XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VỀ CHÍNH TRỊ
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Mục lục
Chương 1.
1.1.
1.2.
Chương 2.
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
2.5.
Mở đầu
Đặc điểm, tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ và quá
trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
Đặc điểm, tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ
Quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về
chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
Những bài học kinh nghiệm xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam về chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
Bài học thứ nhất: Thường xuyên
Bài học thứ hai: Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp, toàn diện của đảng đối với quân đội
Bài học thứ ba: Thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ quân đội, đội ngũ chính ủy, chính trị viên
Bài học thứ tư: Phát huy vai trò của hệ thống chính trị,
của nhân dân cả nước căm lo xây dựng quân đội về
chính trị
Bài học thứ năm: Thực hiện tốt công tác chính sách đối
với quân đội và hậu phương quân đội
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, trong đó lấy xây dựng vững
mạnh về chính trị làm nền tảng là quan điểm nhất quán của Đảng ta, của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong lãnh đạo xây dựng quân đội ta ngay từ khi thành lập cho
đến nay.
Kế thừa kinh nghiệm xây dựng quân đội về chính trị trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, những năm đầu khi miền Bắc bắt tay vào công cuộc
cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Bác Hồ đã rất chú trọng xây dựng
quân đội cách mạng, chính quy, hiện đại. Kết quả xây dựng quân đội những năm
hoà bình đã tạo sức mạnh toàn diện cho quân đội ta bước vào cuộc chiến đấu
mới, chống quân Mỹ xâm lược. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ý chí quyết
tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến đấu không gì lay
chuyển nổi của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân giải phóng
miền Nam Việt Nam (bộ phận không tách rời của Quân đội nhân dân Việt
Nam). ý chí quyết tâm đó là động lực chính trị - tinh thần to lớn để cán bộ, chiến
sĩ quân đội vượt qua khó khăn, gian khổ, hy sinh, cùng nhân dân cả nước thực
hiện sứ mệnh lịch sử của dân tộc.
Một trong những nguyên nhân đảm bảo cho quân đội ta càng đánh càng
mạnh, càng đánh càng trưởng thành, đã đánh bại quân đội nhà nghề của Mỹ và
chư hầu, đập tan quân đội ngụy quyền Sài Gòn, cùng toàn dân giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước là vì quân đội ta được xây dựng vững mạnh
về chính trị, thể hiện cao độ ở sức mạnh chính trị - tinh thần của quân đội cách
mạng được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, giáo dục, rèn luyện.
Nghiên cứu tổng kết xây dựng quân đội về chính trị trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, rút ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào xây dựng quân
đội vững mạnh về chính trị trong điều kiện mới, nhất là trong thời điểm đang
triển khai thực hiện Nghị quyết số 51/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về
việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy
gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt
Nam” mang tính cấp thiết. Vì vậy, đề tài “Tổng kết xây dựng quân đội nhân dân
Việt Nam về chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ” có ý nghĩa thiết thực
về lý luận và thực tiễn, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã công
bố.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Kể từ sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến nay đã có
nhiều công trình nghiên cứu, cuốn sách viết về cuộc kháng chiến thần thánh của
dân tộc, về Quân đội nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến đánh đuổi giặc
Mỹ xâm lược. Một số sách, công trình nghiên cứu trong số đó: Tổng kết công tác
đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 1990; Tổng kết cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước - thắng lợi và bài học kinh nghiệm, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội 1995; Đảng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng quân đội về chính trị trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Biên niên sự kiện, Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội 1999; Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong
Quân đội nhân dân Việt Nam 1944–2000, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà
Nội 2000; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và công tác chính trị trong quân đội,
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 1997; Tác
động của những biến đổi kinh tế - xã hội ở nước ta đến xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam về chính trị trong giai đoạn cách mạng mới, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội 2000; Tổng kết 60 năm xây dựng bản chất giai cấp công nhân,
tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân dân Việt Nam, đề tài cấp ngành Lịch
sử quân sự, Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, năm 2004; Tổng kết tác chiến
chiến lược trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945–
1975), Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội 2005.
Các cuốn sách và công trình nghiên cứu đã công bố, trong đó đặc biệt là hai
cuốn sách: Tổng kết công tác đảng, công tác chính trị trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước 1954-1975 và Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước - thắng lợi và bài học kinh nghiệm, là tài liệu tham khảo tốt trong tổng kết
xây dựng quân đội về chính trị trong kháng chiến chống Mỹ. Song, đó là tổng
kết cuộc kháng chiến, tổng kết hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, vì
thế nghiên cứu: “Tổng kết xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ” là một hướng tiếp cận mới; kết quả nghiên
cứu sẽ có đóng góp vào quá trình xây dựng quân đội về chính trị trong thời kỳ
mới, bổ sung nội dung mới cho việc nghiên cứu tổng kết công tác đảng, công tác
chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu hoạt động xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
về chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, rút ra những bài học kinh nghiệm
để vận dụng vào xây dựng quân đội ta vững mạnh về chính trị trong giai đoạn
cách mạng hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
- Khái quát phân tích những bài học kinh nghiệm xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam về chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
về chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Phạm vi nghiên cứu. Những quan điểm, nội dung, hình thức, biện pháp
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, từ năm 1954 đến năm 1975.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn, phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về chiến tranh và quân đội; tư tưởng quân
sự Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến
tranh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân
dân.
Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ được phản ánh trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng;
các bài viết của các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các tướng lĩnh của
quân đội và các công trình nghiên cứu, các tổng kết và các sách, tài liệu lưu trữ đã
được công bố.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích – tổng hợp, lịch sử - lôgíc, thống kê,
tổng kết thực tiễn, phân tích tài liệu và số liệu.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn kết quả nghiên cứu của đề tài
Đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn, khái quát
những bài học kinh nghiệm xây dựng quân đội về chính trị trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, làm cơ sở để vận dụng vào xây dựng quân đội vững
mạnh về chính trị trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
nghiên cứu khoa học, giảng dạy các bộ môn khoa học xã hội nhân văn quân sự ở
các học viện, nhà trường quân đội; tài liệu tham khảo cho cán bộ ở đơn vị cơ sở
trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, vững mạnh
toàn diện.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm: mở đầu, hai chương, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo.
Chương 1
Đặc điểm, tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ và quá trình xây dựng
Quân đội nhân dân việt nam về chính trị
1.1. Đặc điểm, tình hình cuộc kháng chiến chống Mỹ
1.1.1. Diến tiến của cuộc kháng chiến chống Mỹ
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ (7-1954) về lập lại hoà
bình ở Việt Nam được ký kết, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân
ta kết thúc, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, miền Nam tạm thời chịu sự kiểm
soát của đối phương. Theo Hiệp định Giơnevơ, hiệp thương giữa hai miền được
tiến hành từ ngày 20-7-1955 và Tổng tuyển cử vào tháng 7-1956. Nhưng đế quốc
Mỹ với ý đồ xâm lược nước Việt Nam từ lâu đã lợi dụng cơ hội này để gạt thực
dân Pháp, nhảy vào tổ chức chỉ huy ngụy quân, ngụy quyền, tăng cường viện trợ,
biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, hòng chia cắt lâu dài đất nước ta. Cả dân
tộc Việt Nam lại bước vào một cuộc chiến đấu mới chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta trải qua những giai đoạn chủ
yếu: 1954-1960, 1961-1965, 1965-1973, 1973-1975.
