh", "Không có gì quý hơn độc lập tự do", quân đội ta đã ra quân là đánh thắng, từ một quân đội
non trẻ với 34 chiến sĩ của những ngày đầu mới thành lập trở thành một quân đội "bách chiến, bách
thắng".
Hồ Chí Minh đã nhận diện chính xác từ sự đòi hỏi khách quan của thực tiễn cách mạng Việt
Nam trong đấu tranh giành nền độc lập và kháng chiến chống kẻ thù xâm lược bảo vệ nền độc

lập để tiến hành tổ chức xây dựng quân đội ta vững mạnh toàn diện, trong đó sự vững mạnh về
chính trị là then chốt. Tư tưởng biện chứng của Người trong xây dựng quân đội ta về chính trị
cũng bắt nguồn từ những đòi hỏi khách quan đó.
Tới đây chúng ta có thể khẳng định tiền đề khách quan cho sự ra đời tư tưởng biện chứng Hồ
Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính trị hết sức phong phú, đa dạng. Song, yếu tố mang
tính chất quyết định nhất là lý luận Mác - Lênin về xây dựng quân đội cách mạng của giai cấp vô
sản mà Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào quá trình xây dựng quân đội ở một nước thuộc
địa nửa phong kiến, trong suốt quá trình đấu tranh giành, giữ và xây dựng chính quyền cách
mạng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
1.1.2. Nhân tố chủ quan
Tư tưởng bao giờ cũng là của con người, do con người sáng tạo, khái quát trên cơ sở những
nhân tố khách quan. Do đó, sẽ là không đầy đủ nếu chúng ta không đề cập đến vai trò nhân tố
chủ quan trong sự hình thành tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về
chính trị. Đó là những phẩm chất nhân cách của một con người vĩ đại - Hồ Chí Minh, cơ sở của
nhân tố chủ quan hợp thành những tư tưởng biện chứng trong xây dựng quân đội về chính trị đó.


Nhân cách Hồ Chí Minh bắt nguồn từ một dân tộc, khởi điểm từ một con người, hoàn thiện dần
trong đời sống cách mạng. Nhân cách ấy chính là lòng yêu nước thương nòi và niềm tin sắt đá vào
sức mạnh của nhân dân. Nhân cách của Người là nhân cách của bậc "đại nhân, đại trí, đại dũng",
sự thiên tài của Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nét trong hệ thống tư tưởng của Người nói chung,
trong đó có tư tưởng biện chứng trong xây dựng quân đội về chính trị.
Đánh giá về sự thiên tài của Người, ông L.Xan-gô, Giáo sư Văn học Hunggari viết: "Ngày
nay, trong phong trào cộng sản không có nhân vật lịch sử nào có tầm vóc có thể so sánh được với
Hồ Chí Minh. Đó là tầm vóc của một con người có phẩm giá mà tên gọi gợi lên một lòng kính
trọng bất di bất dịch của không những bè bạn mà cả những đối thủ của Người. Đó là tầm vóc
những hoạt động mà với tư cách là nhà cách mạng và nhà chính khách, Người đã được mọi
người tôn kính khi còn sống cũng như sau khi người mất, không những ở đất nước của Người mà
cả trên toàn thế giới" [31, tr.78].
Hồ Chí Minh là một con người sống có hoài bão, có lý tưởng cách mạng cao cả, có bản lĩnh

