Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHẤT LƯỢNG CÔNG tác GIÁO dục PHÁP LUẬT CHO đội NGŨ cán bộ CÔNG CHỨC cấp xã ở HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ hải PHÒNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.76 KB, 118 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Thành phố Hải Phòng

TPHP

Giáo dục pháp luật

GDPL

Hồ Chí Minh

HCM

Trong sạch vững mạnh

TSVM

Ủy ban nhân dân

UBND

Hội đồng nhân dân

HĐND


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

3

VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1

Ở HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và những vấn đề cơ bản về

10

chất lượng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
1.2

công chức cấp xã ở huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
Thực trạng và một số kinh nghiệm trong công tác giáo dục

10

pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An
Dương, thành phố Hải Phòng
Chương 2 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT

32

LƯỢNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở HUYỆN

2.1

AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG HIỆN NAY
Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng công

54

tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp xã ở huyện
2.2

An Dương, thành phố Hải Phòng hiện nay
Những giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp

54

luật cho cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương, thành
phố Hải Phòng hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

62
90
92
96


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời quyết định hiệu lực của việc
thực thi pháp luật, góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống. Hiện nay, nước ta
đang trong quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, để pháp luật ngày càng trở thành phương tiện mà thông qua đó Đảng
lãnh đạo xã hội và cơ sở pháp lý để Nhà nước nâng cao hiệu quả quản lý các
lĩnh vực của đời sống xã hội; đảm bảo cho Nhà nước ta thực sự là nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Vì vậy, cùng với việc hoàn thiện hệ thống chính sách và
pháp luật cần phải không ngừng nâng cao chất lượng GDPL cho mọi công dân,
đặc biệt là cho đội ngũ cán bộ, công chức các cấp.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vị trí, vai trò hết sức quan trọng
trong việc quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Họ không chỉ gương mẫu chấp
hành nghiêm pháp luật Nhà nước mà còn có trách nhiệm tuyên truyền, phổ
biến, tổ chức, vận động quần chúng nhân dân chấp hành nghiêm đường lối,
quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Những năm qua, công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức đã được
cấp ủy đảng, chính quyền các cấp của huyện An Dương, quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo và đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức, lối
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ, công chức. Tuy
nhiên, công tác GDPL cho cán bộ, công chức vẫn còn không ít hạn chế, bất
cập. Một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công
tác GDPL; trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với công tác này chưa
được xác định cụ thể, rõ ràng; ở một số nơi, hoạt động GDPL chưa được tiến
hành thường xuyên, liên tục; nội dung, biện pháp giáo dục chưa linh hoạt,...
chất lượng GDPL không cao, chưa tạo được sự chuyển biến vững chắc về
3


nhận thức và hành vi chấp hành nghiêm túc pháp luật của cán bộ, công chức;
một bộ phận cán bộ, công chức các cấp vi phạm kỷ luật, pháp luật; lạm dụng

chức vụ, quyền hạn, coi thường pháp luật, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, làm
giảm uy tín của Đảng, gây bất bình trong xã hội và làm giảm lòng tin của nhân
dân đối với cán bộ, công chức.
Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và
những biến đổi, phát triển của tình hình kinh tế- xã hội ở trong nước, bên cạnh
những yếu tố thuận lợi, tích cực vẫn còn không ít những khó khăn, thách thức
tiêu cực đang hàng ngày, hàng giờ tác động, cản trở đến quá trình xây dựng,
phát triển và giữ vững kỷ cương phép nước; nhất là tình trạng một bộ phận
không nhỏ cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, vi phạm pháp luật. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức vững
mạnh đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước đòi
hỏi chất lượng GDPL ở địa phương cơ sở (xã, phường) cần được thường
xuyên tăng cường với chất lượng ngày càng cao hơn.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, giữ vững quốc phòng – an
ninh của TPHP nói chung và huyện An Dương nói riêng trong giai đoạn cách
mạng mới đòi hỏi phải phát huy hơn nữa tính tiền phong, gương mẫu của đội
ngũ cán bộ, công chức trong chấp hành, duy trì và thực thi pháp luật. Vì vậy,
đề tài “Chất lượng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã ở huyện An Dương, thành phố Hải Phòng hiện nay” là vấn đề cơ
bản có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về GDPL, nâng cao
chất lượng GDPL cho các đối tượng khác nhau trong xã hội, dưới nhiều góc
độ khác nhau. Tiêu biểu là các công trình: “Đổi mới GDPL trong hệ thống
các trường Chính trị ở nước ta hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Khoa Nhà
4