Giai đoạn 1954 - 1960
Tình hình thế giới sau năm 1954 đã có những thay đổi lớn, tác động đến
cách mạng nước ta. Đế quốc Mỹ thể hiện rõ ý đồ bá chủ thế giới với một chiến
lược toàn cầu phản cách mạng hết sức thâm độc: can thiệp vào hầu hết các cuộc
chiến tranh, xung đột trên thế giới hòng ngăn chặn, bao vây, phá hoại phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc và điên cuồng chống phá hệ thống xã hội chủ
nghĩa. Thực hiện mưu đồ trên, ngày 7-7-1954 đế quốc Mỹ đưa Ngô Đình Diệm
lên làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng nội vụ và Quốc phòng của chính quyền
Bảo Đại ở miền Nam. Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Tổng
thống Mỹ aixenhao công khai tuyên bố: Hoa Kỳ không bị các điều khoản của
Hiệp định Giơnevơ ràng buộc. Ngày 8-8-1954, Hộị đồng An ninh quốc gia Mỹ
(NSC) do Aixenhao chủ trì đã quyết định gạt bỏ thực dân Pháp, xâm lược Việt
Nam bằng Quyết định NSC số 5429/2, khẳng định Mỹ trực tiếp viện trợ cho
Ngụy quyền Sài Gòn, không qua tay Pháp; Pháp chỉ được viện trợ 100 triệu đô
la trong tổng số 400 triệu viện trợ của Mỹ cho miền Nam và phải rút hết quân ở
miền Nam; loại bỏ Bảo Đại, ủng hộ Ngô Đình Diệm. Ngày 8-9-1954, Mỹ lôi
kéo các nước Pháp, Anh, ôxtrâylia, NiuDilân, Philippin, Thái lan và Pakixtan
lập ra khối “Liên minh quân sự Đông Nam á”(SEATO) và ngang nhiên đặt miền
Nam Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này. Tháng 9-1954, Chính phủ Mỹ
quyết định viện trợ trực tiếp cho Ngô Đình Diệm. Ngày 19-12-1954, Pháp ký
hiệp ước trao quyền hành chính, chính trị ở miền Nam cho Ngô Đình Diệm. Sau
khi đã tiêu diệt, loại bỏ các lực lượng đối lập thân Pháp, dựa vào sự ủng hộ của
Mỹ, ngày 23-10-1955, Ngô Đình Diệm tổ chức một cuộc “trưng cầu dân ý” để
phế truất Bảo Đại, lên làm Tổng thống. Ngày 4-3-1956, Ngô Đình Diệm tiến
hành bầu cử “quốc hội” riêng rẽ ở miền Nam, ngày 26-10-1956 công bố “Hiến
pháp Việt Nam Cộng hoà” công khai vi phạm Hiệp định Giơnevơ. Thông qua hệ
thống cố vấn và viện trợ, đế quốc Mỹ nuôi dưỡng chính quyền Ngô Đình Diệm,
ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, đàn áp khốc liệt phong trào yêu nước của
nhân dân miền Nam.
Âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là tiêu diệt
bằng được phong trào yêu nước và phong trào cách mạng, thôn tính miền Nam,
chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ
quân sự của Mỹ; lập một phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan tràn
xuống Đông Nam á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao
vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa. Việt Nam trở thành một nơi thử thách
sức mạnh và uy tín của đế quốc Mỹ như chính giới cầm quyền của Mỹ đã thừa
nhận. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ.
Trong giai đoạn 1954 - 1960 đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh
một phía ”; đã xây dựng cho chính quyền Ngô Đình Diệm một đội quân gồm 10
sư đoàn bộ binh, các tiểu đoàn pháo binh, thiết giáp, chủ lực cùng 54 nghìn quân
địa phương dưới sự điều khiển trực tiếp của Mỹ thông qua 700 cố vấn quân sự.
Mỹ - Diệm thực hiện chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, với Luật 10/ 59 (51959) đã dùng quân đội mở hàng trăm cuộc càn quét, đánh phá điên cuồng các
cơ sở cách mạng, với quan điểm “giết nhầm còn hơn bỏ sót” chúng giết hại cán
bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước, làm cho cách mạng miền Nam bị tổn thất
nặng nề.
Tuy nhiên, chiến lược “chiến tranh một phía ” của Mỹ - Diệm đã bị thất
bại. Quân và dân miền Nam đã tiến hành cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn,
mạnh mẽ đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất
nước nhà, chống trò hề “trưng cầu dân ý”, “bầu cử quốc hội” của chúng, đòi các
quyền tự do, dân chủ. Các cuộc đấu tranh chống chính sách “tố cộng”, “diệt
cộng”, chống khủng bố để bảo vệ cơ sở cách mạng đã diễn ra rộng khắp, nổi bật
là phong trào “Đồng khởi”. Lúc đầu phong trào “Đồng khởi” diễn ra lẻ tẻ ở Bắc
ái (2-1959), Trà Bồng (8-1959) và đến ngày 17–1-1960 phát triển thành cao trào
tại Bến Tre. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân huyện Mỏ Cày bằng giáo
mác, gậy gộc, súng ống nổi dậy đánh đồn bốt, diệt ác ôn phá vỡ từng mảng bộ
máy cai trị và hệ thống kìm kẹp của địch ở thôn xã, thành lập Uỷ ban nhân dân
tự quản, ra mắt lực lượng vũ trang, tịch thu ruộng đất của địa chủ, cường hào
đem chia cho dân nghèo. Từ Bến Tre phong trào “Đồng khởi” lan rộng khắp
Nam Bộ, Tây Nguyên, tới Trung Bộ. Tính đến cuối năm 1960, tại các tỉnh Nam
Bộ, cách mạng đã làm chủ 600 trên tổng số 1.298 xã, trong đó có 116 xã hoàn
toàn giải phóng; đồng bằng Trung Bộ có 904 trong tổng só 3.829 thôn được giải
phóng; Tây Nguyên có tới 3.200 trong tổng số 5.721 thôn không còn chính
quyền ngụy [1–366,367]. Đồng khởi đã giáng một đòn nặng nề vào chính sách
thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, làm lung lay tận gốc chính quyền tay sai
Ngô Đình Diệm. Phong trào “Đồng Khởi” đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt
của cách mạng miền Nam chuyển từ giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Giai đoạn 1961- 1965
Đế quốc Mỹ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” nhằm đàn áp phong trào nổi
dậy đã phát triển rộng khắp thành chiến tranh du kích ở miền Nam. Thi hành
chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ sử dụng quân đội ngụy quyền Sài Gòn
làm lực lượng chủ yếu trên chiến trường, cung cấp vũ khí trang bị, kỹ thuật quân
sự, cung cấp tài chính và chỉ huy bằng hệ thống cố vấn từ trung ương đến tỉnh,
đặc khu, các sư đoàn và tiểu đoàn.
