Tải bản đầy đủ (.doc) (195 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO NHỮNG BIẾN ĐỘNG cơ cấu xã hội GIAI cấp ở nước TA HIỆN NAY và ẢNH HƯỞNG của nó đến xây DỰNG QUÂN đội về CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.74 KB, 195 trang )

CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
Viết đầy đủ

Viết tắt

Chất lượng chính trị

CLCT

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH,HĐH

Công tác đảng, công tác chính trị

CTĐ,CTCT

Cơ cấu xã hội

CCXH

Cơ cấu xã hội - giai cấp

MỞ ĐẦU

Diễn biến hoà bình
1. Tính cấp thiết của đề tài


Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh

CCXH - GC
“ DBHB”
Đoàn TNCSHCM

Giaidựng
cấp,Quân
tầng đội
lớp nhân dân Việt Nam về chính trị, thực chất là xây
Giai
tầngquân đội
Xây
dựng
Hội đồng quân nhân
HĐQN
mang
bản chất
giaimcấp
sắc, một quân đội
Trong
sạch,của
lành
ạnhcông nhân, có tính nhân dân và dân tộc sâu TSLM
TSVM
thựcTrong
sự củasạch,
dân, vững
do dânmạnh
và vì dân.

Tư bản chủ nghĩa
TBCN
Kết
hợp mạnh
nhuần to
nhuyễn
giữa việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
tính nhân dân
Vững
àn diện
VMTD
nghĩa
XHCN
thựcXã
sựhội
và chủ
tính dân
tộc chân
chính, trên một cơ sở xã hội - giai cấp mang tính chất toàn
dân rộng rãi trong quá trình xây dựng quân đội XHCN về chính trị ở một nước tiểu nông,
là một vấn đề có tính quy luật, đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một
cách sáng tạo.
Khác với trước đây, hiện nay CCXH - GC ở nước ta đang trong giai đoạn có những
biến động lớn, sâu sắc. Những biến động ấy đã và đang đặt ra cho quá trình xây dựng
quân đội về chính trị những vấn đề mới, thách thức mới.
Rõ ràng, những biến động CCXH- GC càng đi vào chiều sâu, thì càng chứa đựng nhiều
diễn biến phức tạp, khó lường và càng đòi hỏi phải có những dự báo khoa học để kịp thời
điều chỉnh. Bởi những biến động ấy, theo qui luật, sẽ ảnh hưởng ngày càng sâu sắc và
toàn diện đến xã hội nói chung, đến quân đội nói riêng.
Trong khi đó, cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc tiếp tục diễn ra gay go, quyết liệt và

phức tạp. Để quân đội tiếp tục xứng đáng là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, luôn


hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cách mạng, cần thiết phải có
những luận giải mới về xây dựng quân đội về chính trị.
Thực tiễn vừa qua cho thấy, bên cạnh ảnh hưởng mang tính tích cực là chủ yếu, những
biến động CCXH-GC không tránh khỏi việc đưa đến cho quá trình xây dựng quân đội về
chính trị những ảnh hưởng tiêu cực. Tình hình đó đòi hỏi phải có những phương hướng,
giải pháp hữu hiệu nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của những biến động ấy trong quá trình mà chúng ta đang xét.
Hơn nữa, sự cần thiết phải nhận thức sâu sắc và giải quyết kịp thời những vấn đề vừa
nêu trên trong quá trình xây dựng quân đội về chính trị, còn được rút ra từ bài học đau
xót về sự sụp đổ của quân đội Liên Xô và quân đội các nước Đông Âu vừa qua.
Do đó, việc nghiên cứu “Những biến động CCXH-GC ở nước ta hiện nay và ảnh
hưởng của nó đến xây dựng quân đội về chính trị” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn cấp bách, được tác giả chọn làm đề tài cho luận án của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Vấn đề CCXH-GC và xây dựng quân đội về chính trị đã được quan tâm nghiên cứu từ
rất sớm, là vấn đề lý luận phức tạp và đặc biệt nhạy cảm.
Ở các nước XHCN trước đây, quá trình nghiên cứu về vấn đề này đã đạt được những
thành tựu quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự phát triển lý luận của chúng ta hôm
nay, nhất là trên phương diện học thuật và phương pháp tiếp cận. Song, việc lấy mô hình
CNXH phát triển làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu đã làm cho những thành tựu ấy kém
tính phổ quát và ngày càng xa rời thực tiễn. Đây chính là một trong những nguyên nhân


dẫn đến khủng hoảng, sụp đổ của mô hình CNXH ( và quân đội gắn liền với nó ) ở Liên

Xô và Đông Âu vừa qua.
Ở nước ta, khoảng hơn chục năm trở lại đây, nhất là từ khi đổi mới, đã xuất hiện nhiều
công trình, đề tài, bài viết về các khía cạnh khác nhau của CCXH-GC, cũng như ảnh
hưởng của nó đến các khía cạnh khác nhau của thực tiễn. Chẳng hạn, đó là những cố
gắng tập hợp, sưu tầm những bài viết, thống kê, khảo sát về những khía cạnh khác nhau
của CCXH-GC ở nước ta dưới dạng một sưu tập chuyên đề [14]; là những thông báo có
tính chất gợi mở về một số vấn đề có tính quy luật trong sự phát triển CCXH-GC trong
thời kỳ quá độ ở nước ta [66]; lấy việc xem xét CCXH-GC với tính cách là một phạm trù
xã hội - chính trị để chỉ ra đặc điểm và xu hướng biến đổi của nó trong suốt thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta [74]. Trong số đó, còn có một số công trình hoa học tiêu biểu,
tập trung nghiên cứu một cách tương đối toàn diện những vấn đề chính trị - xã hội của
CCXH ở nước ta [61]; vừa trình bày khá rõ ràng những giai đoạn cụ thể, vừa tổng hợp rút
ra những nét đặc trưng của toàn bộ quá trình biến đổi của CCXH Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử [13]…
Trong quân đội cũng có nhiều công trình, đề tài, bài viết có liên quan đến các khía cạnh
khác nhau của đề tài này. chẳng hạn, như việc bước đầu đưa ra và luận giải sơ bộ mối
quan hệ giữa những biến đổi về

cơ cấu thành phần kinh tế với CCXH-GC và xây

dựng quân đội về chính trị hiện nay [89]; nghiên cứu khái quát những biến đổi kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, chỉ ra cơ chế, thực trạng tác động của nó đến nhận thức
chính trị, tư tưởng của cán bộ quân đội nói riêng [70], đến xây dựng
trị nói chung [71]; tập trung làm rõ thực trạng và
ngũ sĩ quan trung, sơ cấp trong quân

quân đội về chính

xu hướng biến đổi CCXH của đội

đội ta hiện nay [25]…



Mặc dù vậy, trên thực tế, chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu một cách
cơ bản và có hệ thống vấn đề “Những biến động CCXH-GC ở nước ta hiện nay và ảnh
hưởng của nó đến xây dựng quân đội về chính trị”.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận án