kiên định, có khí tiết kiên cường trong đấu tranh thực hiện mục tiêu, lý tưởng đã chọn. Người là
một con người có phương pháp tư duy biện chứng mác xít uyên thâm, Người đã chỉ ra giá trị đặc
sắc của học thuyết Mác là ở phương pháp xem xét, xử lý công việc, lý luận gắn liền với thực tiễn,
nói đi đôi với làm. Người là một con người đặc biệt thông minh, ham học hỏi, sắc sảo, nhạy bén
với cái mới, có tư duy độc lập sáng tạo, có trí tuệ uyên bác, kiến thức sâu rộng, nghị lực phi
thường, đầu óc thực tiễn, thiết thực cụ thể v.v...
Nói như Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Những phẩm chất ấy càng được rèn luyện phát huy trong
suốt cuộc đời hoạt động của Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa vô vàn
lý thuyết, học thuyết khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp, Người đã tìm hiểu, phân tích,
tổng kết, khái quát, tìm ra bản chất, quy luật hình thành những luận điểm và có những quyết định
đúng đắn, sáng tạo" [5, tr.26] trong chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng Việt Nam nói chung, trong tổ
chức, xây dựng quân đội về chính trị nói riêng.
Hồ Chí Minh là một con người có vốn tri thức quân sự sâu rộng, luôn nắm bắt được nhu cầu
của thực tiễn đòi hỏi, tác phong của Người luôn sâu sát với thực tiễn. Những hình ảnh: Người
trực tiếp ra mặt trận, đi thăm hỏi động viên thương bệnh binh, đắp chăn cho bộ đội v.v... không


những là hình ảnh của một con người bình thường sâu sát trong hoạt động thực tiễn, mà đó thực
sự là hình ảnh cảm động của một Người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang. Chính tình cảm
cao cả của Hồ Chí Minh giành cho quân đội ta đã trở thành một động lực trực tiếp trong xây
dựng quân đội về chính trị.
Quân đội nhân dân Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đã trưởng thành lớn
mạnh không ngừng, trở thành một quân đội bách chiến, bách thắng; trước những sự biến
động của thời cuộc vẫn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng của mình, trung thành vô hạn với
Tổ quốc, Đảng, Nhà nước, chế độ, và con đường cách mạng xã hội mà nhân dân ta đã lựa
chọn. Lớp lớp cán bộ, chiến sĩ trong quân đội luôn luôn được nhân dân tin yêu, xứng danh
"Bộ đội Cụ Hồ".
Tóm lại, sự ra đời của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội ta về
chính trị là sự hội tụ đầy đủ của cả những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của thiên
tài Hồ Chí Minh. Vì vậy, có thể nói tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân

đội về chính trị không phải đơn thuần là sự vận dụng sáng tạo tư duy biện chứng mác xít, tư
tưởng xây dựng quân đội cách mạng của giai cấp vô sản vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Mà
ngay trong bản thân tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính trị
đã có sự kết hợp hữu cơ giữa nguyên lý cơ bản triết học và tư tưởng quân sự mác xít với
truyền thống tinh hoa xây dựng quân đội trong lịch sử Việt Nam và nhân loại, cũng như
tư duy chiều sâu khoa học, nhãn quan chính trị uyên bác mẫn tiệp của Hồ Chí Minh.
1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam về chính trị
Trong quá trình tổ chức, giáo dục, rèn luyện và thực tiễn xây dựng quân đội ta, Hồ Chí Minh
luôn luôn khẳng định xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là cơ sở để xây dựng quân đội
vững mạnh về mọi mặt đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về tương quan giữa các mặt,
các yếu tố, các mối quan hệ hợp thành nội dung chính trị, tinh thần của một quân đội cách mạng
của giai cấp công nhân Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, xây dựng,


lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Nội dung cơ bản của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây
dựng quân đội về chính trị rất phong phú. Đó là tư tưởng về bản chất giai cấp công nhân thống
nhất với tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; về vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quân
đội; về giáo dục chính trị, tư tưởng và rèn luyện người quân nhân cách mạng; về phẩm chất và
năng lực của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong quân đội; về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn v.v... trong xây dựng quân đội về chính trị. Các nội dung đó hợp thành một thể thống nhất, nền
tảng vững chắc đảm bảo cho quân độị luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân,
xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân
trong mọi tình huống.
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi đề cập một số nội dung cơ bản sau đây:
1.2.1. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh về sự thống nhất hữu cơ giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính nhân dân, tính dân tộc trong xây dựng bản chất cách mạng của Quân đội
nhân dân Việt Nam

