Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh theo Luật cạnh tranh 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.64 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Pháp luật cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế,
duy trì và bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, cho phép các thực thể
kinh tế có cơ hội bình đẳng cạnh tranh cũng như tiếp cận thị trường…. Cơ quan tiến
hành tố tụng cạnh tranh là một trong những cơ quan ra đời nhằm thực thi Luật cạnh
tranh một cách hiệu quả. Kể từ khi được thành lập đến nay, cơ quan này đã đạt được
nhiều thành quả đáng ghi nhận, từ những nỗ lực trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ
chức, nhân sự; tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật cạnh tranh;… Bên cạnh
những thành quả đạt được, cũng có nhiều ý kiến cho rằng mô hình, vị trí pháp lí,
chức năng nhiệm vụ của cơ quan này còn nhiều vấn đề bất cập. Trong bối cảnh đó,
em đã lựa chọn đề tài số 8 : “Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh theo Luật
cạnh tranh 2004” làm đề tài để phân tích.

NỘI DUNG
1. Khái quát về tố tụng cạnh tranh.
1.1. Khái niệm của tố tụng cạnh tranh.
1.1.1.

Định nghĩa.

Tố tụng cạnh tranh là thuật ngữ mới xuất hiện trong đời sống pháp lí ở Việt
Nam trong những năm gần đây và chính thức được sử dụng trong Luật cạnh tranh.
Tố tụng cạnh tranh thực chất bao gồm thẩm quyền và thủ tục giải quyết vụ việc cạnh
tranh, đó là một trong các nội dung cơ bản và quan trọng của pháp luật cạnh tranh ở
các quốc gia trên thế giới.
Theo khoản 9 Điều 3 Luật cạnh tranh 2004 thì Tố tụng cạnh tranh là hoạt động


của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo trình tự, thủ tục giải quyết, xử lý vụ việc cạnh
tranh theo quy định của Luật cạnh tranh.
2


1.1.2.

Đặc điểm.

Thứ nhất, tố tụng cạnh tranh được áp dụng để giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Theo Luật cạnh tranh, vụ việc cạnh tranh là vụ việc có dấu hiệu vi phạm quy định
của Luật này bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra, xử lí theo quy định của
pháp luật (khoản 8 Điều 3).
Thứ hai, tố tụng cạnh tranh áp dụng cho cả hai loại hành vi vi phạm pháp luật
cạnh tranh có bản chất không giống nhau, đó là hành vi hạn chế cạnh tranh và hành
vi cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ ba, tố tụng cạnh tranh được tiến hành bởi các cơ quan hành pháp, thông
qua hoạt động của thành viên hội đồng cạnh tranh, thủ trưởng cơ quan quản lí cạnh
tranh, điều tra viên và thư kí phiên điều trần, đó là những người có trình độ chuyên
môn cao về các lĩnh vực tài chính, kinh tế, pháp lí.
Thứ tư, tố tụng cạnh tranh được áp dụng không nhất thiết phải dựa vào đơn
khiếu nại của bên có liên quan mà có thể được thực hiện bằng quyết định có tính
chất hành chính của cơ quan quản lý cạnh tranh.
1.2.

Các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng cạnh tranh.

Chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng cạnh tranh là những tổ chức, cá nhân có
quyền và nghĩa vụ tiến hành hoặc tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc cạnh
tranh, bao gồm: Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh; người tiến hành tố tụng cạnh

tranh; người tham gia tố tụng cạnh tranh.
Khác với tố tụng trong các lĩnh vực khác, việc giải quyết các tranh chấp, khiếu
nại trong lĩnh vực cạnh tranh được thực hiện thông qua các cơ quan hành chính mà
không phải là cơ quan tư pháp như tòa án. Cụ thể:

3


− Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, gồm: Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng

cạnh tranh.
− Người tiến hành tố tụng cạnh tranh, gồm: Thành viên hội đồng cạnh tranh, thủ

trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh, điều tra viên và thư ký phiên điều trần.
− Người tham gia tố tụng cạnh tranh, gồm: Bên khiếu nại, bên bị điều tra, luật sư;

người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.
2. Quy định của Luật cạnh tranh 2004 về cơ quan tiến hành tố tụng

cạnh tranh.
2.1.
-

Cơ quan quản lí cạnh tranh.