Biện pháp của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” là hành quân càn quét, gom
dân lập ấp chiến lược nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng, từ giữa năm
1961 đến hết năm 1962 (kế hoạch Stalây - Taylo) và sau đó là kế hoạch bình định
miền Nam trong 2 năm 1964, 1965 (kế hoạch của Giônxơn - Mắc Namara). Chúng
xác định mục tiêu sẽ lập 16 nghìn trong tổng số 17 nghìn ấp chiến lược trên toàn
miền Nam.
Chiến lược “chiến tranh đặc biệt ” được Mỹ - Diệm xác định đồng thời thực
hiện ba mục tiêu chiến lược cơ bản đó là: tìm diệt bộ đội chủ lực và cơ sở cách
mạng; bình định để nắm dân; phá hoại miền Bắc bằng biệt kích và phong toả biên
giới, vùng biển để ngăn chặn chi viện của miền Bắc. Trong đó, bình định để nắm
dân được coi là là mục tiêu chủ yếu, biện pháp chiến lược trung tâm, xuyên suốt,
tìm diệt là biện pháp hỗ trợ cho bình định đạt hiệu quả.
Thực hiện chiến lược trên, Mỹ đã viện trợ ồ ạt cho chính quyền Ngô Đình
Diệm, đưa vào miền Nam lực lượng cố vấn quân sự và lực lượng hỗ trợ chiến
đấu. Chính quyền Diệm ra sức bắt lính, làm cho lực lượng quân ngụy tăng
nhanh từ 170.000 tên (giữa năm 1961) lên 560.000 tên (cuối năm 1964). Quân
ngụy được trang bị vũ khí hiện đại của Mỹ và thực hiện chiến thuật mới: “trực
thăng vận”, “thiết xa vận”; được sự hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy của cố vấn Mỹ,
quân ngụy đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng
cách mạng, tiến hành nhiều hoạt động phá hoại miền Bắc, phong toả biên giới,
trên biển để ngăn chặn “sự thâm nhập của cộng sản vào miền Nam”. Dựa vào
sức mạnh quân sự và các cuộc hành quân càn quét Mỹ, ngụy ráo riết dồn dân lập
“ấp chiến lược”, lập ấp đến đâu giăng đồn bốt, bảo an, dân vệ chính quyền đến
đó để kiểm soát, kìm kẹp nhân dân.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng ở miền Nam, ngày
20-12-1960 Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập;
tháng 1-1961 Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay cho Xứ uỷ Nam
bộ; ngày 15-2-1961 thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam trên cơ sở
thống nhất các lực lượng vũ trang cách mạng. Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước
của Mặt trận, do Đảng lãnh đạo, Quân giải phóng miền Nam cùng với nhân dân
đẩy mạnh đấu tranh chống Mỹ và tay sai, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang, nổi dậy với tiến công địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi,
đồng bằng, đô thị; tiến công địch trên cả ba mũi giáp công: chính trị, quân sự,
binh vận. Đến cuối năm 1964 đầu năm 1965, ba phần tư số ấp chiến lược đã bị
phá, bốn phần năm đất đai dược giải phóng. Về quân sự, các chiến dịch lớn do
Quân giải phóng tiến hành đã thu được chiến thắng giòn rã: Chiến thắng ấp Bắc
ở Mỹ Tho (11-1963); chiến dịch Đông xuân 1964-1965 với trận mở màn Bình
Giã (2-2-1964); Chiến dịch An Lão (12-1964); Ba Gia (5-1965); Đồng Xoài (61965). Lực lượng quân ngụy ở miền Nam đứng trước nguy cơ tan rã hoàn toàn,
ngụy quyền tay sai rệu rã, nội bộ mâu thuẫn sâu sắc. Sau cuộc đảo chính lật đổ
anh em Diệm, Nhu (1-11-1963) đã có 13 lần bọn tay sai lật đổ lẫn nhau. Như
vậy, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và tay sai đã bị quân và dân ta
đánh bại, làm cho phá sản hoàn toàn.
Giai đoạn 1965 - 1968
Mỹ tiến hành “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại
miền Bắc bằng không quân và hải quân.
Đầu năm 1965, trước nguy cơ phá sản hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc
biệt”, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa quân viễn chinh và chư hầu cùng với vũ khí, trang bị,
phương tiện chiến tranh vào miền Nam, chủ trương chuyển sang chiến lược “chiến
tranh cục bộ” ở miền Nam nhằm đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, đồng thời tiến
hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc. Tính
đến cuối năm 1965 số quân Mỹ và chư hầu được đưa vào miền Nam lên tới 20 vạn,
trong những năm sau đó lúc cao nhất quân số xấp xỉ nửa triệu tên.
Trong “chiến tranh cục bộ”, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “hai gọng kìm”:
“tìm diệt” quân chủ lực cách mạng và “bình định” nhằm trước hết giành lại nông
thôn, ổn định hậu phương, tranh thủ quần chúng nhất là nông dân. Thực hiện chiến
lược “hai gọng kìm” chúng đã liên tiếp mở các cuộc tiến công chiến lược mùa khô
1965-1966 và mùa khô 1966- 967. Với những cuộc hành quân lớn chúng hy vọng
sẽ tiêu diệt lực lượng cách mạng, xé nát căn cứ kháng chiến, xoay chuyển tình thế
trên chiến trường trong một thời gian ngắn.
Ngày 5-8-1964 đế quốc Mỹ dựng lên “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, lấy cớ tiến
hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, nhằm
ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho cách mạng miền Nam, phá hoại công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, lay chuyển quyết tâm chống Mỹ
của nhân dân hai miền Nam, Bắc nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân hai miền Nam, Bắc đã giáng cho
địch những đòn thất bại nặng nề. ở miền Nam, với quyết tâm “quyết chiến,
quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” quân và dân Miền Nam đã anh dũng đánh quân
Mỹ. Với chiến thắng trận Núi Thành (Quảng Đà, 5–1965); trận Vạn Tường
(Quảng Ngãi, 8–1965) đã chứng tỏ khả năng đánh thắng quân Mỹ của quân và
dân ta và mở đầu cho cao trào “Tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt”. Trong hai
mùa khô 1965–1966, 1966-1967 quân và dân ta đã đập tan các cuộc phản công
chiến lược của Mỹ ở khu V và miền Đông Nam Bộ, tiến hành Tổng tiến công và
nổi dậy mùa Xuân 1968 trên toàn miền Nam, ngay tại sào huyệt của chúng ở Sài
Gòn. Với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã
đảo lộn thế chiến lược của địch, buộc chúng phải từ bỏ chiến lược “tìm diệt” và
“bình định” chuyển sang phòng ngự bị động “quét và giữ ”. “Chiến tranh cục
bộ” của Mỹ ở miền Nam trên thực tế đã bị phá sản.
