MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
4
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BỒI
DƯỠNG KIẾN THỨC PHÁP LUẬT CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGÀNH
THANH TRA TỈNH BẠC LIÊU
18
1.1. Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra và những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng
kiến thức pháp luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu
18
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp
luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu
43
Chương 2: YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BỒI
DƯỠNG KIẾN THỨC PHÁP LUẬT CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NGÀNH
THANH TRA TỈNH BẠC LIÊU HIỆN NAY
63
2.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp
luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện nay
63
2.2. Những giải pháp tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp luật của đội ngũ
cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện nay
79
KẾT LUẬN
109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
111
PHỤ LỤC
116
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử 70 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Thanh tra nước ta đã có
nhiều đóng góp tích cực để tham mưu cho Đảng, Nhà nước quản lý, điều hành phát
triển về mọi mặt kinh tế - xã hội. Hằng năm, ngành Thanh tra cả nước đã tham
mưu giúp Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước các cấp giải quyết một số lượng
rất lớn đơn thư khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham nhũng góp phần vào việc phát
huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đồng thời,
ngành Thanh tra cả nước cũng đã tổ chức triển khai hàng nghìn cuộc thanh tra kinh
tế - xã hội qua đó phát hiện và xử lý ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, thu hồi cho
Nhà nước hàng ngàn tỷ đồng góp phần ổn định tình hình tranh chấp đất đai, khiếu
nại bồi thường giải tỏa khi Nhà nước thu hồi đất để phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội, xử lý hành chính, kỷ luật và hình sự nhiều cán bộ, công chức, viên chức sai
phạm tham nhũng, lãng phí; kiến nghị với Đảng, Nhà nước nhiều giải pháp để từng
bước hoàn chỉnh cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước ta.
Trong những năm qua, công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ
cán bộ, công chức và tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân của tỉnh Bạc
Liêu đã có nhiều chuyển biến tích cực; bằng nhiều hình thức đa dạng và phong
phú, đã liên tục tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho mọi tầng lớp nhân
dân nói chung và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ ngành Thanh
tra tỉnh Bạc Liêu nói riêng và đã phối kết hợp với các tổ chức, đoàn thể và các cơ
quan thông tấn, báo chí cũng như kinh nghiệm của các nước khác để từng bước
đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác này.
Tuy nhiên, việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức nói chung, cho ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu nói riêng vẫn còn tồn tại không
ít những hạn chế, bất cập. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật có lúc còn đơn điệu, thiếu hấp dẫn, hiệu quả và chậm đổi mới;
một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa thực sự hình thành thói quen bền
2
vững sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật… Trong khi đó, trước sự tác
động của tình hình thế giới, khu vực; mặt trái của cơ chế thị trường, hội nhập quốc
tế; tình hình tệ nạn xã hội, tội phạm diễn biến rất phức tạp ảnh hướng đến sự ổn
định chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
Trong thời gian tới để cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng về công
tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức; cụ thể hóa trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội cũng như
của nhân dân trong công tác này, Nhà nước đang khẩn trương tiến hành xây dựng
dự án Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật để trình Quốc hội ban hành. Đây là cơ hội tốt
cho ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, các đối
tượng quản lý, đồng thời trang bị và bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra
tỉnh nhận thức, tiếp thu tốt kiến thức pháp luật cho mỗi cán bộ, công chức ngành Thanh
tra tỉnh Bạc Liêu, từng bước hoàn thiện hơn đội ngũ cán bộ của đơn vị mình.
Do vậy, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của công tác bồi dưỡng kiến thức
pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu. Từ
đó, đề xuất các biện pháp tăng cường công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật của
đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu trong thời gian tới là vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết đang đặt ra hiện nay.
Từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Bồi dưỡng kiến thức pháp luật của
đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội
ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu nói riêng là vấn đề rất quan trọng, luôn được
các nhà khoa học, các cấp lãnh đạo, quản lý quan tâm nghiên cứu. Theo đó đã có nhiều
bài viết, công trình khoa học liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, tiêu biểu là:
* Nhóm công trình nghiên cứu nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện, phẩm chất, năng lực, phương pháp, văn hóa pháp luật của đội ngũ cán bộ.
Đặng Xuân Kỳ, “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1997. Tác giả đã nghiên cứu một cách khái quát, hệ thống
3
những vấn đề cơ bản về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, khẳng định
tính thống nhất, mối quan hệ giữa phương pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh với
phương pháp cách mạng Việt Nam, giữa phong cách Hồ Chí Minh với phong cách
của những người cộng sản chân chính. Tác giả luận giải và cho rằng, phong cách
Hồ Chí Minh là sự tổng hợp của phong cách tư duy; phong cách làm việc; phong cách
ứng xử; phong cách sinh hoạt... Từ đó, tác giả khẳng định vị trí, tầm quan trọng của
việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo phong cách Hồ Chí Minh trong công tác xây
dựng Đảng hiện nay.
Thang Văn Phúc (chủ biên), “Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán
bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1998. Gồm các bài tham luận tại hội thảo 50 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Các tác giả đã làm rõ về tiêu chuẩn, nội dung của đạo
đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh;
xác định yêu cầu và sự vận dụng tư tưởng của Người trong học tập, rèn luyện đạo
đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức hiện nay.
Giáo sư Phạm Minh Hạc (năm 2001) trong cuốn, “Nghiên cứu con người và
nguồn năng lực đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa” tập trung vào chủ đề con
người và nguồn nhân lực ở nước ta đi vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Trong đó đã đề cập đến phong cách và tác phong của người lãnh đạo, quản
lý và đưa ra những kiểu mẫu về tác phong trong thời kỳ đổi mới.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng và Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Xuân
Sầm đồng chủ biên, “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2001. Các tác giả đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về mẫu
hình người cán bộ lãnh đạo, những yêu cầu mới và các giải pháp mang tính tổng quát
nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt của cơ sở trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tiến sĩ Thang Văn Phúc và Tiến sĩ Nguyễn Minh Phương,“Xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân”, 2004. Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác 4
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò người cán bộ
cũng như yêu cầu đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, những bài học kinh
nghiệm về tuyển chọn và sử dụng nhân tài trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta, cũng như những kinh nghiệm xây dựng nền công vụ chính quy, hiện đại của các
nước trong khu vực... Từ đó xác định hệ thống các yêu cầu, tiêu chuẩn cán bộ, công chức
đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
“Giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên theo đạo đức cách mạng, phong
cách tư duy khoa học Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005. Tác giả
nghiên cứu sâu về giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng và phương pháp cách
mạng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực.
- Nguyễn Văn Tuấn, “Giáo dục rèn luyện kỷ luật quân đội của học viên đào tạo sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Tăng thiết giáp trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2003. Tác giả làm
rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về giáo dục rèn luyện kỷ luật quân đội của học viên đào tạo sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội ở Trường Sĩ quan Tăng - Thiết giáp, tác giả đưa ra quan niệm,
yêu cầu cơ bản đối với giáo dục rèn luyện kỷ luật quân đội, làm rõ thực trạng, rút ra kinh
nghiệm, xác định phương hướng, yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản để tăng
cường giáo dục rèn luyện kỷ luật quân đội của học viên.