nước pháp luật, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1999; “Cơ sở

khoa học cho việc xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật” của
Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và
Nhân văn quốc gia; “Những vấn đề cơ bản về tổ chức giáo dục cho hạ sĩ
quan, binh sỹ tại đơn vị”, Tổng cục Chính trị (2004); “Một số vấn đề về nâng
cao chất lượng giáo dục chính trị cho HSQ, BS ở đơn vị cơ sở”, Nxb QĐND,
HN của PGS, TS Lê Duy Chương (2008); “Phát huy vai trò nòng cốt của
Đoàn thanh niên trong tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật ở đơn vị cơ
sở”, Thạc sỹ Phan Thị Mai Hương, 2010; “Nâng cao hiệu quả công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước trong
giai đoạn hiện nay”, Phạm Thế Kiên, Tạp chí khoa học, số 66, 2011; Đề tài
“Xây dựng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật của sinh viên trường
cao đẳng trong giai đoạn hiện nay”, Thạc sỹ Lê Vũ, Đoàn Chí Thiện (2012),
Đề tài “GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây
dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Giáo sư, Tiến sỹ
Phạm Hồng Thái, 2013; “Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
ở Vùng 1 Hải quân”, Thạc sỹ Hoàng Văn Huê, Cục chính trị, Quân chủng Hải
quân, 2013; “Trọng tâm đổi mới công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở Học
viện Biên phòng”, PGS, TS Đinh Trọng Ngọc, 2014, v.v…Trong các công trình
này, các tác giả đã đề cập đến một số vấn đề rất cơ bản như: ý thức và lối sống
theo pháp luật, thực trạng hiểu biết pháp luật và thái độ đối với pháp luật của các
tầng lớp dân cư, thanh niên; GDPL, bản chất của quá trình GDPL; mối quan hệ
giữa GDPL với giáo dục chính trị tư tưởng; hiệu quả của GDPL. Các đề tài trên
cơ bản thống nhất và đề cập đến một số giải pháp cơ bản để cao nhận thức, trách
nhiệm của các chủ thể trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục pháp luật; đổi mới
nội dung, hình thức giáo dục pháp luật và những vấn đề đang đặt ra để nâng cao
hiệu quả công tác GDPL trong giai đoạn hiện nay.

5



Luận án “Ý thức pháp luật với việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay” của Thạc sĩ Mai Thị Minh Ngọc, 1995; Luận án
“Nâng cao ý thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ hành chính nhà nước ở nước
ta hiện nay” của Tiến sĩ Luật học Lê Đình Kiên, 1996; “Những đặc điểm của
quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay” của Đào Duy
Tấn, năm 2000; Luận án “Logic khách quan của quá trình hình thành và phát
triển ý thức pháp luật ở Việt Nam” của Tiến sĩ Triết học Nguyễn Thị Thúy
Vân, 2000; Luận án “Những đặc điểm quá trình quá trình hình thành ý thức
pháp luật của Việt Nam hiện nay” của Tiến sĩ Triết học Đào Duy Tấn, Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2001; Luận văn “Đối mới giáo dục pháp
luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay” của Thạc sĩ Nguyễn
Ngọc Hoàng, 2000; Luận văn “Xây dựng môi trường văn hoá pháp luật của
đơn vị học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị
quân sự hiện nay” của Thạc sĩ Khoa học chính trị Dương Thế Bằng, Học viện
Chính trị quân sự, 2006; Luận văn “Nâng cao chất lượng GDPL trong đào
tạo sĩ quan hậu cần hiện nay” của Thạc sĩ Luật học Lê Hồng Sơn, 2006; Luận
văn “GDPL cho cán bộ công chức cấp xã tại thành phố Hồ Chí Minh” của
Thạc sĩ luật học Nguyễn Thị Bưởi, trường đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh, 2008; Luận văn “Nâng cao chất lượng GDPL cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở
đơn vị cơ sở thuộc Binh đoàn Hương Giang hiện nay” của Thạc sĩ Khoa học
chính trị Nguyễn Đức Rinh, Học viện Chính trị, 2010; Luận văn “Công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật của Vụ Pháp chế - Ủy ban dân tộc” của Thạc sỹ
Thiều Thu Hương, 2010; Luận văn “Giáo dục pháp luật trong quân đội nhân
dân Việt Nam-một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Thạc sỹ Vũ Bích Ngọc,
2011; Luận văn “Công tác giáo dục chính trị - tư tưởng của Đảng Bộ huyện
Mường Áng, tỉnh Điện Biên – thực trạng và giải pháp” của Thạc sỹ An Thị
Mai, 2012; Luận văn “Biện pháp quản lý công tác giáo dục pháp luật cho sinh
viên đại học trong giai đoạn hiện nay” của Thạc sỹ Huỳnh Bọng, 2012; Luận
văn “Đổi mới công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, đảng viên ở các quận
6



