Chương 1
BẢN CHẤT PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRONG NHÂN CÁCH
SĨ QUAN TRẺ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. Quan niệm phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ Quân
đội nhân dân Việt Nam
1.1.1. Quan niệm giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ
Giá trị, giá trị văn hoá
Khái niệm giá trị có lịch sử lâu đời, xuất hiện trong triết học cổ đại. Từ thế kỷ
XIX trở đi khái niệm giá trị trở thành khái niệm trung tâm của giá trị học. Tới nay,
khái niệm giá trị được sử dụng rộng rãi trong nhiều bộ môn khoa học xã hội và
nhân văn. Tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà ở mỗi bộ môn khoa học, khái niệm giá
trị có nội hàm riêng với mức độ rộng, hẹp khác nhau và theo đó là các cách phân
loại khác nhau.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, giá trị là cái được xác định có ích, có hiệu quả trong
cuộc sống vật chất và tinh thần [130, tr.725].
Giá trị bao giờ cũng gắn với con người và hoạt động sống của họ, gắn với nhu
cầu của con người thông qua quan hệ giữa con người và đối tượng. Như vậy, giá
trị là cái có ích, là tất cả những gì đem lại sự tiến bộ của con người, xã hội.
Từ góc độ triết học - xã hội học, khái niệm giá trị được đề cập ở một số phương
diện chủ yếu sau.
Một là, giá trị là phạm trù riêng vốn có của loài người, tồn tại gắn với hoạt động
sống của con người, là cái đem lại lợi ích cho con người. Giá trị và độ bền vững của
nó phụ thuộc vào khả năng chúng thoả mãn những nhu cầu, lợi ích của số đông người
trong cộng đồng hay tập đoàn xã hội nhất định.
Hai là, giá trị luôn mang tính khách quan. Sự xuất hiện tồn tại hay mất đi của
một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người với tư
cách là chủ thể trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng đó.
Ba là, giá trị có tính lịch sử, cụ thể và tính thực tiễn, được hình thành trong hoạt
động và thông qua hoạt động sống của con người. Mỗi một hình thái kinh tế - xã
hội có hệ thống thang giá trị nhất định. Sự tiếp nhận của cá nhân cũng như cộng
đồng xã hội đối với hệ thống và các thang bậc giá trị ấy là điều kiện hình thành,
phát triển nhân cách, là cơ sở duy trì trật tự xã hội.
Bốn là, trong mọi giá trị đều chứa đựng yếu tố nhận thức, yếu tố tình cảm, thái
độ và yếu tố hành vi của chủ thể trong mối quan hệ với sự vật hiện tượng mang giá
trị, đồng thời thể hiện sự lựa chọn và đánh giá của chủ thể. Vì vậy, trong xã hội có
giai cấp giá trị bao giờ cũng mang tính chính trị giai cấp. Quan điểm chính trị của
các cá nhân, cộng đồng, giai cấp khác nhau chi phối sâu sắc tới quan niệm giá trị
và định hướng giá trị.
Giá trị tồn tại phong phú, đa dạng. Tuỳ theo mục đích tiếp cận và dựa trên những
căn cứ khác nhau mà có các cách phân loại giá trị khác nhau. Tiếp cận giá trị từ
một lĩnh vực hoạt động sáng tạo của con người (hoạt động tinh thần) luận án đi sâu
nghiên cứu một loại hình giá trị – giá trị văn hoá.
Giá trị văn hoá là phạm trù được sử dụng khá phổ biến, thông thường nó được
hiểu là sản phẩm của các hình thái sinh hoạt tinh thần trong điều kiện vật chất
nhất định do xã hội tạo ra, gắn với một phương thức sản xuất nhất định trong lịch
sử. Đó là “giá trị cao quý nhất, đẹp đẽ nhất, cái mùi, cái vị, cái hương, cái thơ của
đời sống” [30, tr.133]; hay rộng hơn, đó là “những tư tưởng, những quan niệm,
những ý niệm, những thành tựu văn hoá đã có tác dụng thúc đẩy sự đi lên của lịch
sử và phục vụ cho lợi ích và nhu cầu của nhân dân, đất nước” [103, tr.138].
Sự định vị nội hàm GTVH để từ đó đưa ra một quan niệm khả dĩ có thể chấp nhận
được về nó, phụ thuộc vào nhận thức và hướng tiếp cận khác nhau về văn hoá.
Theo từ điển Triết học và đại từ điển tiếng Việt, văn hoá là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử của mình
[130, tr.1796].
Định nghĩa văn hoá theo cấu trúc, gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh
với tư cách là một thành viên của xã hội, GTVH được hiểu là những thành tựu con
người đạt được trong hoạt động sống và thông qua hoạt động sống, nhằm thích ứng
những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn.
Định nghĩa văn hoá theo chức năng: “là phương thức điều chỉnh và tự nhận thức
của nhân loại” (M.Epstein); là “tiêu chuẩn cơ bản của sự tiến bộ” (E.P.Claelysher)…
[97, tr.182], thì GTVH là cái thúc đẩy sự phát triển con người, xã hội theo tiêu chí
chân, thiện, mỹ, đảm bảo cho sự tiến bộ xã hội.
Tiếp cận văn hoá dưới góc độ hoạt động sáng tạo của con người (hoạt động =
sáng tạo = văn hoá) [15, tr.28] nhằm cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo
chính bản thân mình thông qua hệ thống các quan hệ xã hội, GTVH được hiểu như
“những quan hệ xã hội nhằm phát triển con người”.
Tính phức tạp và đa diện của văn hoá đòi hỏi việc xác định nội hàm khái niệm
GTVH phải gắn với những đặc trưng phổ quát, các khía cạnh bản chất của nó,
nghĩa là phải bắt đầu từ quan niệm GTVH theo nghĩa chung nhất. Theo đó, cần
phải có phương pháp tiếp cận chung nhất về văn hoá.
Văn hoá, dù nghiên cứu ở bình diện nào, cấp độ nào cũng gắn với con người và
là sản phẩm của con người trong mối quan hệ tương tác tự nhiên - xã hội trong tiến
trình lịch sử. Văn hoá thể hiện trình độ được vun trồng của con người, của xã
hội… văn hoá là trạng thái của con người ngày càng tách khỏi giới động vật, ngày
càng xoá bỏ những đặc tính của động vật để khẳng định đặc tính của con người
[48, tr.8]. Bản chất của văn hoá bao giờ cũng được thể hiện trong mối quan hệ biện
chứng với bản chất con người - xã hội. Theo nghĩa chung nhất: Văn hoá là sự phát
triển những lực lượng bản chất người theo tiêu chí chân, thiện, mỹ và hiện thực
hoá nó thông qua hoạt động sống của con người trong tiến trình lịch sử [36, tr.6].
Từ cách tiếp cận trên về văn hoá, khi nói GTVH, phải thoả mãn các tiêu chí: thứ
nhất nó phản ánh đặc trưng cơ bản của văn hoá (đặc trưng sáng tạo và nhân văn) và
chức năng ưu trội của văn hoá (chức năng phát triển nhân cách); thứ hai, nó là tổng thể
những sản phẩm (vật chất và tinh thần) phản ánh trình độ phát triển nhất định của xã
hội; thứ ba, GTVH được hình thành và được thể hiện trong hoạt động sáng tạo có ý
nghĩa xã hội của cá nhân và cộng đồng trong tiến trình lịch sử; chỉ số nhân văn của hoạt
động chính là thước đo về mặt văn hoá của giá trị.
Như vậy, giá trị văn hoá là tổng hoà những thành tựu con người đạt được thể hiện
trình độ phát triển lực lượng bản chất NGƯỜI theo tiêu chí chân, thiện, mỹ của mỗi cá
nhân và cộng đồng trong hoạt động sáng tạo có ý nghĩa xã hội.