Trên miền Bắc, quân và dân ta đã tỏ rõ bản lĩnh kiên cường, vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội, vừa chiến đấu và ra sức chi viện cho miền Nam. Trong chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, từ ngày 5-8-1964 đến tháng 12-1968,
quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.200 máy bay hiện đại của Mỹ, tiêu diệt hàng
chục tàu chiến Mỹ, nhiều giặc lái bị diệt hoặc bị bắt sống.
Thắng lợi của quân và dân hai miền Nam, Bắc đã buộc Mỹ phải lùi bước.
Tháng 3-1968 Mỹ tuyên bố ném bom hạn chế từ vĩ tuyến 20 trở ra đối với miền
Bắc, đồng ý đến bàn dàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại
Pari (Hội nghị 2 bên) mở ra từ ngày 13-5-1968; và đến ngày 1-11- 1968 chúng
buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc và chấp nhận
đàm phán với cả đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và
đại diện Việt Nam Cộng hoà (Hội nghị bốn bên) chính thức họp từ ngày 25-11969.
Như vậy, “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và chiến tranh phá hoại miền
Bắc bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ đã bị thất bại.
Giai đoạn 1969 - 1973
Mỹ thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và chiến tranh phá
hoại lần thứ hai đối với miền Bắc.
Đầu năm 1969, Nixon bước vào Nhà trắng, đề ra chiến lược “Việt Nam hoá
chiến tranh”. Nội dung của chiến lược này, một mặt chúng rút dần quân Mỹ ra
khỏi miền Nam, dùng quân ngụy thay dần quân Mỹ, đồng thời mở rộng chiến
tranh ở Đông Dương. Thực chất chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ
là “dùng người Việt đánh người Việt”, “dùng người Đông Dương đánh người
Đông Dương”, với công thức “chủ lực ngụy cộng với hoả lực Mỹ”. Vì vậy, để
thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở miền Nam, Mỹ tăng cường
chiến tranh xâm lược đối với Lào, Campuchia (1970) và tiếp tục mở rộng chiến
tranh phá hoại miền Bắc.
Ngày 6-6-1969 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
Nam được thành lập. Vừa mới ra đời Chính phủ cách Mạng Lâm thời Cộng hoà
miền Nam Việt Nam đã được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan
hệ ngoại giao.
Trong 2 năm 1970, 1971 quân và dân và dân ba nước Đông Dương đã đoàn
kết đánh bại các cuộc hành quân xâm lược Campuchia và Lào của Mỹ. Khắp
miền Nam phong trào đấu tranh phát triển rầm rộ. Đến đầu năm 1971 cách mạng
giành quyền làm chủ thêm 3.600 ấp, với 3 triệu dân. Tháng 3-1972 quân và dân
ta mở các chiến dịch khắp chiến trường miền Nam. Sau 3 tháng đã loại khỏi
vòng chiến đấu hơn 20 vạn quân ngụy, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn
với hơn 1 triệu dân.
Trước thất bại ở miền Nam, tháng 5-1972 Nixon ra lệnh thả mìn phong toả
bờ biển và các sông, ngòi ở miền Bắc. Quân và dân miền Bắc đã anh dũng chiến
đấu, từ tháng 4 đến tháng 9-1972 đã bắn rơi hơn 500 máy bay Mỹ, bắt sống
nhiều giặc lái. Trong đợt tập kích chiến lược 12 ngày đêm bằng B52 của chúng
vào Hà nội và Hải Phòng (12-1972) quân và dân Miền Bắc đã bắn hạ 81 máy
bay, trong đó có 34 máy bay B52, 5 F111, lập nên chiến công “Điện Biên Phủ”
trên không.
Với thắng lợi trên cả 2 miền Nam, Bắc ngày 27-1-1973 Mỹ buộc phải ký
Hiệp định Pari, cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam, rút hết quân về nước trong vòng 2 tháng, cam kết không
dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ vủa Việt Nam. Thắng lợi
của Hiệp định Pari là kết quả của quá trình đấu tranh lâu dài và anh dũng của
quân và dân ta, mở ra một thời kỳ mới, tạo điều kiện xây dựng lực lượng về mọi
mặt để tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Giai đoạn 1973 - 1975
Mặc dù buộc phải ký Hiệp định Pari và phải rút quân về nước, nhưng đế quốc
Mỹ vẫn cố bám lấy miền Nam, tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến
tranh”, chúng để lại hàng vạn cố vấn quân sự khoác áo dân sự, tăng viện trợ cho
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, tăng cường lực lượng ngụy quân, điên cuồng phản
kích, lấn chiếm vùng giải phóng, phá hoại Hiệp định Pari.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đẩy mạnh tiến công địch trên cả
ba mặt trận: chính trị, quân sự, ngoại giao, đồng thời chuẩn bị để đánh bại quân
địch giành thắng lợi hoàn toàn. Trong năm 1974, bằng những trận đánh tiêu diệt
địch ở Tây nguyên (5-1974), Thượng Đức (8-1974) ta chuyển từ đánh tiêu diệt
sinh lực là chủ yếu sang đánh những trận lớn giải phóng dân, giải phóng đất đai
ở đồng bằng và thành phố. Sau chiến dịch giải phóng thị xã và tỉnh Phước Long
(1-1975) cho thấy thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi ta tiến
hành Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Chiến dịch giải phóng hoàn
toàn miền Nam bắt đầu từ ngày 10-3-1975, bằng chiến dịch Tây Nguyên (từ
ngày 10 đến 24-3-1975); chiến dịch Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 dến 29-3-1975)
và kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (từ ngày 26-4 đến 30-4-1975).
Với thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi hoàn toàn sau 20 năm
kháng chiến trường kỳ, non sông thu về một mối, Tổ quốc Việt Nam được hoàn
toàn thống nhất; mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản chi phối quá trình xây dựng Quân đội nhân dân
Việt Nam về chính trị trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Sự nghiệp xây dựng quân đội về chính trị giai đoạn 1954-1975 chịu sự tác
động, chi phối của các đặc điểm cơ bản của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước.
Một là, chủ nghĩa xã hội phát triển thành một hệ thống thế giới.
Đây là đặc điểm lớn tác động trực tiếp đến cuộc kháng chiến chống Mỹ của
nhân dân ta và tác động rất lớn đến xây dựng quân đội ta về chính trị giai đoạn
1954 - 1975.
Trong những năm nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã có bước phát triển vượt bậc cả về thế và lực, trở thành
hệ thống thế giới hùng mạnh, là thành trì của hoà bình thế giới tạo ra so sánh
tương quan lực lượng có lợi cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong
trào công nhân, phong trào cách mạng thế giới.