Phú Nhuận thuộc thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” của Thạc sỹ Trần Ngọc
Thảo, 2014, v.v.. Các luận án, luận văn này có mục đích, đối tượng, nội dung
và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau, nhưng nhìn chung, đều xuất phát từ quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM, đường lối, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra những vấn đề cơ bản về ý thức pháp luật,
bản chất, mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp, các nhân tố tác động tới quá
trình GDPL, nâng cao chất lượng GDPL; đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên
nhân của những ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm, đề xuất và luận chứng các
giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật, công tác GDPL
cho các đối tượng mà các đề tài đã xác định.
Một số sách, báo, tạp chí đã được xuất bản có những bài viết tiêu biểu
liên quan đến vấn đề này như: “Xây dựng lối sống theo pháp luật và vấn đề
GDPL trong nhà trường”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2001; “Một số
vấn đề về xây dựng, quản lý, khai thác tủ sách pháp luật của đồn biên phòng,
Tạp chí khoa học giáo dục Biên phòng”, số 9/2009 của Nguyễn Xuân Quân;
“Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và
hội nhập quốc tế” của PGS.TS Phạm Hồng Tung, NXB Chính trị quốc gia,
2011; “Kỷ yếu Hội thảo tình trạng vi phạm kỷ luật trong Quân đội và phương
hướng, giải pháp ngăn ngừa, khắc phục” Học viện Chính trị, Bộ Quốc
phòng, Hà Nội, 2011; “Pháp luật bảo vệ con người – nghiên cứu trường hợp
người chưa thành niên phạm tội”, Thạc sĩ Vũ Thị Thu Quyên, Học Viện Báo
chí tuyên truyền, Hà Nội, 2011; “Phổ biến giáo dục pháp luật trong nhà
trường là công tác thường xuyên”, đăng trên Báo điện tử Đại biểu Nhân dân,
2011, của Nguyễn Huy Bằng, Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Giáo dục;
“Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”, Đề án cấp
Bộ, 2013, Học viện Chính trị Quân sự; Đề án “Củng cố, kiện toàn và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp
ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh” của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, 2013; Đề án: “Tăng
7


cường phổ biến GDPL cho cán bộ, nhân dân khu vực biên giới, hải đảo giai
đoạn 2013-2016” của Bộ Quốc phòng“, tháng 6-2014; Đề án: “Giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho học viên đào tạo sĩ quan”, của Hoàng Đình
Huấn, Phạm Quang Long, tháng 5 năm 2014; “Thực hiện pháp luật về giáo
dục trong các trường đại học ở Việt Nam” của Tiến sỹ Vũ Thị Hồng Vân,
trường đại học Công nghiệp Hà Nội, 2014; Đề án “Nghiên cứu đề xuất tăng
cường hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến GDPL trong lĩnh vực thông
tin và truyền thông” của Bộ Thông tin và Truyền thông, 2014; “Một số giải
pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật”, đăng trên trang thông tin Phổ
biến giáo dục pháp luật của Bộ Tư pháp, 2014, v.v.. Các bài viết này đã đánh
giá thực trạng chất lượng GDPL cho nhân dân và thanh, thiếu niên Việt Nam;
đồng thời, đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng GDPL như đưa các
mô hình GDPL vào nhà trường qua các bài học lý thuyết và thực hành, dựa
trên nền tảng ý thức hệ truyền thống của người Việt Nam để khéo léo, linh
hoạt trong việc đưa giáo dục ý thức pháp luật gần gũi hơn với đời sống xã hội.
Tuy nhiên, các bài viết này cũng chỉ dừng lại ở các chuyên đề riêng biệt,
mang tính bàn luận một số vấn đề cơ bản của công tác giáo dục pháp luật nói
chung, chưa nghiên cứu chuyên sâu để đưa ra những luận cứ mới góp phần
hoàn thiện công tác giáo dục pháp luật đối với các đối tượng giáo dục mà các đề
tài đã xác định.
Những công trình khoa học đã công bố, dưới góc độ tiếp cận khác nhau
đã đề cập tới nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác GDCT, huấn
luyện chính trị ở đơn vị cơ sở... nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu trực tiếp, hệ thống về “Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho vận
động viên thành tích cao ở các trung tâm thể dục thể thao quân đội”.
Nhìn tổng thể, các công trình nói trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản

