Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tài nguyên sinh học và vấn đề đa dạng sinh học trong tự nhiên và đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.37 KB, 16 trang )

CHỦ ĐỀ 3:
Tài nguyên sinh học và vấn đề đa dạng sinh học trong tự nhiên và đời sống

MỤC LỤC


A. MỞ BÀI
- Đa dạng sinh học là sự giàu có, phong phú các nguồn gen, các loài và các hệ sinh
thái trên bề mặt trái đất, là tài nguyên tái tạo, đóng vai trò quan trọng trong sự phát
triển tiến hóa của sinh giới và đặc biệt là đối với đời sống con người. Công ước đa
dạng sinh học ghi nhận giá trị kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, giải trí, sinh thái
và môi trường, và cũng nhấn mạnh vai trò của nó đối với sự sống của con người
hiện tại và tương lai.
- Đa dạng sinh học không chỉ cung cấp nguyên liệu cho việc cải thiện các sản
phẩm nông nghiệp, công nghiệp và y dược, cải thiện điều kiện sinh thái, điều hòa
khí hậu, mà nó cũng là nguyên liệu cho quá trình tiến hóa sinh học.

B. NỘI DUNG
I. Khái niệm
Đa dạng sinh học là toàn bộ sự phong phú của cơ thể sống và các tổ hợp sinh thái
mà chúng là thành viên, bao gồm sự đa dạng bên trong, giữa các loài và sự đa dạng
của các hệ sinh thái (theo Công ước của Liên hợp quốc năm 1992 về Môi trường
và phát triển).
II.Phân loại đa dạng sinh học
Việt Nam là một nước nhiệt đới gió mùa. Do vị trí địa lý, Việt Nam rất đa dạng về
địa hình, kiểu đất, cảnh quan, có đặc trưng khí hậu khác nhau giữa các miền. Đặc
điểm đó là cơ sở rất thuận lợi để giới sinh vật phát triển đa dạng về thành phần
loài, phong phú về số lượng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế -xã hội,
mức độ đa dạng sinh học ở Việt Nam có nhiều thay đổi theo thời gian.
Đa dạng sinh học gồm 3 mức độ như sau:
- Đa dạng di truyền là sự phong phú những biến dị trong cấu trúc di truyền của các


cá thể bên trong loài hoặc giữa các loài; những biến dị di truyền bên trong hoặc
giữa các quần thể.
- Đa dạng loài là sự phong phú về các loài được tìm thấy trong các hệ sinh thái tại
một vùng lãnh thổ xác định thông qua việc điều tra, kiểm kê.
- Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái khác nhau ở cạn
cũng như ở nước tại một vùng nào đó. Hệ sinh thái là hệ thống bao gồm sinh vật và
môi trường tác động lẫn nhau mà ở đó thực hiện vòng tuần hoàn vật chất, năng
lượng và trao đổi thông tin.
2


1. Đa dạng loài
- Đa dạng loài là sự phong phú về các loài được tìm thấy trong các hệ sinh thái tại
một vùng lãnh thổ xác định thông qua việc điều tra, kiểm kê.
Tầm quan trọng về mặt sinh thái học của một loài có thể có ảnh hưởng trực tiếp
đến cấu trúc quần xã, và do đó đến đa dạng sinh học. Theo các tài liệu thống kê,
Việt Nam là một trong 25 nước có mức độ ĐDSH cao trên thế giới với dự tính có
thể có tới 20.000-30.000 loài thực vật. Việt Nam được xếp thứ 16 về mức độ
ĐDSH (chiếm 6,5% số loài có trên thế giới).
1.1. Đa dạng loài trong hệ sinh thái trên cạn
Khu hệ thực vật: Tổng kết các công bố về hệ thực vật Việt Nam, đă ghi nhận có
15.986 loài thực vật ở ViệtNam. Trong đó, có 4.528 loài thực vật bậc thấp và
11.458 loài thực vật bậc cao. Trong số đó có 10 % số loài thực vật là đặc hữu.
Khu hệ động vật: cho đến nay đă thống kê được 307 loài giun tròn, 161 loài giun
sán ký sinh ở gia súc, 200 loài giun đất, 145 loài ve giáp, 113 loài bọ nhảy, 7.750
loài côn trùng, 260 loài bò sát, 120 loài ếch nhái, 840 loài chim, 310 loài và phân
loài thú.
1.2. Đa dạng loài trong hệ sinh thái đất ngập nước nội địa
Các thủy vực nước ngọt nội địa Việt Nam rất đa dạng về hệ thực vật cũng như hệ
động vật, bao gồm các nhóm vi tảo, rong, các loài cây cỏ ngập nước và bán ngập

nước, động vật không xương sống và cá.
1.3. Đa dạng loài trong các hệ sinh thái biển và ven bờ
Đặc tính của khu hệ sinh vật biển Việt Nam thể hiện rő ở đặc tính nhiệt đới, đặc
tính hỗn hợp, đặc tính ít đặc hữu và đặc tính khác biệt bắc - nam. Trong vùng biển
nước ta đă phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ
sinh thái điển hình và thuộc 6 vùng đa dạng sinh học biển khác nhau,
2. Đa dạng hệ sinh thái
- Đa dạng hệ sinh thái là sự phong phú về các kiểu hệ sinh thái khác nhau ở cạn
cũng như ở nước tại một vùng nào đó. Hệ sinh thái là hệ thống bao gồm sinh vật và
môi trường tác động lẫn nhau mà ở đó thực hiện vòng tuần hoàn vật chất, năng
lượng và trao đổi thông tin.
2.1. Hệ sinh thái trên cạn
3