Để nhận thức bản chất của GTVH phải làm rõ sự tương tác giữa phương thức hoạt
động sản sinh giá trị với ý nghĩa văn hoá của các hoạt động. Một thành tựu (vật chất
hoặc tinh thần) con người đạt được trong hoạt động đều có thể được xem xét dưới
nhiều góc độ khác nhau, mang ý nghĩa độc lập tương đối với nhau. Dưới góc độ văn
hoá, khi nghiên cứu giá trị, phải quan tâm xem xét một sản phẩm của lao động con
người đã được sản xuất, sáng tạo ra như thế nào và góp phần đến mức nào để phát
triển nhân cách của cá nhân, cộng đồng, góp phần đến mức nào tới sự phát triển xã
hội. Do đó, chỉ số nhân văn là tiêu chí đánh giá GTVH của những của cải vật chất và
tinh thần đã được con người sáng tạo ra trong hoạt động.
GTVH tồn tại dưới các dạng khác nhau, vô cùng phong phú. Nếu phân chia theo
lĩnh vực sáng tạo văn hoá, có GTVH vật chất, GTVH tinh thần; phân chia theo thời
gian văn hoá, có GTVH truyền thống, GTVH hiện đại; phân chia theo không gian
văn hoá, có GTVH dân tộc, GTVH nhân loại; phân chia theo chủ thể sáng tạo văn
hoá, có GTVH cá nhân, GTVH cộng đồng v.v... Sự tồn tại đa dạng của GTVH đòi
hỏi trong nghiên cứu cần có phương pháp tiếp cận phù hợp với mục đích nghiên cứu
và hướng vận dụng.
Nhìn chung khi bàn về dạng thức tồn tại của GTVH, các hướng nghiên cứu từ
trước đến nay thường quy nó về hai hình thái cơ bản: GTVH vật thể và GTVH
phi vật thể. Sự phân định như thế chỉ là tương đối, trên thực tế chúng xâm nhập
vào nhau. GTVH vật thể là kết quả quá trình vật thể hoá văn hoá, hàm chứa trong
đó những GTVH phi vật thể. Còn GTVH phi vật thể cũng không thể tồn tại ở đâu
khác ngoài những vật thể mang văn hoá. Mặt khác cũng phải thấy rằng, cả GTVH
vật thể và GTVH phi vật thể đều là kết quả vật thể hoá các lực lượng bản chất của
con người. Con người đã khách thể hoá chính mình trong các thành tựu vật chất và
tinh thần thông qua hoạt động sống trong tiến trình lịch sử. Như vậy, có một hình
thái tồn tại thứ ba của GTVH cần phải được khai thác. Đó là GTVH trong nhân
cách, GTVH kết tinh trong từng con người. Mỗi cá nhân là cái “giá” mang văn
hoá, nhân cách là trung tâm thống nhất hệ GTVH.
Nhân cách và GTVH trong nhân cách
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau, đồng
thời nó cũng là một khái niệm được dùng rộng rãi và phổ biến trong các lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, văn hoá, quân sự... Chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở giải quyết
khoa học mối liên hệ nội tại giữa các khái niệm “con người”, “cá nhân”, “nhân
cách”... coi nhân cách là sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong con
người: “nó xuất phát từ những tiền đề hiện thực và không lúc nào xa rời những tiền
đề ấy. Những tiền đề ấy là con người, không phải những con người trong sự cô lập
ra và sự cứng nhắc tưởng tượng của họ, mà là những con người trong quá trình
phát triển hiện thực của họ dưới những điều kiện nhất định”[ 63, tr.9]. Như vậy,
nhân cách không nảy sinh từ cái phi vật chất và cũng không phải là yếu tố có sẵn
trong cá thể. Nhân cách gắn liền và là sự cô đúc các phẩm chất xã hội của con
người, được hình thành trong cuộc sống, là thước đo mặt xã hội trong sự phát triển
cá thể người trên nền tảng sinh học của nó và được thể hiện thông qua hoạt động
thực tiễn.
Như vậy, nhân cách là tổng hoà các phẩm chất xã hội của cá nhân được hình
thành trong hoạt động và giao tiếp, phản ánh giá trị của cá nhân đó trong cộng
đồng.
Cấu trúc nhân cách gồm các thuộc tính, các yếu tố tác động biện chứng với nhau
tạo thành hệ thống thống nhất các giá trị phản ánh lực lượng bản chất hay trình
độ NGƯỜI của mỗi cá nhân.
GTVH trong nhân cách. Các phẩm chất xã hội được định hình trong cá nhân mỗi
người là sản phẩm của sự kết tinh những GTVH chung (của cộng đồng, xã hội) vào
trong mỗi cá nhân thông qua quá trình văn hoá hoá (nhìn từ phía tác động xã hội)
và nhập thân văn hoá (nhìn từ phía tiếp nhận của chủ thể) trong quá trình trưởng
thành của mỗi cá nhân. Như vậy, nhân cách tự thân nó đã là sự tích hợp hệ các
GTVH. Các GTVH chung (của cộng đồng, xã hội) thông qua quá trình “nội tâm
hoá” của chủ thể, bị chi phối, khúc xạ bởi bản chất, đặc trưng và tính cá thể của
mỗi cá nhân. Sự thống nhất giữa cái xã hội và cái cá nhân tạo nên tính chất, diện
mạo và chiều sâu tinh thần của mỗi người, hình thành hệ giá trị văn hoá trong nhân
cách như là sự định hình bền vững hệ thống các phẩm chất, các thuộc tính, hình
thành cái “bản năng thứ hai” trong mỗi cá nhân, có tác dụng định hướng, điều tiết
và xác lập ý nghĩa văn hoá trong mọi hoạt động của mỗi cá nhân.
Giá trị văn hoá trong nhân cách là tổng hoà các yếu tố tư tưởng, tâm lý, thể
chất, hợp thành hệ giá trị mang tính bền vững, phản ánh trình độ phát triển
nhân cách mỗi cá nhân theo tiêu chí chân, thiện, mỹ, có tác dụng định hướng,
điều tiết và xác lập ý nghĩa văn hoá trong nhận thức và mọi hoạt động của mỗi
cá nhân.
Cần có sự phân biệt nhất định giữa hai khái niệm: GTVH trong nhân cách và giá
trị nhân cách.
Khi nói giá trị nhân cách là muốn nói tới toàn bộ phẩm chất, năng lực, tài và đức,
với tính cách là kết quả sự chuyển hoá hệ giá trị, chuẩn mực chung của cộng đồng, xã
hội vào trong mỗi cá nhân, nó là sản phẩm tác động biện chứng giữa cái chung - cái
riêng, cộng đồng - cá nhân.
Có nhiều cách tiếp cận, và theo đó là nhiều cách xây dựng cấu trúc giá trị nhân
cách. Tựu trung lại, giá trị nhân cách bao gồm hai nhóm cơ bản: nhóm giá trị tư tưởng
tâm lý (bao gồm giá trị chính trị - tư tưởng, giá trị văn hoá, đạo đức, lối sống và giá trị
nghề nghiệp), và nhóm giá trị sinh lý (bao gồm các tố chất sinh học, thể hình, sức
khoẻ). Do vậy, nếu hiểu văn hoá theo nghĩa hẹp thì khái niệm GTVH trong nhân cách
có nội hàm hẹp hơn khái niệm giá trị nhân cách. Bởi ngoài GTVH, trong nhân cách
còn có hệ thống các giá trị khác.
Văn hoá theo nghĩa rộng là biểu hiện của phương thức tồn tại người, là tổng thể
mọi giá trị người, thì hai khái niệm GTVH trong nhân cách và giá trị nhân cách là
tương đồng. Trong trường hợp này, sự phân biệt giữa hai khái niệm nói trên chính
là ở việc xem xét nội dung văn hoá của giá trị nhân cách. Tiêu chí của sự xem xét
ấy là sự định hình trong nội dung giá trị các chỉ số nhân văn, là sự thống nhất giữa
tính có ích với tính chân, thiện, mỹ của giá trị nhân cách. Khi nói GTVH trong
nhân cách có nghĩa là khẳng định giá trị đó ăn sâu vào tư tưởng tâm lý và hoạt
động của cá nhân, trở thành nhu cầu, thuộc tính cá nhân, thành “bản năng thứ hai”
trong mỗi cá nhân, hướng hoạt động của cá nhân theo tiêu chí chân, thiện, mỹ.