- Lê Văn Làm, “Bồi dưỡng rèn luyện ý thức kỷ luật quân sự của học viên
đào tạo sĩ quan ở các nhà trường quân đội hiện nay”, Luận án Tiến sĩ xây dựng
Đảng, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2006. Tác giả phân tích làm rõ về ý
thức kỷ luật quân sự và bồi dưỡng rèn luyện ý thức kỷ luật quân sự của học viên
đào tạo sĩ quan ở các nhà trường quân đội. Từ đó đưa ra những quan niệm về kỷ
luật quân sự và bồi dưỡng rèn luyện ý thức kỷ luật quân sự của học viên đào tạo sĩ
quan... Tác giả đề xuất các giải pháp cơ bản bồi dưỡng, rèn luyện ý thức kỷ luật
quân sự của học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường quân đội hiện nay.
- Tiến sĩ Huỳnh Thanh Quang - Trường Chính trị tỉnh Bạc Liêu, “Đánh giá
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường Chính trị tỉnh Bạc Liêu giai đoạn
1997 - 2006”. Tác giả chọn vấn đề nghiên cứu và đánh giá chất lượng công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường Chính trị tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 1997 - 2006
5
trên cơ sở đó có cái nhìn nhận đúng đắn và khoa học để xây dựng các giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của trường Chính trị tỉnh nhằm góp
phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán
bộ cấp cơ sở, đáp ứng tình hình nhiệm vụ xây dựng và phát triển toàn diện tỉnh nhà
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Dương Thế Bằng, “Xây dựng môi trường văn hóa pháp luật của đơn vị học
viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện
nay”, luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, 2006. Sau
khi đi sâu luận giải môi trường văn hóa pháp luật, thực trạng và kinh nghiệm xây
dựng môi trường văn hóa pháp luật của đơn vị học viên đào tạo cán bộ chính trị
cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự, tác giả đã đề xuất các giải pháp cơ bản
để xây dựng môi trường văn hóa pháp luật ở đơn vị học viên đào tạo cán bộ chính
trị cấp phân đội, Học viện Chính trị quân sự hiện nay là: Nâng cao nhận thức cho
các tổ chức, các lực lượng về xây dựng môi trường văn hoá pháp luật của đơn vị
học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự; xây
dựng đồng bộ các thành tố và phát huy tác dụng của môi trường văn hoá pháp luật
ở đơn vị học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội; duy trì nghiêm việc thực
hiện pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội, các chế độ quy định của
đơn vị; tích cực đấu tranh ngăn chặn những hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật
Nhà nước, điều lệnh, kỷ luật quân đội; duy trì nghiêm việc thực hiện pháp luật Nhà
nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội, các chế độ quy định của đơn vị; tích cực đấu
tranh ngăn chặn những hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật Nhà nước, điều lệnh, kỷ
luật quân đội.
- Đinh Thế nghiệp, Phó Trưởng phòng tổng hợp Thanh tra Chính phủ, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “ Đổi mới phương pháp giảng dạy trong đào
tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra”, năm 2005 - 2006. Tác giả nghiên cứu
phương pháp giảng dạy đào tạo, bồi dưỡng trang bị kiến thức pháp luật cho đội
ngũ cán bộ ngành Thanh tra cả nước, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới trong việc
phát triển kinh tế - xã hội, hội nhấp kinh tế quốc tế. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ngành Thanh tra và đào tạo, bồi dưỡng cho họ những kiến thức pháp
6
luật mới ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của ngành, đồng thời đề tài đã đưa ra
một số giải pháp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật nhằm tăng cường, củng cố
đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tham mưu giúp cho Đảng, Nhà nước kiểm tra,
giám sát tốt hơn trong việc điều hành quản lý nhà nước của các cấp chính quyền từ
Trung ương đến cơ sở trong việc quản lý kinh tế, đầu tư phát triển và quản lý tài
chính ngân sách…
- Tiến sĩ, Nguyến Văn Thanh, Viện trưởng Viện khoa học Thanh tra, Thanh
tra Chính phủ, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước“ Nghiên cứu đổi mới
công tác đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ thanh tra đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra
trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhấp quốc tế và cải cách hành chính”, năm
2007 - 2008. Tác giả nghiên cứu các quan hệ kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, từ đó tác giả khái quát được thực trạng trong việc đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra đã qua,
đồng thời tác giả đưa ra phương pháp đào tạo, bồi dưỡng và giải pháp đổi mới
công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra có những kiến
thức mới đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
- Thạc sĩ, Nguyến Huy Hoàng, Trưởng khoa giáo viên, Trường Cán Thanh
tra, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “ Xây dựng chương trình đào tạo,
bồi dưỡng của Trường cán bộ Thanh tra về nghiệp vụ tiếp công dân”, năm 2007 2008. Tác giả nghiên cứu mối quan hệ tranh chấp trong nội bộ nông dân, các quan
hệ tranh chấp dân sự khác, từ đó tác giả khái quát được thực trạng về đội ngũ cán
bộ tiếp dân hiện nay của cả nước nói chung, của ngành Thanh tra nói riêng, từ đó
cần đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra
trong việc tiếp công dân trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời tác giả đưa ra một
số giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ tiếp công dân
ngành Thanh tra có những kiến thức mới đáp ứng yêu cầu đổi mới trong việc phát
triển kinh tế - xã hội. Qua đó, đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ này nhằm
tham mưu tích cực giúp cho Đảng, Nhà nước tổ chức tiếp công dân ngày càng tốt
hơn, hạn chế đến mức thấp nhất khiếu kiện của nội bộ nông dân và các đối tượng
khác.
7
- Tiến sĩ, Ngô Mạnh Toan, Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Thanh tra, Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước “ Đổi mới chương trình đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ thanh tra của Trường cán bộ Thanh tra đáp ứng yêu cầu bồi dưỡng
nghiệp vụ”, năm 2007 - 2008. Tác giả nghiên cứu đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ
Thanh tra viên, Thanh tra viên chính, Thanh tra cao cấp thời gian quan nhằm đáp
ứng kinh tế hội nhập quốc tế, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó
tác giả khái quát được thực trạng trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật
cho đội ngũ cán bộ Thanh tra viên, Thanh tra viên chính, Thanh tra cao cấp cho
ngành Thanh tra đã qua, đồng thời tác giả đưa ra phương pháp đào tạo, bồi dưỡng
và giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ này của
ngành Thanh tra có những kiến thức đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế và Khu vực.