Mục đích: Luận giải khoa học về những biến động CCXH-GC ở nước ta hiện nay,
vạch ra phương hướng ảnh hưởng và thực trạng ảnh hưởng của nó đến xây dựng quân đội
về chính trị, làm cơ sở cho việc xác định những định hướng và giải pháp cơ bản nhằm
xây dựng, bảo đảm cho quân đội luôn phát triển và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà
Đảng giao phó.
Nhiệm vụ:
1-

Đưa ra và làm rõ khái niệm “ Biến động CCXH-GC; phân tích một số đặc điểm

biến động CCXH-GC ở nước ta trước năm 1986; phân tích những nhân tố cơ bản tác
động đến biến động CCXH-giai cấp ở nước ta và đưa ra một số dự báo khoa học về
những biến động ấy.
2-

Chỉ ra tính tất yếu về ảnh hưởng của những biến động CCXH-GC ở nước ta đến

xây dựng quân đội về chính trị, trên cơ sở đó xác định phương pháp tiếp cận thích hợp,
đồng thời phân tích, làm rõ thực trạng của những ảnh hưởng ấy.
3-


Đề xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy mặt tích cực, hạn

chế ảnh hưởng tiêu cực của những biến động CCXH-GC đến quá trình xây dựng quân đội
về chính trị trong giai đoạn hiện nay.
4.

Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp ghiên cứu


-

Cơ sở lý luận chủ yếu của luận án là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác-

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng ta về CCXH-GC, về quan hệ giữa cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế và chính trị; giữa kinh tế - chính trị và
chiến tranh - quân đội và xây dựng quân đội về chính trị. Luận án đặc biệt dựa vào quan
điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta, nhất là trong tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, về xây
dựng quân đội đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Luận án cũng tham
khảo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài quân đội, nhất là trong các
chương trình khoa học cấp nhà nước đã được nghiệm thu và đánh giá cao.
-

Cơ sở thực tiễn của luận án là tình hình thực tế của đời sống kinh tế - xã hội - văn

hoá của đất nước và quân đội trong thời kỳ đổi mới. Luận án quan tâm thích đáng đến các
báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, báo cáo kết quả thực hiện các mặt công tác của đơn
vị, đặc biệt là của Tổng cục Chính trị; tham khảo và sử dụng một số kết quả điều tra xã
hội của các đề tài khoa học và kết quả khảo nghiệm thực tế của bản thân về các vấn đề có
liên quan.
-


Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy

vật lịch sử, luận án sử dụng tổng hợp một hệ thống các phương pháp: Lôgíc- lịch sử, hệ
thống - cấu trúc, phân tích- tổng hợp, điều tra, khảo nghiệm thực tế, tiếp cận giá trị…
5.

Những dóng góp mặt về mặt khoa học của luận án

-

Góp phần làm sáng tỏ khái niệm “ Biến động CCXH-GC” và những đặc điểm của

biến động CCXH-GC ở nước ta trước năm 1986. Bước đầu đưa ra một số dự báo về
những biến động ấy.
-

Phân tích tính tất yếu về ảnh hưởng của những biến động CCXH-GC đến xây dựng

quân đội về chính trị và làm rõ thực trạng của những ảnh hưởng ấy.


-

Đề xuất một số định hướng và giải pháp cơ bản, hệ thống, đồng bộ và thích dụng

cho xây dựng quân đội về chính trị trong điều kiện có những biến động CCXH-GC.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
-


Luận án góp phần khẳng định tính đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong sự nghiệp

đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới CCXH-GC theo định hướng của XHCN. Luận án
cũng góp phần luận chứng khoa học cho quá trình xây dựng quân đội về chính trị trong
giai đoạn cách mạng mới.
-

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy trong các nhà

trường, đơn vị trong Quân đội Nhân Dân Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Luận án có: Mở đầu, 3 chương ( 7 tiết ), kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1
NHỮNG BIẾN ĐỘNG CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Nghiên cứu ảnh hưởng của những biến động CCXH-GC đến xây dựng quân đội về
chính trị, trước hết phải nghiên cứu bản thân những biến động ấy. Vì vậy, ở chương này,
cùng với việc làm rõ khái niệm “Biến động CCXH-GC” và những đặc điểm của biến
động CCXH-GC ở nước ta trước năm 1986, chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra một số dự báo
khoa học về những biến động của nó ở nước ta hiện nay và trong thập kỷ tới.
1.1.Biến động cơ cấu xã hội – giai cấp: Khái niệm và đặc điểm của biến động cơ
cấu xã hội – giai cấp ở nước ta trước năm 1986
1.1.1. Khái niệm “ Biến động CCXH-GC”


Một định nghĩa đầy đủ và khoa học về giai cấp, đã được Lênin trình bày trong tác phẩm
“Sáng kiến vĩ đại”. Theo đó, có thể thấy, các giai cấp bao giờ cũng gắn với và là sản
phẩm của một hệ thống sản xuất nhất định trong lịch sử. Sự khác nhau giữa các giai cấp
là ở địa vị của họ. Địa vị ấy được xác định trong hai địa hạt cơ bản, có quan hệ biện
chứng với nhau là: “Kinh tế” (mà cái quyết định nhất là sự khác nhau trong quan hệ của
họ đối với tư liệu sản xuất chủ yếu, chia họ thành những kẻ bóc lột và bị bóc lột về lao

động) và “Chính trị” ( mà quyết định nhất là sự khác nhau trong quan hệ của họ đối với
nhà nước, chia họ thành những kẻ thống trị và những người bị trị về mặt xã hội). Trong
đó “ chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, song cũng không phải vì thế mà “
chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế” [40,349].
Nhưng, vấn đề sẽ trở nên vô nghĩa nếu chỉ nghiên cứu các giai cấp (và cả các tầng lớp)
một cách biệt lập, tách rời khỏi mối liên hệ vốn có, trước hết với các giai cấp, tầng lớp
(giai tầng) khác trong xã hội đương đại, sau đó là với các giai tầng của xã hội trước đó.
Bởi vì, một mặt, trong hệ thống sản xuất nhất định, địa vị của các giai tầng luôn chế ước
và quy định lẫn nhau; mặt khác, quá trình phát triển của các giai tầng luôn là một quá
trình lịch sử - tự nhiên. Và, việc nghiên cứu xã hội có tính đến và chủ yếu tính đến các
giai tầng cùng với các mối quan hệ qua lại tất yếu giữa chúng, đã đưa đến sự ra đời của
khái niệm CCXH-GC
Dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật lịch sử, có thể quan niệm rằng: CCXH-GC là một
loại hình cơ bản của CCXH. Nó là một chỉnh thể bao gồm các giai tầng xã hội khác
nhau, được gắn kết với nhau bởi những mối quan hệ qua lại tất yếu ( những mối quan
hệ phản ánh tập trung tính chất, trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội )
giữa chúng.