Trong các kiểu hệ sinh thái trên cạn thì rừng có sự đa dạng về thành phần loài cao
nhất, đồng thời đây cũng là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật hoang dã và vi
sinh vật có giá trị kinh tế và khoa học. Các kiểu hệ sinh thái tự nhiên khác có thành
phần loài nghèo hơn.
2.2. Hệ sinh thái đất ngập nước
Công ước Ramsar định nghĩa "Đất ngập nước là những vùng đầm lầy, than bùn
hoặc vùng nước bất kể là tự nhiên hay nhân tạo, thường xuyên hay tạm thời, có
nước chảy hay nước tù, là nước ngọt, nước lợ hay nước biển kể cả những vùng
nước biển có độ sâu không quá 6 mét khi triều thấp".
Đất ngập nước (ĐNN) Việt Nam rất đa dạng về loại hěnh và hệ sinh thái, thuộc 2
nhóm ĐNN: ĐNN nội địa, ĐNN ven biển. Trong đó có một số kiểu có tính ĐDSH
cao:
- Rừng ngập mặn ven biển: Rừng ngập mặn có các chức năng và giá trị như cung
cấp các sản phẩm gỗ, củi, thủy sản và nhiều sản phẩm khác; là bãi đẻ, bãi ăn và
ương các loài cá, tôm, cua và các loài thủy sản có giá trị kinh tế khác; xâm chiếm

và cố định các bãi bùn ngập triều mới bồi, bảo vệ bờ biển chống lại tác động của
sóng biển và bão tố ven biển; là nơi cư trú cho rất nhiều loài động vật hoang dã bản
địa và di cư (chim, thú, lưỡng cư, bò sát).
- Đầm lầy than bùn: đầm lầy than bùn là đặc trưng cho vùng Đông Nam Á. U Minh
thượng và U Minh hạ thuộc các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau là hai vùng đầm lầy than
bùn tiêu biểu còn sót lại ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
- Đầm phá: thường thấy ở vùng ven biển Trung bộ Việt Nam. Do đặc tính pha trộn
giữa khối nước ngọt và nước mặn nên khu hệ thủy sinh vật đầm phá rất phong phú
bao gồm các loài nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Cấu trúc quần xã sinh vật đầm
phá thay đổi theo mùa rõ rệt.
- Rạn san hô, cỏ biển: đây là các kiểu hệ sinh thái đặc trưng cho vùng biển ven bờ,
đặc biệt rạn san hô đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới. Quần xă rạn san hô rất
phong phú bao gồm các nhóm động vật đáy (thân mềm, giáp xác), cá rạn. Thảm cỏ
biển thường là nơi cư trú của nhiều loại rùa biển và đặc biệt loài thú biển Dugon.
- Vùng biển quanh các đảo ven bờ: ven bờ biển Việt Nam có hệ thống các đảo rất
phong phú. Vùng nước ven bờ của hầu hết các đảo lớn được đánh giá có mức độ
ĐDSH rất cao với các hệ sinh thái đặc thù như rạn san hô, cỏ biển...
Việt Nam có 2 vùng ĐNN quan trọng là ĐNN vùng cửa sông đồng bằng sông
Hồng và ĐNN đồng bằng sông Cửu Long.

4


Mỗi kiểu hệ sinh thái ĐNN đều có khu hệ sinh vật đặc trưng của mình. Tuy
nhiên, đặc tính khu hệ sinh vật của các hệ sinh thái này còn phụ thuộc vào từng
vùng cảnh quan và vùng địa lý tự nhiên.
2.3. Hệ sinh thái biển
Việt Nam có đường bờ biển dài 3.260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 1
triệu km2 với nguồn tài nguyên sinh vật biển khá phong phú. Trong vùng biển nước
ta đã phát hiện được chừng 11.000 loài sinh vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh

thái điển hình, thuộc 6 vùng ĐDSH biển khác nhau.
3. Đa dạng di truyền
Đa dạng di truyền là sự phong phú những biến dị trong cấu trúc di truyền của các
cá thể bên trong loài hoặc giữa các loài; những biến dị di truyền bên trong hoặc
giữa các quần thể.
Theo đánh giá của Jucovski (1970), Việt Nam là một trong 12 trung tâm nguồn gốc
giống cây trồng của thế giới. Mức độ ĐDSH của hệ thực vật cây trồng ở
Việt Nam cao hơn nhiều so với dự đoán.
Nguồn gen giống cây trồng, vật nuôi
Ở Việt Nam, hiện nay đang sử dụng trong sản xuất nông nghiệp 16 nhóm các loài
cây trồng khác nhau như cây lương thực chính, cây lương thực bổ sung, cây ăn
quả, cây rau, cây gia vị, cây làm nước uống, cây lấy sợi, cây thức ăn gia súc, cây
bóng mát, cây công nghiệp, cây lấy gỗ... với tổng số trên 800 loài cây trồng với
hàng nghìn giống khác nhau. Có 3 nhóm cây trồng đang được nông dân sử dụng.
- Các giống cây trồng bản địa: Nhóm giống cây trồng này hiện nay đang chiếm vị
trí chủ đạo đối với nhiều loại cây trồng. Trong số nhóm giống cây trồng này có
những giống đă được nông dân sử dụng và lưu truyền hàng nghìn năm nay.
- Các giống cây trồng mới: Là những giống cây có khả năng cho năng suất cao và
có một số đặc tính tốt khác như: phẩm chất nông sản tốt, khả năng chống chịu sâu
bệnh cao... được các nhà khoa học chọn lọc, lai tạo thành.
- Các giống cây trồng được nông dân ở các tỉnhh biên giới trao đổi với nhau qua
biên giới.
Hiện nay, Ngân hàng gen cây trồng Quốc gia đang bảo tồn 12.300 giống của 115
loài cây trồng. Đây là tài sản quý của đất nước, phần lớn không còn trong sản xuất
và trong tự nhiên nữa. Một bộ phận quan trọng của số giống này là nguồn gen bản
địa với nhiều đặc tính quý mà duy nhất chỉ nước ta có.
Về vật nuôi, hiện nay Việt Nam có 14 loài gia súc và gia cầm đang được chăn
nuôi chủ yếu bao gồm 20 giống lợn trong đó có 14 giống nội, 21 giống bò (5 giống
5



nội), 27 giống gà (16 giống nội), 10 giống vịt (5 giống nội), 7 giống ngan (3 giống
nội), 5 giống ngỗng (2 giống nội), 5 giống dê (2 giống nội), 3 giống trâu (2 giống
nội), 1 giống cừu, 4 giống thỏ (2 giống nội), 3 giống ngựa (2 giống nội), bồ câu,
hươu và nai (có khoảng 10 ngàn con hươu nai được nuôi trong toàn quốc).
III. Thực trạng đa dạng sinh học trên thế giới và Việt Nam
1. Trên thế giới
- Cho đến nay, người ta đã biết trên 1,7 triệu loài được mô tả và ít nhất là còn gấp 2
lần con số này chưa được con người biết đến đặc biệt là côn trùng.
- Trong số 80.000 loài thực vật có khả năng cung cấp nguồn lương thực,thực phẩm,
con người mới sử dụng có hiệu quả khoảng 1.500 loài. Các nguồn lợi về cây thuốc
trong tự nhiên còn rất lớn. Cho đến nay mới chỉ phát hiện khoảng 5.000 loài cây
dược liệu và mang lại cho thế giới ước khoảng 40 tỉ USD/năm.
- Về các loài động vật hoang dã thì có nhiều loại đã bị tuyệt chủng hoặc có nguy cơ
tuyệt chủng cao: chim bồ câu viễn khách, khỉ “mắt kính”, chim ưng, khỉ lông vàng,
cọp, tê giác, vượn,…
- Những vùng có đa dạng sinh học cao nhất thế giới là rừng mưa nhiệt đới ở Đông
Nam Á, Trung và Tây Phi và vùng nhiệt đới Nam Mỹ. Hơn một nữa số loài của cả
thế giới tập trung trong các vùng rừng mưa nhiệt đới.
+ Về thực vật: đến nay thống kê được khoảng 90.000 loài có mặt ở vùng nhiệt đới.
Vùng nhiệt đới Nam Mỹ là nơi giàu loài nhất, chiếm 1/3 tổng số loài: Brazil có
55.000 loài, Colombia có 35.000 loài, Venezuela có 15.000-25.000 loài. Vùng châu
Phi kém đa dạng hơn Nam Mỹ: Tazania 10.000 loài, Camorun 8.000 loài, trong khi
đó toàn bộ vùng Bắc Mỹ, Âu, Á chỉ có 50.000 loài. Xét chung, vùng nhiệt đới
chiếm 2/3 con số ước tính 250.000 loài thực vật có mạch trên thế giới.
+ Động vật có xương sống: tỷ lệ số loài động vật có xương sống ở cạn tìm thấy
trong các rừng nhiệt đới có thể so sánh với con số này của thực vật. Số loài chim
của rừng nhiệt đới ước tính là 2600, trong đó 1300 loài tìm thấy ở vùng tân nhiệt
đới,400 loài ở vùng nhiệt đới châu Phi, 900 loài ở vùng nhiệt đới châu Á. Con số
này xấp xỉ 30% tổng số loài toàn cầu.