- Vũ Văn Thường, “Bồi dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên đào tạo sĩ
quan ở các nhà trường quân đội trong giai đoạn hiện nay”, luận án Tiến sĩ Chính trị
học, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội, 2009. Tác giả đi sâu làm rõ văn hóa pháp
luật của học viên đào tạo sĩ quan, quan niệm, vai trò bồi dưỡng văn hóa pháp luật,
thực trạng và một số kinh nghiệm bồi dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên đào tạo
sĩ quan ở các nhà trường trong quân đội, tác giả đã đề xuất các giải pháp cơ bản bồi
dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường trong quân
đội hiện nay là: Nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức,
các lực lượng trong bồi dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên; đổi mới, hoàn thiện
nội dung, chương trình giáo dục đào tạo, tổ chức tốt các hình thức, phương pháp bồi
dưỡng kiến thức cơ bản, hệ thống về pháp luật cho học viên; quản lý chặt chẽ, duy
trì nghiêm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước, kịp thời đấu tranh ngăn chặn những
hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật; phát huy tính tích cực chủ động của học viên
đào tạo sĩ quan trong tự giáo dục rèn luyện bồi dưỡng văn hóa pháp luật; xây dựng
và phát huy vai trò môi trường văn hóa pháp luật ở các nhà trường quân đội. Nhưng
do góc độ nghiên cứu khác nhau, nên những công trình trên chưa đi sâu nghiên cứu
đến tính tự giác chấp hành pháp luật của học viên.
8
- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Tấn Diễn, “Một số biện pháp tăng cường công
tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới”, Tạp chí dân chủ pháp luật - số
chuyên đề 60 năm thành lập ngành Tư pháp, năm 2009. Tác giả đi sâu đánh giá,
phân tích tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật,
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp nhằm nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật cho cán bộ, nhân dân. Đặc biệt, là những năm gần đây công tác bồi dưỡng,
đào tạo kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm thực thi nhiệm vụ
áp dụng đúng pháp luật trong xử lý công việc mà nhiệm vụ của ngành đặt ra, đồng
thời khai thác và phát huy tác dụng, hiệu quả của hình thức trợ giúp pháp lý, luật sư,
tư vấn pháp luật, hòa giải cơ sở khi phổ biến giáo dục pháp luật.
- Đỗ Hữu Thùy Dương, Thanh tra tỉnh Long An, đăng câu lạc bộ Thanh tra
2014 (Nguonthanhtravietnam.vn): “Các giải pháp nâng cao năng lực cán bộ, công
chức ngành Thanh tra”. Tác giả đánh giá thực trạng công chức ngành Thanh tra
hiện nay và đưa ra một số giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng đội ngũ công chức
ngành Thanh tra vững mạnh, chuyên nghiệp, nâng cao năng lực của công chức
ngành Thanh tra, chúng ta không thể nói suông hoặc kêu gọi trong khi đời sống vật
chất của họ còn quá nhiều khó khăn. Chính vì vậy, các giải pháp cần gắn liền với
các chính sách đãi ngộ, cải thiện tiền lương cho công chức trong ngành, có như vậy
mới tạo động lực cho đội ngũ này phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
* Nhóm công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng giáo dục, phổ biến
pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức.
- Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai, “Bàn về giáo dục pháp luật”,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.
Hai tác giả đã có đóng góp lớn trong nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề cơ
bản về giáo dục pháp luật, đó là: Đã phân tích làm rõ bản chất của quá trình giáo
dục pháp luật; mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị tư tưởng,
giáo dục đạo đức và các dạng giáo dục khác; mục đích, vai trò, chủ thể, nội dung,
hình thức, phương tiện, phương pháp, hiệu quả của giáo dục pháp luật.
9
Theo hai tác giả bản chất của quá trình giáo dục pháp luật là hoạt động có tổ
chức, có định hướng của các chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục
nhằm mục đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với
đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Mục đích của giáo dục pháp luật là hình
thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho công dân;
hình thành lòng tin pháp luật; hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật cho
công dân. Về hình thức giáo dục pháp luật, hai tác giả đã đề cập 05 hình thức chủ
yếu là: Phổ biến, nói chuyện pháp luật; các câu lạc bộ, các đội thông tin, tuyên
truyền cổ động, các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền qua báo chí, phương tiện
thông tin đại chúng; giáo dục qua các hình thức văn học, nghệ thuật; dạy và học trong
các nhà trường. Về hiệu quả giáo dục pháp luật, theo hai tác giả được biểu hiện ở tri
thức trạng thái tình cảm pháp luật, động cơ và hành vi tích cực pháp luật của đối tượng
sau quá trình giáo dục; phí tổn vật chất, thời gian, tinh thần trong giáo dục pháp luật.
- Tổng cục Chính trị, “Đổi mới công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong
Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay”, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2000.
Công trình đã luận giải làm rõ khái niệm, vai trò, mục đích, nhiệm vụ của phổ biến,
giáo dục pháp luật. Phân tích, luận giải về các thành tố của phổ biến giáo dục pháp luật và
làm rõ đặc điểm của phổ biến, giáo dục pháp luật trong quân đội. Các tác giả đi sâu đánh
giá thực trạng của công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong quân đội những năm qua, chỉ
rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân của nó và đưa ra những dự báo về nhiệm vụ phổ
biến giáo dục pháp luật trong quân đội trong thời gian sắp tới.
Về các giải pháp đổi mới công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong quân
đội giai đoạn hiện nay, công trình đề cập tới ba giải pháp lớn là: Đổi mới nội dung
giáo dục; đổi mới hình thức phương pháp giáo dục; tăng cường công tác tổ chức
bảo đảm cho giáo dục.
- Lê Đức Tụ, “Tăng cường công tác phổ biến và nâng cao chất lượng giáo
dục pháp luật trong quân đội thời kỳ mới”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, 2004.
Tác giả đã có đóng góp lớn trong nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề cơ bản về giáo
dục pháp luật, đó là: Đã phân tích làm rõ bản chất của quá trình giáo dục pháp luật;
mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo
10
đức và các dạng giáo dục khác; mục đích, vai trò, chủ thể, nội dung, hình thức,
phương tiện, phương pháp, hiệu quả của giáo dục pháp luật.
Theo tác giả bản chất của quá trình giáo dục pháp luật là hoạt động có tổ chức,
có định hướng của các chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm mục
đích hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ
thống pháp luật hiện hành. Mục đích của giáo dục pháp luật là hình thành, làm sâu sắc
và từng bước mở rộng hệ thống tri thức pháp luật cho công dân; hình thành lòng tin
pháp luật; hình thành động cơ và hành vi tích cực pháp luật cho công dân.
Về hình thức giáo dục pháp luật, tác giả đã đề cập các hình thức chủ yếu là phổ
biến, nói chuyện pháp luật; các câu lạc bộ, các đội thông tin, tuyên truyền cổ động, các
cuộc thi tìm hiểu pháp luật; tuyên truyền qua báo chí, phương tiện thông tin đại chúng;
giáo dục qua các hình thức văn học, nghệ thuật; dạy và học trong các nhà trường.