Vị trí của cơ quan quản lí cạnh tranh.
Gắn liền với quá trình hình thành pháp luật cạnh tranh Việt Nam, cơ quan quản
lý cạnh tranh cũng được ra đời trên tinh thần xây dựng và bảo vệ các thiết chế kinh
tế, thúc đẩy giám sát các hoạt động kinh tế để tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh

lành mạnh, bình đẳng.
Cơ quan quản lý cạnh tranh còn có tên gọi khác là Cục quản lý cạnh tranh – là
cơ quan trực thuộc Bộ công thương. Cục Quản lý cạnh tranh có tư cách pháp nhân,
con dấu và tài khoản riêng theo quy định của pháp luật; kinh phí hoạt động do ngân
sách nhà nước cấp và từ các nguồn khác theo quy định của Nhà nước.
Cục Quản lý cạnh tranh có tên giao dịch viết bằng tiếng Anh: Vietnam
Competition Authority (viết tắt là VCA).

4


-

Cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý cạnh tranh1.
Cục quản lí cạnh tranh của Việt Nam có trụ sở chính đặt tại Hà Nội, được mở
các văn phòng đại diện tại các tỉnh, thành phố khác theo quyết định của Bộ trưởng
Bộ công thương. Cục trưởng Cục quản lí cạnh tranh và chịu trách nhiệm trước Cục
trưởng về lĩnh vực công tác được phân công. Với chức danh Cục trưởng do Thủ
tướng bổ nhiệm, Cục Cục quản lí cạnh tranh có Cục trưởng và một số Phó Cục
trưởng. Cục trưởng Cục quản lí cạnh tranh chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ
công thương về toàn bộ hoạt động của Cục quản lí cạnh tranh. Các Phó Cục trưởng,
lãnh đạo Văn phòng đại diện của Cục do Bộ trưởng Bộ công thương bổ nhiệm, miễn
nhiệm theo đề nghị của quản lí cạnh tranh dường như có một vị trí pháp lí cao hơn
một cơ quan cấp cục bình thường trực thuộc Bộ, nhưng vẫn là cơ quan nằm dưới sự
lãnh đạo của Bộ công thương.
Theo quy định tại Nghị định 06/2006/NĐ-CP thì bộ máy giúp việc Cục trưởng
Cục quản lí cạnh tranh gồm các ban: Ban điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh; Ban
giám sát và quản lí cạnh tranh; Ban điều tra và xử lí các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh; Ban bảo vệ người tiêu dùng; Ban xử lí chống bán phá giá, chống trợ cấp
và tự vệ; Ban hợp tác quốc tế; Văn phòng;…..


-

Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lí cạnh tranh.
Theo khoản 2 Điều 49 Luật cạnh tranh 2004, cơ quan quản lý cạnh tranh có
những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Kiểm soát quá trình tập trung kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh;
- Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; đề xuất ý kiến để Bộ trưởng Bộ Thương
mại (nay là Bộ Công thương) quyết định hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết
định;

1 Xem các Điều 3,4,5 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP.

5


- Điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và
hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
- Xử lý, xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh1;
- Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Để cụ thể hóa các quy định của Luật cạnh tranh về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan quản lý cạnh tranh, Điều 1, 2 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 09/01/2006 và Điều 2 quyết định Số: 848/QĐ-BCT quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu của Cục Quản lý cạnh tranh được ban hành quy định rất rõ
ràng và cụ thể về vấn đề này.
Ngoài các nhiệm vụ. quyền hạn đã liệt kê, cục quản lý cạnh tranh còn có thẩm
quyền tổ chức điều tra, xử lý hoặc đề xuất biện pháp xử lý đối với các hành vi vi
phạm pháp luật cạnh tranh theo quy định của pháp luật; xây dựng, quản lý hệ thống
thông tin về các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, các doanh nghiệp độc
quyền, về quy tắc cạnh tranh trong hiệp hội, về các trường hợp miễn trừ.2