+ Động vật không xương sống: Khoảng 30 triệu loài động vật chân khớp, chiếm
96% tổng số loài trên trái đất, có thể tồn tại trong các rừng nhiệt đới
6


- Cùng với sự phát triển công nghiệp, tính đa dạng sinh học trên trái đất ngày càng
giảm dần. Trước hết do sự phá hủy rừng, nhất là rừng mưa nhiệt đới ngày một
tăng. Nhiều loài sinh vật đang bị đe dọa và có thể bị tuyệt chủng, có loài còn bị
tuyệt chủng trước khi phát hiện. Từ năm 1660 đến nay, người ta đã thống kê tới
hơn 700 loài động vật có xương sống, không xương sống và thực vật có mạch đã bị
tuyệt chủng.
- Một số nhà khoa học cho rằng với tốc độ tuyệt chủng của các sinh vật như hiện
nay thì đến giữa thế kỉ XXI, khoảng 25% số loài sinh vật trên trái đất sẽ bị mất đi.
- Sự nóng lên của khí hậu toàn cầu là nguyên nhân làm thay đổi điều kiện sống của
sinh vật, dẫn đến nạn tuyệt chủng của nhiều loài.
2. Ở Việt Nam
- Việt Nam được xem là một trong những nước thuộc Đông Nam Á giàu về đa
dạng sinh học và được xếp thứ 16 trong số các quốc gia có đa dạng sinh học cao
nhất trên thế giới. Do sự khác biệt lớn về khí hậu, từ vùng gần xích đạo tới giáp
vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình, đã tạo nên tính đa dạng sinh
học cao ở Việt Nam.
- Hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú, bao gồm 1.458 loài động vật, 21.017
loài thực vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử
dụng để cung cấp vật liệu di truyền. Cụ thể, hệ động thực vật của Việt Nam không
những giàu về thành phần loài mà còn có nhiều nét độc đáo đặc trưng cho vùng
Đông Nam Á với 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch, khoảng 1.500 loài rêu,
2500 loài tảo, 286 loài bò sát, 3170 loài cá, 7500 loài côn trùng và các động vật có
xương sống khác.
- Trong 30 năm qua, nhiều loài động thực vật được bổ sung vào danh sách các loài
của Việt Nam như 5 loài thú mới là sao la, mang lớn, mang Trường Sơn, chà vá

chân xám và thỏ vằn Trường Sơn, 3 loài chim mới là khướu vằn đầu đen, khướu
Ngọc Linh và khướu Kon Ka Kinh, khoảng 420 loài cá biển và 7 loài thú biển.
Nhiều loài mới khác thuộc các lớp bò sát, lưỡng cư và động vật không xương sống.
Về thực vật, tính từ năm 1993 đến 2002, các nhà khoa học đã ghi nhận thêm 2 họ,
19 chi và trên 70 loài mới. Tỷ lệ phát hiện loài mới đặc biệt cao ở họ Lan có 3 chi
mới và 62 loài mới; 4 chi và 34 loài đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam. Ngành hạt
7


trần có 1 chi và 3 loài mới lần đầu tiên phát hiện trên thế giới; 2 chi và 12 loài được
bổ sung vào danh sách thực vật của Việt Nam.
- Tuy nhiên, hiện nay đa dạng sinh học ở nước ta đang suy thoái rất nhanh. Diện
tích các khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng bị thu hẹp dần. Số loài và
số lượng cá thể của các loài hoang dã bị suy giảm mạnh. Nhiều loài hoang dã có
giá trị bị suy giảm hoàn toàn về số lượng hoặc bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao.
Các nguồn gen hoang dã cũng đang trên đà suy thoái nhanh và thất thoát nhiều.
Suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp
đến môi trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước.
Sách đỏ Việt Nam năm 1992 mới chỉ có 721 loài động thực vật bị đe dọa ở các
mức khác nhau thì đến năm 2007 số loài này đã lên đến 882. Ngoài ra nhiều giống
cây trồng vật nuôi bản địa quý giá như lúa, đậu tương, ngô, cây ăn quả, các loài cá,
lợn, gà… cũng đã mất dần. Đây là một tổn thất rất lớn trên tất cả các phương diện:
kinh tế, khoa học, môi trường, và nhân văn.
- Theo thống kê năm 2013, 10 loài có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt Nam: bò tót, sao
la, hổ, hươu vàng, vọc mũi hếch, vọc đầu trắng, voi, rùa da, có quắm cánh xanh.
IV. Nguyên nhân
1. Nguyên nhân cơ bản
- Sự suy giảm và sự mất đi nơi sinh cư. Sự suy giảm và sự mất đi nơi sinh cư có
thể do các hoạt động của con người như sự chặt phá rừng (kể cả rừng ngập mặn),
đốt rừng làm rẫy, chuyển đổi đất sử dụng, khai thác huỷ diệt thuỷ sản..., các yếu tố

tự nhiên như động đất, cháy rừng tự nhiên, bão, lốc, dịch bệnh, sâu bệnh.
- Sự khai thác quá mức. Do áp lực tăng dân số, sự nghèo khổ đã thúc đẩy sự khai
thác quá mức tài nguyên sinh vật và làm giảm đa dạng sinh học. Đáng kể là tài
nguyên thuỷ sản ven bờ bị suy kiệt nhanh chóng. Mặt khác, một số phương thức
khai thác có tính huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sản như nổ mìn, hoá chất đang được sử
dụng, đặc biệt các vùng ven biển.
- Ô nhiễm môi trường. Một số hệ sinh thái bị ô nhiễm bởi các chất thải công
nghiệp, chất thải từ khai khoáng, phân bón trong nông nghiệp, thậm chí chất thải
đô thị. Trong đó đáng lưu ý là tình trạng ô nhiễm dầu đang diễn ra tại các vùng
nước cửa sông ven bờ, nơi có hoạt động tầu thuyền lớn.