Hệ thống GTVH trong nhân cách có cấu trúc rất phức tạp. Tuỳ theo phương
pháp tiếp cận mà có thể đưa ra các cấu trúc khác nhau. Cấu trúc theo hệ thống giá
trị nền tảng, GTVH trong nhân cách bao gồm những giá trị: yêu nước, tự lập tự
cường; ý thức cộng đồng; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức
tính cần cù, sáng tạo; lòng dũng cảm; sự tế nhị trong cư xử, giản dị trong lối sống...
Cấu trúc theo dạng thức hoạt động văn hoá của chủ thể, GTVH trong nhân cách có
thể phân chia thành 3 tiểu hệ thống: hệ thống các giá trị thuộc văn hoá nhận thức,
hệ thống các giá trị thuộc văn hoá quan hệ, ứng xử và hệ thống các giá trị thuộc
văn hoá hoạt động sản xuất vật chất, tinh thần của nhân cách. Cấu trúc theo
phương thức tích hợp và vượt gộp giá trị của chủ thể, GTVH trong nhân cách được
cấu thành bởi 2 hệ giá trị: hệ GTVH cốt lõi, cơ bản, mang tính bền vững và hệ
GTVH mang tính khả biến (luôn có sự bổ sung, phát triển và hoàn thiện).
Các cấu trúc trên về cơ bản bảo đảm tính toàn diện của hệ GTVH trong nhân
cách, từ đó có thể xây dựng được những đặc trưng điển hình của nhân cách con
người mới trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, tiếp cận thực chất là tiến đến đối
tượng, nghiên cứu đối tượng theo cách nào, nhằm mục đích gì. Trên ý nghĩa đó,
hiệu quả của một hướng tiếp cận nào đó phải gắn với mục đích nghiên cứu đối
tượng.
Dưới góc độ triết học, sự hình thành, phát triển GTVH trong nhân cách thông qua
tương tác biện chứng khách quan - chủ quan, khách thể - chủ thể; nó là sản phẩm “nội
hoá” các GTVH chung (của thời đại, dân tộc, giai cấp...) vào nhân cách cá nhân thông
qua quá trình văn hoá hoá. Theo đó, GTVH trong nhân cách được cấu thành như một
hệ thống thống nhất các yếu tố phản ánh sự tác động của các loại hình văn hoá trong
một nền văn hoá nhất định tới nhân cách.
Sự tác động của văn hoá chính trị là nhân tố chính quy định việc hình thành
nhóm GTVH chính trị trong nhân cách; những GTVH phản ánh trình độ phát triển
của nhân cách về tri thức lý luận, tư duy chính trị, sự am hiểu truyền thống chính
trị, niềm tin, lý tưởng và những chuẩn mực chính trị, biểu hiện ở nhận thức, bản
lĩnh cũng như phẩm chất chính trị tư tưởng.
Sự tác động của văn hoá pháp luật, là nhân tố chính quy định việc hình thành
nhóm GTVH pháp luật trong nhân cách; những GTVH thuộc ý thức pháp luật,
năng lực hiểu biết và hành động theo pháp luật, tinh thần trách nhiệm công dân...
Sự tác động của văn hoá đạo đức, là nhân tố chính quy định việc hình thành
nhóm GTVH đạo đức trong nhân cách; những GTVH thuộc ý thức đạo đức, quan
hệ đạo đức, chuẩn mực và hành vi đạo đức, lối sống, nếp sống phản ánh trình độ
phát triển nhân cách về mặt đạo đức.
Sự tác động của văn hoá khoa học, là nhân tố chính quy định việc hình thành
nhóm GTVH khoa học trong nhân cách; những GTVH phản ánh trình độ học vấn,
tri thức khoa học, khả năng tiếp cận và nắm bắt công nghệ mới, khả năng phát hiện,
dự báo, sáng tạo, trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật, kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ.
Sự tác động của văn hoá thẩm mỹ, là nhân tố chính quy định việc hình thành
nhóm GTVH thẩm mỹ trong nhân cách; những GTVH thuộc ý thức và năng lực
thẩm mỹ, phản ánh cái đẹp, cái cao cả trong lao động, giao tiếp, sinh hoạt... thể
hiện năng lực cảm thụ và sáng tạo cái đẹp.
Sự tác động của văn hoá thể chất, là nhân tố chính, hình thành nhóm GTVH thể
chất; những GTVH nói lên sự hoàn thiện của nhân cách về hình thể, sức khoẻ, các
phẩm chất sinh lý…
Các tác động trên đây là nhân tố chính bởi vì, các loại hình văn hoá tác động nói
trên có quan hệ biện chứng thống nhất, phản ánh chất lượng hiện thực của một nền
văn hoá trong một thời điểm lịch sử - cụ thể; chúng cùng tác động tới quá trình
hình thành và phát triển hệ GTVH trong nhân cách thông qua các “kênh”, các
“đường dẫn” văn hoá phong phú, sinh động trong môi trường kinh tế - xã hội. Sự
phân định các GTVH và các nhóm GTVH như trên chỉ là tương đối. Tính chỉnh
thể, thống nhất của các loại hình văn hoá tác động quy định quan hệ tương tác biện
chứng giữa các giá trị và nhóm GTVH trong nhân cách. Sự thống nhất giữa các
nhóm giá trị càng cao thì chất lượng văn hoá nhân cách càng lớn. Trong hệ giá trị
nhân cách, có thể có một giá trị nào đó phát triển ưu trội, điều đó hoàn toàn khách
quan, tuỳ thuộc vào vị trí, vai trò của mỗi cá nhân trong tổ chức xã hội, trong đặc
thù nghề nghiệp hay phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, sự tuyệt đối hoá hay
phát triển quá thiên lệch một giá trị nào đó, tách rời hoặc đối lập nó với hệ giá trị
khác sẽ dẫn đến sự phân chia nhân cách, thậm chí dẫn đến sự tha hoá nhân cách.
Theo đó, trình độ pháp luật của nhân cách chỉ được nhìn nhận như một GTVH khi
nó gắn với chính trị, không xa rời mục tiêu chính trị cách mạng, khi nó xâm nhập
sâu sắc với các chuẩn mực đạo đức, trên cơ sở khoa học và được biểu hiện ở cái
đẹp, cái cao cả của hành vi trong mọi hoạt động. Cũng như vậy, trình độ chính trị
tư tưởng của nhân cách chỉ được nhìn nhận như một GTVH khi nó gắn với tiêu chí
chân, thiện, mỹ, được soi sáng bằng chuẩn mực của khoa học, đạo đức, thẩm mỹ
v.v.. Một nhân cách được coi là nhân cách văn hoá, thì hệ giá trị văn hoá trong
nhân cách phải đảm bảo sự thống nhất của các nhóm giá trị nêu trên. Và như vậy,
mục tiêu phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách phải tạo được sự thống nhất
này.
Các GTVH trong nhân cách, trong tính chỉnh thể, cấu thành trình độ
NGƯỜI (hay trình độ văn hoá) của cá nhân. Tuy nhiên, khi nói các GTVH trong
nhân cách, không có nghĩa là các giá trị đó “chìm” trong nhân cách. Sự phân tách
“phần chìm” và “phần nổi” của nhân cách là sự phân tách rất tương đối. GTVH
trong nhân cách phải được đánh giá thông qua hoạt động và ý nghĩa văn hoá của
hoạt động của mỗi cá nhân, phải được nhìn nhận trong quan hệ biện chứng giữa
nội dung và hình thức. Nội dung - “phần chìm” - gồm hệ thống các giá trị văn hoá
được “nội hoá” trong nhân cách, và hình thức - “phần nổi” - gồm toàn bộ hệ thống
hành vi cá nhân, kể cả hành vi nhỏ nhất theo tiêu chí chân, thiện, mỹ, đánh giá
trình độ “ngoại khoá” hệ GTVH trong nhân cách mỗi người thông qua hoạt động
của họ.
Giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ
Nghiên cứu hệ thống các GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ, phải làm rõ đặc
trưng cơ bản, điển hình của nhân cách sĩ quan trẻ về tâm lý, sinh lý, xã hội, đặc
biệt quan hệ giai cấp và địa vị của họ trong hệ thống xã hội.