Như vậy, thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh được tập trung chủ yếu ở
nhiệm vụ điều tra các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh
và cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra, cơ quan quản lý cạnh tranh cũng có thẩm
quyền xử phạt hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Đây là điểm đặc thù của pháp
luật tố tụng cạnh tranh Việt Nam so với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh với bản chất là nhằm vào (xâm hại) các đối thủ
cạnh tranh cụ thể (lợi ích tư cần được bảo vệ). Bởi vậy, các chế tài được đặt ra đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh thưởng là đình chủ hành vi và bồi thường
thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra cho các đối thủ cạnh tranh
1 Nhiệm vụ này được cụ thể hóa tại Nghị định của Chính phủ số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 về xử lí

vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
2 Điểm b,đ Khoản 4 Điều 2 Quyết định số 848/QĐ-BCT

6


cụ thể3. Theo pháp luật Việt Nam, thiệt hại của các đối thủ cạnh tranh do hành vi
cạnh tranh không lành mạnh gây ra được xem xét bồi thường trong vụ kiện riêng
theo thủ tục tố tụng dân sự.
2.2.
-

Hội đồng cạnh tranh.

Vị trí của Hội đồng cạnh tranh.
Hội đồng Cạnh tranh là một cơ quan thuộc hệ thống hành pháp, có từ 11 đến 15
thành viên, bao gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các Ủy viên do Thủ tướng Chính
phủ quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ
Công Thương.

Điều 1 Nghị định 07/2015/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của hội đồng cạnh tranh quy định: “Hội đồng Cạnh tranh là cơ quan
tiến hành tố tụng cạnh tranh độc lập do Chính phủ thành lập, có chức năng tổ chức
xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn
chế cạnh tranh.”
Sự khẳng định này đã làm rõ các nội dung sau:
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước chứ không phải là
Hội đồng tư vấn. Hội đồng cạnh tranh là cơ quan xử lý kết quả điều tra của cơ quan
quản lý cạnh tranh về các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Quyết định của Hội đồng cạnh
tranh có giá trị bắt buộc thi hành và được đảm bảo thực hiện bởi quyền lực nhà
nước.
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thuộc hệ thống hành pháp có chức năng xử lý
vụ việc về cạnh tranh. Có thể chứng minh kết luận trên bằng những cơ sở sau: một
là, thủ tục tố tụng mang tính tranh tụng thông qua phiên điều trần để các bên liên
quan có cơ hội được trình bày quan điểm và trao đổi trực tiếp với các bên tham gia
3 Xem thêm: Trường Đại học Luật Hà Nôi, Giáo trình Luật thương mại (tập 1), Nxb. CAND,2006, tr. 369;

Trường Đại học Ngoại thương, Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2009, tr.159.

7


tố tụng khác và cơ quan tiến hành tố tụng; hai là, việc tiến hành xử lý vụ việc được
thực hiện theo một trình tự tố tụng chặt chẽ, rõ ràng và mang tính tài phán chứ
không chỉ là xử lý hành chính thông thường theo pháp luật xử lý vi phạm hành
chính; ba là, khi quyết định xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh trong các vụ việc về
cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh làm việc theo chế độ tập thể; bốn là, quyết định của
Hội đồng cạnh tranh không thể bị khiếu nại trong hệ thống cơ quan hành chính mà
phải khởi kiện ra tòa án,...
-