Năm 1955 Liên Xô đã hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ năm xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Năm 1957 Liên Xô sản xuất được tên lửa vượt đại châu và
phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên, mở ra kỷ nguyên loài người chinh
phục vũ trụ. Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu hoàn thành công cuộc hợp
tác hoá nông nghiệp. Trung Quốc tiến hành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Và trong những năm tiếp theo Liên Xô, Trung Quốc, các
nước xã hội chủ nghĩa đã có sự phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, làm cho sự so sánh lực
lượng trên thế giới đã có sự thay đổi rất căn bản. Liên Xô, Trung quốc và các
nước xã hội chủ nghĩa đã tham gia tích cực có hiệu lực to lớn trong giải quyết
các vấn đề quốc tế. Tháng 5 -1955 tổ chức Hiệp ước Vácsava được thành lập
khẳng định sức mạnh quân sự to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa - một tổ
chức quân sự hùng mạnh đối trọng với khối quân sự Bắc Đại Tây Dương
(NATO). Tháng 11-1957, Hội nghị quốc tế của 64 Đảng Cộng sản và Đảng công
nhân đã họp ở Matxcơva (Liên Xô) ra tuyên bố hoà bình, khẳng định sự lớn
mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới.
Sự lớn mạnh về kinh tế, quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là
Liên Xô, Trung Quốc là niềm tự hào, nguồn động viên, cổ vũ rất lớn đối với cán
bộ, chiến sĩ quân đội vững tin vào tương lai tươi sáng của chủ nghĩa xã hội, củng
cố mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện ước mơ bao
đời của nhân dân ta.
Các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành “hậu phương lớn” của Việt Nam
trong kháng chiến chống Mỹ; đã viện trợ to lớn, có hiệu quả cho cuộc kháng
chiến chống Mỹ của nhân dân ta; đã viện trợ cho quân đội ta nhiều loại vũ khí
trang bị kỹ thuật hiện đại như: máy bay, tên lửa, pháo, xe tăng, tàu chiến, súng,
đạn, quân trang, v.v… Sự viện trợ đó không chỉ giúp cho quân và dân ta có đủ
vũ khí đánh thắng các trang bị, vũ khí hiện đại của quân Mỹ mà còn tác động
tích cực đến quá trình xây dựng và chiến đấu, trưởng thành của quân đội ta,
trước hết là củng cố niềm tin, sức mạnh chính trị – tinh thần, góp phần xây dựng
quân đội vững mạnh về chính trị.
Hai là, phong trào đấu tranh phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ ở Việt Nam của nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình, công lý trên
thế giới kể cả nhân dân Mỹ đã phát triển mạnh mẽ, rộng khắp.
Đây cũng là một trong những đặc điểm nổi bật tác động đến cuộc kháng
chiến chống Mỹ của nhân ta, dân tộc ta và quá trình xây dựng Quân đội nhân
dân Việt Nam vững mạnh về chính trị.
Với tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta, với những tội ác mà đế quốc Mỹ, chư hầu và chính quyền tay sai gây
nên, cùng với những chiến thắng mà nhân dân ta đã giành được trên cả hai miền
Nam, Bắc đã gây được tiếng vang lớn trên thế giới, làm cho nhân thế giới và cả
nhân dân Mỹ nhận rõ tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam
của đế quốc Mỹ, từ đó mà ra sức ủng hộ nhân dân ta trong cuộc đấu tranh đánh
đuổi đế quốc Mỹ xâm lược. Hàng ngày, ở Mỹ và ở nhiều nước trên thế giới đã diễn
ra các cuộc biểu tình của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các tầng lớp
thanh niên, sinh viên phản đối cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ
đối với nhân dân Việt Nam, đòi Mỹ rút quân về nước, đòi chấm dứt chiến tranh ở
Việt Nam, đòi Tổng thống Mỹ từ chức, vận động thanh niên Mỹ phản chiến, không
sang miền Nam Việt Nam làm bia đỡ đạn cho cho giới quân phiệt trong chính
quyền Mỹ. Cuộc đấu tranh ủng hộ nhân dân Việt Nam đánh Mỹ đã góp phần cô lập
đế quốc Mỹ trên trường quốc tế, đẩy chúng vào thế không chỉ phải đối phó với dư
luận quốc tế mà ngay cả cuộc đấu tranh phản đối chiến tranh ngay trong lòng nước
Mỹ. Đây là nguồn động viên to lớn về tinh thần đối với nhân dân ta, quyết tâm
đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược dù chiến tranh có thể kéo dài, gặp nhiều khó
khăn ác liệt.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhân dân ta còn nhận được sự hậu
thuẫn, ủng hộ to lớn của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đang phát triển
mạnh ở cả châu á, châu Phi, châu Mỹ la tinh, chĩa mũi nhọn vào chống Mỹ, từng
bước đẩy chủ nghĩa thực dân mới vào cuộc khủng hoảng. Tháng 4-1955 Hội
nghị á - Phi gồm 29 nước họp ở Băngđung (Inđônêxia) ra bản tuyên bố 10
nguyên tắc hoà bình, trung lập là một đóng góp quan trọng vào phong trào
chống chủ nghĩa thực dân, củng cố nền độc lập của các nước á - Phi và bảo vệ
hoà bình thế giới. Phong trào độc lập dân tộc thế giới vừa có sức cổ vũ cho cách
mạng miền Nam, phân tán lực lượng của chủ nghĩa đế quốc, hỗ trợ tích cực cho
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong suốt những năm nhân dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến chống Mỹ, phong trào giải phóng dân tộc đã ủng hộ mạnh mẽ đối
với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta; đã trở thành một
trong ba “dòng thác cách mạng” của thời đại cùng chung mục tiêu đánh đổ chủ
nghĩa thực dân kiểu mới, góp phần không nhỏ trong thắng lợi của quân và dân ta
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, trong đó có xây dựng Quân đội
nhân dân Việt Nam về chính trị.
Ba là, Đông Dương là một chiến trường, liên minh chiến đấu giữa Việt
Nam, Lào, Campuchia ngày càng được củng cố vững chắc.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta là một bộ phận không tách rời
của cuộc kháng chiến chống Mỹ của ba nước Đông Dương. Liên minh chiến đấu
giữa ba nước Đông Dương là nhân tố có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vào thắng
lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ của mỗi nước.
Sự đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Đông Dương đã tạo thuận lợi cho Việt
Nam vận chuyển lương thực, vũ khí, chuyển quân từ miền Bắc chi viện cho
miền Nam qua hệ thống đường Trường Sơn. Sự đoàn kết chiến đấu của ba nước
Đông Dương đã tạo nên sức mạnh to lớn cho cách mạng cả ba nước và mỗi
nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Quân đội ba nước đã phối
hợp chiến đấu, đập tan các cuộc tấn công của quân Mỹ và quân chư hầu khi
chúng mở rộng chiến tranh xâm lược sang Lào và Campuchia. Đồng thời, tinh
thần đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Đông Dương đã giáng cho Mỹ những thất
bại nặng nề. Tình đoàn kết chiến đấu keo sơn giữa ba nước Đông Dương trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ là một nhân tố quan trọng trong thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước nói chung và xây dựng quân đội ta vững mạnh
về chính trị nói riêng.