Chúng tôi sẽ tiếp cận khái niệm trung tâm của luận án – khái niệm “ Biến động
CCXH-GC” từ việc làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm trên đây
* Nội dung thứ nhất: CCXH-GC là một loại hình cơ bản được phân chia theo giai
cấp của CCXH
Xã hội dưới bất cứ hình thức nào cũng là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa
người và người. Con người luôn tồn tại trong những cộng đồng nhất định. Tính phong
phú, phức tạp của quan hệ giữa người và người qui định tính phong phú, phức tạp của các
cộng đồng người, do đó, cũng qui định tính phong phú, phức tạp của một hệ thống tổ
chức xã hội. Song, dù có phức tạp đến đâu thì một hệ thống xã hội, để tồn tại và phát
triển được, như thực tế cho thấy, bao giờ cũng có những kết cấu, những hình thức tổ chức
cơ bản nhất định. Mỗi một kiểu kết cấu hay hình thức cơ bản này, chính là sự thống nhất

bền vững của các thành tố, các mối liên hệ cơ bản theo những nguyên tắc nhất định, tạo
nên những dấu hiệu đặc trưng mà qua đó có thể chia xã hội thành những tập đoàn và
những cộng đồng người khác nhau. Tổng hợp tất cả cộng đồng ấy, cùng những mối quan
hệ lẫn nhau giữa chúng, tạo thành bộ “ khung”, bộ “dàn” cho toàn bộ cái xã hội phức tạp
ấy, đó chính là cái mà người ta gọi là CCXH.
Như vậy, mỗi CCXH đều có thể hiểu theo hai cách: một mặt, đó là sự phân chia xã hội
theo những dấu hiệu nhất định thành những cộng đồng người khác nhau; mặt khác, đó là
sự tổng hợp tất cả những cộng đồng đó cùng những mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng tạo
thành một CCXH thống nhất.
-

Theo hướng thứ nhất ( phân chia), chúng ta sẽ có những loại hình cơ bản của

CCXH. Trong đó, cũng như các loại hình cơ bản khác được phân chia theo dân tộc, lãnh
thổ, tôn giáo…, CCXH-GC là một loại hình cơ bản được phân chia theo giai cấp.


Sở dĩ coi đây là những loại hình cơ bản vì nó được phân chia theo những dấu
hiệu, phản ánh những phương diện cơ bản của đời sống xã hội. Ở một chừng mực nhất
định, có thể coi mỗi loại hình này như một dạng thức hay một nghĩa hẹp của CCXH nói
chung. Và trên thực tế, mỗi loại hình đều có một vị trí nhất định, không thể thay thế,
đồng thời giữa chúng luôn có sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau trong một CCXH thống
nhất.
-

Theo hướng thứ hai ( tổng hợp), chúng ta sẽ có một CCXH thống nhất, với

CCXH-GC là hạt nhân, là yếu tố giữ vai trò quyết định đối với các yếu tố còn lại, và do
đó đối với CCXH nói chung. Điều đó được quy định bởi mấy lý do sau đây: Một là, xét
theo vai trò của các sự kiện lịch sử, thì sự phân chia xã hội thành giai cấp là sự phân chia

lớn nhất, chủ yếu nhất, sâu sắc nhất, nó phản ánh và qui định xu hướng phát triển tất yếu,
hợp qui luật của xã hội loài người: Đi qua xã hội có giai cấp để tiến đến xã hội không có
giai cấp trên cơ sở cao hơn. Chính vì thế, trong “ Bàn về nhà nước”, Lênin đã coi sự
phân chia xã hội thành giai cấp trong quá trình lịch sử là sự kiện căn bản [37,81]. Hai là,
trong một xã hội cụ thể, CCXH-GC phản ánh tương quan địa vị giữa các tập đoàn người,
do đó, theo quan niệm duy vật về lịch sử, thì nó chính là “hạt nhân” phản ánh rõ nét và
tập trung nhất thực trạng, bản chất, xu hướng vận động tất yếu của CCXH của xã hội
ấy. Ba là, tương quan địa vị giữa các tập đoàn người trong một CCXH-GC có liên quan
chặt chẽ đến vị trí, vai trò của họ trong việc chi phối, sử dụng chính quyền nhà nước vào
quá trình phát triển xã hội. Thông qua đó, CCXH-GC trở thành yếu tố giữ vai trò quyết
định nhất với sự phát triển của CCXH nói chung và các yếu tố khác của nó nói riêng. Với
ý nghĩa đó, bàn đến biến động CCXH-GC chính là những biến động diễn ra trong “
hạt nhân” của hệ thống cấu trúc xã hội. Điều đó, tự nó đã nói lên tầm quan trọng của


nhận thức, kiểm soát và định hướng những biến động CCXH-GC đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp.
* Nội dung thứ hai: CCXH-GC là một chỉnh thể bao gồm các giai tầng xã hội
khác nhau, được gắn kết với nhau bởi các mối quan hệ qua lại tất yếu giữa chúng.
Mỗi xã hội cụ thể, khi đã định hình, bao giờ cũng có một CCXH-GC đặc trưng
cho nó, phản ánh bản chất và trình độ phát triển của tổ chức xã hội ấy. CCXH-GC được “
kết cấu” bởi các giai cấp cơ bản và các giai tầng xã hội khác. Ở các chế độ xã hội người
bóc lột người, thì trong CCXH-GC của nó, bao giờ cũng tồn tại hai giai cấp cơ bản đối
lập nhau về địa vị. Hai giai cấp cơ bản này, cùng những mối liên hệ giữa chúng, tạo thành
cái “ khung” cho toàn bộ CCXH-GC của xã hội ấy. Khi xã hội đã định hình, cơ cấu giai
tầng của nó cùng hệ thống các mối liên hệ qua lại tương ứng giữa chúng, mặc dù vẫn
luôn có những biến đổi, nhưng lại ít xảy ra những biến động.
Nói đến biến động CCXH-GC, do đó, trước hết là nói đến những thay đổi lớn,
đột biến về cơ cấu giai tầng xã hội. Về vấn đề này, cả lý luận và thực tiễn lịch sử đều
cho thấy, những thay đổi với tính chất như thế là hiện tượng phổ biến trong quá trình vận

động, định hình của mọi CCXH-GC, nhất là trong thời kỳ đầu của thời kỳ quá độ.
Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở một nước có điểm xuất phát thấp như
ở nước ta, những thay đổi như trên càng thể hiện rõ nét.