Sĩ quan trẻ QĐND Việt Nam là bộ phận chủ yếu trong đội ngũ cán bộ quân đội,
có tuổi đời không quá 30, được đào tạo, giao trọng trách chỉ huy, lãnh đạo, quản
lý ở chức vụ chủ yếu cấp phân đội.
Như vậy, sĩ quan trẻ được xác định bởi hai tiêu chí chủ yếu: 1) về sinh học có độ
tuổi từ 30 trở xuống,; 2) về cương vị, chức trách, chủ yếu là lãnh đạo, chỉ huy,
quản lý ở cấp phân đội (từ trung đội đến tiểu đoàn và tương đương). Sĩ quan trẻ là
lực lượng đông đảo trong đội ngũ sĩ quan QĐND Việt Nam, giữ vai trò vị trí quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng quân đội. Sau một thời gian nhất định, một bộ
phận không nhỏ sĩ quan trẻ sẽ giữ trọng trách cao hơn, đảm nhiệm các chức vụ ở
trung, sư đoàn và tương đương.
Với các cương vị đảm nhiệm ở cấp phân đội, sĩ quan trẻ là người trực tiếp tiến
hành lãnh đạo, chỉ huy bộ đội, quản lý con người, vũ khí, phương tiện kỹ thuật,
trực tiếp huấn luyện, giáo dục bộ đội, sẵn sàng chiến đấu, tổ chức chiến đấu khi có
chiến sự xảy ra, trực tiếp tổ chức thực hiện công tác vận động quần chúng, xây
dựng đoàn kết cán binh, đoàn kết quân - dân, tham gia xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc
lập dân tộc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nhân cách sĩ quan trẻ QĐND Việt Nam là tổng hoà những phẩm chất xã hội
của cá nhân sĩ quan trẻ được hình thành trong hoạt động xã hội và thực tiễn hoạt
động quân sự, phản ánh giá trị của người sĩ quan đó.
Nhân cách sĩ quan trẻ được hình thành, phát triển trong hoạt động thực tiễn,
trước hết là thực tiễn chính trị xã hội, trực tiếp là trong thực tiễn quân sự. Đặc điểm
nổi bật của nhân cách sĩ quan trẻ là hệ thống các phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo
đức cách mạng, năng lực chuyên môn nghiệp vụ quân sự, cũng như các tố chất
quân sự của người cán bộ, chỉ huy, lãnh đạo đang được củng cố và từng bước hoàn
thiện; ở họ đang có sự chuyển hoá sâu sắc về khí chất, năng lực, tính cách từ người
học viên – sinh viên, thành cán bộ – sĩ quan trẻ với cương vị, chức trách, nhiệm vụ
mới.
Thứ nhất, sự phát triển của tài năng. Ở sĩ quan trẻ , tài năng đã có bước trưởng
thành khá toàn diện. Biểu hiện ở sự phát triển của năng lực nhận thức, năng lực tư
duy và năng lực sáng tạo. Qua thời gian học tập ở trường sĩ quan, phần lớn sĩ quan
trẻ đã được rèn luyện tư duy lý luận, tư duy biện chứng, tư duy lôgíc; đã tích luỹ
được vốn kiến thức khá toàn diện về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân
văn quân sự, khoa học nghệ thuật quân sự… Đây là cơ sở hình thành ở họ năng lực
suy nghĩ độc lập, năng lực thực hiện nhiệm vụ theo chức trách; chủ động đi sâu,
nghiên cứu khám phá bản chất sự vật, qua đó tiến hành tổ chức, thực hiện nhiệm
vụ một cách khoa học, không sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm. Tuy nhiên, ở họ cũng
dễ xuất hiện khuynh hướng chủ quan, phiến diện, thoát ly hiện thực.
Thứ hai, ý thức về bản thân tăng lên. Ra trường, bước vào lĩnh vực công tác
mới, không gian sinh hoạt mở rộng, thế giới nội tâm ở sĩ quan trẻ có bước chuyển
hoá mạnh mẽ; sự tự ý thức, tự phê bình, tự thể nghiệm, tự kiểm tra, tự khống chế,
tự hoàn thiện… đều bước vào giai đoạn mới; biểu hiện ra hàng loạt những đặc
điểm mới về cá tính, tính cách như lòng tự tin, tính khẳng định, tính hiếu thắng,
lòng tự trọng… tăng lên rõ rệt. Nhưng do sự phát triển tâm lý chưa thực sự thành
thục, kinh nghiệm sống, vốn sống, sự từng trải chưa nhiều, cho nên ở sĩ quan trẻ
thường dễ dẫn đến hai thái cực, hoặc đánh giá mình quá cao, hoặc phát sinh tự ti
trước những sự biến hay khó khăn trong cuộc sống, trong công việc.
Thứ ba, tình cảm, hứng thú ngày càng phong phú. Bước vào thực hiện các
cương vị, chức trách mới, các mối quan hệ xã hội của sĩ quan trẻ ngày càng tăng
lên và đa dạng hơn. Thông qua tiếp xúc, kết giao với cán bộ, chiến sĩ ở các độ tuổi
khác nhau, tình cảm của sĩ quan trẻ nhanh chóng phát triển, các mặt nhận thức,
quan hệ xã hội, nghệ thuật giao tiếp, quan niệm thẩm mỹ tăng lên rõ rệt. Sự khát
khao khẳng định mình, khẳng định vốn kiến thức của mình đã thu nhận được ở
trường vào thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, chức trách, hình thành ở mỗi người lòng
nhiệt tình, say mê và chí tiến thủ. Tuy nhiên, đây cũng là một trong những lý do
dẫn đến ở sĩ quan trẻ bộc lộ tính phân cực về tâm lý; có khi biểu hiện nhiệt tình
phấn đấu và lý tưởng, tinh thần trách nhiệm, sự say mê, nhưng có lúc lại dễ nản
chí, đặc biệt trước những thất bại trong công việc…
Những đặc điểm về tâm lý nhân cách quy định đặc trưng điển hình và tính đặc
thù hệ GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ.
Giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ là tổng hoà các yếu tố tư tưởng, tâm
lý, thể chất được hình thành chủ yếu và trực tiếp thông qua quá trình giáo dục đào tạo trong các trường sĩ quan và được hoàn thiện trong thực tiễn hoạt động
quân sự ở các đơn vị cơ sở, hợp thành hệ giá trị mang tính bền vững, phản ánh
trình độ phát triển nhân cách sĩ quan trẻ theo tiêu chí chân, thiện, mỹ, có tác dụng
định hướng, điều tiết và xác lập ý nghĩa văn hoá trong nhận thức và hoạt động của
họ.
GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ không phải là giá trị tự thân hay kết quả của
sự phản ánh thụ động, đơn lẻ các giá trị xã hội. Trái lại, đó là kết quả của tổng thể
các tác động xã hội (cả tự phát và tự giác) kết hợp với hoạt động tích cực của cá
nhân sĩ quan trẻ thông qua quá trình tự giáo dục trong môi trường quân đội và hoạt
động quân sự, được thực hiện bởi cơ chế truyền thụ và tiếp nhận kinh nghiệm xã
hội lịch sử từ thế hệ trước cho thế hệ sau.
Như vậy, GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ là sản phẩm của hai quá trình thống
nhất: quá trình nội hoá các định chuẩn của hoạt động thành phẩm chất, bản lĩnh, nhu
cầu, thuộc tính cá nhân, thành “bản năng thứ hai” trong cá nhân sĩ quan trẻ và quá
trình ngoại hoá các lực lượng bản chất người trong hoạt động.