Chức năng của hội đồng cạnh tranh.
Hội đồng cạnh tranh là cơ quan có chức năng xem xét, xử lý đối với các vụ việc
hạn chế cạnh tranh. Quyết định của hội đồng cạnh tranh được thể hiện ở giai đoạn
cuối của vụ việc liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh. Hoạt động của hội đồng
cạnh tranh được thực hiện trên cơ sở kết quả điều tra của cấc “điều tra viên” về
những hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy được xếp vào hệ thống cơ quan hành pháp
song hoạt động của hội đồng cạnh tranh lại mang tính chất của cơ quan tài phán do
hội đủ những yếu tố thiết như: áp dụng pháp luật để ra pháp quyết, thủ tục xử lý
mang tính chất tranh tụng, quyết định của hội đồng cạnh tranh chỉ bị xét lại bởi hệ
thống tòa án.
Là cơ quan hành pháp nhưng hoạt động của hội đồng cạnh tranh lại được sử lý
theo chế độ tập thể chứ không theo chế độ thủ trưởng như các cơ quan hành pháp
khác. Theo pháp luật hiện hành, trong thời hạn 15 ngày làm việc, Chủ tịch Hội đồng
Cạnh tranh ban hành Quyết định về việc thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh gồm ít nhất năm thành viên của Hội đồng Cạnh tranh, trong đó có một thành
viên làm Chủ tọa Phiên điều trần để giải quyết một vụ việc cạnh tranh cụ thể. Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh sẽ quyết định vụ việc theo nguyên tắc đa số1.
-

Nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng cạnh tranh.

1 Xem khoản 2 Điều 80 Luật cạnh tranh.

8


Theo Nghị định 07/2015/NĐ-CP, Hội đồng Cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử
lý, giải quyết vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh: Tổ chức
tiếp nhận Báo cáo điều tra và Hồ sơ vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn

chế cạnh tranh theo quy định tại Điều 93 Luật Cạnh tranh; xử phạt, xử lý vi phạm
pháp luật về cạnh tranh theo quy định tại Điều 119 Luật Cạnh tranh; yêu cầu các tổ
chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện các
nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, Hội đồng Cạnh tranh còn có nhiệm vụ giải quyết khiếu nại đối với
các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh
của Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định của pháp luật cạnh tranh; giải
quyết khiếu nại đối với các quyết định khác của Hội đồng Cạnh tranh, Chủ tịch Hội
đồng Cạnh tranh, Hội đồng Xử lý vụ việc cạnh tranh, Chủ tọa Phiên điều trần theo
trình tự, thủ tục của pháp luật khiếu nại.
Hội đồng Cạnh tranh tham gia tố tụng hành chính theo quy định của pháp luật
cạnh tranh và pháp luật tố tụng hành chính.
Như vậy, Hội đồng cạnh tranh là một tổ chức mang tính tập thể, theo đúng nghĩa
Hội đồng. Những công việc nghiệp vụ của Hội đồng được thực hiện cụ thể tại các
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh do do Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh quyết định
thành lập cho từng vụ việc. Những hoạt động chính thức của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh được tiến hành tại các phiên điều trần, với sự tham gia của những người
tham gia tố tụng. Cách thức tổ chức và hoạt động của Hội đồng cạnh tranh như vậy
có thể so sánh với tổ chức và hoạt động của tòa chuyên trách tại cơ quan Tòa án.
Tuy nhiên, đối tượng xem xét, quyết định của Hội đồng cạnh tranh chỉ là những
hành vi hạn chế cạnh tranh và trên thực tế, chỉ là công việc cuối cùng của một vụ
việc liên quan đến hạn chế cạnh tranh. Bởi lẽ, Hội đồng cạnh tranh chỉ hoạt động
trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đánh giá và xem xét của điều tra viên về những hành
vi hạn chế cạnh tranh do Cơ quan quản lý cạnh trnah gửi đến.
9


-

Cơ cấu tổ chức của hội đồng cạnh tranh.

Hội đồng cạnh tranh gồm từ 11 đến 15 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ
nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ công thương 1. Nhiệm kỳ các
thành viên Hội đồng cạnh tranh là 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại. Hội đồng
canh tranh chịu trách nhiệm xây dựng Quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng,
trình Bộ trưởng Bộ Công thương phê duyệt.
Hoạt động của thành viên Hội đồng cạnh tranh mang tính tài phán, liên quan
đến lĩnh vực còn mới mẻ và phức tạp; bởi vậy, pháp luật luôn đặt ra tiêu chuẩn của
thành viên hội đồng cạnh tranh cao hơn tiêu chuẩn đối điều tra viên về thời gian
cộng tác thực tế trong lĩnh vực luật hoặc kinh tế, tài chính.
Theo Điều 55 Luật cạnh tranh, thành việc Hội đồng cạnh tranh phải đáp ứng đủ
các tiêu chuẩn sau:
-