Đây là vấn đề mang tính cốt tử của quân đội cách mạng vô sản, nét đặc thù của Quân đội nhân
dân Việt Nam mà Hồ Chí Minh xây dựng. Trong quá trình khẳng định bản chất giai cấp công
nhân của quân đội ta, Hồ Chí Minh cũng luôn luôn nhấn mạnh tính nhân dân và tính dân tộc của
quân đội. Đồng chí Trung tướng, Giáo sư Trần Xuân Trường đề cập: "Trong tư tưởng chính trị
và quân sự Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân là một thể thống nhất
những nhân tố hợp thành bản chất cách mạng và khoa học của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà
nước cách mạng Việt Nam. Đó cũng là những nhân tố hợp thành bản chất cách mạng và khoa
học của quân đội ta. Xây dựng quân đội về chính trị chính là xây dựng cái bản chất cách mạng
đó và chúng ta sẽ không thể hiện được nội dung cốt lõi của xây dựng quân đội về chính trị nếu
tách rời ba nhân tố vốn là thống nhất hữu cơ và làm điều kiện cho nhau" [39, tr.56].
Theo tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội ta về chính trị, thì bản chất
cách mạng của quân đội ta là sự thống nhất hữu cơ giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân
tộc sâu sắc. Theo bản chất chính trị đó, quân đội lấy mục tiêu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì
chủ nghĩa xã hội làm mục tiêu chiến đấu nhất quán của mình. Như vậy giải phóng và bảo vệ Tổ
quốc, xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội là thống nhất. Bảo vệ Tổ quốc gắn lièn với bảo vệ


chế độ. Đi chệch mục tiêu này, bất kể vì lý do gì đều là huỷ hoại bản chất chính trị, tư tưởng của
quân đội.
Từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến tranh, bản chất giai cấp của quân đội phụ
thuộc vào bản chất của giai cấp, nhà nước sản sinh ra nó. Cũng như, từ mục tiêu giải phóng dân
tộc, đem lại nền độc lập dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân của cuộc cách mạng vô sản ở nước ta một nước thuộc địa nửa phong kiến với 90% dân số làm nông nghiệp, điều này đã nói lên thành
phần tham gia quân đội chủ yếu là con em nông dân. Quán triệt tinh thần trên vào thực tiễn ra
đời của quân đội, Hồ Chí Minh đã đề cập: Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời trong phong trào
cách mạng của quần chúng, kết quả của sự phát triển từ các tổ chức vũ trang của quần chúng.
Trong quá trình xây dựng quân đội phải lấy xây dựng chính trị làm nền tảng. Vấn đề này đã được
thể hiện rõ nét trong "Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân" tiền thân của
quân đội ta ngày nay. Trong Chỉ thị Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền... Tuy lúc đầu quy mô của
nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi

suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam" [18, tr.507-508].
Tư tưởng trong Chỉ thị đã toát lên sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân
tộc. Song, tính thống nhất ấy sau này đã được Hồ Chí Minh khái quát rõ ràng hơn, sâu sắc và
toàn diện đầy đủ. Thể hiện trong bài phát biểu kỷ niệm 20 năm thành lập quân đội (22/12/1944 22/12/1964) "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt
qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" [26, tr.350].
Sự khái quát đó đã nhấn mạnh khía cạnh chủ đạo trong bản chất cách mạng của quân đội ta,
quyết định sự trưởng thành chiến thắng của quân đội là "Trung với Đảng, hiếu với dân". Đồng
thời, bản chất cách mạng của quân đội không tự phát hình thành, phát triển, mà phải trải qua quá
trình chủ động, tích cực giáo dục, rèn luyện. Đó là quá trình giải quyết đúng đắn một loạt các
quan hệ xã hội mà trong đó quân đội khẳng định vai trò chức năng và giá trị xã hội của mình.
Theo Hồ Chí Minh quan hệ cơ bản nhất, quyết định nhất của quân đội ta là quan hệ với Đảng,
với nhân dân. Người chỉ rõ: "Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại


có hại. Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nhân dân có Đảng lãnh đạo, Đảng có chính cương,
chính sách. Đã là quân đội nhân dân thì phải học chính sách của Đảng" [21, tr.318] và "Nhân dân
là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội" [20, tr.393]. Vì theo Hồ Chí Minh cuộc cách mạng vô sản ở
nước ta do Đảng ta lãnh đạo không chỉ là cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để nhất, mà còn là cuộc
cách mạng có tính nhân dân cao nhất. Lực lượng của cách mạng là ở nhân dân, lợi ích của cách
mạng cũng chính là lợi ích của nhân dân. Do đó, quân đội phải vì nhân dân, quên mình phục vụ
nhân dân vô điều kiện.
Tính giai cấp của quân đội ta đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: Quân đội ta mang bản chất giai cấp
công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản chất ấy được thể hiện rõ ràng qua mục tiêu, lý
tưởng chiến đấu, hệ tư tưởng, nguyên tắc tổ chức và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cụ thể
của quân đội; được thể hiện qua các mối quan hệ chủ yếu quy định sự tồn tại và phát triển của
quân đội. Mục tiêu, lý tưởng đấu tranh cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, đó là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh hạt nhân giữ vai trò quyết định trong tư
tưởng quân đội ta là chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì "Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người
cách mạng và nhân dân Việt Nam không những là cái "cẩm nang thần kỳ", không những là cái

kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản" [25, tr.128]. Đồng thời, nguyên tắc tổ chức cơ bản của
Đảng, Nhà nước được chú trọng xây dựng và thực hiện trong quân đội là tập trung dân chủ, thực
hiện chế độ phê bình, tự phê bình, có kỷ luật tự giác nghiêm minh dựa trên tình đồng chí, đồng
đội, sự tôn trọng lẫn nhau và tính chủ động, sáng tạo, sự hy sinh vì nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước
giao phó cho quân đội.
Tính chất nhân dân của quân đội ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ bởi thành phần
tham gia quân đội, mà còn ở chính mục tiêu chiến đấu của quân đội. Quân đội ta từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định: "Quân đội ta là quân
đội nhân dân - nghĩa là con em ruột thịt của nhân dân. Đánh giặc để tranh lại độc lập thống nhất
cho Tổ quốc, để bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, quân đội ta không
có lợi ích nào khác" [21, tr.426]. Người nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ: "Mình đánh giặc là vì dân.
Nhưng mình không phải "cứu tinh" của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân" [21,


tr.297]. Theo Hồ Chí Minh trong chiến tranh nhân dân, quân đội ta là lực lượng vũ trang nòng
cốt phải có trách nhiệm giúp đỡ và cùng với dân quân, du kích đánh giặc. Ngược lại mọi hoạt
động chiến đấu của quân đội đều phải dựa vào nhân dân. Người thường xuyên nhắc nhở bộ đội
trong mọi hoàn cảnh phải dựa vào nhân dân, nhân dân là cội nguồn sức mạnh của quân đội,
"không có dân thì không có bộ đội" [21, tr.320], "dân như nước, quân như cá", phải làm cho dân
hết sức giúp đỡ mình thì mình mới đánh thắng giặc" [21, tr.207]. Quân đội ta là quân đội của
nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân đó là tính nhân dân sâu sắc của
quân đội ta.
Tính dân tộc của quân đội ta được Hồ Chí Minh chỉ rõ: quân đội ta là một quân đội ra đời từ
phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, từ tiền thân là các đội vũ trang của toàn dân tộc - tất
yếu mang trong mình tính dân tộc Việt Nam. Người khẳng định: "Quân đội ta là một quân đội
anh dũng, đã sinh ra và lớn lên trong cách mạng và kháng chiến. Qua bao năm chiến đấu hy sinh
gian khổ và anh dũng, quân đội ta đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc" [23,
tr.283]. Trong quá trình xây dựng trưởng thành chiến đấu của quân đội, phẩm chất tinh thần của
quân đội ta còn là sự kết tinh, sự biểu hiện tinh hoa truyền thống dân tộc Việt Nam như lời Hồ