Về mặt cấu trúc, hệ thống các GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ không tách rời
những giá trị nhân cách con người mới XHCN, nhân cách con người Việt Nam
hiện đại, bao gồm tổng hoà các nhóm: GTVH chính trị, GTVH pháp luật, GTVH
đạo đức, GTVH khoa học, GTVH thẩm mỹ và GTVH thể chất; thể hiện ở sự “phát
triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý
thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng tình nghĩa, lối sống có văn
hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng xã hội” [21, tr.114]. Đồng thời, là
một quân nhân, một cán bộ trong QĐND Việt Nam, GTVH trong nhân cách sĩ
quan trẻ quy tụ những GTVH truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”: Trung với Đảng, hiếu
với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH,
nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng; với những đặc trưng chủ yếu phản ánh sự kết tinh với chất lượng cao của hệ
chuẩn chân, thiện, mỹ:
Đó là những chiến sĩ có lý tưởng, một lòng, một dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân; với đồng đội, đồng chí đoàn kết thương yêu nhau như ruột thịt, đồng
cam, cộng khổ, “giúp nhau lúc thường cũng như lúc ra trận”; với nhân dân nghĩa
nặng, tình sâu, quân với dân như cá với nước, tôn trọng dân, học tập dân, bảo vệ
dân, giúp đỡ dân, cùng dân đánh giặc; với bản thân giản dị, trung thực, chịu đựng
gian khổ, khắc phục khó khăn; với nhiệm vụ trách nhiệm cao, hy sinh dũng cảm,
kỷ luật nghiêm… [25].
Đặc trưng GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ
Hiện nay, trong quân đội ta có bốn thế hệ sĩ quan kế tiếp nhau. Thế hệ thứ nhất
là những sĩ quan đã chiến đấu và trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp; thế
hệ thứ hai, trong chống Mỹ; thế hệ thứ ba, trong bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía
Bắc và Tây Nam. Thế hệ thứ tư (sĩ quan trẻ), chủ yếu được sinh ra vào những năm
đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XX, lớn lên khi đất nước đã hoàn toàn giải phóng,
trưởng thành trong điều kiện đất nước bước vào công cuộc đổi mới; được giáo dục,
rèn luyện trong QĐND Việt Nam vốn có truyền thống tốt đẹp được tôi luyện qua
gần 60 năm trưởng thành và phát triển... Nhân cách sĩ quan trẻ có điều kiện phát
triển khá thuận lợi, đồng thời họ cũng chịu sự tác động từ nhiều phía của những
biến đổi xã hội trong quá trình đổi mới. Điều đó quy định những biểu hiện đặc thù
của hệ GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ cả về định hướng nội dung và trình độ
phát triển.
- Những giá trị thuộc văn hoá chính trị: Sĩ quan trẻ có khả năng tiếp nhận khá
nhanh những kiến thức khoa học xã hội và nhân văn quân sự; trình độ tri thức lý
luận và tư duy chính trị bước đầu hình thành. Phần lớn sĩ quan trẻ đã thể hiện được
năng lực trong tổ chức và tham gia một số dạng hoạt động chính trị tư tưởng,
nhưng do thiếu từng trải thực tiễn, vốn kinh nghiệm chưa nhiều nên còn những hạn
chế nhất định trong thực tiễn công tác tư tưởng. Bản lĩnh chính trị ở phần đông sĩ
quan trẻ đã được hình thành và phát triển nhưng chưa thực sự vững chắc. So với sĩ
quan trẻ ở khối chỉ huy và chuyên môn kỹ thuật, thì GTVH chính trị ở sĩ quan
chính trị cấp phân đội phát triển đồng đều hơn và có những ưu trội. Nhưng nhìn
chung, so với các sĩ quan trung, cao cấp trong quân đội, những GTVH chính trị ở
sĩ quan trẻ còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải thường xuyên định hướng và tiếp tục
bồi dưỡng.
- Những giá trị thuộc văn hoá pháp luật. Sĩ quan trẻ chủ yếu được đào tạo cơ
bản trong các nhà trường quân đội; những kiến thức về pháp luật, tinh thần trách
nhiệm công dân, trách nhiệm sĩ quan, đặc biệt ý thức pháp luật, tinh thần chấp
hành kỷ luật khá nghiêm túc, chặt chẽ. Phần đông sĩ quan trẻ có ý thức sống và làm
việc theo pháp luật, lấy quy phạm pháp luật để chế ước hành vi, xử lý các quan hệ
xã hội, các quan hệ trong tập thể quân nhân. Tuy nhiên, do đặc điểm tâm lý, lứa
tuổi, sự trải nghiệm xã hội chưa nhiều, nên sĩ quan trẻ trong xử lý những tình
huống quy phạm pháp luật thường thiếu kinh nghiệm, tỏ ra lúng túng, thậm chí hấp
tấp, nóng nảy; thiếu năng lực thích ứng khi phải ứng biến với các tình huống trong
quan hệ và hoạt động. Ý thức pháp luật và năng lực pháp lý của nhân cách chỉ thực
sự trở thành GTVH khi có sự xâm nhập sâu sắc với đạo đức, bởi pháp luật là “đạo
đức tối thiểu” và đạo đức là “pháp luật tối đa”. Xu thế trên ở đội ngũ sĩ quan trẻ
vừa có ý nghĩa tích cực, đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần định hướng trong
phát triển GTVH pháp luật.
- Những giá trị thuộc văn hoá đạo đức. Nét nổi bật trong GTVH đạo đức ở sĩ
quan trẻ là tính không điều hoà với những quan niệm đạo đức lỗi thời, lạc hậu và
khả năng hoà nhập nhanh với những giá trị đạo đức mới đang hình thành. Tuy
nhiên, do tính thích nghi nhanh, ham muốn khám phá tìm tòi những chuẩn mực
mới vượt thoát khỏi khuôn mẫu đạo đức cổ truyền, nhưng do đặc điểm lứa tuổi và
tính cách, lại thiếu trải nghiệm cuộc sống nên sĩ quan trẻ dễ dẫn đến thái độ cực
đoan trong nhận thức, đánh giá một số giá trị đạo đức truyền thống, đồng thời cũng
rất dễ ngộ nhận, tiếp nhận một cách chủ quan, thiếu chọn lọc những quan niệm đạo
đức mới nảy sinh trong điều kiện kinh tế thị trường; có biểu hiện đơn giản, hời hợt
trong đánh giá, thẩm định giá trị và các chuẩn mực đạo đức. Thậm chí ở họ, đôi
khi còn thể hiện sự mất cân đối hay “xung đột” cục bộ giữa ý thức và hành vi đạo
đức, giữa lý tưởng và thực tiễn đạo đức. Điều đó phản ánh trình độ phát triển các
GTVH đạo đức ở sĩ quan trẻ so với các thế hệ sĩ quan đi trước chưa đồng đều,
thiếu ổn định.
- Những giá trị thuộc văn hoá khoa học. Sĩ quan trẻ có sự phát triển nhanh và
đồng đều về trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp; trình độ tư duy khá nhạy bén,
năng động, giàu tính sáng tạo; trọng học thức, say mê khám phá, tìm tòi cái mới;
linh hoạt trong tiếp nhận và xử lý thông tin khoa học... Điều đó thể hiện sự phát
triển ưu trội về giá trị này ở đội ngũ sĩ quan trẻ so với các thế hệ sĩ quan trước đó.
Tuy nhiên, ở sĩ quan trẻ thường bộc lộ những hạn chế về năng lực ứng dụng, thao
tác thực tế và khả năng sử dụng tri thức một cách linh hoạt nhằm ứng biến trước
những tình thế phức tạp của cuộc sống, nghề nghiệp, trong thực hiện nhiệm vụ,
chức trách.
Một đặc điểm khá phổ biến ở sĩ quan trẻ là tính không đồng đều hay sự thiên
lệch trong phát triển các giá trị thuộc văn hoá khoa học, trong thứ tự ưu tiên giữa
khối lượng kiến thức thuộc khoa học xã hội và nhân văn quân sự so với các kiến
thức khoa học tự nhiên, khoa học - kỹ thuật quân sự. Đây cũng chính là đặc điểm
phản ánh hạn chế về tầm rộng của nhận thức các vấn đề xã hội và chiều sâu của tư
duy lý luận ở đội ngũ sĩ quan trẻ so với các sĩ quan trung, cao cấp trong quân đội.
- Những giá trị thuộc văn hoá thẩm mỹ. GTVH thẩm mỹ biểu hiện tập trung ở ý
thức thẩm mỹ và năng lực hoạt động thẩm mỹ.