Cùng chiến đấu trên một chiến trường, vừa thực hiện nhiệm vụ giải phóng
miền Nam, bảo vệ miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà, vừa làm nhiệm vụ
quốc tế cao cả giúp nhân dân Lào và Campuchia, Quân đội nhân dân Việt Nam
đã luôn quán triệt, thấm nhuần tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản của Đảng
Cộng sản, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh “giúp bạn là tự giúp mình”. Thực
tiễn sát cánh chiến đấu cùng quân và dân Lào, Cămpuchia trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ đã góp phần tô thắm bản chất, truyền thống Quân đội nhân dân
Việt Nam anh hùng, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.
Bốn là, đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc vừa xây dựng
chủ nghĩa xã hội, đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, vừa chi viện
cho miền Nam đánh Mỹ.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc tiến hành xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương lớn cung cấp sức người, sức của cho
miền Nam đánh Mỹ, đồng thời trực tiếp đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân của Mỹ đối với miền Bắc, phối hợp nhịp nhàng
cùng quân và dân miền Nam đánh Mỹ. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa không chỉ
sản xuất, cung cấp lương thực, thực phẩm, hàng hoá cho quân và dân miền Nam
mà còn là nơi trực tiếp tiếp nhận sự ủng hộ, viện trợ của các nước xã hội chủ
nghĩa, của nhân dân thế giới để chuyển vào miền Nam đánh Mỹ.
Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có điều kiện huấn luyện,
xây dựng quân đội chính quy vừa để bảo vệ miền Bắc, vừa cung cấp lực lượng
cho miền Nam thành lập các đơn vị bộ đội chủ lực, vừa làm nhiệm vụ quốc tế ở
Lào, Campuchia. Đây là điều kiện rất thuận lợi để thúc đẩy công cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước đi đến thắng lợi và xây dựng Quân đội nhân dân Việt
Nam vững mạnh về chính trị, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.
Mặt khác, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng ở miền Bắc trở thành
mục tiêu, lý tưởng, niềm tin động viên cán bộ chiến sĩ, nhân dân miền Nam anh
dũng chiến đấu và chiến thắng đế quốc Mỹ, củng cố niềm tin vào hậu phương
miền Bắc, vào sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị,
Quân uỷ Trung ương, lòng tin tuyệt đối vào lãnh tụ Hồ Chí Minh, tin vào tương
lai tươi sáng của đất nước. Tính chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã
được phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Nhân dân miền Bắc đã
thi đua “Mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “Thóc không
thiếu một cân, quân không thiếu một người”, thanh niên “Ba sẵn sàng sàng”,
phụ nữ “Ba đảm đang”, “Tay cày tay súng”, “Tay búa tay súng”, lớp lớp thanh
niên tình nguyện nhập ngũ vào miền Nam chiến đấu, tham gia lực lượng thanh
niên xung phong, dân công hoả tuyến để được phục vụ chiến đấu. Nhân dân sẵn
sàng dỡ nhà mình để lát đường cho xe chở bộ đội, vũ khí, lương thực tiếp tế cho
miền Nam. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và
dân ta, tạo nên sức mạnh vật chất, sức mạnh chính trị - tinh thần to lớn, tạo nên
chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta .
Năm là, hệ thống chính trị của đất nước: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội, các tổ chức quần chúng và đoàn thể cách
mạng được xây dựng và củng cố vững chắc.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, hệ thống chính trị bao
gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức trong hệ thống chính trị đã
được chăm lo xây dựng ngày càng vững mạnh cả ở miền Bắc và miền Nam.
Tháng 10-1954 tổ chức Hội nghị thành lập xứ uỷ Nam Bộ tại Chắc Băng (Cà
Mau) để trực tiếp lãnh đạo cách miền Nam, đồng chí Lê Duẩn uỷ viên Bộ Chính
trị làm bí thư Xứ uỷ, đồng chí Phạm Hữu Lầu làm Phó bí thư. Ngày 20-12-1960
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Cuối năm
1961 thành lập Trung ương Cục miền Nam do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm
Bí thư nhằm thống nhất cơ quan lãnh đạo cách mạng miền Nam và tăng cường
sự lãnh đạo của Trung ương đối với cách mạng miền Nam, nắm vững và mở
rộng thông tin, liên lạc từ Trung ương đến các địa phương. Ngày 15-2-1961
thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên cơ sở thống nhất các lực
lượng vũ trang cách mạng. Trung ương Cục miền Nam đã kiện toàn bộ máy chỉ
đạo quân sự của Đảng đối với các lực lượng vũ trang, tổ chức chỉ đạo quân sự từ
Trung ương Cục xuống đến tỉnh, huyện, xã, xúc tiến thành lập các Bộ Tư lệnh
quân khu ở miền Nam. Cùng với sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ cách
mạng các tổ chức quần chúng, đoàn thể cách mạng đều được tổ chức và hoạt
động sôi nổi góp phần to lớn vào công tác tuyên truyền vận động quần chúng,
tập hợp quần chúng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Ngày 6-6-1969 Chính
phủ Lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam được thành lập góp phần quan
trọng vào sự nghiệp cách mạng miền Nam.
Trong suốt 20 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, Đảng, Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
được chăm lo xây dựng vững mạnh, được rèn luyện trong đấu tranh cách mạng,
trong lãnh đạo và tiến hành chiến tranh, đã phát huy cao độ vai trò của mình
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh cách mạng
giải phóng miền Nam. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Mặt trận dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, các tổ chức và đoàn thể cách mạng ở miền Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát triển lớn mạnh góp phần trực tiếp vào việc
lãnh đạo, tổ chức, đoàn kết quân và dân miền Nam tiến hành cuộc kháng chiến
chống Mỹ thắng lợi.
Quân đội ta là quân đội nhân dân, quân đội cách mạng được Đảng Cộng
sản Việt Nam, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục,
rèn luyện, vì vậy cùng với sự chăm lo xây dựng Đảng, Nhà nước, các đoàn thể
chính trị- xã hội vững mạnh quân đội ta được Đảng, Nhà nước các đoàn thể
nhân dân chăm lo xây dựng về mọi mặt, trước hết vững mạnh về chính trị. Do
đó, trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh quân đội ta đã thể hiện rõ vai trò nòng
cốt trong chiến tranh nhân dân, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình,
xứng đáng với sự tin cậy, công lao chăm lo xây dựng của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta.
Sáu là, quân đội ta có sự phát triển cả về quy mô, lực lượng, trang bị vũ
khí kỹ thuật quân sự, về chất lượng chính trị và sức mạnh chiến đấu.
Kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, để đáp ứng đòi hỏi khách quan của
cách mạng, Trung ương Đảng, Chính phủ và Tổng Quân uỷ đã quyết tâm sớm tổ
chức các quân, binh chủng kỹ thuật hiện đại cùng với lục quân đủ sức bảo vệ
miền Bắc và hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam.