Chí Minh từng khẳng định: "Quân đội ta là quân đội anh hùng của một dân tộc anh hùng" [26,
tr.349]. Tính dân tộc của quân đội ta được biểu hiện qua các hành động cụ thể, phẩm chất nhân
cách của từng cán bộ, chiến sĩ. Trong "Điện gửi Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các
lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ hai" tháng 9/1967 Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "là
tinh hoa của dân tộc, các anh hùng chiến sĩ thi đua và dũng sĩ các lực lượng vũ trang giải phóng
miền Nam đã nêu cao tinh thần trung với nước, hiếu với dân, dũng cảm, mưu trí, khiêm tốn giản
dị, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, khó khăn không ngại, gian khổ không sờn, quyết hoàn thành
mọi nhiệm vụ cứu nước, góp phần vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc ta" [27, tr.293].
Xâu chuỗi tất cả những bài viết, bài nói chuyện và những hoạt động cụ thể của Hồ Chí Minh
trong thực tiễn mà Người giành cho quân đội, nổi lên hàng đầu mà Hồ Chí Minh luôn luôn quan
tâm là việc xây dựng bản chất cách mạng cho quân đội ta. Cũng như, từ tính giai cấp, tính nhân
dân và tính dân tộc của quân đội mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra chúng ta thấy rằng: sự thống nhất
hữu cơ giữa bản chất giai cấp công nhân Việt Nam với tính nhân dân, dân tộc trong Quân đội


nhân dân Việt Nam thể hiện ở việc - tính nhân dân của quân đội ta không hề làm phai nhạt tính
chất giai cấp công nhân của quân đội. Đồng thời, tính chất giai cấp công nhân không những không
mâu thuẫn với tính chất nhân dân của quân đội mà nó chính là điều kiện tiên quyết để xây dựng
quân đội ta thực sự trở thành một quân đội của nhân dân và của toàn dân tộc. Hơn nữa tính nhân
dân là một trong những biểu hiện chủ yếu nhất bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta. Chỉ có
một quân đội cách mạng, mang bản chất giai cấp công nhân mới là quân đội có tính nhân dân thực
sự. Sự thống nhất hữu cơ giữa bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và dân tộc của quân đội
ta, theo Hồ Chí Minh còn là sự biểu hiện của sự thống nhất về lợi ích, lợi ích của giai cấp công
nhân thống nhất với lợi ích của nhân dân và toàn dân tộc. Luận điểm về quân đội của dân, do dân,
vì dân chính là nét độc đáo, đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất cách mạng
của quân đội ta.
Chúng ta có thể khẳng định rằng sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính nhân dân và dân tộc của
quân đội luôn được Hồ Chí Minh coi là một tất yếu của một quân đội cách mạng do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, và đây cũng chính là một nội dung then chốt trong hệ thống tư tưởng biện chứng
Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính trị.

1.2.2. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh về giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng
lãnh đạo và vai trò của các tổ chức quần chúng trong xây dựng quân đội về chính trị
Vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo và vai trò của các tổ chức quần
chúng trong quân đội là một nội dung trọng yếu của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây
dựng quân đội về chính trị.
Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, mà
theo như Lênin đã đề cập trong quá trình xây dựng "Hồng quân Công nông" là Đảng Cộng sản
phải lãnh đạo trực tiếp, toàn diện quân đội, không chia sẻ quyền lực lãnh đạo quân đội cho bất cứ
một lực lượng, đảng phái chính trị nào. Cũng như từ quan điểm cơ bản về Đảng Cộng sản lãnh
đạo cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu trên con đường tìm đường cứu nước.
Người đã nhận ra muốn giải phóng dân tộc, giành lại nền độc lập, tự do của Tổ quốc, con
đường tiến hành không có con đường nào khác là phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản và nhân tố
đảm bảo cho sự thắng lợi của cách mạng vô sản ở Việt Nam là sự lãnh đạo của chính Đảng Cộng