Có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực khách quan, có tinh thần bảo vệ pháp

-

chế xã hội chủ nghĩa;
Có trình độ cử nhân luật hoặc cử nhân kinh tế, tài chính;
Có thời gian công tác thực tế ít nhất là 9 năm thuộc một trong các lĩnh vực

-

luật, kinh tế, tài chính;
Có khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Thành viên Hội đồng cạnh tranh là đại diện của các bộ: Bộ Thương mại, Bộ Tư
Pháp, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư,… Đứng đầu Hội đồng cạnh tranh là Chủ
tịch, giúp việc cho Chủ tịch có Phó Chủ tịch. Hội đồng cạnh tranh có bộ máy giúp
việc là Văn phòng hội đồng cạnh tranh, bao gồm Chánh Văn phòng và không úa 3

Phó Chánh Văn phòng do Bộ trưởng Bộ Công thương bổ nhiệm, miễn nhiệm, điều

1 Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì Hội đồng cạnh tranh hiện nay gồm có 15 thành viên, trong

đó có Chủ tịch và có không quá 3 Phó chủ tịch, Thành viên Hội đồng Cạnh tranh làm việc kiêm nhiệm hoặc
chuyên trách theo quyết định bổ nhiệm của Thủ tướng Chính phủ

10


động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật theo quy định pháp luật. Văn phòng Hội
đồng được tổ chức 1 Tổng hợp, có trưởng phòng và phó phòng2.
3.

Bất cập và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh về cơ
quan tiến hành tố tụng cạnh tranh.
3.1.
Những bất cấp còn tồn tại trong các quy định của pháp luật về cơ
quan tiến hành tố tụng cạnh tranh.
Thứ nhất, Theo Luật Cạnh tranh năm 2004 và Nghị định số 06/2006/NĐ-CP,
Nghị định số 07/2015/NĐ-CP, cơ quan quản lý cạnh tranh là Cục Quản lý cạnh tranh
- tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về cạnh tranh; còn Hội đồng Cạnh
tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập, có chức năng xử lý các hành
vi hạn chế cạnh tranh. Nếu xét dưới giác độ tố tụng cạnh tranh, thì Cục Quản lý cạnh
tranh như cơ quan khởi xướng vụ việc. Nếu không có hồ sơ khiếu nại vụ việc, hoặc
cơ quan quản lý cạnh tranh không phát hiện có dấu hiệu vi phạm cạnh tranh thì có
lẽ, Hội đồng Cạnh tranh cũng không thể phát huy hết chức năng của mình, hay nói
cách khác, chức năng của Hội đồng Cạnh tranh có thể xem như là “chức năng phái
sinh” từ chức năng của Cục Quản lý cạnh tranh.
Theo thống kê của Bộ Công thương, trong số 90 cơ quan cạnh tranh hiện nay

trên thế giới, chỉ Việt Nam còn tồn tại mô hình hai cơ quan, một chịu trách nhiệm về
điều tra, một chịu trách nhiệm về xử lí như mô hình cũ của Cơ quan cạnh tranh
Pháp. Đây là một trong những điểm yếu lớn nhất của mô hình hai cơ quan như ở
Việt Nam hiện nay, khi các thành viên của các cơ quan xử lí không theo sát được
quá trình điều tra vụ việc. Do đó, việc chỉ dựa vào các báo cáo điều tra cuối cùng
của các điều tra viên, họ sẽ khó đưa ra được các quyết định chính xác về hành vi vi
phạm.
Bên cạnh đó, có thể thấy lựa chọn mô hình cơ quan trực thuộc Chính phủ hiện
nay là phù hợp với điều kiện ở Việt Nam. Như đã phân tích thì việc đặt cơ quan
2 Quy định tại Quyết định 7389/QĐ-BCT