8


- Ô nhiễm sinh học. Sự nhập các loài ngoại lai không kiểm soát được, có thể gây
ảnh hưởng trực tiếp qua sự cạnh tranh, sự ăn mồi hoặc gián tiếp qua ký sinh trùng,
xói mòn nguồn gen bản địa và thay đổi nơi sinh cư với các loài bản địa.
2. Nguyên nhân trực tiếp
a. Khai thác, sử dụng không bền vững tài nguyên sinh vật
- Khai thác gỗ: Trong giai đoạn từ 1986-1991, các lâm trường quốc doanh đã khai
thác trung bình 3,5 triệu mét khối gỗ mỗi năm. Thêm vào đó, khoảng 1-2 triệu m3
gỗ được khai thác ngoài kế hoạch. Số gỗ này nếu qui ra diện tích thì mỗi năm bị
mất đi khoảng 80.000 ha rừng. Ngoài ra,, nạn chặt gỗ trái phép thường xảy ra ở
khắp nơi, kể cả ở các trong các khu rừng bảo vệ. Hậu quả là rừng có chất lượng bị
cạn kiệt nhanh chóng.
- Khai thác củi: Theo thống kê, trong phạm vi toàn quốc, hàng năm một lượng củi
khoảng 21 triệu tấn được khai thác từ rừng phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong gia
đình. Lượng củi này nhiều gấp 6 lần lượng gỗ xuất khẩu hàng năm (Phạm Bình
Quyền và nnk, 1999).
- Khai thác động vật hoang dại: đồng thời với nạn phá rừng, nạn săn bắn cũng gây

nên tình trạng suy giảm ĐDSH. Theo điều tra, năm 1995 toàn quốc có tới 39.671
khẩu súng các loại hiện đang sử dụng để săn bắn chim thú, bình quân mỗi thôn bản
có 12 khẩu. Với số lượng người đi săn với những thứ vũ khí kể trên chưa kể đến
các loại bẫy thường dùng như: bẫy treo, bẫy kẹp, bẫy thòng lọng, bẫy sập, bẫy
lồng, lưới...nên số lượng cá thể động vật rừng bị săn bắt khá cao. Chỉ kể 18 loài
động vật thuộc diện quí hiếm đã ghi trong sách đỏ Việt Nam, từ năm 1991-1995,
đã có tới 8.964 cá thể bị săn bắt, bình quân hàng năm có tới 1.743 cá thể động vật
quí hiếm bị săn bắt.
- Khai thác các sản phẩm khác: Trong số khoảng 3.300 loài thực vật cho các sản
phẩm ngoài gỗ như song mây, tre nứa lá, cây thuốc, cây tinh dầu… đã được khai
thác nhiều để dùng và bán trên các thị trường trong nước cũng như xuất khẩu.
Trầm, một loại thuốc đặc biệt qúy hiếm, một loại hương liệu cao cấp đã bị săn lùng
khai thác để xuất khẩu. Chỉ trong một số năm, có tới trên 300 tấn trầm đã bị bán ra
nước ngoài. Các dẫn liệu trong bảng 6.8 cho thấy, chỉ sau năm năm khai thác, một
lượng trầm khá lớn đã bị mất đi đồng thời còn chứng tỏ khối lượng trầm khai thác
được cũng ngày càng giảm xuống rõ rệt.
b. Cháy rừng
Do điều kiện khí hậu của Việt Nam, khả năng cháy rừng vào mùa khô hàng năm là
rất lớn. Trung bình mỗi năm có 25.000-100.000 ha rừng bị cháy ở Việt Nam, nhất
9


là ở vùng cao nguyên Trung Bộ. Theo các thống kê, kể từ năm 1995 trở lại đây,
cháy rừng đã được giảm nhiều so với thời gian trước dó nhưng mức độ trầm trọng
của cháy rừng lại cao hơn như vụ cháy rừng tràm U Minh trong các năm
2002,2003. Sự kiện cháy rừng vào tháng 3, 4 năm 2002 tại vườn Quốc gia U Minh
Thượng là một tai hoạ đối với tài nguyên sinh vật và ĐDSH. Vườn Quốc gia U
Minh Thượng là vùng rừng tự nhiên trên ĐNN có nền đất than bùn. Rừng U Minh
Thượng bị cháy khoảng 4.000 ha, rừng U Minh Hạ bị cháy khoảng 300 ha. Tại U
Minh Thượng, trước khi bị cháy rừng đã thống kê được 32 loài thú. Sau khi bị