Ở đây, do xã hội cùng một

lúc chịu sự tác động khách quan của cả hai hệ
thống qui luật trái chiều - hệ thống qui luật của xã hội còn phải nhận sự phân chia và
bóc lột giai cấp ( tất nhiên, trong một giới hạn và phạm vi nhất định) như một thực tế
không thể tránh khỏi, và hệ thống qui luật xã hội có lý tưởng thủ tiêu mọi sự phân chia và
bóc lột ấy – nên, các giai tầng luôn được đặt trước nhiều khả năng vận động, phát triển


khác nhau. Cơ cấu giai tầng xã hội ( kể cả cơ cấu thành phần các giai tầng, cơ cấu nội bộ
từng giai tầng và tương quan so sánh giữa các giai tầng trong xa hội), do đó, luôn có
những thay dổi bất thường. Tình hình này được biểu hiện trên thực tế bởi thực trạng đan
xen, căng kéo và chuyển hoá lẫn nhau hết sức nhanh chóng và phức tạp giữa những giai
tầng cơ bản và không cơ bản, giữa những giai tầng là sản phẩm của phương thức sản xuất
đương đại với những giai tầng là tàn dư của phương thức sản xuất trước và mầm mống
của phương thức sản xuất sau.
Những thay đổi lớn, mang tính đột biến về cơ cấu giai tầng xã hội còn trở nên
đặc biệt rõ nét, nếu như trong quá trình vận động, xã hội chịu sự tác động nhiều bởi các
yêú tố ngoại sinh, nhất là khi phải chịu sự chi phối nghiệt ngã bởi các qui luật chiến
tranh. Đây chính là một trong những đặc điểm của biến động CCXH-GC ở nước ta trước
năm 1986 mà chúng tôi đề cập đến ở phần sau. Dưới đây, chúng tôi tiếp tục luận giải
những vấn đề xung quanh khái niệm biến động CCXH-GC.
Có một thực tế là, việc đề cập đến những thay đổi lớn, đột biến về cơ cấu giai tầng của
một xã hội cũng đồng thời (và tất yếu) phải đề cập đến tính chất thiếu ổn định của hệ
thống các mối quan hệ qua lại giữa các giai tầng của xã hội ấy. Đây cũng là khía cạnh
cơ bản của khái niệm biến động CCXH-GC. Sở dĩ có tình hình trên là vì, trong một

CCXH-GC, các giai tầng không tồn tại một cách biệt lập bên cạnh nhau, mà trái lại, luôn
có quan hệ chế ước lẫn nhau.
Theo đó, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, chất keo dính kết các cộng đồng
người thành các giai tầng khác nhau, trước hết và quyết định là lợi ích. Cách thức mà
theo đó mỗi giai tầng thoả mãn lợi ích cho các thành viên của mình là tìm cách cải thiện
địa vị của họ trong hệ thống sản xuất xã hội theo hướng có lợi nhất. Nhưng vì địa vị các


giai tầng trong một hệ thống sản xuất luôn có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, nên quá trình
“cải thiện” trên đây, trước hết thường là cuộc đấu tranh, - những cuộc đấu tranh luôn
được phản ánh một cách đầy đủ và được quyết định bởi cuộc đấu tranh không khoan
nhượng giữa hai giai cấp cơ bản có địa vị đối lập nhau, có lợi ích không thể điều hoà: nô
lệ với chủ nô, địa chủ phong kiến với nông nô, tư sản với vô sản. Đỉnh cao của những
cuộc đấu tranh này là cuộc cách mạng xã hội, trước hết là trên lĩnh vực chính trị, với việc
xoá bỏ CCXH-GC cũ, thiết lập và xây dựng một CCXH-GC mới cao hơn.
Để tạo ra so sánh lực lượng có lợi cho mình trong quá trình đấu tranh, các giai
tầng trên thực tế đều phải tính đến những liên minh. Vô luận trong mọi trường hợp, liên
minh chỉ tồn tại trên nguyên tắc mà theo đó, các giai tầng tự giác góp sức xây dựng một
sức mạnh chung để tiến hành cuộc đấu tranh chung vì những lợi ích chung. Chính vì vậy,
tuỳ theo mức độ phù hợp về lợi ích (chung) giữa các giai tầng đang liên minh với nhau
mà liên minh có những tính chất khác nhau: lâu dài hay tạm thời, chiến lược hay sách
lược, toàn diện hay trên từng phương diện. Vai trò, vị trí của các giai tầng trong liên
minh, do đó cũng khác nhau. Giai cấp lãnh đạo, giữ vai trò quyết định trong liên minh, là
giai cấp mà trong cơ cấu lợi ích của mình, ngoài lợi ích riêng phù hợp với lợi ích chung
của liên minh, nó không còn lợi ích riêng cơ bản nào khác. Điều đó, chẳng hạn như vai
trò của giai cấp công nhân trong khối liên minh công – nông – trí thức của CCXH-GC
theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
Những sự phân tích sơ bộ trên đây đã đưa đến một nhận định rằng, CCXH-GC
luôn biểu hiện ra với tư cách là một chỉnh thể có khả năng tự phát triển theo những quy
luật nội tại của chính nó. Nhưng, bản thân những qui luật này lại vừa là kết quả, vừa là

hình thức phản ánh những biến đổi của hệ thống các mối quan hệ qua lại giữa các giai


tầng xã hội. Vì thế, phân tích đúng đắn những biến động của hệ thống các mối quan hệ
qua lại giữa các giai tầng, từ đó tuân thủ một cách sáng tạo những qui luật nội tại trong
quá trình phát triển của CCXH-GC là một trong những vấn đề có tính nguyên tắc bảo
đảm tiến trình lịch sử - tự nhiên của quá trình ấy.
Thực tiễn cách mạng nước ta mấy chục năm qua đã chứng minh rằng, thành công
hay thất bại trong quá trình cách mạng, quyết định là do biết phân tích đúng hay sai tính
chất của hệ thống các mối quan hệ giữa các giai tầng ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể, do
đó có nhận thức được hay không việc xem ai đã, đang và sẽ là nền tảng của xã hội –
chính trị, ai là người lãnh đạo và liên minh với ai, cô lập, đánh đổ hoặc xoá bỏ ai. Chính
vì vậy, Đảng ta đã khẳng định: “ Giai cấp công nhân Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ,
máu thịt với giai cấp nông dân. Khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức là nền tảng của đại đoàn kết các dân tộc, là một vấn đề chiến
lược, là nguyên tắc sống còn của Đảng, là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm cho sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam được củng cố, giữ vững
và tăng cường. Đây là một kinh nghiệm, là truyền thống cơ bản, quí báu của đảng Cộng
sản Việt nam, là nguồn sức mạnh vô tận bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng nước ta”
[64,5].
* Nội dung thứ ba: CCXH-GC là sự biểu hiện tập trung tính chất, trình độ
phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội.
Trên đây chúng tôi đã luận giải rằng, với tư cách là một hiện tượng tương đối độc
lập, CCXH-GC trên thực tế đã vận động theo một hệ thống qui luật nội tại của riêng nó.