11


quản lí cạnh tranh thuộc Bộ Công thương, hoặc phụ thuộc quá nhiều vào Bộ này sẽ
khó mà đảm bảo tính độc lập, khách quan, minh bạch trong việc điều tra và xử lí các
vi phạm của luật cạnh tranh. Khi mà bản thân Bộ Công thương đang là Bộ chủ quản
của nhiều doanh nghiệp nhà nước lớn, nắm giữ nhiều lĩnh vực then chốt của nền
kinh tế. Mặt khác, cơ chế bổ nhiệm lãnh đạo, cơ chế tài chính, ngân sách hoạt động
của các cơ quan quản lí cạnh tranh hiện nay đều phụ thuộc vào Bộ Công thương thì
sẽ làm hạn chế sự tự chủ trong hoạt động của các cơ quan quản lí cạnh tranh. Tiếp
thu kinh nghiệm của các nước cho thấy, phần lớn các quốc gia đều đang cố gắng xây
dựng cơ quan quản lí cạnh tranh ở nước mình nói chung và lãnh đạo những cơ quan
này nói riêng một vị thế độc lập, tự chủ, hoạt động chỉ tuân theo pháp luật mà không
bị hạn chế hay phụ thuộc vào bất cứ cá nhân hay cơ quan nào khác1.
Thứ hai, đối với Cục quản lí cạnh tranh:
-

Trong điều kiện mới được thành lập chưa lâu, số lượng chuyên gia cạnh tranh còn ít
thì việc đào tạo, bồi dưỡng điều tra viên, chuyên gia,… chỉ mới đáp ứng được nhu

cầu trước mắt và chất lượng vẫn còn hạn chế. Số lượng các điều tra viên của Cục
chưa đủ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội

-

và người tiêu dùng.
Hiện nay2, Cục Quản lý cạnh tranh hiện nay đang ôm đồm quá nhiều chức năng,
nhiệm vụ, từ điều tra xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, điều tra các
hành vi hạn chế cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng đến quản lý nhà nước về chống
bán phá giá, chống trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế.
1 Bộ Thương mại – Cục quản lí cạnh tranh (2005), Xây dựng mô hình cơ quan quản lí Nhà nước về cạnh

tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ trong thương mại quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế và đê
xuất cho Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: TS. Đinh Thị Mỹ Loan, tr.137140.
2 Báo cáo đánh giá tác động Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 01 năm 2006
của Chính phủ về thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cạnh tranh

12


Có một thực tế là không một cơ quan quản lý cạnh tranh nào trên thế giới được quy
định nhiều chức năng, đặc biệt là bao gồm cả các chức năng thực thi pháp luật về
các biện pháp đảm bảo công bằng trong thương mại quốc tế như Việt Nam. Điều này
đã dẫn đến tình trạng quá tải cho hoạt động của Cục Quản lý cạnh tranh trong thời
gian qua.
Hơn nữa, vai trò của Hội đồng Cạnh tranh đang ngày càng trở nên mờ nhạt và
phụ thuộc vào Cục Quản lý cạnh tranh, khiến cho cơ quan này không thể chủ động
tiến hành các hoạt động tố tụng cạnh tranh. Cùng với sự quá tải của Cục Quản lý
cạnh tranh trong việc giải quyết toàn bộ các công việc thuộc phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình, sự phụ thuộc nói trên đã dẫn tới tình trạng tê liệt và kèm theo đó

là kết quả hoạt động yếu kém của Hội đồng Cạnh tranh trong việc giải quyết các vụ
việc cạnh tranh.
Thứ ba, đối với Hội đồng cạnh tranh:
Quá trình tố tụng hiện nay diễn ra quá dài, gây ra những tốn kém về mặt thời
gian, tiền bạc và công sức của các bên có liên quan. Trong khi đó, giá trị pháp lý của
quyết định xử lý vụ việc của Hội đồng Cạnh tranh lại không cao, do có thể bị kiện ra
Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo con đường tố tụng hành chính. Điều này có thể
khiến cho các bên ngần ngại khi tiến hành yêu cầu Cục Quản lý cạnh tranh và Hội
đồng Cạnh tranh điều tra, xử lý những pháp nhân có hành vi vi phạm luật cạnh
tranh.
Trên thực tế, hoạt động của Hội đồng cạnh tranh trong thời gian qua khá mờ
nhạt. Số lượng vụ việc hạn chế cạnh tranh đã xử lý dừng ở mức khiêm tốn: một vụ
(điều đó còn phụ thuộc vào số lượng hồ sơ vụ việc mà Cục Quản lý cạnh tranh
chuyển sang và Hội đồng chỉ có chức năng xử lý chứ không có chức năng điều tra).
Hội đồng cạnh tranh cũng gặp những khó khăn như: hầu hết các thành viên đều
kiêm nhiệm, bộ máy còn chưa hoàn chỉnh về nhân sự và biên chế. Bên cạnh đó, Hội
đồng chưa có những hoạt động nổi bật về các chức năng còn lại (quảng bá, tuyên
13