Nét nổi bật trong ý thức thẩm mỹ của sĩ quan trẻ là đang trong quá trình phát
triển mạnh của cảm xúc, nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ. Điều đó phản ánh sự phát
triển ý thức thẩm mỹ chủ yếu ở cấp độ tâm lý xã hội. Tuy nhiên, biểu hiện cao nhất
của ý thức thẩm mỹ là lý tưởng thẩm mỹ. Sự phát triển lý tưởng thẩm mỹ và tính
thống nhất lý tưởng chính trị, đạo đức, thẩm mỹ ở mỗi người có được thông qua
quá trình giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện trong thực tiễn cách mạng. Ở đội ngũ sĩ
quan trẻ, lý tưởng thẩm mỹ đã bước đầu định hình song chưa vững chắc.
Về năng lực thẩm mỹ, ở sĩ quan trẻ những đặc điểm về tâm sinh lý, lứa tuổi...
giúp cho họ có tri giác thẩm mỹ phát triển, mỹ cảm và thị hiếu thẩm mỹ tinh tế,
nhạy cảm, đây là cơ sở quan trọng cho sự phát triển năng lực thẩm mỹ. Tuy nhiên,
đó mới chỉ là điều kiện đầu tiên của văn hoá thẩm mỹ ở mỗi người. Sự phát triển
GTVH thẩm mỹ phụ thuộc rất lớn vào mức độ phong phú của kinh nghiệm cá nhân
và tính tích cực của chủ thể. Sự thiếu trải nghiệm cuộc sống ở sĩ quan trẻ so với
các thế hệ sĩ quan đi trước cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến ở sĩ quan
trẻ có biểu hiện mất cân đối và thiếu nhất quán giữa các yếu tố cấu thành ý thức
thẩm mỹ, giữa ý thức thẩm mỹ với năng lực và hành vi hoạt động thẩm mỹ, giữa
năng lực cảm thụ với khả năng sáng tạo thẩm mỹ. Định hướng phát triển thẩm mỹ
cho đội ngũ sĩ quan trẻ - do vậy - phải đảm bảo tính thống nhất cao của các phương
diện cấu thành văn hoá thẩm mỹ ở mỗi cá nhân; trên cơ sở phát huy những ưu trội
về tính cách, khí chất, thị hiếu cá nhân, cần xây dựng các quan điểm và thị hiếu
lành mạnh, phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ cộng sản chủ nghĩa.
Những giá trị thuộc văn hoá thể chất. Đây là đặc trưng nổi bật và mang tính ưu trội
của sĩ quan trẻ so với sĩ quan trung, cao cấp. Có thể nói, lứa tuổi 20 – 30 là giai đoạn
bước ngoặt của mỗi cá nhân về các mặt thể xác và tinh thần, là thời kỳ sĩ quan trẻ đi
vào xã hội và chuẩn bị gánh vác và trọng trách xã hội. Sự phát triển của văn hoá
thể chất đang trong giai đoạn đỉnh cao, có tác dụng mang tính cơ sở cho quá trình
phát triển hệ thống các phẩm chất nhân cách. Thân thể khoẻ mạnh giúp cho sĩ quan
trẻ có khả năng phát huy cao nhất các nhân tố của trí, đức, thẩm mỹ, qua đó góp
phần phát triển toàn diện hệ GTVH trong nhân cách. Sự phát triển của văn hoá thể
chất có cơ sở trực tiếp từ nhân tố di truyền, bẩm sinh và đặc điểm sinh lý lứa tuổi,
mặt khác bị quy định bởi ý thức, thái độ và phương pháp rèn luyện của mỗi cá
nhân. Sĩ quan trẻ là những người được tuyển lựa khá kỹ về mặt thể hình, sức khoẻ,
về các tố chất sinh lý, và đã được rèn luyện thể lực khá chu đáo trong các trường sĩ
quan. Phần lớn có sự phát triển thể chất tốt. Tuy nhiên, điều đó cũng dễ dẫn đến
biểu hiện chủ quan, coi thường sức khoẻ, bệnh tật, xao nhãng rèn luyện. Việc phát
triển GTVH thể chất của sĩ quan trẻ, do vậy, không tách rời việc giáo dục cho họ ý
thức, thái độ, phương pháp rèn luyện thân thể, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi
để mỗi cá nhân phát huy cao nhất ưu thế về sức khoẻ vào những việc hữu ích, qua đó
hoàn thiện GTVH thể chất trong nhân cách.
Trong hoạt động thực tiễn, sĩ quan trẻ thực hiện các chức năng cụ thể khác nhau,
cương vị chức trách, chuyên môn - nghiệp vụ khác nhau và có những đặc thù về
tính chất, đặc điểm hoạt động. Tiếp cận nhân cách từ đặc điểm chức trách, chuyên
môn quân sự, khi nghiên cứu nhân cách sĩ quan trẻ có thể chia thành các loại hình
như: cán bộ chính trị, cán bộ chỉ huy - tham mưu, cán bộ hậu cần - kỹ thuật... Tiếp
cận theo loại hình đơn vị, có sĩ quan trẻ trong các đơn vị chủ lực, cơ quan quân sự
và đơn vị bộ đội địa phương, các khung huấn luyện và khung dự bị động viên, các
học viện, nhà trường, các doanh nghiệp quân đội v.v... Tiếp cận theo nguồn gốc
sinh trưởng, có sĩ quan trẻ sinh ra ở khu vực nông thôn, thành thị, miền núi v.v...
Việc nghiên cứu GTVH trong nhân cách của từng kiểu loại sĩ quan trẻ nói trên đòi
hỏi phải có các công trình nghiên cứu độc lập.
Những đặc trưng điển hình của GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ được khái
quát ở trên, cho phép nhận diện được chất lượng văn hoá của hệ giá trị trong nhân
cách sĩ quan trẻ trong tính chỉnh thể, trong quan hệ giữa cái chung - cái riêng - cái
đặc thù. Đây là những vấn đề có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong đánh giá thực
trạng trình độ phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ QĐND Việt Nam hiện
nay.
1.1.2. Khái niệm và vai trò của phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan
trẻ
Khái niệm phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách sĩ quan trẻ
Phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ là một dạng đặc thù của quá trình
phát triển con người - xã hội. Nghiên cứu sự phát triển GTVH trong nhân cách sĩ
quan trẻ là nghiên cứu sự phát triển nhân cách sĩ quan trẻ thông qua sự vận động từ
thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn các GTVH trong nhân cách
của họ. Tiêu chí đánh giá sự phát triển chính là sự biến đổi cao hơn về chất các
GTVH trong nhân cách, là sự trưởng thành của nhân cách sĩ quan trẻ về văn hoá.
Phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ là quá trình tích hợp, hoàn thiện
và nâng cao các GTVH chung trong nhân cách sĩ quan trẻ, tạo ra sự biến đổi chất
lượng nhân cách họ theo tiêu chí chân, thiện, mỹ, đáp ứng yêu cầu chức trách,
nhiệm vụ người sĩ quan trẻ trong QĐND Việt Nam.
Phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ là quá trình tự giác, tuân theo những
quy luật khách quan, chịu sự chi phối của các điều kiện và nhân tố khách quan; tất cả
hợp thành các “vòng cộng đồng văn hoá”, ở phạm vi, tính chất, cường độ và quy mô
khác nhau, cùng tác động tới quá trình này. Vai trò năng động chủ quan của sĩ quan trẻ
được thể hiện ở chỗ, họ là chủ thể trực tiếp, tích cực tận dụng những tác động khách
quan; tiếp nhận và nội hoá các GTVH chung của cộng đồng, dân tộc, Đảng, quân đội,
hình thành hệ GTVH mang tính bền vững; tạo sự chuyển hoá chất lượng nhân cách
theo tiêu chí chân, thiện, mỹ. Thực chất phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ
biểu hiện trên một số phương diện.