Song, trong tính hiện thực của nó, CCXH-GC còn là và chủ yếu là một hiện
tượng xã hội-chính trị. Mà bất cứ hiện tượng xã hội-chính trị nào cũng đều bằng cách này
hay cách khác, ở mức độ này hay mức độ khác, liên quan đến các quan hệ kinh tế-xã hội.
Theo đó, có thể nhận thấy, xã hội xét về bản chất là tổng hoà các quan hệ giữa người và

người; rằng theo quan niệm duy vật về lịch sử, quan hệ giữa người ta với nhau trong lĩnh
vực sản xuất vật chất sẽ giữ vai trò quyết định suy đến cùng đối với tất cả các quan hệ xã
hội còn lại. Vì vậy có thể nhận định, với tính cách là một bộ phận trong các quan hệ xã
hội còn lại, cụ thể là với tính cách các quan hệ xã hội - chính trị, sự vận động của
CCXH-GC, suy đến cùng và trước hết gắn liền với và được quy định bởi các nhân tố, các
quan hệ kinh tế. Mác viết: “ Hãy giả dụ một trình độ xã hội nhất định của sản xuất, trao
đổi và tiêu thụ, chúng ta sẽ có một chế độ xã hội nhất định, một tổ chức nhất định của gia
đình, của đẳng cấp hay giai cấp, nói tóm lại, là có một xã hội công dân nhất định”
[51,788].
Rõ ràng một nền kinh tế còn kém phát triển, lại được vận hành theo cơ chế mệnh
lệnh, tập trung, quan liêu, tất sẽ đưa đến một CCXH-GC giản đơn, “đóng” và “ổn định”
đến mức bảo thủ, luôn tích tụ nguy cơ của một cuộc khủng hoảng xã hội thực sự. Trái lại,
một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng mới ở giai đoạn sơ khai như ở nước
ta hiện nay, thực tế cho thấy bên cạnh việc đưa tới một CCXH-GC “mở”, sống động, lại
luôn tạo ra một cách tự phát những nhân tố có khả năng dẫn đến sự “ chệch hướng” trong
quá trình đổi mới CCXH-GC. Vì vậy, trong khi phải biết trước hết xuất phát từ việc luận
giải, xây dựng và điều chỉnh các quan hệ kinh tế-xã hội, coi đó là nhân tố có vai trò quyết
định suy đến cùng, chúng ta lại không được tuyệt đối hoá, coi đó là nhân tố duy nhất
quyết định đến việc luận giải, xây dựng và điều chỉnh những biến động CCXH-GC ở mỗi


giai đoạn lịch sử nhất định. Bởi vì, trong tính hiện thực của nó, những biến động
CCXH-GC luôn xuất hiện với tính cách là kết quả tác động tổng hợp của một hệ thống
các nhân tố có tính khách quan: cả quá khứ và hiện tại, giữa kinh tế và chính trị, giữa
khách quan và chủ quan, giữa nội lực và ngoại lực…
Do đó, sẽ là không đúng nếu cho rằng, việc giai cấp tư sản dân tộc có thể sẽ xuất
hiện trở lại trong xã hội ta hiện nay, chỉ đơn thuần là một tất yếu kinh tế; cũng như sẽ là
một sai lầm tai hại, nếu suy luận một cách máy móc rằng, cứ tương ứng với mỗi thành
phần kinh tế là có một giai cấp trong CCXH.
Hơn nữa, CCXH-GC còn giữ tính độc lập tương đối ngay cả với những biến đổi

trong các quan hệ kinh tế xã hội. Thực tế cho thấy, những biến động CCXH-GC không
phải chỉ chịu sự tác động một cách thụ động, một chiều bởi những biến đổi trong quan hệ
kinh tế-xã hội, mà trái lại, luôn tác động đến những quan hệ ấy theo những chiều hướng
và mức độ khác nhau.
Nhận thức sâu sắc những vấn đề trên sẽ giúp ta tránh được quyết định luận máy
móc trong việc hoạch định chính sách xã hội.
Từ những phân tích trên đây, chúng tôi quan niệm: Biến động CCXH-GC là
khái niệm dùng để chỉ tính chất của những thay đổi đang diễn ra trong “hạt
nhân”của hệ thống cấu trúc xã hội; cụ thể là chỉ những thay đổi lớn, mang tính đột
biến, thiếu ổn định của cơ cấu giai tầng xã hội, cùng hệ thống các mối quan hệ qua lại
tất yếu giữa chúng trong quá trình vận động, phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định - Kết quả tác động tổng hợp của một hệ thống các nhân tố có tính khách quan,
trên cơ sở tính tất yếu và vai trò quyết định suy đến cùng của nhân tố kinh tế.


Ở phương diện chung nhất, hai khái niệm “Biến đổi” và “Biến động” đều đề cập
đến những thay đổi của sự vật hiện tượng, vì thế, trong nhiều trường hợp chúng có thể
được dùng để thay thế cho nhau. Nhưng, nếu như khái niệm BIẾN ĐỔI (Change) đề cập
đến mọi sự thay đổi khác trước nói chung thì khái niệm BIẾN ĐỘNG (Vary) lại chỉ đề
cập đến những thay đổi lớn, mang tính đột biến và thiếu ổn định của CCXH-GC. Nói
cách khác, biến động CCXH-GC chỉ xảy ra ( xuất hiện) khi những biến đổi của nó đạt
đến một qui mô và tính chất nhất định. Phân biệt sự khác nhau giữa hai khái niệm này,
trên thực tế, đã trở thành một căn cứ chủ yếu để chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu
và trục cơ bản của đề tài.
Biến động CCXH-GC thực chất là biến động của những tập đoàn người to lớn vốn
luôn được gắn kết với nhau bởi một hệ thống các mối quan hệ qua lại hết sức phức tạp.
Qui mô và tính chất của những thay đổi đang diễn ra, do đó, phải đủ lớn và sâu sắc đến
mức tạo ra được những xu hướng vận động khác nhau bên trong CCXH-GC mới thực sự
được gọi là những biến động. Vì thế, nhận thức về những biến động CCXH-GC, trước
hết và cốt yếu là phải chỉ ra được những xu hướng vận động khác nhau của nó. Thời gian

để mỗi biến động như thế hình thành và phát huy ảnh hưởng rõ nét đến các lĩnh vực khác,
do vậy dù có “động” và “biến” nhanh đến đâu, cũng phải đủ lớn, ít nhất phải tương
đương với thời gian để thực hiện một chương trình kinh tế ngắn hạn ở cấp vĩ mô (thông
thường là từ 06 tháng trở lên). Thực tế cho thấy, khảo sát những biến động CCXH-GC và
ảnh hưởng của nó đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống trong khoảng thời gian quá
ngắn là một công việc không thể và không cần thiết.
Những vấn đề mà chúng tôi trình bày trên đây rất có thể là chưa đầy đủ, nhưng ít nhất
đó cũng là những nội dung cơ bản nhất của khái niệm “ Biến động CCXH-GC” với tính


cách là một phạm trù trung tâm mà chúng tôi sẽ lấy làm công cụ cho việc giải quyết
những nhiệm vụ tiếp theo của luận án.
1.1.2 Đặc điểm của biến động cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta trước năm 1986
Từ sau năm 1986, cùng với quá trình đổi mới toàn diện của đất nước theo định hướng
XHCN thì CCXH-GC ở nước ta cũng đang có những biến động sâu sắc. Để nhận thức
đúng đắn hiện trạng và dự báo được những xu hướng biến động trong tương lai của
CCXH-GC, phải dựa vào những luận cứ và luận chứng khoa học chắc chắn. Theo đó,
việc làm rõ đặc điểm của những biến động CCXH-GC ở nước ta tính đến trước thời điểm
đổi mới (1986) trở thành một nhiệm vụ rất quan trọng. Bởi lẽ, theo Lênin, “điều quan
trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không nên quên mối liên hệ lịch sử căn
bản, là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: Một hiện tượng nhất định đã xuất
hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã phát triển qua những giai đoạn chủ yếu
nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như
thế nào” [37,78].
Theo chúng tôi, những biến động CCXH-GC ở nước ta trong thời kỳ này có một số đặc
điểm cơ bản sau đây.
Đặc điểm thứ nhất: Những biến động mang đậm dấu ấn phương Đông
Khi đưa ra chuyên mục này, chúng tôi không xuất phát từ quan điểm khoanh vùng địa
lý đơn thuần để đối lập giữa phương Đông và phương Tây, mà trái lại, trước hết xuất
phát từ thực tiễn. Bởi đất nước ta đang trên đường hội nhập để phát triển, nên việc tìm ra