truyền pháp luật cạnh tranh, học hỏi kinh nghiệm xây dựng, tổ chức của các nước
trên thế giới, hoàn thiện pháp luật cạnh tranh,…). Vì vậy, mô hình tổ chức cũng như
hoạt động của Hội đồng cạnh tranh Việt Nam chỉ mới dừng lại ở mức còn sơ khai,
chưa hoàn thiện.
Giải pháp hoàn thiện.
Cần xây dựng một cơ quan cạnh tranh trực thuộc Chính phủ độc lập, hoàn toàn
3.2.

-


mới; trên cơ sở nhập Cục quản lí cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh là phù hợp với
-

điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay.
Cần cơ cấu lại chức năng của cơ quan quản lí cạnh tranh mới, theo đó cơ quan này
sẽ chỉ có chức năng quản lí về cạnh tranh và có thể là cả chức năng bảo vệ người
tiêu dùng. Còn các lĩnh vực quản lí về bán phá giá, trợ cấp, tự vệ thương mại của
Cục quản lí cạnh tranh nên thành lập một đơn vị riêng (cấp Cục/Vụ) trực thuộc Bộ

-

công thương để quản lí.
Xác định bản chất pháp lý của cơ quan quản lý cạnh tranh. Hiện nay, cơ quan quản
lý cạnh tranh của Việt Nam được xác định: Cục quản lý cạnh tranh vừa mang tính
“hành chính”, vừa mang tính “tài phán”; Hội đồng cạnh tranh mang tính xét xử hành
chính. Cơ quan quản lý cạnh tranh cần mang bản chất pháp lý là sự kết hợp của đặc
điểm “hành chính” và “tài phán”. Việc xác định bản chất pháp lý của cơ quan quản
lý cạnh tranh như trên có ưu thế là, một mặt vừa đảm bảo vai trò điều tiết của Chính
phủ đối với nền kinh tế, mặt khác sẽ tạo các điều kiện tối ưu để bảo đảm các quyền
và tự do của các doanh nghiệp với tư cách là đối tượng áp dụng chủ yếu của Luật
Cạnh tranh. Vì vậy, bản chất vừa là một cơ quan hành chính vừa là một cơ quan tư
pháp tỏ ra là một phương án có thể giải quyết được các bất cập của việc quy định cơ



quan quản lý cạnh tranh chỉ là cơ quan hành chính hay chỉ là cơ quan tài phán.
Đổi mới một số nội dung cơ chế hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh:
Xây dựng cơ chế rà soát, giải quyết các khiếu kiện liên quan đến các quyết định của
cơ quan quản lý cạnh tranh.Theo quy định của pháp luật hiện nay, Hội đồng Cạnh
tranh sẽ xem xét lại những quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc khi có yêu cầu và