Về hiệu quả giáo dục pháp luật, theo tác giả được biểu hiện ở tri thức trạng
thái tình cảm pháp luật, động cơ và hành vi tích cực pháp luật của đối tượng sau
quá trình giáo dục; phí tổn vật chất, thời gian, tinh thần trong giáo dục pháp luật.
- Nguyễn Xuân Quân, “Một số vấn đề về xây dựng, quản lý, khai thác tủ
sách pháp luật của đồn Biên phòng”, tạp chí khoa học giáo dục Biên phòng, số
9/2009. Tác giả khẳng định tủ sách pháp luật là công cụ để tuyên truyền phổ biến,
giáo dục pháp luật. Giáo dục pháp luật thông qua tủ sách pháp luật có những thuận
lợi và ưu thế riêng. Để nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật thông qua tủ sách
pháp luật, theo tác giả cần: Nhận thức đúng vai trò, nhiệm vụ của tủ sách pháp luật; xác
định rõ đối tượng phục vụ và nội dung của tủ sách pháp luật; quản lý, khai thác có hiệu
quả tủ sách pháp luật; thực hiện tốt việc luân chuyển, trao đổi sách giữa các đồn.
- Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Quốc phòng,
“Tài liệu phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2010” (lưu hành nội bộ), Hà Nội,
2010. Tài liệu hướng dẫn những nội dung chủ yếu của Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của bộ Luật Hình sự; chuyên đề: Quán triệt và thực hiện pháp luật về
phòng, chống ma túy trong quân đội; nội dung cơ bản Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước; nội dung cơ bản Luật Cán bộ công chức; nội dung cơ bản
11
Luật Dân quân tự vệ. Nhằm cung cấp những nội dung kiến thức cơ bản, thiết thực
giúp cho việc phổ biến, giáo dục pháp luật của các cấp.
- Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Bộ Quốc phòng, “Tài
liệu phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2011” (lưu hành nội bộ), Hà Nội, 2011. Tài liệu
gồm 3 chuyên đề chính: Những nội dung cơ bản của Luật Thi hành án hình sự; phòng
chống tội phạm về kinh tế trong Quân đội hiện nay; phòng chống vi phạm, tội phạm xâm
phạm chế độ quản lý vũ khí, trang bị, vật liệu nổ trong Quân đội và 01 chuyên đề bổ trợ:
Những nội dung chủ yếu của pháp luật hiện hành về bảo hiểm y tế. Đây là tài liệu phổ
biến, giáo dục pháp luật theo chuyên đề quy định nhằm cung cấp những nội dung kiến
thức cơ bản, thiết thực giúp cho việc phổ biến, giáo dục pháp luật ở các cấp.
* Những công trình nghiên cứu liên quan đến xây dựng, phát triển ý
thức, kiến thức pháp luật của cán bộ, nhân dân liên quan trực tiếp đến đề tài
luận văn.
- Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đào Trí Úc (Chủ nhiệm), “Xây dựng ý thức và lối
sống theo pháp luật”, Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 07 - 17, 1995. Nguyễn
Đình Lộc, “Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và vấn đề giáo dục pháp luật cho
nhân dân lao động”, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học chính trị, 1996. Nguyễn
Quang Vinh, “Quá trình phát triển ý thức pháp luật của đội ngũ sĩ quan cấp phân
đội trong Quân đội Nhân dân Việt Nam hiện nay”, luận văn Thạc sĩ Khoa học xã
hội nhân văn quân sự, Học viện Chính trị quân sự, 1997.
Các công trình trên đã đi sâu làm rõ bản chất, vai trò của ý thức pháp luật
trong xây dựng quân đội, đơn vị; tập trung phân tích những vấn đề có tính quy luật
của quá trình phát triển ý thức pháp luật của đội ngũ sĩ quan cấp phân đội trong
Quân đội Nhân dân Việt Nam: Trong luận văn, tác giả có đề cập đến giải pháp cơ
bản về đổi mới công tác giáo dục pháp luật, nâng cao trình độ tri thức pháp luật
cho đội ngũ sĩ quan cấp phân đội. Theo tác giả, để nâng cao ý thức pháp luật cho
đội ngũ sĩ quan cấp phân đội phải đưa pháp luật vào giảng dạy trong các nhà trường quân
đội, pháp luật phải trở thành môn học bắt buộc trong các nhà trường quân đội; tuyên
truyền rộng rãi pháp luật ở các nhà trường; công tác giáo dục pháp luật phải tiến hành
thường xuyên; phát huy tinh thần tự nghiên cứu, học tập pháp luật của đội ngũ sĩ quan trẻ.
12
Tóm lại, từ các góc độ nghiên cứu khác nhau, những công trình trên đã giải
quyết thành công nhiều vấn đề về văn hóa pháp luật; giáo dục phổ biến pháp luật;
ý thức pháp luật; giáo dục, rèn luyện kỷ luật, bồi dưỡng rèn luyện ý thức kỷ luật.
Tuy nhiên, dưới góc độ chuyên nghành xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước
chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống về “Bồi dưỡng kiến
thức pháp luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện nay”.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn đề xuất
những giải pháp tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp luật của đội ngũ cán bộ
ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về kiến thức pháp luật và bồi dưỡng
kiến thức pháp luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm tăng
cường bồi dưỡng kiến thức pháp luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu.
- Đề xuất yêu cầu và những giải pháp tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp
luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật của đội ngũ cán bộ
ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu là đối tượng nghiên cứu của luận văn.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu bồi dưỡng kiến thức pháp
luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Tiến hành nghiên
cứu, khảo sát công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật chủ yếu cho cán bộ ngành Thanh tra
của tỉnh Bạc Liêu. Các tư liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài giới hạn từ năm 2010 đến
nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận:
13
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận, quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, với hệ thống các quan điểm, đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các chỉ thị, nghị quyết, quyết định,
quy chế của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Bộ Chính trị; các hướng dẫn của
các Bộ, ngành Trung ương về công tác bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ
cán bộ, công chức và tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho các tổ chức chính trị - xã
hội, cho cả hệ thống chính trị và cho mọi tầng lớp nhân dân; công tác xây dựng
Đảng và xây dựng bồi dưỡng kiến thức pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức.
* Cơ sở thực tiễn:
Cơ sở thực tiễn của đề tài là toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai
tổ chức thực hiện bồi dưỡng kiến thức pháp luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh
tra tỉnh Bạc Liêu. Dựa vào kết quả điều tra, khảo sát thực tế việc bồi dưỡng kiến
thức pháp luật của lãnh đạo Ủy ban nhân dân các cấp, lãnh đạo các sở, ngành cho
đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu thời gian qua.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, luận văn sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành, liên ngành
khoa học xã hội, nhân văn, chủ yếu là khoa học xây dựng Đảng và chính quyền
Nhà nước; trọng tâm là phương pháp phân tích, tổng hợp, lôgic-lịch sử, tổng kết
thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu luận văn góp phần cung cấp những cơ sở khoa học, ứng
dụng của đề tài vào công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật của ngành
Thanh tra. Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng giúp chi bộ Đảng, cơ
quan, các cấp nghiên cứu, vận dụng vào quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, bồi dưỡng, tự bồi
dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 02 chương (4 tiết) và kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục.