Thứ nhất, phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ bao hàm sự thống
nhất giữa tính liên tục và tính gián đoạn
Sự phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ là một “dòng chảy” liên tục, một
chuỗi những biến đổi không ngừng. Hệ thống các GTVH truyền thống của dân tộc, của
Đảng, của quân đội; các tinh hoa văn hoá nhân loại; các GTVH biểu tượng cho nhân
cách con người Việt Nam hiện đại… cấu thành nền tảng văn hoá, thông qua các kênh
truyền dẫn khác nhau cùng tác động đến sĩ quan trẻ; được sĩ quan trẻ tích hợp (tích luỹ
và dung hợp) theo cơ chế “hướng nội” – cơ chế tiếp nhận giá trị. Tính liên tục của sự
tác động tạo cơ sở khách quan để mỗi sĩ quan trẻ không ngừng chiếm lĩnh hệ giá trị,
chuẩn mực chung, tạo lập những điều kiện bên trong, biến thành nội lực để tự phát
triển. Sự thống nhất giữa tính đa dạng của các phương diện tác động với vai trò tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của sĩ quan trẻ trong tích hợp giá trị là cơ sở để quá
trình phát triển GTVH trong nhân cách của họ diễn ra một cách liên tục.
Tính liên tục của quá trình phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ còn bao hàm
tính gián đoạn, những biến đổi cục bộ, riêng lẻ ở từng bộ phận, từng GTVH. Trạng thái
của quá trình này diễn ra theo trình tự từ từ, liên tục và tiệm tiến. Đối với sĩ quan trẻ,
trong khoảng thời gian từ 6 – 7 năm, từ khi ra trường, nhận công tác, thực hiện nhiệm
vụ theo chức trách và khẳng định mình trong thực tiễn hoạt động; thời kỳ này họ có
những biến đổi rất lớn về tâm, sinh lý. Đây cũng là thời kỳ mà hệ các GTVH trong
nhân cách sĩ quan trẻ có sự biến động khá sâu sắc ở từng giai đoạn. Trong mỗi giai
đoạn phát triển, một số giá trị hoặc nhóm GTVH có những thay đổi nhất định nhưng
chưa tới độ chuyển sang giai đoạn khác thì nó vẫn là nó; điều đó thể hiện tính ổn định
tạm thời hay hình thức “chứng thực” sự tồn tại của nhân cách với một trình độ phát
triển nhất định về chất lượng văn hoá. Các giai đoạn đó chính là những nấc thang của
quá trình phát triển, là điều kiện và tiền đề cho sự phát triển tiếp theo đảm bảo lôgíc
toàn vẹn và tính liên tục.
Thứ hai, sự phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ được thực hiện thông
qua cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa những xu hướng vận động, biến đổi
đối lập nhau, giữa cái cũ và cái mới, cái lạc hậu và cái tiên tiến, cái hợp quy
luật. Trong quá trình phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ, sự chuyển hoá
giữa cái cũ và cái mới được thực hiện trong quan hệ đan xen, xoắn xuýt với nhau
không tách rời. Đây là cuộc đấu tranh hết sức khó khăn, phức tạp, bởi cái cũ không
mất đi dễ dàng, nhanh chóng, nó còn ám ảnh, cản trở sự ra đời của cái mới. Cái
mới ra đời nhưng còn non yếu, ít ỏi; để phát triển nó, phải thông qua vai trò tích
cực của chủ thể. Mặt khác cũng phải thấy rằng, không có cái mới nào ra đời từ hư
vô, nó chỉ có thể có được trên cơ sở kế thừa có chọn lọc và phát triển những mặt,
những yếu tố tích cực của cái cũ. Sự xâm nhập của những giá trị từ cái cũ vào cái
mới trong quá trình phát triển chính là cơ sở hình thành truyền thống, giá trị truyền
thống và thiết lập quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại.
Biện chứng giữa cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển GTVH trong nhân
cách sĩ quan trẻ diễn ra theo phương thức tiếp biến giá trị. Đây là quá trình thống
nhất giữa các hoạt động tiếp nhận, lưu giữ và cải biến giá trị. Tiếp nhận và lưu giữ
GTVH trong nhân cách đảm bảo tính bền vững, tính ổn định tương đối của nhân
cách. Cải biến GTVH đảm bảo nhân cách đứng vững trên hệ GTVH truyền thống
để phát triển. Không có sự cải biến GTVH trên cơ sở cao hơn thì không có sự phát
triển GTVH trong nhân cách.
Cải biến GTVH không phải là xoá bỏ cái cũ, phủ định sạch trơn cái cũ, mà là sự
phủ định biện chứng, sự phủ định có kế thừa, tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp
theo. Sự phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ là kết quả của sự tích hợp
những GTVH truyền thống của mẫu hình nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”, nhân cách sĩ
quan, nhất là sĩ quan trung, cao cấp, lớp cha anh đi trước, cùng những GTVH mới
được hình thành và hoàn thiện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN. Quá trình phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ đã diễn ra sự
phủ định biện chứng một số đặc trưng tiêu biểu cho lối sống phong kiến, tư sản,
đấu tranh loại bỏ những phản giá trị, tiếp tục bổ sung và hoàn thện cái tiên tiến, cái
tiến bộ, thể hiện bản chất cách mạng và nhân đạo của QĐND Việt Nam.
Thứ ba, quá trình phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ không phải theo
con đường thẳng tắp hay vòng tròn khép kín mà theo đường “xoáy ốc”. Khuynh
hướng của sự phát triển là xuyên qua cực đối lập với nó “Từ khẳng định, đến phủ
định – từ phủ định đến “sự thống nhất” với cái bị khẳng định” [56, tr.246]. Đó là
quá trình đi từ chuẩn giá trị đến sự lệch chuẩn hợp lý và thông qua thẩm định, sáng
tạo giá trị, đến chuẩn giá trị cao hơn. Sự phát triển của giá trị đến chỗ dường như
quay trở lại cái ban đầu trên cơ sở cao hơn đánh dấu những nấc thang phát triển
trình độ NGƯỜI của mỗi cá nhân, hay trình độ phát triển GTVH trong nhân cách.
Như vậy, quá trình phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ là quá trình sĩ
quan trẻ vừa khẳng định mình, vừa tự phủ định mình. Để phát triển, mỗi cá nhân
phải tự lựa chọn, thẩm định các GTVH, vượt lên trên những lệch chuẩn hợp lý (sự
phá vỡ nội tại của chuẩn mực và giá trị hiện có chuẩn bị cho sự ra đời của chuẩn
giá trị mới, hợp quy luật) loại bỏ những lệch chuẩn không hợp lý, sự phá vỡ từ
ngoài vào những chuẩn mực và giá trị hiện có, kéo lùi sự phát triển – sự vận động
trái quy luật, phản tiến bộ) định hướng phát triển GTVH mới phù hợp với mô hình
người sĩ quan trẻ, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng quân đội.
Thứ tư, sự phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ diễn ra trong quan hệ
tương tác biện chứng giữa khách quan và chủ quan.
Mối quan hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong phát triển GTVH
trong nhân cách sĩ quan trẻ, trước hết thể hiện ở sự thống nhất giữa sự tác động của
quy luật khách quan và quá trình nhận thức, vận dụng quy luật của các chủ thể mà
trực tiếp nhất là sĩ quan trẻ. Đây là mối liên hệ phản ánh thực chất nguồn gốc động
lực, phương thức và khuynh hướng phát triển của các GTVH trong nhân cách sĩ
quan trẻ. Vì vậy, trình độ, quy mô tốc độ và hiệu quả phát triển GTVH trong nhân
cách sĩ quan trẻ phụ thuộc vào năng lực của các chủ thể quân sự trong nhận thức và
giải quyết mâu thuẫn vốn có bên trong của quá trình phát triển; nhận thức, điều tiết
phương thức chuyển hoá lượng - chất; nhận thức tính tất yếu ra đời của cái mới,
phát hiện hệ những GTVH mới và tạo thuận lợi cho sự tất thắng của các giá trị
mới, cái tiên tiến, cái hợp quy luật; đào thải cái phản giá trị, phản văn hoá, cái lỗi
thời, lạc hậu trong quá trình phát triển.