và bảo vệ những giá trị văn hoá dân tộc để quá trình hội nhập không bị hoà tan trở nên
cực kỳ cần thiết. Hơn nữa, như lời phát biểu của thủ tướng Phan Văn Khải tại lễ khai mạc
hội nghị quốc tế về “ Việt Nam học” vừa qua, thì càng hiểu sâu về dân tộc mình, càng có


khả năng để phát triển đất nước mình [31]. Sau đó là xuất phát từ một sự thật: những
thành công lâu nay, cũng như những thất bại, khủng hoảng gần đây của các nước được
coi là những con rồng châu Á, theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, là có liên quan trực
tiếp đến thái độ đối với những giá trị phương Đông. Chẳng hạn, mới đây khi trả lời câu
hỏi của các nhà nghiên cứu phương tây “ liệu phương Đông có thể đưa ra một cách nhìn
khác về những giá trị cần thiết cho một thế giới tốt đẹp hơn không?”, ông Tommy Roh,
Giám đốc viện nghiên cứu chính sách Singapo, Đại sứ lưu động và nguyên Đại sứ
Singapo tại Hoa kỳ, đã đưa ra 10 giá trị làm nền tảng cho sức mạnh và thành công của
các nước Đông Á [22,44]. Cuối cùng, cố nhiên là xuất phát từ thực tế quá trình phát
triển của CCXH-GC ở nước ta - một thực tế mà chúng ta khó lý giải một cách thoả đáng
mọi vấn đề nếu không tính đến ảnh hưởng nhiều mặt của một biểu hiện đặc thù của hình
thái kinh tế - xã hội ở phương Đông - tức phương thức sản xuất châu Á.
Như chúng ta đã biết, thuật ngữ phương thức sản xuất châu Á, trước đây được MácĂng ghen dùng để chỉ thời đại đầu tiên, sơ khai, phổ biến của hình thái kinh tế- xã hội
[49,16] nhưng sau đó được các nhà nghiên cứu lịch sử chủ yếu dùng để chỉ tính đặc thù
phương Đông trong sự khác biệt với phương Tây của các hình thái kinh tế - xã hội.
Theo Mác, từ xa xưa ở phương Đông, nông nghiệp đã là ngành sản xuất chính. Với sản
xuất nông nghiệp thì đất đai và thuỷ lợi là hai yếu tố có ý nghĩa quyết định. Do trình độ
văn minh còn thấp kém, đất đai lại rộng lớn, nên để bảo đảm thuỷ lợi, người ta không tự
mình làm được mà cần phải sử dụng sức mạnh của cả cộng đồng, thông qua bàn tay điều
phối của nhà nước. Khác với phương Tây, ở phương Đông, ngay từ đầu và suốt chiều dài
lịch sử, nhà nước đã được giao phó một chức năng kinh tế nặng nề, có ý nghĩa quyết định
đến độ phì nhiêu của đất đai - bảo đảm thuỷ lợi. Chính vì vậy, ở phương Đông trước kia,


sở hữu chung về đất đai là một tất yếu lịch sử. Đặc điểm cơ bản của phương thức sản

xuất châu Á cũng do đó mà, một mặt, nó chống lại qúa trình tư hữu hoá ruộng đất, mặt
khác, nó chống lại việc tập trung lớn về ruộng đất. Trên thực tế, chỉ có nhà nước (vua) là
có quyền tư hữu thực sự, và do đó cũng là người có quyền “tận thu” sản phẩm lao động
trên toàn bộ đất đai. Việc duy trì lâu dài kiểu quan hệ sản xuất trên đây, mặc dù đã cho
phép các nhà nước phương Đông trong lịch sử có thể tập trung được một sức mạnh kinh
tế to lớn vào việc tổ chức công trình công cộng và các cuộc chiến tranh liên miên, nhưng
lại làm cho quá trình phân công lao động, cũng như sự phát triển lực lượng sản xuất mất
đi những động lực cơ bản và sự phân hoá giai cấp, cũng vì vậy, diễn ra vô cùng chậm
chạp.
Chúng tôi cho rằng ở một chừng mực nhất định, có thể nói chủ trương đẩy mạnh cách
mạng quan hệ sản xuất đi trước một bước cuả chúng ta trước đây ngoài nguyên nhân chủ
yếu là nhận thức giản đơn về CCXH, còn có ảnh hưởng của tâm lý mặc cảm với sở hữu
tư nhân trong tư duy kinh tế phương Đông cổ truyền; và, những chủ trương, chính sách
mới đây của Nhà nước ta như: mạnh dạn mở rộng giới hạn tích tụ và tăng thời gian sử
dụng đất nông nghiệp, đa dạng hoá các hình thức sở hữu…,cũng trong một chừng mực
nào đó, là sự đoạn tuyệt với tâm lý mặc cảm cố hữu ấy.
Chế độ sở hữu chung, cộng với đặc điểm cuộc sống co cụm, biệt lập trong các trung
tâm với quy mô đất đai nhỏ bé, lại dựa vào những mối liên hệ có tính chất gia trưởng, đã
đẻ ra một mô hình tổ chức xã hội đặc biệt – các công xã nông thôn. Và, chính những
công xã nông thôn biệt lập, khép kín, thủ cựu, thờ ơ đến nhẫn tâm trước bất cứ sự thay
đổi nào, để miễn là được sống một cuộc sống y như cũ ấy – theo cách diễn đạt của Mác –
đã trở thành cơ sở bền vững cho chế độ chuyên chế phương Đông này, bền vững đến mức


làm triệt tiêu mọi tiền đề cho một cuộc cách mạng thực sự mới xảy ra ở Ấn Độ, khi người
Anh xâm lược đã phá hoại các công xã nông thôn bằng việc tiêu diệt cái nền tảng kinh tế
của nó là sản xuất tiểu nông. Và cũng theo Mác, thì đó là “một cuộc cách mạng duy nhất
chưa từng thấy ở châu Á” [52,176]. Mặc dù nhận định trên đây của Mác chưa hoàn toàn
đúng với thực tế lịch sử phương Đông, nhưng việc các nước thuộc khu vực này thường
chuyển đổi một cách hết sức nặng nề, chậm chạp, ít có những thay đổi đột biến mang