14
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG
KIẾN THỨC PHÁP LUẬT CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
NGÀNH THANH TRA TỈNH BẠC LIÊU
1.1. Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra và những vấn đề cơ bản về bồi
dưỡng kiến thức pháp luật của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu
15
1.1.1. Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra và kiến thức pháp luật của đội
ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu
* Khái quát về tỉnh Bạc Liêu và ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu.
Tỉnh Bạc Liêu tái lập lần thứ hai vào ngày 01/01/1997, được tách ra từ tỉnh
Minh Hải. Là một tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau - miền đất cực Nam của Tổ quốc.
Lúc mới tách tỉnh, có 03 huyện là Vĩnh Lợi, Hồng Dân, Giá Rai và 01 thị xã Bạc
Liêu (nay là thành phố Bạc Liêu), có tổng diện tích tự nhiên 2.570 km2. Đến nay,
có thêm 03 huyện tách từ 03 huyện cũ là Phước Long (tách ra từ huyện Hồng Dân,
năm 2000), Đông Hải (tách ra từ huyện Giá Rai, năm 2002), Hoà Bình (tách ra từ
huyện Vĩnh Lợi, năm 2005) và 01 thành phố Bạc Liêu. Trung tâm hành chính của
tỉnh là thành phố Bạc Liêu, theo hướng quốc lộ 1A, cách thành phố Hồ Chí Minh
280 km, cách thành phố Cần Thơ 110 km về phía Bắc; cách thành phố Cà Mau,
cũng trên quốc lộ 1A, 67 km về phía Nam. Tổng dân số: 881.118 người (theo số
liệu niên giám thống kê của Cục Thống kê tỉnh Bạc Liêu, Nhà xuất bản Thống kê
năm 2013), trong đó 438.356 nam, 442.762 nữ. Dân số tập trung ở thành thị là
240.368 người, nông thôn 640.750 người. Các dân tộc cùng sinh sống: Kinh:
757.762 người, Khmer: 78.243 người, Hoa: 42.666 người, còn lại 2.447 người là
dân tộc khác. Dân tộc Khmer sống tập trung ở các huyện Hoà Bình, Vĩnh Lợi,
Hồng Dân, Giá Rai và thành phố Bạc Liêu. Người Hoa sống tập trung chủ yếu ở
thành phố Bạc Liêu.
Thế mạnh du lịch của Bạc Liêu là du lịch sinh thái, du lịch biển với những
cảnh quan thiên nhiên độc đáo như vườn chim Bạc Liêu cách thành phố Bạc Liêu
khoảng 3 km, vườn nhãn phường Nhà Mát, xã Vĩnh Trạch Đông thuộc thành phố
Bạc Liêu…, với những di tích lịch sử - văn hoá như: Tháp cổ Vĩnh Hưng, huyện
Vĩnh Lợi; đồng Nọc Nạng, huyện Giá Rai; đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Châu
Thới, huyện Vĩnh Lợi; nhà lưu niệm cố Nhạc sĩ Cao Văn Lầu ở thành phố Bạc
Liêu; khu căn cứ Tỉnh ủy Cái Chanh huyện Hồng Dân; các đình, chùa… Sự hấp
dẫn của du lịch Bạc Liêu còn ở những nét độc đáo trong ẩm thực, trang phục, lễ
hội của các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer... Đặc biệt là khu du lịch tâm linh Phật Bà
Nam Hải, phường Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu, hàng năm lượng khách đến viếng
16
từ 2.000 lượt người/ngày, những ngày lễ, Tết từ 10.000 - 20.000 lượt người/ngày,
đây cũng là thế mạnh du lịch tâm linh của tỉnh Bạc Liêu hiện nay và trong thời
gian tới.
Ngoài ra còn có những công trình mới xây dựng phục vụ văn hóa xã hội
như: Quảng trường Hùng Vương có diện tích rộng thoáng mát là nơi diễu binh của
lực lượng Công an, Quân sự trong những ngày lễ, các sự kiện lịch sử, đồng thời
cũng là nơi giải trí của cán bộ và nhân dân tỉnh Bạc Liêu; Nhà hát ba nón Lá là
công trình mới có kiến trúc độc đáo gắn liền với chiếc nón lá của người Việt cổ đối
với người nông dân mà nhân gian có nhiều bài hát ca tụng cho thiếu nữ Việt Nam
trong suốt cả thời kỳ lịch sử cho đến hiện nay.
Bạc Liêu có rất nhiều lễ hội: Người Kinh có lễ hội cúng đình, thờ thần
Hoàng Bổn Cảnh có công với nước được triều đình nhà Nguyễn sắc phong. Ngoài
ra còn có đại lễ Kỳ Yên (còn gọi là lễ thượng điền) giữa tháng 5 âm lịch; lễ nghinh
Ông ở Lăng Ông Nam Hải (thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải) vào 3 ngày 9, 10,
11 tháng 3 âm lịch: Ước cầu cho mưa thuận, gió hòa, quốc thái an dân; lễ thắp
miếu (còn gọi là lễ hạ điền) vào giữa tháng 12 âm lịch. Đồng bào Khmer có lễ hội
đón năm mới (Chôl-Chnăm-Thmây) vào giữa tháng 4 dương lịch; lễ hội cúng trăng
(Ooc-om-booc) vào ngày 14, 15 tháng 10 âm lịch; lễ hội Đôn-ta để tưởng nhớ ông
bà và những người quá cố và việc xá tội vong nhân theo đạo lý nhà Phật. Đồng bào
người Hoa có lễ cúng thanh Minh vào tháng 3 âm lịch; lễ thí giàng vào tháng 7 âm
lịch... Còn nhiều Lễ hội thờ cúng nhân gian luôn được Đảng, chính quyền, đoàn
thể và người dân tỉnh Bạc Liêu quan tâm, góp phần giáo dục cho cán bộ và nhân
dân hiểu, ý thức, tự giác, bảo tồn, tham gia bảo vệ Di sản văn hóa, nghệ thuật của
cộng đồng các dân tộc tỉnh Bạc Liêu luôn phát triển lành mạnh.