cháy, ít nhất có 25 loài thú (78,2%) bị ảnh hưởng với các mức độ khác nhau. Một
số loài có nguy cơ không gặp lại ở HST độc đáo này: Dơi ngựa lớn Pteropus
vampirus; Sóc lửa Callosciurus finlaysoni; Rái cá lông mũi Lutra sumatrana; Rái
cá vuốt bé Aonyx cirerea; Mèo cá Prrionailurus viverinus; Tê tê Manis javanica;
Cầy giông đốm lớn Viverra megaspila; Cầy vòi hương Paradoxurus
hermaphroctulus; Dơi ngựa Thái lan Pteropus lylei; Mèo rừng Prionailurus
bengalensis.
Các loài chim vì có khả năng di chuyển nhanh nên ảnh hưởng ngay lập tức không
lớn. Tuy nhiên, về lâu dài, cấu trúc thành phần loài chim thay đổi do mất nơi cư trú
hoặc nguồn thức ăn từ quả, hạt, thuỷ sinh vật. Trước khi bị cháy, tại vườn Quốc gia
U Minh thượng có 94 loài chim thuộc 15 họ. Kết quả kiểm kê sơ bộ sau vụ cháy
rừng, chỉ còn 76 loài chim thuộc 11 họ. Một số loài không gặp lại như: Bồ nông
chân xám Pelicunus philippinensis; Cốc đen Phalacrocolax niger; Cổ rắn Anhinga
melunogaster; Quắm đen Pelegaclis falcinellus; Quắm trắng Threskiornis
melanocephalus; Cò lao ấn Độ Myctera leucocephala; Cò Nhạn Anatomus
oscitans; Hạc cổ trắng Ciconia episcopus; Diều hâu Milvus migrans; Ưng xám
Accipiter badius; Đại bàng đen Anguila clanga; Cú lợn lưng xám Tylo alba; Quạ
đen Corvus macrorhynchus; Sáo đá Trung Quốc Sturnus sinensis; Sáo sậu S.
nigricollis.
Các loài bò sát cũng bị ảnh hưởng sau vụ cháy rừng: Tắc kè Gecko gecko; Kỳ đà
vằn Varanus salvador; Trăn đất Python molurus; Rùa rảo thường Ptyas korrus; Rắn
ráo trâu Ptyas mucosus; Rắn cạp nong Bungarus fasciatus; Rắn Hổ mang Naja
naja; Rắn hộp lưng đen Cuora amboimensis.
Bên cạnh các diễn biến bất lợi của yếu tố thời tiết, khí hậu Việt Nam cũng như toàn
cầu thì các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên rừng của người dân địa phương
như đốt rừng làm rãy, đốt than, hun khói lấy mật ong, khai thác gỗ chọn để lại cây
bụi... là những nguyên nhân gây cháy rừng.

c. Chuyển đổi phương thức sử dụng đất
10



Trong thời gian gần đây, do nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, các HST rừng tự
nhiên tự nhiên với tính ĐDSH cao bị thu hẹp diện tích hoặc chuyển sang các HST
thứ sinh khác. Chỉ riêng hình thức du canh, du cư của một số dân tộc vùng núi đã
biến 13 triệu ha rừng thành đất trống, đồi núi trọc. ở Tây Nguyên và vùng Đông
Nam Bộ, đã có lúc rừng bị phá ồ ạt và chuyển sang trồng các cây công nghiệp như
cà phê, tiêu, cao su, điều. Sau đó, do đầu ra khó khăn nên cao su, cà phê lại bị chặt
bỏ để trồng cây khác. ở huyện Ea Súp (Đắc Lắc) đã có chủ trương thay 23.000 ha
đất rừng cây họ dầu Dipterocarpus để trồng điều. Việc làm này đã làm mất nơi cư
trú của một số loài thú đặc trưng cho rừng khộp như Bò tót (Bos gaurus), Bò rừng
(Bos banteng), Nai (Cervus unicolor)... Nhiều diện tích rừng ở phía Bắc bị phá để
trồng các cây lương thực năng xuất thấp, sau đó để hoang hoá thành đồi núi trọc.
Chuyển vùng cát thành đầm nuôi tôm công nghiệp: vùng cát ven biển là kiểu HST
đặc thù của vùng Trung Bộ. Theo thống kê, tổng diện tích vùng cát từ Hà Tĩnh đến
Ninh Thuận là 85.100 ha. Đến năm 2001, 571,4 ha vùng cát đã được cải tạo thành
đầm nuôi tôm công nghiệp. Riêng Phú Yên và Ninh Thuận có diện tích nuôi tôm
trên cát đã tới 300 ha. Hầu hết vùng cát ven biển là vùng hoang hóa với chức năng
chủ yếu là rừng Phi lao phòng hộ chắn cát. Việc chuyển vùng cát sang đầm nuôi
tôm sú với năng xuất trung bình ở Ninh Thuận 5,54 tấn/ha/vụ rõ ràng đã mang lại
lợi nhuận rất lớn, góp phần xóa đói giảm nghèo cho nhân dân ở vùng đất nghèo
khó này, nâng cao đời sống xã hội cho địa phương.

d. Ô nhiễm môi trường
Hiện nay, chất lượng môi trường nhiều nơi, nhiều lúc đã tới mức báo động. Nhiều
thành phần môi trường bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm do các nguồn thải khác
nhau (nước thải, khí thải, chất thải rắn) là nguyên nhân đe doạ tới ĐDSH. Trực tiếp
là gây chết, làm giảm số lượng cá thể, gián tiếp làm huỷ hoại nơi cư trú và môi
trường sống của các loài sinh vật hoang dại.
V. Hậu quả