sản. Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ
chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy" [17, tr.268]. Mặt
khác, phải tiến hành vũ trang cho quần chúng cách mạng, tổ chức ra quân đội công nông làm nòng
cốt để đập tan bạo lực phản cách mạng của bọn đế quốc thực dân, phong kiến tay sai.
Quán triệt vào vấn đề xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, Hồ Chí Minh đề cập nhân
tố có ý nghĩa quyết định là phải đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện tuyệt đối của Đảng
đối với quân đội, không chia sẻ quyền lãnh đạo quân đội với bất cứ lực lượng chính trị, đoàn
thể nào. Đồng thời, phát huy vai trò to lớn, tính tích cực hoạt động của các đoàn thể quần
chúng trong quân đội.
Nội dung sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện
chứng giữa Đảng lãnh đạo và chất lượng chính trị của quân đội cách mạng của dân, do dân và vì
dân, mang bản chất giai cấp công nhân sâu sắc. Tính quy luật ở đây chính là chất lượng chính trị
của quân đội có vững mạnh hay không vững mạnh, có vững chắc hay không vững chắc là do sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản quyết định.

Sự vững mạnh về chính trị của quân đội vấn đề cốt lõi nhất là tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với quân đội,
bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, với mục tiêu lý tưởng cách mạng mà
Đảng, nhân dân đã lựa chọn: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là cơ sở tư
tưởng và nguyên tắc chỉ đạo để xây dựng và xác định nguyên tắc Đảng lãnh đạo quân đội. Sự
lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội là đặc trưng cơ bản nhất của
quân đội cách mạng. Quân đội nghiêm chỉnh chấp hành sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao
nhất, là nhân tố quyết định sự trưởng thành và sức mạnh chiến đấu, bản lĩnh chính trị của quân
đội. Đúng như Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Quân đội ta có sức mạnh vô địch vì nó là một
quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục" [26, tr.350].
Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội ngay từ năm 1930, trong Chánh cương vắn
tắt của Đảng, Hồ Chí Minh đã đề cập phải "tổ chức ra quân đội công nông" [18, tr.11] và trong
suốt quá trình xây dựng, giáo dục, rèn luyện quân đội ta, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải thật sự "xây


dựng quân đội - một quân đội nhân dân thật mạnh, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân và
của Đảng" [22, tr.220]. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở thường xuyên "tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong quân đội". Bởi theo Hồ Chí Minh đây là nhân tố quyết định bản chất cách mạng,
sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội. Hồ Chí Minh không chấp nhận chia sẻ quyền lãnh
đạo quân đội cho bất cứ một đảng phái, một lực lượng chính trị nào, ngay cả khi cách mạng gặp
khó khăn, Đảng phải rút vào hoạt động bí mật năm 1946, thì Hồ Chí Minh cũng đã ký sắc lệnh
công nhận "Vệ quốc quân" là quân đội quốc gia và tuyên bố "thống nhất các bộ đội võ trang dưới
quyền chỉ huy của chính phủ. Các đảng phái không được có quân đội riêng" [19, tr.141].
Mặt khác, Hồ Chí Minh luôn luôn yêu cầu: "Quân đội phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và
chính phủ, phải giúp đỡ các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương. Phải tránh tự kiêu, tự đại,
vì lúc thành công thì dễ tự kiêu, tự đại, mà đã tự kiêu, tự đại là thoái bộ. Bởi vậy quân đội ta khi
thành công càng phải khiêm tốn, chớ có tự kiêu, tự đại" [24, tr.142]. Do đó, để thực hiện sự lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong
quân đội, thiết lập hệ thống tổ chức đảng trong quân đội từ Quân uỷ Trung ương đến các tổ chức
đảng cơ sở, lấy chi bộ đảng làm hạt nhân lãnh đạo, Người chỉ rõ: "Chi bộ là nền móng của Đảng.

Chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt" [4, tr.262].
Cùng với người chỉ huy quân sự có người cán bộ chính trị chuyên lo công tác đảng, công tác
chính trị trong đơn vị. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Về mặt chính trị, cấp nào cũng có một người chính
trị phái viên do đoàn thể cách mạng chọn trong bộ đội ấy hoặc phái người ngoài đến làm" [18,
tr.472]. Người yêu cầu phải thường xuyên giáo dục cho bộ đội lòng trung thành với Đảng, Nhà
nước, Chính phủ và nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Toàn thể quân đội tuyệt đối tin tưởng
vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ, có thể nói rằng đó là một thắng lợi rất to" [22,
tr.12].
Sự trung thành của quân đội trước hết là ở lòng trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng,
thấu triệt mục tiêu chiến đấu của Đảng: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lòng trung thành
được thể hiện ở việc quân đội phải hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ và
nhân dân giao phó, thực hiện xuất sắc chức năng chiến đấu của mình. Trong lần về thăm Trường
Chính trị trung cấp quân đội (10/1951) Người khẳng định: "Riêng về các chú, chính trị biểu hiện ra


trong lúc đánh giặc. Học chính cương, chính sách rồi thì phải thực hiện. Nếu thuộc lầu mà không biết
đánh giặc thì vô dụng" [26, tr.350].
Để xác lập vững chắc sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, Hồ Chí Minh yêu cầu xây dựng
các tổ chức đảng phải toàn diện, trong đó cốt yếu nhất là phải đảm bảo cho tổ chức đảng luôn
luôn vững vàng về chính trị có đủ năng lực lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong
mọi tình huống. Xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh phải gắn với xây đựng đơn vị
vững mạnh toàn diện, bảo đảm năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng luôn đáp ứng sự phát
triển của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội.
Phải gắn xây dựng tổ chức đảng với xây dựng các tổ chức quần chúng trong quân đội, như
(Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn, Phụ nữ). Bởi vì, theo Hồ Chí Minh mọi
chủ trương, đường lối của Đảng có trở thành hiện thực đều có sự đóng góp to lớn của các tổ chức
quần chúng. Bởi, các tổ chức quần chúng là nơi đoàn kết, tập hợp bộ đội, nơi tuyên truyền giáo
dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ
của Quân đội. Các tổ chức quần chúng thực sự vững mạnh thì góp phần trực tiếp đến sự vững
mạnh của quân đội về mọi mặt, trong đó có sự vững mạnh về chính trị.

Người đã từng khẳng định: "Cán bộ không có đội viên, lãnh tụ không có quần chúng, thì
không làm gì được" [21, tr.207]. Đội viên, quần chúng ở đây có phát huy được vai trò trách
nhiệm của mình hay không chính là nhờ có các tổ chức quần chúng mà họ đang sinh hoạt, học
tập, công tác. Đồng thời, các tổ chức quần chúng còn có vai trò to lớn đối với công tác xây dựng
Đảng, yếu tố bảo đảm cho tổ chức đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh khẳng định:
"Phải luôn luôn do nơi quần chúng mà kiểm soát những khẩu hiệu và chỉ thị có đúng hay
không... Mỗi công việc của Đảng phải giữ vững nguyên tắc và phải liên hiệp với quần chúng"
[20, tr.269]. Vì vậy, Người nhắc nhở các tổ chức đảng "phải hoan nghênh và khuyến khích quần
chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên".
Rõ ràng theo Hồ Chí Minh vấn đề khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là
một nguyên tắc bất di, bất dịch, nhân tố quyết định sự vững mạnh của quân đội về chính trị.
Cùng với đó là việc phát huy vai trò to lớn của các tổ chức quần chúng, yếu tố góp phần to lớn
trực tiếp đến sức mạnh mọi mặt của quân đội, nơi tổ chức giáo dục hội viên, đoàn viên, nơi thực


thi đường lối chủ trương chính sách của Đảng, nhiệm vụ của quân đội vào cuộc sống, đồng thời
cũng là nơi thể hiện sự vững mạnh về chính trị của quân đội. Do đó, việc giải quyết đúng đắn
giữa giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội
với việc phát huy vai trò to lớn của các tổ chức quần chúng trong quân đội là một nội dung hết
sức cơ bản, độc đáo của tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam về chính trị.
1.2.3. Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh về không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quân đội có đầy đủ "đức" và "tài" trong xây dựng quân đội về chính trị
Trong hệ thống nội dung tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính
trị. Một vấn đề then chốt luôn được Hồ Chí Minh quan tâm là giải quyết mối quan hệ giữa "đức"
và "tài" trong nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc" [20, tr.263] và "bất cứ
chính sách công tác gì có cán bộ tốt thì thành công" [20, tr.367]. Đồng thời, nội dung của
mối quan hệ chính là việc giải quyết nội dung cần đạt được của việc nâng cao chất lượng xây
dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội. Ý nghĩa của vấn đề là ở chỗ nó giải quyết mắt