tính cách mạng lại là một đặc trưng phổ biến.
Chế độ công xã nông thôn của phương thức sản xuất châu Á tồn tại lâu dài trong xã hội
Việt Nam cổ truyền theo mô hình làng xã. Ông cha ta đã dựa vào làng xã để sống, sản
xuất và đánh giặc. Cùng với lịch sử, một văn hoá làng Việt Nam đã thực sự hình thành
và in dấu ấn đậm nét lên quá trình phân hoá, biến đổi của CCXH Việt Nam trong suốt
chiều dài lịch sử.
Rõ ràng một cấu trúc xã hội đặc thù, trong đó nông nghiệp luôn gắn chặt với thủ công
nghiệp, làng gắn liền với ruộng đất và nhà - làng - nước luôn hoà quện với nhau trong
một thể hữu cơ, đã tạo nên tính siêu ổn định của xã hội Việt Nam trong lịch sử. Thêm vào
đó, sự nổi trội của nhiệm vụ chống ngoại xâm, chống thiên tai, của truyền thống yêu
nước, thương nòi, của nhu cầu tập hợp, qui tụ theo cộng đồng làng xã…đã làm cho
những biến động CCXH Việt Nam nói chung, biến động CCXH-GC Việt Nam nói riêng,
từ trong chiều sâu của lịch sử, nếu có, cũng thường bị chi phối, bị “điều tiết lại” một
cách mạnh mẽ bởi các quan hệ “ ngoài giai cấp”.
Có một thực tế là, ở nước ta, tuy trong xã hội vẫn luôn xảy ra tình trạng phân hoá giàu
nghèo, phân chia đẳng cấp hay giai cấp, nhưng thường là không rõ ràng, thiếu triệt để.
Quan hệ giữa các giai tầng ở Việt Nam luôn vừa chứa đựng những mâu thuẫn, vừa có


những tương đồng; tính chất đối kháng thường ít gay gắt, ít quyết liệt như ở nhiều nước
khác. Mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn xã hội, do đó, ít khi đạt đến đỉnh điểm. Tình hình
ấy, trong một chừng mực nhất định, đã góp phần tạo ra một cách tự nhiên những nhân tố
bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội ở nước ta suốt chiều dài lịch sử. Và cũng trên một ý
nghĩa nào đấy, có thể và cần phải coi đặc điểm trên đây như là một trong những căn cứ để
hoạch định chính sách xã hội hiện nay. Chính vì thế, trong một báo cáo mới đây, Bộ lao
động thương binh và Xã hội đã đưa ra một dự án: Trong tổng số 12 nghìn tỷ đồng Việt
nam sẽ huy động vào vốn xoá đói giảm nghèo từ nay đến năm 2000, thì dựa vào ngân
sách nhà nước 4000 tỷ (38.1%), quĩ trong dân 1600 tỷ (14%), phối hợp với các chương
trình 1000 tỷ (8.9%) ngân hàng phục vụ người nghèo 3000 tỷ (26.5%) trong khi đó chỉ có
1300 tỷ ( 11.5%) là dựa vào vốn hợp tác quốc tế [98,35].

Tuy nhiên, không thể không thấy rằng, nhiều nhân tố trong kết cấu và phương thức tồn
tại của làng xã Việt Nam cổ truyền đã góp phần làm chậm lại nhịp độ biến thái tự nhiên
của CCXH-GC trong lịch sử.
Như chúng ta đã biết, cơ sở kinh tế của làng xã là một nền sản xuất tiểu nông được duy
trì lâu dài trong lịch sử với việc chia lại đất đai theo định kỳ (trước hết dựa vào nguyên
tắc bình quân) cho các thành viên trong làng xã và giữ vững tập tục công hữu hoá trở lại
một phần ruộng tư dưới nhiều hình thức khác nhau ( ruộng chùa, ruộng họ, ruông kỵ,
ruộng hậu, ruộng phạt sung công …). Điều đó làm cho ruộng công ngày càng tăng, và
trên thực tế, mãi đến đầu thế kỷ XIX, trước cuộc xâm lược của Pháp, sau gần một thế kỷ
của cuộc chiến tranh nông dân, cơ sở kinh tế của xã hội Việt Nam cổ truyền vẫn là chế độ
ruộng công, nguồn thu nhập chủ yếu của nhà nước phong kiến Việt Nam vẫn từ ruộng
công [69,84]. Chính cái “ chế độ kinh tế ruộng công – bình quân” này, tuy có góp phần


vào việc làm “bình ổn” xã hội nhưng lại làm giảm thiểu vai trò quyết định của nhân tố
kinh tế, do đó, dễ tạo ra sức ỳ, khuynh hướng bảo thủ, trì trệ của xã hội.
Tư tưởng làng xã do phương thức tồn tại khép kín của nó quy định mà về bản chất là
cục bộ. Trên thực tế, mỗi làng xã trở thành một “vương quốc” tương đối độc lập với nhau
và với nhà nước trung ương bởi những hương ước, luật lệ riêng. Phân công lao động xã
hội, một yếu tố cực kỳ quan trọng thúc đẩy quá trình phân hoá giai cấp, do đó mà không
phát triển được. Đây chính là điều kiện thuận lợi để mỗi khi nhà nước suy vi hoặc đang
trong thời kỳ chuyển đổi có tính chất bước ngoặt, bộ máy quan chức của làng có thể lợi
dụng nhằm bòn rút nhân dân bằng cách đẩy làng đối lập với nhà nước, coi tục là luật,
theo một cung cách Việt Nam điển hình, trọng tục lệ hơn pháp luật [91,58]. Thực tế cho
thấy, khắc phục tình trạng này hiện nay vẫn là một vấn đề xã hội nan giải.
Với cách nhìn ấy, chúng tôi cho rằng, tình hình không ổn định tại một số địa phương ở
tỉnh Thái Bình và một vài nơi khác vừa qua, ngoài những nguyên nhân đã được đề cập,
thì cần phải tính đến những sức cản do chính phương thức tồn tại khép kín của mô hình
làng xã cổ truyền đưa lại. và, chỉ khi ấy chúng ta mới thấy hết được cội nguồn cùng sứ
mệnh khó khăn nhưng hết sức thiết thực của “Qui chế thực hiện dân chủ ở cơ sở” mà

Chính phủ vừa mới ban hành đối với việc khôi phục quĩ đạo biến thái tự nhiên của
CCXH-GC ở nước ta theo định hướng XHCN.
Có thể nói, quá trình phát triển của xã hội Việt Nam trong lịch sử là quá trình phát triển
trên cái trục cơ bản của kinh tế tiểu nông và mô hình làng xã. Đó chính là một trong
những ngọn nguồn của những dấu ấn phương Đông mà chúng ta phải tính đến (theo cả
hai nghĩa tích cực và hạn chế của nó) trong quá trình đổi mới CCXH-GC hiện nay.
Đặc điểm thứ hai: Những biến động luôn bị chi phối bởi các qui luật chiến tranh.