Tỉnh Bạc Liêu hiện nay có 7 huyện, thành phố. Được phân bổ thành 64 xã,
phường, thị trấn (gọi là cấp xã), quá trỉnh phát triển hiện nay, các xã đều có đường
ô-tô đi đến trụ sở xã, đảm bảo giao thông xã liền xã, ấp liền ấp, có 64/64 xã,
phường, thị trấn có Trạm y tế, có trường Mẫu giáo, trường Tiểu học, trường Trung
học cơ sở; các huyện, thành phố có từ 2 đến 3 trường Trung học phổ thông, hàng
năm có từ 3.500 đến 4.000 học sinh tốt nghiệp cấp III ra trường; đặc biệt có trường
17
Đại học Bạc Liêu và 6 trường Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp hàng năm có
từ 300 đến 400 sinh viên tốt nghiệp ra trường, góp phần đào tạo nguồn nhân lực
cho tỉnh Bạc Liêu trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian
trước mắt cũng như lâu dài; sóng phát thanh, truyền hình được phủ khắp. Theo
điều tra năm 2010, tổng số xã thuộc diện nghèo ở Bạc Liêu giảm đáng kể năm
2010 là 21 xã, đến nay xã nghèo chỉ còn 12 xã trong đó thành phố Bạc Liêu 0;
huyện Phước Long 2; huyện Hồng Dân 4; huyện Hòa Bình 2; Vĩnh Lợi 2; huyện
Giá Rai 2; huyện Đông Hải 2. Đáng chú ý hơn cả là sự phát triển trong nhận thức
của các tầng lớp nhân dân Bạc Liêu. Đồng bào đã biết coi trọng việc học tập của con
cái, tích cực góp công, góp của xây dựng làng quê ngày càng giàu đẹp, có ý thức trong
việc bảo vệ tài nguyên môi trường ở địa phương…, trình độ dân trí ngày càng được
nâng lên.
Cấp xã là cấp hành chính thấp nhất. Các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp
xã gồm: Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội tỉnh Bạc Liêu. Hệ thống chính trị cấp xã có hai đặc trưng
nổi bật: Nơi gần dân nhất và là nơi tổ chức thực hiện tất cả các nghị quyết, chỉ thị
của các tổ chức đảng cấp trên; các chính sách, pháp luật của Nhà nước; các chương
trình, kế hoạch của chính quyền và các chủ trương của các đoàn thể cấp trên, cũng
là nơi thường xảy ra các vụ tranh chấp, khiếu nại về quyền và nghĩa vụ liên quan
đến đất đai, tài sản, bồi thường giải tỏa mặt bằng, các mối quan hệ dân sự khác,
đây cũng là một vấn đề có tính chất phức tạp của nhiều địa phương trên cả nước...
đồng thời xây dựng và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chương trình công tác của
cấp mình.
Bạc Liêu là nơi diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, xã hội, chính trị phong phú,
cần có sự quan tâm, giúp đỡ, điều chỉnh của các cấp chính quyền và các đảng bộ
cơ sở, để các hoạt động đó diễn ra theo hướng tích cực. Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là
hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng hệ thống
chính trị ở xã vững mạnh, nông thôn giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao
18
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ
đối với Nhà nước.
* Riêng về ngành Thanh tra là một bộ phận cán bộ, công chức của tỉnh, có
đủ phẩm chất, năng lực và các điều kiện tiêu chuẩn cần thiết, được cấp có thẩm
quyền bổ nhiệm giữ các chức danh trong ngành Thanh tra, các cấp, các ngành của
tỉnh Bạc Liêu. Cán bộ, công chức ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện có 216
người, trong đó: 154 biên chế, 62 hợp đồng; Thanh tra viên chính 7 người, Thanh
tra viên 66 người, chuyên viên có 98 người, cán sự 45 người; cán bộ nam 168
người chiếm 78%, cán bộ nữ 48 người chiếm 22%; cán bộ có trình độ đại học và
trên đại học 171 người chiếm 80%, cán bộ có trình độ dưới đại học 45 người,
chiếm 20% (cả tài xế và tạp vụ).
Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hiện có 44 cán bộ, trong đó có 39 biên chế, 5 hợp
đồng. Trong khi yêu cầu để giải quyết khối lượng công việc được giao trên cả ba
lĩnh vực thanh tra; tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham
nhũng, cần phải tăng thêm số lượng từ 50 đến 55 cán bộ mới đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ. Biên chế Thanh tra huyện, thành phố có từ 5 đến 6 biên chế, nhu cầu tối
thiểu 8 biên chế; một số Sở, ngành quản lý đa lĩnh vực nhưng lực lượng thanh tra
hành chính không đồng đều, Thanh tra sở ít nhất chỉ có 3 - 4 biên chế; nhiều nhất
có từ 5 đến 10 biên chế. Đáng chú ý đội ngũ Thanh tra cấp huyện, thành phố,
Thanh tra sở, ngành lại không ổn định, thường được điều động sang lĩnh vực công
tác khác. Do vậy, trong hoạt động thanh tra chưa đáp ứng được yêu cầu của cấp ủy,
chính quyền và của nhân dân giao phó. Trong thực tiễn quản lý xã hội còn nhiều
hiện tượng tiêu cực chưa được ngăn chặn, xử lý kịp thời dẫn đến phát sinh khiếu
kiện. Các đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân chậm được giải quyết; các vi
phạm trong quản lý, đầu tư xây dựng cơ bản chậm được phát hiện, khắc phục; tài
sản của Nhà nước, của nhân dân bị thất thoát số lượng đáng kể, chưa được ngăn
chặn kịp thời và có hiệu quả.
Tỉnh Bạc Liêu hiện có 6 huyện, 01 thành phố đều thành lập tổ chức Thanh
tra trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện, thành phố; 17 sở, ngành trực thuộc Ủy ban
nhân dân tỉnh có tổ chức Thanh tra trực thuộc Sở, ngành; có 64 đảng bộ xã,
19
phường, thị trấn đều có thành lập Ban Thanh tra nhân dân, do Chủ tịch Ủy ban
nhân dân xã lãnh đạo; Tổ chức Thanh tra các cấp có vị trí, vai trò đặc biệt quan
trọng đối với năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở và các cấp các
ngành địa phương. Các tổ chức Thanh tra này, nhất là Thanh tra huyện, thành phố
là nơi trực tiếp tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra xây dựng nội bộ Đảng; nơi
cầu nối thể hiện sự gắn bó giữa Đảng và nhân dân; giữ nội bộ nhân dân với nhau
gắn bó mật thiết, đặc biệt tổ chức Thanh tra các cấp giúp Đảng bộ, chính quyền từ
địa phương đến cơ sở tham mưu trong công tác thanh tra; giải quyết khiếu nại, tố
cáo; phòng, chống tham nhũng ở địa phương.
Các tổ chức Thanh tra các cấp là đơn vị chiến đấu, đại diện cho nhân dân và
tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương định hướng giải quyết mọi vấn đề ở
cơ sở theo quan điểm, đường lối của Đảng, đặc biệt là các vấn hòa giải, hàn gắn
các tranh chấp dân sự trong nội bộ nông dân hoặc thanh tra đối với tổ chức, đơn vị
Nhà nước để phòng ngừa hành vi tham nhũng, lãng phí nhằm tránh thất thoát tiền
và tài sản của Nhà nước.
Vai trò của các tổ chức Thanh tra các cấp còn thể hiện ở chổ thanh tra, kiểm
tra việc quán triệt và vận dụng đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính
sách của Nhà nước và của cơ quan cấp trên cho phù hợp với đặc điểm của địa
phương; đề xuất sửa đổi chủ trương, phương hướng phù hợp với tình hình thực tế
giúp cho công tác của đảng bộ, chính quyền cơ sở phát triển đúng hướng. Trong
quá trình tổ chức thực hiện, các đảng bộ, chính quyền cần phải chăm lo đào tạo,
bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ đưa ra ứng cử hoặc giới thiệu họ với các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở cơ sở để bầu chọn, bố trí, sử dụng; tiến hành thanh tra, kiểm
tra, giám sát các hoạt động ở cơ sở nhằm kịp thời phát huy những điển hình tiên
tiến và ngăn chặn những tiêu cực, tham nhũng, lãng phí tiền và tài sản của Nhà
nước.
* Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu:
- Quan niệm đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu.
20
Từ khi tỉnh được tái lập từ ngày 01/01/1997 (tách ra từ tỉnh Minh Hải thành
2 tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu) ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu được thiết lập và hoạt
động đến nay. Những năm gần đây, đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu,
từ Thanh tra tỉnh đến Thanh tra huyện, thành phố và Thanh tra sở, ngành cấp tỉnh
luôn nhận được sự quan tâm, củng cố, tăng cường của Thanh tra Chính phủ, của
Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu. Đã góp phần tích
cực cho tỉnh Bạc Liêu tổ chức thanh tra làm rõ hàng trăm vụ việc trong lĩnh vực
kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng; tham mưu cho các cấp xử lý hàng
trăm cán bộ và hàng chục tập thể vi phạm, thu hồi cho ngân sách nhà nước và các
giá trị khác hàng chục tỷ đồng; tham mưu xử lý hàng ngàn đơn thư khiếu nại, tố
cáo của công dân đã làm cho tình hình chính trị, trật tự an toàn của địa phương
được ổn định, kinh tế - xã hội luôn phát triển bền vững. Song nhìn chung đến nay
đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu còn thiếu về số lượng, yếu về chất
lượng, có mặt chưa thật sự ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
- Đặc điểm đội ngũ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu.
Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra có cơ cấu theo hướng trẻ hóa nên về tuổi đời,
thâm niên công tác khá đồng đều, hầu hết xuất thân từ tầng lớp lao động ở địa
phương, gia đình có truyền thống cách mạng, được trưởng thành từ cơ sở; được
tuyển dụng sinh viên mới ra trường theo tiêu chuẩn Luật Công chức hoặc luân
chuyển từ cơ sở về tỉnh và ngược lại luân chuyển từ Thanh tra tỉnh về huyện. Họ
có những đặc điểm cơ bản sau:
Một là: Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu được cơ cấu theo
hướng trẻ hóa nên có tuổi đời và thâm niên công tác tương đối đồng đều. Hầu hết
xuất thân từ tầng lớp lao động ở địa phương, gia đình có truyền thống cách mạng,
được trưởng thành và rèn luyện từ thực tiễn công tác chuyên môn của ngành, luân
chuyển từ huyện, thành phố và các ngành pháp luật từ cơ sở, ngành của tỉnh sang.
Thực tế nhiều năm qua Thanh tra sở, ngành chỉ đủ khả năng xem xét, giải quyết
những vụ việc khiếu nại, tố cáo; những vụ việc thanh tra vừa và nhỏ, còn các cuộc
thanh tra với phạm vi rộng thì chưa triển khai được. Do đó, thời gian tới ngành
21
Thanh tra tỉnh Bạc Liêu sẽ củng cố, tăng cường để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
tình hình mới.
Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu đảm nhiệm nhiều cương vị,
nhiệm vụ và phải giải quyết các mối quan hệ khác nhau nên cũng có nhiều kinh
nghiệm trong giao tiếp và giải quyết công việc. Tổng hợp kết quả thống kê, về tuổi
đời dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ 21%, từ 31 đến 40 tuổi chiếm tỷ lệ 42%, từ 41 đến 50
tuổi chiếm tỷ lệ là 19 %, tuổi đời trên 50 chiến 18% (phụ lục 1); về thâm niên công
tác trong ngành Thanh tra từ 01 đến 05 năm là 60 %; từ 06 đến 10 năm là 24%; từ
11 năm trở lên là 16% (Phụ lục 3). Hầu hết đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh
đều xuất thân từ các tầng lớp lao động ở địa phương, gia đình có truyền thống cách
mạng, được trưởng thành từ cơ sở chiếm 35%; được tuyển dụng sinh viên mới ra
trường theo tiêu chuẩn Luật Công chức chiếm 50% hoặc luân chuyển từ cơ sở về
Thanh tra tỉnh 15% (Phụ lục 3). Kết quả thống kê nêu trên cho thấy đây là đặc
điểm chung của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu, đồng thời cũng là
điều kiện, là cơ sở để chủ thể và các lực lượng tham gia vào quá trình bồi dưỡng
thức pháp luật cho đội ngũ này lựa chọn nội dung, hình thức, biện pháp bồi dưỡng
một cách phù hợp nhất.
Hai là: Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu được tuyển chọn từ
nhiều nguồn khác nhau, trình độ về chuyên môn, kinh nghiệm công tác rất phong
phú, đa dạng. Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu hầu hết được quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng tương đối đồng đều, 80% có trình độ từ Đại học trở lên,
trong đó trình độ sau Đại học chiếm tỷ lệ khiêm tốn là chỉ 6%, đại học chiếm tỷ lệ
74%, còn lại 20% từ trung cấp và nghiệp vụ, chuyên môn khác (Phụ lục 1). Đội
ngũ này chẳng những được đào tạo cơ bản mà còn được tuyển chọn từ nhiều nguồn
khác nhau: trưởng thành từ cơ sở lên; được tuyển dụng sinh viên mới ra trường
theo tiêu chuẩn Luật Công chức hoặc luân chuyển từ cơ sở về tỉnh và ngược lạị
luân chuyển từ Thanh tra tỉnh về huyện nên công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội
ngũ cán bộ về chuyên môn và lý luận chính trị cũng có sự khác nhau, nhất là
chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trước mắt và lâu dài nên
cần phải bồi dưỡng, đào tạo thêm kiến thức pháp luật.
22
Do đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu chủ yếu là người địa
phương nên chịu ảnh hưởng lớn bởi phong tục, tập quán, phong cách, lối sống của
cư dân vùng nông thôn miền Tây Nam bộ nên trong nhận thức và việc làm cũng
còn ảnh hưởng phong tục, tập quán của địa phương, đa số cán bộ, nông dân nặng
chữ tín, còn về thủ tục pháp lý chưa được coi trọng nên cũng ảnh hưởng ít nhiều
đến quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ.