Thực hiện quyết tâm đó, từ tháng 8-1954 đến năm 1959 Tổng Quân uỷ, Bộ
Tổng tư lệnh liên tiếp ra các quyết định thành lập các đơn vị mới và các trường đào
tạo cán bộ quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật trong toàn quân; tiến hành huấn
luyện bộ đội, rèn luyện kỷ luật theo yêu cầu chính quy, tác chiến hiệp đồng quân,
binh chủng quy mô lớn. Về xây dựng lực lượng, từ tháng 8-1954 đến đầu tháng 101959 Tổng quân uỷ đã quyết định thành lập các đơn vị và các trường nâng quy mô
tổ chức và đổi tên các đơn vị sau đây:
- Ngày 17-8-1954 thành lập Phòng công binh trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu,
đến ngày 3-11-1954 thành lập Cục công binh. Khi Mỹ chuẩn bị gây chiến tranh
đánh phá miền Bắc chuyển thành Bộ Tư lệnh Binh chủng công binh. Ngày 7-51955 Thành lập Cục phòng thủ bờ biển thuộc Bộ Tổng tư lệnh và các đơn vị sẵn
sàng chiến đấu. Cuối tháng 1-1959 thành lập Cục Hải quân thuộc Bộ Tổng tham
mưu; đó là những đơn vị và cơ quan làm cơ sở để thành lập Quân chủng Hải quân
vào đầu những năm 60.
- Ngày 7-4-1954 thành lập Bộ Chỉ huy Pháo binh thuộc Bộ Tổng tư lệnh.
Sau dó tiếp tục thành lập các đơn vị pháo binh. Ngày 19-9-1954 thành lập 2 đại
đoàn pháo mặt đất: đại doàn 675, đại đoàn 349. Ngày 21- 9-1954 thành lập đại
đoàn pháo 367 pháo cao xạ. Ba đại đoàn trên đều trực Bộ Chỉ huy pháo binh.
Đến ngày 28-5-1956 Bộ Chỉ huy pháo binh chuyển thành Bộ Tư lệnh Binh
chủng pháo binh, cả pháo mặt đất và cao xạ. Ngày 21-3-1958 Bộ Tổng tư lệnh
quyết định Thành lập Bộ tư lệnh Phòng không. Ngày 24-1-1959 thành lập Cục
Không quân thuộc Bộ Tổng tham mưu. Ngày 21-3-1959 thành lập trung đoàn ra
đa 290 thuộc Bộ tư lệnh Phòng không. Ngày 1-5-1959 thành lập trung đoàn
không quân vận tải 919. Đó là những đơn vị để phát triển thành Quân chủng
Phòng không - Không quân tháng 1-1964.
- Từ 1957-1959, các Binh chủng Thông tin, Hoá học, Tăng- Thiết giáp
được tập trung xây dựng với quy mô ngày càng lớn.
- Về các đơn vị bộ binh, từ tháng 9-1954 đến tháng 12-1956 sau khi hoàn
thành nhiệm vụ tập kết bộ đội ở phía Nam và quân tình nguyện Việt Nam ở Lào
và Campuchia ra miền Bắc, Bộ Chính trị và Tổng Quân uỷ quyết định thành lập
8 sư đoàn (các đại đoàn thành lập trong kháng chiến chống Pháp như 308, 304,
316, 320, 325 đến tháng 6 - 1955 thống nhất gọi là sư đoàn) mang các phiên
hiệu như sau: Sư đoàn 350 (20- 9-1954), Sư đoàn 305 (21-9-1954), Sư đoàn 330
(1-1955). Sư đoàn 328, Sư đoàn 324, Sư đoàn 332, Sư đoàn 335 (cả 4 sư đoàn
được thành lập tháng 6-1955). Các cơ quan chiến lược cũng được kiện toàn, đổi
tên, thành lập mới cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng
cố quốc phòng và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
- Ngày 3-6-1956 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 017/SL thành lập 6
quân khu gồm: Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc, Tả Ngạn, Hữu Ngạn (Sông Hồng)
và quân khu 4 thực hiện chức năng quản lý nhà nước về quân sự - quốc phòng,
huấn luyện bộ đội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự xã hội, chuẩn bị chiến đấu
trong xây dựng hoà bình và chỉ đạo, chỉ huy tác chiến trên một hướng chiến lược
khi xảy ra chiến tranh.
- Ngày 3-3-1959 thành lập Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên
phòng).
Trong giai đoạn từ tháng 11- 1954 đến tháng 9-1959 Bộ Quốc phòng đã
quyết định thành lập 14 trường bổ túc cán bộ và đào tạo sĩ quan dài hạn về quân
sự, chính trị, hậu cần, chuyên môn kỹ thuật và gửi đi đào tạo ở các nước bạn.
Các trường quân sự ở trong nước đã hình thành hệ thống các cấp học tương đối
hoàn chỉnh từ sơ cấp, trung cấp, cao cấp, có lục quân, phòng không, hải quân,
đặc biệt là thành lập Trường văn hoá quân đội (18-5- 1955) do Tổng cục Chính
trị quản lý.
ở miền Nam, sau khi mở đường 559, với các đơn vị chủ lực ở miền Bắc
được bổ sung, tăng cường cho chiến trường đã thành lập các sư đoàn bộ binh,
các trung đoàn, tiểu đoàn độc lập, các đơn vị bộ đội địa phương.
Trong kháng chiến chống Mỹ trình độ văn hoá phổ thông của cán bộ, chiến sĩ
đã tăng lên đáng kể so với trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hầu hết bộ đội
nhập ngũ ở miền Bắc đều có trình độ văn hoá cấp 2, một bộ phận văn hoá cấp 3,
phần đông cán bộ chiến sĩ ở các quân, binh chủng kỹ thuật có trình độ văn hóa cấp
3. Với hệ thống nhà trường quân đội ngày càng mở rộng và mối quan hệ hợp tác
giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng
phát triển nên số cán bộ quân đội được đào tạo ngày càng nhiều, nhất là cán bộ ở
các quân, binh chủng kỹ thuật. Cùng với sự nâng lên về trình độ văn hoá phổ
thông, chất lượng chính trị, trình độ giác ngộ chính trị, giác ngộ cách mạng của cán
bộ, chiến sĩ quân đội cũng được nâng lên. Những lớp cán bộ, chiến sĩ trong giai
đoạn cuối của cuộc chiến tranh được sinh ra, đào tạo, giáo dục trong chế độ xã hội
chủ nghĩa nên phẩm chất, năng lực, đạo đức cách mạng được nâng cao. Cán bộ,
chiến sĩ ở các đơn vị thuộc chiến trường miền Nam được tôi luyện trong đấu tranh
cách mạng, có bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm chiến đấu ngoan cường, được
huấn luyện đáp ứng yêu cầu phát triển của tình hình nhiệm vụ cách mạng. Bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, du kích phát triển rộng khắp trình độ chiến
đấu được nâng lên.