14


nếu không đồng ý với kết quả xử lý của Hội đồng cạnh tranh thì các bên có thể khởi
kiện vụ án hành chính ra Tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Ở nước ta,
trong Cơ quan quản lý cạnh tranh nên xây dựng một bộ phận riêng hay một bộ phận
nằm trong bộ phận xử lý các vụ việc cạnh tranh để rà soát, giải quyết các khiếu kiện
liên quan đến quyết định của cơ quan quản lý cạnh tranh. Nếu các bên không đồng ý
với kết quả xử lý khiếu kiện của cơ quan quản lý cạnh tranh, thẩm quyền giải quyết
các khiếu kiện (vụ án hành chính) liên quan đến các quyết định của cơ quan quản lý
cạnh tranh giao cho Tòa án tối cao hoặc thành lập một Tòa riêng biệt để xử lý những


vụ việc này.
Xây dựng cơ chế tham khảo ý kiến trước. Hiện nay, Cục quản lý cạnh tranh mới chỉ
được quy định chức năng tham vấn đối với những văn bản đã ban hành tại khoản 3
Điều 2 Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ, nên xây dựng thêm cơ chế
tham khảo ý kiến trước (đối với những văn bản pháp luật sắp ban hành) trước khi
các cơ quan Chính phủ có kế hoạch ban hành hay sửa đổi các luật và quy định có
ảnh hưởng đến cạnh tranh, kể cả khi các cơ quan này muốn áp dụng các biện pháp
hành chính có bản chất tương tự. Có thể thấy, cơ chế này sẽ giúp hạn chế tình trạng
các văn bản, chính sách trái/không phù hợp với pháp luật cạnh tranh cũng như tiết
kiệm thời gian, tài chính để không phải khắc phục, giải quyết các hậu quả do các văn

-

bản này gây ra sau khi được ban hành.
Cần chuyên nghiệp hóa đội ngũ cán bộ công chức của cơ quan tiến hành tố tụng
cạnh tranh. Đối với các cán bộ, công chức làm việc tại cơ quan tiến hành tố tụng

cạnh tranh phải là cán bộ chuyên trách, tránh tình trạng kiêm nhiệm nhưu hiện nay.
Ngoài các yêu cầu như quy định tại Luật cạnh tranh hiện nay đối với các thành viên
của cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, Luật cạnh tranh nên ghi nhận vào luật việc
các cá nhân đó không được tham gia vào hoạt động kinh tế trong thời gian công tác
trừ trường hợp được luật cho phép để đảm bảo tính khách quan, vô tư khi làm nhiệm
vụ.

KẾT LUẬN
15


Trong những năm qua nhà nước ta đã có những nỗ lực trong việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật cạnh tranh cũng như hệ thống cơ quan cạnh tranh. Sự
ra đời của Luật cạnh tranh 2004 cũng như hệ thống hai cơ quan tiến hành tố tụng
cạnh tranh vào thời điểm mà Việt Nam bắt đầu bước vào công cuộc hội nhập và phát
triển kinh tế mang ý nghĩa hết sức quan trọng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng và hoạt
động những năm qua cho thấy pháp luật cạnh tranh cũng như hệ thống cơ quan cạnh
tranh vẫn còn nhiều vấn đề bất cập, cần tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện hơn. Giai
đoạn hiện nay có lẽ là thời điểm hợp lí để chúng ta thực hiện những sửa đổi này
nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung và hoàn thiện địa vị pháp lí của cơ
quan tiến hành tố tụng cạnh tranh nói riêng.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật cạnh tranh, Nxb. CAND, 2013.


2.

Trường Đại học Luật Hà Nôi, Giáo trình Luật thương mại (tập 1), Nxb. CAND, 2006.

3.
4.

Luật cạnh tranh 2004.
Nghị định của Chính phủ số 0 7/2015/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy

5.

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh
Nghị định của Chính phủ số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 về việc thành lập và quy

6.

định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lí cạnh tranh.
Quyết định 848/QĐ-BCT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Cục

7.

Quản lý cạnh tranh
Quyết định 7389/QĐ-BCT Về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

8.

tổ chức của Văn phòng Hội đồng cạnh tranh
Báo cáo đánh giá tác động Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 05/2006/NĐ-CP
ngày 09 tháng 01 năm 2006 của Chính phủ về thành lập và quy định chức năng, nhiệm


9.

vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Cạnh tranh
Trương Hồng Quang (2011), Cơ quan quản lí cạnh tranh ở Việt Nam – những bất cập và
phương hướng hoàn thiện, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 6, tháng 3/2011.

17



×