Qua khảo sát thực tế cho thấy có 32,8% Lãnh đạo ngành Thanh tra tỉnh
(Chánh, Phó Chánh Thanh tra các cấp) được luân chuyển từ các ngành khác sang;
trưởng thành từ trong ngành 45,4%; từ nguồn khác 21,8% (Phụ lục 3), nguồn cán
bộ này đã qua đảm nhiệm một số cương vị công tác ở các bộ phận như lãnh đạo
các sở, ngành; Bí thư Đảng bộ huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện (đối với
lãnh đạo Thanh tra tỉnh); lãnh đạo các phòng, ban của cấp tỉnh và cấp huyện; Bí
thư đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã (Đối với Thanh tra huyện, Thanh tra sở,
ngành)... nên đã có nhiều kinh nghiệm trưởng thành từ cơ sở trong công tác lãnh
đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ và giải quyết các mối quan hệ, phối hợp trong
công tác; có phẩm chất, năng lực tốt, có lòng nhiệt tình và có trách nhiệm với công
việc, có uy tín với tập thể và nhân dân. Tuy nhiên, trước sự phát triển của tình hình
thực tiễn và yêu cầu ngày càng cao về phẩm chất, năng lực cán bộ trong giai đoạn
mới của cách mạng, cần phải tiếp tục bồi dưỡng nâng cao hơn nữa về bản lĩnh
chính trị, phương pháp, tác phong công tác để đội ngũ này hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ ngày càng tốt hơn. Đặc biệt là bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ
này là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Ba là: Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu chủ yếu là người địa
phương nên chịu ảnh hưởng lớn bởi phong tục, tập quán, phong cách, lối sống của
cư dân vùng nông thôn miền Tây Nam bộ. Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh
Bạc Liêu hầu hết xuất thân từ gia đình nông dân có truyền thống cần cù, sáng tạo,
thủy chung nhân ái, tình làng nghĩa xóm nên đa số họ có phong cách ứng xử rất tự
nhiên, mộc mạc, bình dị, rất cởi mở chân tình vừa hòa đồng, vừa gần gũi chia sẻ
với đồng nghiệp, với người thân và những người xung quanh, đặc biệt quan hệ tích
cực đối với nhân dân địa phương và cộng đồng; đó là một nét văn hóa riêng của
23
đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh Bạc Liêu, trong đó có đội ngũ cán bộ ngành
Thanh tra tỉnh... Cái riêng đó được thể hiện ở thái độ khiêm tốn, hòa nhã, là ưu
điểm nổi bật nhất của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh vừa mang đậm nét quê
hương nhưng cũng thể hiện văn hóa Đảng của đội ngũ này.
Khiêm tốn thật sự là một phẩm chất văn hóa của đội ngũ cán bộ ngành
Thanh tra tỉnh Bạc Liêu, phẩm chất này có ý nghĩa quan trọng được thể hiện qua
thái độ cầu thị của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh, đồng thời cũng chính là
văn hóa ứng xử hướng tới sự gần gũi tôn trọng giá trị văn hóa mang đậm bản sắc,
sắc thái quê hương. Đó cũng chính là thái độ khiêm nhường không tự đặt mình cao
hơn người khác để phủ nhận sự tâng bốc, nịnh bợ. Lối sống khiêm tốn, giản dị của
đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh được thể hiện rất nhiều trong hành vi ứng xử,
trong công việc đời thường, ngoài những giờ, ngày làm việc họ còn tham gia vào
các hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất làm phong phú và nâng cao chất
lượng cuộc sống hàng ngày, đây cũng là tấm gương sáng cho quần chúng, đảng
viên trên địa bàn học tập và rèn luyện theo. Những hoạt động đó rất đỗi bình
thường nhưng cũng rất vinh quang thể hiện được bản chất của người cộng sản
“làm việc, lao động và sáng tạo”...
Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh được trưởng thành từ cơ sở; được tuyển
dụng sinh viên mới ra trường theo tiêu chuẩn Luật Công chức hoặc luân chuyển từ
cơ sở về tỉnh và ngược lạị luân chuyển từ Thanh tra tỉnh về huyện. Chính vì thế, đội
ngũ này chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những thói quen, phong tục, tập quán, phong
cách và lối sống của những cư dân vùng nông thôn miền Tây Nam bộ như: Lòng
nhiệt tình cách mạng; phóng khoáng trong giao tiếp; xuề xoà, dễ dãi trong công việc,
nặng tình cảm trong giải quyết công việc; đôi khi cục bộ trong suy nghĩ và hành
động... Song, đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh là người đứng đầu cầm cân, nẻ
mực, người “nhạc trưởng” của một đơn vị nên rất cần phải có đầy đủ những kiến
thức về công tác xây dựng Đảng, phương pháp công tác, tác phong lãnh đạo, uy tín
cá nhân, am hiểu phong tục tập quán, phong cách lối sống của cư dân nơi mình công
tác để tập thể tin tưởng, tín nhiệm. Từ thực tế cho thấy, nếu đội ngũ cán bộ ngành
Thanh tra tỉnh nào có trình độ nhận thức, phong cách lãnh đạo chuẩn mực, có năng
24
lực lãnh đạo tốt, xử lý hài hòa mọi quan hệ trong công việc thì khả năng hoàn thành
nhiệm vụ càng cao. Do đó, phong tục, tập quán, phong cách, lối sống của nhân dân
địa phương cũng như của đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh là một đặc điểm có
sự ảnh hưởng lớn đối với phong cách lãnh đạo của đội ngũ này.
Bốn là: Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh đảm nhiệm nhiều cương vị,
nhiệm vụ và phải giải quyết các mối quan hệ khác nhau nên cũng có nhiều kinh
nghiệm trong giao tiếp và giải quyết công việc. Đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra
tỉnh tuy chưa từng đảm nhiệm cương vị lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước cấp
tỉnh, nhưng có một ít cán bộ đã trải qua các cương vị, nhiệm vụ ở cơ sở và từng là
Trưởng - Phó các ngành chuyên môn cấp huyện; Giám đốc - Phó Giám đốc các Sở,
ngành; Trưởng, Phó các ban Đảng nên có được những kinh nghiệm trong lãnh đạo,
tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quản lý đơn vị và kinh nghiệm trong thực tiễn nhất là
khả năng vượt qua những khó khăn trong thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị và
đáp ứng tốt công tác chuyên môn trong hòa giải các vụ việc tranh chấp đều được
giải quyết thấu tình đạt lý. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ ngành Thanh tra tỉnh này
khi được giao nhiệm vụ đều là những cán bộ có phẩm chất, năng lực, đào tạo cơ
bản, được rèn luyện và trưởng thành từ phong trào của thực tiễn. Qua khảo sát thực
tế cho thấy được trưởng thành từ cơ sở chiếm 27% (Phụ lục số 3). Đây chính là
điều kiện thuận lợi cho quá trình bồi dưỡng phong cách lãnh đạo cho đội ngũ này,
đồng thời cũng đặt ra những vấn đề mà chủ thể bồi dưỡng phải quan tâm như việc
khắc phục tư tưởng cục bộ địa phương, bảo thủ, thỏa mãn, tự bằng lòng với thành
tích đã có...; phát huy tính năng động, sáng tạo của người đứng đầu trong Đảng bộ
để chọn những nội dung, hình thức, phương pháp bồi dưỡng cho phù hợp với đối
tượng này.
Chức trách, nhiệm vụ ngành Thanh tra tỉnh Bạc Liêu.
Thanh tra tỉnh Bạc Liêu là cơ quan cấp sở thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu
có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về công tác thanh tra; tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống tham
nhũng; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng trong phạm vi quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân tỉnh. Thanh
25