Các đơn vị quân đội ta do yêu cầu nhiệm vụ không chỉ tác chiến trên chiến
trường miền Nam mà còn tham gia thực hiện nhiệm vụ quốc tế, sát cánh chiến đấu
cùng với quân và dân Lào, Campuchia, đã làm cho trình độ chính trị, quân sự, kinh
nghiệm tác chiến quân đội ta được nâng lên đáng kể, tạo ra những bước tiến bộ
trưởng thành rất lớn so với trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Bảy là, quân đội ta được nhân dân chăm lo xây dựng về mọi măt, mối quan
hệ và tình đoàn kết quân dân đã được nâng lên ở tầm cao mới.
Quân đội ta là quân đội của dân, do dân, vì dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân
dân mà phục vụ; ra đời từ yêu cầu của cuộc đấu tranh cách mạng lật đổ chế độ
thực dân, phong kiến, mang lại cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Vì vậy, ngay từ khi thành lập, quân đội ta đã được nhân dân tin yêu, đùm bọc,
hết lòng chăm lo xây dựng. Do dựa được vào dân, được dân nuôi dưỡng, che
chở, giúp đỡ động viên về tình cảm, tinh thần nên trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, quân đội ta đã có sự trưởng thành nhanh chóng, chiến thắng vẻ vang,
không ngừng phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Sau khi hoà bình lập lại trên
miền Bắc, bước vào thời kỳ mới vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa
tiến hành kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, quân đội ta được Đảng,
Nhà nước, nhân dân hết lòng yêu thương, chăm lo xây dựng về mọi mặt. Hình
ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” luôn giành được tình cảm tốt đẹp, trìu mến của nhân dân ta.
Quân đội không phải là lực lượng đứng độc lập với nhân dân, mà sống trong
lòng nhân dân, là một bộ phận không thể tách rời khỏi nhân dân. Trong những
năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hầu hết các gia đình đều có người thân đã
và đang phục vụ trong quân đội, thậm chí nhiều thế hệ trong một gia đình công
tác, chiến đấu trong quân đội. Vì thế, quân đội là máu thịt của nhân dân, chăm lo
xây dựng quân đội không chỉ là trách nhiệm mà còn là tình cảm sâu nặng nghĩa
tình mà nhân dân ta dành cho quân đội. Mối quan hệ, đoàn kết quân dân trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã trở thành hình mẫu, biểu tượng sáng
ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Chính những tình cảm đó là nguồn động viên to lớn đối với mọi thế hệ cán
bộ, chiến sĩ quân đội sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp cách mạng, vì thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xứng đáng là quân đội cách mạng của
dân, do dân vì dân. Đây thực sự là một động lực chính trị, tinh thần to lớn để
quân đội ta đã chiến đấu và chiến thắng đội quân nhà nghề của đế quốc Mỹ và
quân đội chư hầu, góp phần cùng toàn dân giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc.
Những đặc điểm cơ bản trên đây đã tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp cách
mạng Việt Nam, nhất là trong xây dựng quân đội ta vững mạnh chính trị. Nhận
thức rõ các đặc điểm trên, Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai thác, phát huy
tốt sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giải quyết thành công những vấn đề
mới nảy sinh trong suốt 20 năm đánh Mỹ, đưa cách mạng đến toàn thắng bằng
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
1.2. Quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ
1.2.1. Giai đoạn 1954 – 1960
Tình hình, nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ của quân đội
Sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc bắt tay
vào khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã
hội. ở miền Nam, nhân dân miền Nam tiến hành đấu tranh chính trị đòi Mỹ,
Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ, đồng thời tìm phương thức thích hợp để vừa
hạn chế được tổn thất, thúc đẩy cách mạng ở miền Nam, vừa bảo vệ miền Bắc.
Tháng 7-1954, tại Việt Bắc đã diễn ra Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương (khóa II). Tại Hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản báo
cáo quan trọng. Báo cáo nhận định: Đế quốc Mỹ âm mưu kéo dài chiến tranh
Đông Dương, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, tìm cách hất cẳng thực dân Pháp để
độc chiếm Việt Nam, Campuchia và Lào… Cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ”.
Tháng 12 năm 1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (khóa II), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định, ta đang đồng thời tiến hành hai chiến lược cách
mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc. Từ ngày 12 đến ngày 22-1-1959, Hội nghị Trung ương
lần thứ 15 (khóa II) đã họp và ra Nghị quyết “Về tăng cường đoàn kết, kiên
quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà”. Sau những
nhận định về kẻ thù, về tình hình xã hội và cách mạng miền Nam, Nghị quyết đã
chỉ rõ nhiệm vụ của cách mạng miền Nam: “Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân
tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ
và giàu mạnh”; “Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh
chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài
Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập chính quyền liên hợp dân tộc
dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ,…”
[11–81,82].
Triển khai tinh thần của Nghị quyết Trung ương 13, miền Bắc tập trung vào
tháo gỡ khó khăn sau cuộc chiến tranh, xây dựng và củng cố miền Bắc trở thành
hậu phương lớn của cả nước. Trong 3 năm 1958-1960 đã hoàn thành về cơ bản
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công nghiệp, thương nghiệp, thủ
công nghiệp, nông nghiệp, bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
ở miền Nam, trong những ngày tháng chịu những tổn thất nặng nề, đại bộ
phận đồng bào miền Nam vẫn một lòng, một dạ tin, theo cách mạng, tiếp tục
cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất chống lại sự tàn ác của Mỹ, Diệm, gìn giữ
lực lượng. Từ 1955-1958 đã tổ chức được hơn 12 triệu lượt quần chúng đấu
tranh chính trị dưới các hình thức khác nhau. Trước những hành động hung ác
của kẻ thù, đồng bào miền Nam đã không chỉ có đấu tranh chính trị mà đã tiến
hành các cuộc đấu tranh vũ trang mang tính bạo lực của quần chúng với những
mức độ khác nhau, bằng nhiều hình thức phong phú và sáng tạo, đặc biệt là các
cuộc đồng khởi của nhân dân các tỉnh miền Trung Nam Bộ và miền Đông Nam
Bộ. Đến giữa năm 1959, cách mạng miền Nam đã ở trong quá trình khởi nghĩa
từng phần. Cao trào Đồng Khởi trên toàn miền Nam đã làm cho Mỹ, Diệm đứng
ngồi không yên, đồng thời khôi phục được các tổ chức cách mạng, lực lượng ba
thứ quân và hệ thống chỉ huy quân sự các cấp được hình thành, căn cứ địa được
củng cố và mở rộng. 20-12-1960 Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt
Nam được thành lập. Tháng 1 năm 1961 Trung ương cục miền Nam được thành
lập. Tháng 2 năm 1961, thành lập quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Vào
đầu năm 1960, cách mạng miền Nam chuyển hẳn sang thế tiến công.
Giai đoạn 1954–1960, quân đội có những nhiệm vụ chủ yếu: Xây dựng
quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước đến chính quy hóa, hiện đại
hóa; tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế trên miền Bắc. ở
miền Nam, các lực lượng vũ trang tìm mọi phương thức để bảo tồn và phát triển