Từ nửa cuối thế kỷ XIX cho đến những năm 80 của thập kỷ XX, Đông Nam Á là khu
vực luôn có những biến động lớn, sâu sắc. Các nước trong khu vực, vốn đều từ một xã
hội phong kiến đang khủng hoảng sâu sắc và sớm trở thành thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân, bằng những con đường riêng của mình, qua hơn một thế kỷ đấu tranh và lao động
quên mình, đã góp sức biến Đông Nam Á thành một khu vực phát triển năng động của
thế giới.
Song, cái giá mà nhân dân các nước trong khu vực phải trả (nhất là trong các cuộc
chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc) để có được thành quả ấy là rất lớn. Và, chính
sự tác động, xô đẩy, níu kéo thường xuyên của các cuộc chiến tranh trong thời kỳ này đã
làm cho quá trình vận động của xã hội Việt Nam luôn diễn ra một cách không bình
thường. luôn bị chi phối bởi các qui luật chiến tranh, do đó, là một đặc điểm nổi bật của
biến động CCXH-GC trong quá trình phát triển của lịch sử Việt Nam hiện đại.
Bằng cuộc xâm lược của mình, thực dân Pháp đã gây ra những đảo lộn to lớn trong
đời sống kinh tế-chính trị - xã hội ở Việt Nam. Nhưng, nếu như giai cấp tư sản Anh đã
làm nên một cuộc cách mạng thực sự ở Ấn Độ, thì giai cấp tư sản Pháp lại góp phần chủ
yếu biến Việt Nam thành xã hội thực dân nửa phong kiến, mà tính chất cơ bản của nó là
cải lương, hỗn tạp và trì trệ. Đó chính là kết quả tất yếu của sự kết hợp làm một cái bản
chất ăn bám, cho vay nặng lãi của giai cấp tư sản Pháp với những đặc điểm phản phát
triển của kết cấu làng xã cổ truyền Việt Nam.
Bản chất ăn bám và cho vay nặng lãi của giai cấp tư sản Pháp có căn nguyên lịch
sử của nó. Nhưng, điều quan trọng hơn cả là đứng trước một nền chính trị hết sức không

ổn định ở chính quốc - mà theo thống kê thì từ tháng 1 năm 1870 đến tháng 6 năm 1940
đã có tới 70 lần thay đổi chính phủ [68,35] – nên khác với giai cấp tư sản Anh, giai cấp tư


sản Pháp đã không dám đầu tư lớn và lâu dài vào các nước thuộc địa mà “chỉ chăm chăm
giữ rịt sự độc quyền của một nền kinh tế có qui mô không to lớn, tìm kiếm những nguồn
lợi nhuận ăn bám hơn là phát triển cho ra trò” [4,32].
Theo đó, ở phương Đông, giai cấp tư sản Pháp lấy xuất khẩu tư bản để kinh doanh
thương mại là chính, đồng thời tìm mọi cách duy trì gần như nguyên vẹn thiết chế làng xã
phong kiến, biến nó thành nơi cho vay nặng lãi, thành những “ nước cộng hoà nhỏ” phải
cống nộp cho chính quyền bảo hộ. Trên thực tế, ở Việt Nam, giai cấp tư sản Pháp đã
không tìm kiếm sự hậu thuẫn từ bất cứ một lực lượng xã hội mới nào, kể cả giai cấp tư
sản dân tộc, mà dựa hẳn vào giai cấp phong kiến địa chủ đã được quan lại hoá. Vì vậy,
xã hội Việt Nam dưới thời thuộc Pháp, xét dưới góc độ cơ cấu giai tầng, tuy đã có những
biến đổi (với sự xuất hiện của giai cấp công nhân, tư sản, tiểu tư sản…), nhưng động lực
thực sự của những biến đổi ấy chưa phải được tạo ra bởi quá trình vận động của những
nhân tố nội tại, tự nhiên của xã hội, mà chủ yếu là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai
thác, cai trị thuộc địa mang nặng tính chất bóc lột nguyên thuỷ của giai cấp tư sản Pháp.
Chính vì vậy, những biến đổi CCXH-GC ở nước ta thời kỳ này vừa mang tính cải lương,
hỗn tạp, vừa mang tính trì trệ và manh mún, ít có những biến động. Thật là một nghịch lý
khi một đất nước do giai cấp tư sản thống trị, mà theo thống kê năm 1954, ở miền Bắc chỉ
có 2 nghìn nhà tư sản, với số vốn cộng lại không đủ để xây dựng nhà máy Trung quy mô
Hà Nội [83,13].
Sau kháng chiến chống pháp, do những vận động phức tạp của lịch sử đưa lại, không
có sự lựa chọn nào khác, chúng ta lại phải tiếp tục tiến hành các cuộc chiến tranh chính
nghĩa để giải phóng và bảo vệ tổ quốc. Thực tiễn lịch sử cho thấy, các cuộc chiến tranh


ấy, đặc biệt là cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đã in đậm dấu ấn lên những biến
động CCXH-GC ở nước ta.

- Xâm lược miền Nam, đế quốc Mỹ muốn tiêu diệt phong trào cách mạng giải phóng
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, biến nơi đây thành một căn cứ quân sự hòng ngăn
chặn ảnh hưởng của CNXH ở khu vực Đông Nam Á. Theo đó, cùng lúc, chúng vừa tiến
hành cuộc chiến tranh tàn bạo nhất, vừa đổ tiền của để xây dựng một chế độ thuộc địa
kiểu mới điển hình làm dinh luỹ chống cộng sản.
Ở thành thị khác thời thuộc Pháp, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các yếu tố
TBCN trong các ngành kinh tế, một CCXH-GC theo khuynh hướng TBCH với thành
phần bao gồm các giai cấp: tư sản, tiểu tư sản, công nhân và nhân dân lao động đã nhanh
chóng được xác lập [81,48]. Đáng lưu ý là giai cấp tư sản ở đây đã phát triển nhanh
chóng cả về số lượng, thế lực, kinh tế, chính trị. Tính đến năm 1975, ở miền Nam đã có
tới 20 ngàn nhà tư sản, với 12 ngàn xí nghiệp, trong đó có 11 xí nghiệp có từ 1 ngàn công
nhân trở lên. Đặc biệt, tầng lớp tư sản quan liêu, quân phiệt ( bao gồm các quan chức
chính quyền và tướng lĩnh, sĩ quan quân đội) ngày càng đông, thế lực ngày càng lớn.
Theo thống kê, có 18/25 quan chức cao cấp và hơn một trăm trong số 228 nghị sĩ quốc
hội của chính quyền Nguyễn văn Thiệu là tư sản mại bản [13,175-181]. Phương thức làm
giàu chủ yếu của giai cấp tư sản miền Nam cũng là từ chiến tranh, thông qua buôn lậu,
gian lận thương mại, tham nhũng và nhập khẩu hàng hoá Mỹ. Chính vì vậy, khi Mỹ thay
đổi chính sách viện trợ, đặc biệt là khi chiến tranh kết thúc, như thực tế cho thấy, giai cấp
tư sản ở miền Nam đã tan rã một cách nhanh chóng, ngay cả trước khi chúng ta tiến
hành cải tạo tư bản công thương.


×