khâu trọng yếu của xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
Để xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quân đội, ngay khi còn ở nước ngoài,
Người đã trực tiếp lựa chọn những chiến sĩ cách mạng dũng cảm, gan dạ, kiên trung, bất khuất
gửi đi học tập, đào tạo ở các học viện, nhà trường quân sự ở Liên Xô (cũ) và Trung Quốc. Sau
khi về nước trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây dựng
đội quân du kích thoát ly tập trung và xây dựng Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tiền
thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay).
Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (22/12/1944), Người đã
nêu yêu cầu phải "chọn lựa số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất", Người cũng đã soạn
thảo ra Mười điều kỷ luật và những nguyên tắc xây dựng, nguyên tắc hoạt động của đội" [30,
tr.9], Người coi việc huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ là việc làm thường xuyên, liên tục, hết sức
bền bỉ công phu. Người đã nhiều lần chỉ dạy: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người". Suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã dày công vun trồng cho đội ngũ


cán bộ của Đảng trong quân đội, cũng như cho toàn Đảng như người trồng vườn vun trồng cây
cối quý báu. Một di sản vô giá mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho Đảng, cho quân đội đó là đội
ngũ cán bộ từng trải, giàu kinh nghiệm để kế tục con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã
lựa chọn đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta tới đích cuối cùng. Trước lúc đi xa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng và rất cần thiết" [1, tr.15].
Xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội, điều đầu tiên Hồ Chí Minh quan tâm là việc
xây dựng bản chất cách mạng, bản lĩnh chính trị của giai cấp công nhân cho cán bộ quân đội.
Người coi chính trị là gốc, "quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có
hại" [21, tr.318]. Theo Hồ Chí Minh bản lĩnh chính trị của người cán bộ của Đảng trong quân đội
được biểu hiện sinh động ở trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị
vững vàng, ý chí chiến đấu kiên cường; ở phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, ý thức tổ
chức kỷ luật nghiêm minh; ở giải quyết mối quan hệ với Đảng, với nhân dân, với đồng chí,
đồng đội... của người quân nhân cách mạng. Chính vì thế, Người chỉ rõ: "phải tăng cường công
tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp cho bộ đội" [21, tr.464].

Nhiệm vụ đó, trước hết thuộc về đội ngũ cán bộ chính trị. Cái cốt lõi mà Hồ Chí Minh yêu cầu là
bất kỳ tình huống nào, cán bộ cũng phải nắm vững mục tiêu cơ bản của cách mạng định hướng
chính trị đúng, còn trong từng giai đoạn phải biết căn cứ vào thực tiễn của tình hình để đề ra chủ
trương, sách lược đúng đắn, sáng tạo và mềm dẻo, để từng bước đi tới mục tiêu.
Phẩm chất chính trị đạo đức tiêu biểu của người quân nhân cách mạng trong đó có cán bộ
quân đội được Hồ Chí Minh khái quát trong bài phát biểu nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành
lập quân đội (22/12/1944 - 22/12/1964): "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua kẻ thù nào cũng đánh thắng" [26, tr.349]. Hồ Chí Minh
coi "Trung" là trung thành tuyệt đối với Đảng, với nước, với sự nghiệp cách mạng, đó là cơ sở
vượt qua mọi thử thách, hiểm nguy hoàn thành mọi nhiệm vụ. Trung với Đảng, với nước không
tách rời hiếu với dân. Quân đội ta từ nhân dân mà ra vì nhân dân mà chiến đấu. Quân đội phải
thực sự là những người con hiếu thảo của nhân dân. Quân đội ta phải tận trung với nước, tận hiếu


×