Suy thoài đa dạng sinh học dẫn đến:
+ Mất cân bằng sinh thái
+ Ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người
+ Đe dọa sự phát triển bền vững của trái đất
+ Tác động đến con người: ảnh hưởng đến kinh tế-xã hội
11


 Mất nguồn dự trữ cơ bản của trái đất (các loài sinh vật, các gen di truyền) và
làm suy giảm mất khả năng đấp ứng nhu cầu của con người như tính bền vững của
các hệ sinh thái.
 Con người mất đi nguồn thức ăn, thuốc chữa bệnh, các sản phẩm công nghiệp
của ngày hôm nay cũng như tương lai. Khả năng duy trì và thúc đẩy năng suất
nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, chăn nuôi bị giảm sút,…làm cho con người
có nguy cơ đối mặt với đói nghèo
 Và nhiều hậu quả nghiêm trọng khác ảnh hưởng đến con người cũng như toàn
bộ dạng sống trên trái đất.
Cụ thể là:
- Gây biến đổi khí hậu toàn cầu dẫn đến hàng loạt các thảm họa thiên nhiên đe dọa
cuộc sống của con người và các sinh vật trên trái đất. Do các hệ sinh thái của quả
đất là cơ sở sinh tồn của sự sống trên trái đất nói chung là ở Việt Nam nói riêng,
trong đó có loài người.
- Hoạt động khai thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ trái phép đã và đang diễn ra ngày
càng trầm trọng và không thể kiểm soát đối với tất cả các loại rừng.
+ Tổng số các loài động - thực vật hoang dã trong thiên nhiên của nước ta
đang bị đe dọa hiện nay là 882 loài (được ghi trong Sách Đỏ năm 2007) tăng 161
loài so với lần xuất bản Sách Đỏ trước đây (năm 1992 - 1996).
+ Hiện có tới 9 loài động vật (Tê giác 2 sừng, Bò xám, Heo vòi, Cầy rái cá,
cá Chép gốc, cá Chình Nhật, cá Lợ thân thấp, Hươu sao, cá Sấu hoa cà) và 2 loài
Lan hài được xem là đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên.

- Mất ĐDSH cac loài cây và con mà chúng ta nuôi trồng không còn được bổ sung
những tính trạng di truyền mới lấy từ các cây con hoang dã.
+ Nhiều loài cây con hoang dã không còn cung cấp nhiều sản phẩm có giá trị
cho thương mại, làm thuốc quý,,, Đến nay đã có khoảng 40% các loại thuốc có gốc
từ các cây hoang dã nhưng đang bị suy giảm nghiêm trọng. (VD: Nấm lim
xanh,Trầm hương)
- Đối với tài nguyên sinh vật biền: Đánh bắt thủy hải sản quá mức đã phá vỡ rạn
san hô, một số rơi vào trạng thái không thể phục hồi. Khiến cho nhiều loài sinh vật
12


không có nơi cư trú, từ đó làm giảm sút ÐDSH hệ sinh thái rạn san hô và sinh vật
biển.
- Khai thác quá mức các loại tài nguyên sinh học  Mất đi tài nguyên du lich
quý giá, mất đi giá trị kinh tế cao từ nông lâm ngư.
+ Du lịch sinh thái rừng mưa nhiệt đới
+ Du lịc sinh thái ngập mặn ven biển
+ Du lịch sinh thái san hô,…
Về mặt đạo lý mà nói, khi chũng ta làm suy giảm sự phong phú đa dạng sinh học
tức là chúng ta đã vô tình loại trừ nhiều dạng sống mà chúng có quyền

VI. Biện pháp
Để ngăn ngừa sự suy thoái đa dạng sinh học, nước ta đã tiến hành công tác bảo
tồn đa dạng sinh học khá sớm.
6.1. Xây dựng các vườn quốc gia và khu bảo tồn
Bao gồm các phương pháp và công cụ nhằm mục đích bảo vệ các loài, các
chủng và các sinh cảnh, các hệ sinh thái trong điều kiện tự nhiên.
- Hệ thống khu bảo tồn ở Việt Nam hiện nay gồm 211 khu, trong đó:
+ Các khu bảo tồn rừng (rừng đặc dụng): 128 khu bảo tồn.
+ Các khu bảo tồn biển: 15 khu bảo tồn.