Mối liên hệ giữa tác động của quy luật khách quan và vai trò chủ quan trong
phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ bao giờ cũng gắn với những hoàn
cảnh cụ thể. Vì vậy, vai trò của con người trong giải quyết đúng đắn mối quan hệ
này còn thể hiện ở năng lực giải quyết quan hệ tương tác giữa điều kiện khách
quan với việc tận dụng điều kiện khách quan. Điều kiện khách quan quy định quá
trình phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ là hệ thống các quan hệ xã hội,
các hình thức hoạt động và các GTVH của mỗi thời đại, mỗi hình thái xã hội cụ
thể; hệ thống các GTVH quân sự, các quan hệ và hình thái hoạt động quân sự hợp
thành những “vòng cộng đồng văn hoá” tác động tới nhân cách. Bản thân các:
“vòng cộng đồng văn hoá” đã bao hàm sự tác động qua lại giữa yếu tố khách quan
với yếu tố chủ quan trong đời sống và hoạt động, và con người có thể thông qua
việc tạo lập, cải biến và tận dụng những điều kiện thuận lợi để định hướng, phát
huy tác dụng của quy luật khách quan.
Mối liên hệ biện chứng giữa khách quan và chủ quan trong phát triển GTVH
trong nhân cách sĩ quan trẻ còn biểu hiện ở sự liên hệ giữa khả năng và hiện thực.
Do vậy, việc phát hiện và chuyển hoá các khả năng khách quan có lợi thành hiện
thực thông qua vai trò năng động chủ quan của đội ngũ sĩ quan trẻ sẽ góp phần
năng động hoá quá trình phát triển. Đây là cơ sở đảm bảo cho quá trình phát triển
GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ không phải là sự sao chép giản đơn những giá
trị chung trên cơ sở của các tác động khách quan, mà là quá trình tiếp nhận có chọn
lọc, mang đặc tính sáng tạo. Đồng thời nó đảm bảo cho quá trình phát triển GTVH
trong nhân cách sĩ quan trẻ thực sự là quá trình phát triển tự thân và mang đậm tính
cá biệt của mỗi cá nhân. Qua đó, những đặc điểm tâm sinh lý cá nhân sĩ quan trẻ,
cái riêng không lặp lại ở mỗi người đã hình thành ở họ “tính cảm giác chủ quan”,
và “sự phong phú của tính cảm giác chủ quan” ở mỗi sĩ quan trẻ tạo ra tính cá biệt,
tính có một không hai trong nhận thức, tiếp nhận, cải biến và phát triển GTVH
trong nhân cách của họ.
Thứ năm, tiêu chí phát triển GTVH trong nhân cách sĩ quan trẻ gắn với trình độ
hoàn thiện chất lượng con người ở họ theo hệ chuẩn chân, thiện, mỹ.
Phát triển GTVH trong nhân cách và nâng cao chất lượng con người sĩ quan trẻ
có quan hệ thống nhất biện chứng. Bởi khi nói chất lượng con người sĩ quan trẻ tức
là nói đến chất lượng hiện thực của tổng hoà các yếu tố tâm lý, tư tưởng và sinh lý,
thể hiện quan hệ khăng khít giữa yếu tố xã hội và yếu tố sinh học trong con người
sĩ quan trẻ. Ở đó, mặt xã hội trong con người sĩ quan trẻ không “lấn át” mặt sinh
vật, mặt tự nhiên. Ngược lại, mặt tự nhiên trong con người sĩ quan trẻ không “chèn
ép” mặt xã hội. Chúng làm môi giới cho nhau, thâm nhập vào nhau, phản ánh lực
lượng bản chất người trong tính hiện thực và in dấu ấn lên toàn bộ hoạt động của
mỗi sĩ quan trẻ từ hành vi nhỏ nhất.
Sự hoàn thiện chất lượng con người sĩ quan trẻ là quá trình tạo ra sự chuyển biến
về chất của tất cả các yếu tố, các thuộc tính có tính quy định về chất của một sĩ
quan trẻ QĐND Việt Nam, nâng nó lên một trình độ mới theo tiêu chí nhân cách
con người mới XHCN và những tiêu chuẩn của người cán bộ quân đội được chỉ ra
trong Nghị quyết số 94-NQ-ĐUQSTƯ của Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Ở đó có
sự kết hợp của tổng hoà các yếu tố phản ánh trình độ phát triển phẩm chất tinh thần
(chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, trí tuệ, thẩm mỹ...); phẩm chất nghề nghiệp
(kỹ năng, kỹ sảo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ quân sự, năng lực tổ chức hoạt
động thực tiễn quân sự...); phẩm chất thể chất (thể lực, sức khoẻ, sự phát triển của
các yếu tố sinh học...). Chất lượng của các phẩm chất trên lại được đo bằng hệ số
văn hoá (hay chỉ số nhân văn) của các giá trị nhân cách.
Như vậy, phát triển GTVH trong nhân cách có quan hệ nhân - quả đối với nâng
cao chất lượng con người sĩ quan trẻ; nó là cơ sở và là tiền đề để nâng cao
chất lượng con người sĩ quan trẻ. Tiêu chí đánh giá trình độ phát triển GTVH
trong nhân cách sĩ quan trẻ là sự hoàn thiện chất lượng con người ở họ theo hệ
chuẩn chân, thiện, mỹ; biểu hiện ở sự thống nhất của tổng hoà các yếu tố sau:
Một là, tính vững chắc của tri thức, niềm tin, lý tưởng chính trị; tính linh hoạt
trong xử lý, giải quyết các quan hệ chính trị và năng lực tiến hành công tác chính
trị trong thực tiễn hoạt động quân sự. Biểu hiện tập trung ở sự tận trung với Đảng,
với Tổ quốc, với lý tưởng XHCN; trình độ phát triển cao của tư tưởng chính trị và
bản lĩnh chính trị của cá nhân sĩ quan trẻ.
Hai là, trình độ phát triển cao của ý thức pháp luật và năng lực pháp lý, tính
mực thước nghiêm cách và tính năng động uyển chuyển trong thực hiện quy chế
pháp lý, trong duy trì và chấp hành kỷ luật của quân đội ở sĩ quan trẻ.
Ba là, sự kết tinh với chất lượng cao của cái thiện trong ý thức đạo đức, quan hệ
và hành vi đạo đức của sĩ quan trẻ. Biểu hiện ở trình độ phát triển cao của nhân
cách về đạo đức theo tiêu chí đạo đức cách mạng của người cán bộ quân đội.
Bốn là, trình độ phát triển cao của tri thức, trí tuệ, chuyên môn nghiệp vụ quân
sự và khả năng sử dụng hệ thống tri thức đó với mục đích nhân văn. Biểu hiện tập
trung ở năng lực của sĩ quan trẻ trong thực hiện nhiệm vụ theo chức trách; ở văn
hoá chỉ huy, văn hoá lãnh đạo.
Năm là, trình độ phát triển của tri giác thẩm mỹ, sự tinh tế của mỹ cảm và thị
hiếu thẩm mỹ, phản ánh sự phát triển cao của nhân cách về ý thức và năng lực
thẩm mỹ. Biểu hiện cụ thể ở việc giải quyết các mối quan hệ và bản thân hoạt động
của mỗi sĩ quan trẻ theo tiêu chuẩn cái đẹp; ở sự vững vàng của họ trong cuộc đấu
tranh với cái phản văn hoá.
Sáu là, sự hài hoà giữa thể hình sức khoẻ với sự phát triển của các giác quan, hệ
thần kinh trung ương… của mỗi cá nhân.
Vai trò của phát triển giá trị văn hoá trong nhân cách với việc nâng cao chất
lượng con người ở sĩ quan trẻ.
Vai trò của phát triển GTVH trong nhân cách đối với chất lượng con người sĩ quan
trẻ được biểu hiện thông qua quan hệ của nó với hệ thống các phẩm chất, năng lực,
toàn bộ hoạt động và ý nghĩa các hoạt động của sĩ quan trẻ.
Phát triển GTVH trong nhân cách với việc nâng cao phẩm chất chính trị tinh
thần của sĩ quan trẻ.
Trong tất cả các phẩm chất hợp thành nhân tố con người sĩ quan trẻ, phẩm chất
chính trị - tinh thần bao giờ cũng giữ vai trò chi phối, định hướng và điều tiết các
phẩm chất khác. V.I.Lênin nói: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi tuỳ
thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”[58, tr.147].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Có tinh thần cách mạng làm trọn
nhiệm vụ thì làm gì cũng có thể trở thành anh hùng được” [74, tr.43].