+ Các khu bảo tồn đất ngập nước: 68 khu bảo tồn.
6.2. Ban hành sách đỏ Việt Nam
- Sách đỏ Việt Nam là danh sách các loài động vật, thực vật ở Việt Nam thuộc
loại quý hiếm, đang bị giảm sút số lượng hoặc có đã nguy cơ tuyệt chủng. Đây là
căn cứ khoa học quan trọng để Nhà nước ban hành những Nghị định và Chỉ thị về
việc quản lý bảo vệ và những biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển những
loài động thực vật hoang dã ở Việt Nam.
13


6.3. Đưa ra các quy định về khai thác
Tuân theo quy định bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học phải tuân
thủ nguyên tắc:
- Kết hợp hài hòa giữa bảo tồn và khai thác, sử dụng hợp lí đa dạng sinh học;
giữa bảo tồn và khai thác, sử dụng hợp lí đa dạng sinh học với việc xóa đói, giảm
nghèo.
- Bảo tồn tại chổ là chính, kết hợp giữa bảo tồn tại chổ và bảo tồn chuyển chổ.
- Tổ chức, cá nhân hưởng lợi từ việc khai thác, sử dụng đa dạng sinh học phải
chia sẻ lợi ích với các bên có liên quan.
- Bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của tổ chức, cá nhân.
- Bảo đảm quản lý rủi ro do sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền của sinh vật
biến đổi gen gây ra đối với đa dạng sinh học.
6.4. Tăng cường trồng rừng
Hiện nay, nạn phá rừng ở nước ta đã đến mức báo động, phá rừng theo cách đơn
giản nhất để làm nương rẫy, phá rừng để kiếm khoáng sản, phá rừng lấy gỗ.
- Bảo vệ, phục hồi, tái sinh rừng tự nhiên, đẩy mạnh trồng rừng, nhất là rừng
ngập mặn, rừng phòng hộ ven biển, rừng đầu nguồn. Ngăn chặn có hiệu quả nạn
phá rừng, cháy rừng. Sớm dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên.
6.5. Phát triển du lịch sinh thái
Xây dựng các mô hình du lịch sinh thái ở một số khu bảo tồn thiên nhiên và

vườn quốc gia, ưu tiên các vườn quốc gia Cát Bà, Phong Nha - Kẻ Bàng, Cát Tiên,
Phú Quốc và khu bảo tồn thiên nhiên Cần Giờ;
6.6. Nâng cao nhận thức chung của toàn dân về đa dạng sinh học và bảo tồn

14


- Giáo dục trong nhà trường: Cần chính thức đưa vấn đề bảo tồn Đa dạng sinh
học vào nội dung giáo dục chính quy trong tất cả các trường học,từ lớp mầm non
đến các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông.
+ Do tính chất liên ngành mà nội dung đa dạng sinh học có thể lồng ghép vào
các nội dung của nhiều môn học khác như: Sinh học; địa lí; văn học; hóa học; giáo
dục công dân; sinh hoạt ngoại khóa.
- Giáo dục ngoài nhà trường: Nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học phải được
đẩy mạnh thực hiện ngoài phạm vi nhà trường mà đối tượng là đông đảo quần
chúng, cộng đồng dân cư, nhất là những người sống chủ yếu dựa vào nguồn khai
thác tài nguyên sinh học.
+ Công việc này củng cần thực hiện ở những nơi có đông đảo nhân dân đến
thăm như các bảo tàng, vườn thú, vườn thực vật, vườn quốc gia
6.7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ tính đa dạng sinh học
- Tăng cường hợp tác với các nước ASEAN trong việc xây dựng hệ thống thông
tin, cơ sở dữ liệu, tổ chức diễn đàn, mạng lưới trao đổi kinh nghiệm về bảo tồn và
phát triển bền vững đa dạng sinh học và an toàn sinh học;
- Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế về bảo tồn đa dạng sinh học xuyên
biên giới;
- Tích cực tham gia và thực hiện các điều ước, hoạt động quốc tế và khu vực về
đa dạng sinh học và an toàn sinh học;
- Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực đào tạo, chuyển giao
công nghệ, tư vấn kỹ thuật về đa dạng sinh học và an toàn sinh học.


15


KẾT LUẬN
Việt Nam rất đa dạng về sinh học, chúng ta gần có gần như đầy đủ các nguồn tài
nguyên sinh học như: rừng, biển,…Tuy nhiên, sự đa dạng này đang dần cạn kiệt,
một số loài sinh vật gần như đã biến mất. Tình trạng môi trường hiện tại đang đặt
vào trạng thái cấp bách, hàng loạt các hiện tượng gần đây cho chúng ta thấy môi
trường đang suy kiệt như: bê bối chất thải nhà máy Formosa, cá chết hàng loạt ở
Hồ Gươm hay rừng đầu nguồn bị tàn phá nghiêm trọng…Chính sự ô nhiêm môi
trường, tàn phá môi trường sống….do con người đã gây ra sự suy giảm đáng kể và
gần như là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng cạn kiệt, xóa sổ các loại tài
nguyên sinh học.
Chúng ta đã và đang cố gắng khôi phục lại môi trường bằng các hành động,
chương trình chính sách cụ thể như: Hiệp định cắt giảm khí thải toàn cầu Kyoto,
Đưa ra các quy định về khai thác, Xây dựng các vườn quốc gia và khu bảo tồn,
Tăng cường trồng rừng, Nâng cao nhận thức chung của toàn dân về đa dạng sinh
học và bảo tồn nó….Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là thắt chặt sự quản lí của nhà
nước



nâng

cao

nhận

thức


cho

mọi

người.

Môi trường có thể không cần chúng ta nhưng chúng ta không thể thiếu môi trường.

16



×