cả về lý luận và thực tiễn trong hoạt động GDPL trên nhiều góc độ. Tuy
nhiên, có thể nói rằng, cho đến nay hầu như chưa có công trình nào nghiên
8


cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về chất lượng công tác GDPL cho đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương, TPHP. Vì vậy, đề tài
không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu công
bố, và các đề tài luận văn, luận án đã bảo vệ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về chất lượng và đề
xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác GDPL cho đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương, TPHP hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề cơ bản về chất lượng công tác GDPL cho đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương, TPHP.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm trong công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện
An Dương, TPHP những năm qua.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công
tác GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương, TPHP
hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Chất lượng công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện An Dương, TPHP hiện nay là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy,
chính quyền, cơ quan chức năng các cấp đối với công tác GDPL cho đội ngũ

cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương, TPHP. Các tài liệu, số liệu sử
dụng trong đề tài tập trung chủ yếu từ 2010 đến nay.

9


5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
HCM, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề pháp
luật và giáo dục nâng cao ý thức pháp luật; các chỉ thị, nghị quyết của Thành
uỷ, UBND TPHP về công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức.
* Cơ sở thực tiễn: Là thực trạng công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã ở huyện An Dương, TPHP; các văn bản báo cáo, tổng kết
của huyện uỷ, UBND huyện An Dương, TPHP.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM, đề tài sử dụng tổng hợp
các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó
chú trọng các phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích và tổng hợp, hệ thống,
cấu trúc; thống kê, so sánh; nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, điều tra,
khảo sát thực tế và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp
Thành uỷ, UBND TPHP, Huyện uỷ, UBND huyện An Dương xác định các
chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác GDPL
cho đội ngũ cán bộ, công chức, góp phần ngăn chặn đẩy lùi tình trạng vi phạm
kỷ luật, pháp luật của cán bộ, công chức.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng,
chính quyền và các đoàn thể chính trị xã hội mà trực tiếp là Thành uỷ, UBND
TPHP và các đảng bộ quận, huyện trên địa bàn TPHP vận dụng trong việc giáo
dục nâng cao ý thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức.

7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

10


11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ Ở
HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và những vấn đề cơ bản về
chất lượng công tác giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp
xã ở huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
1.1.1. Đội ngũ cán bộ, công chức và công tác giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
* Khái quát về huyện An Dương, thành phố Hải Phòng
An Dương là huyện ngoại thành phía Tây của TPHP. Bắc và Tây Bắc
giáp tỉnh Hải Dương. Tây Nam giáp huyện An Lão, phía Nam giáp quận Kiến
An. Đông Bắc giáp huyện Thủy Nguyên, ranh giới là sông hàn, thượng nguồn
sông Cấm. Đông Nam giáp quận Hồng Bàng và quận Lê Chân. Huyện An
Dương bao gồm thị trấn An Dương và 15 xã là: Đại Bản, Lê Thiện, An Hồng,
An Hưng, An Hòa, Tân Tiến, Bắc Sơn, Nam Sơn, Hồng Phong, Lê Lợi, Quốc
Tuấn, Đặng Cương, An Đồng, Đồng Thái, Hồng Thái. Huyện An Dương có
diện tích là 9,83 km2 với 18 vạn dân số.
Cơ cấu kinh tế huyện An Dương phát triển theo xu hướng dịch vụ

thương mại, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Định hướng quy hoạch của
huyện là đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, tạo điều kiện thu hút các dự án vào đầu tư, thúc
đẩy kinh tế xã hội phát triển. Tăng cường công nghiệp hóa nông nghiệp nông
thôn. Tăng hiệu quả kinh tế trên diện tích đất, tăng tỷ trọng chăn nuôi và kinh
tế trang trại để phát triển một cách bền vững.
Phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề dịch vụ,
nghề truyền thống, hộ kinh doanh, hợp tác xã, hình thành khu công nghiệp
của huyện. Tạo các sản phẩm có khả năng xuất khẩu; gắn phát triển kinh tế
12


với phát triển văn hóa xã hội.. Phát triển kinh tế nhanh, nâng cao chất lượng
tăng trưởng và đảm bảo bền vững. Phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế của
huyện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong lĩnh vực hoạt động dịch
vụ, xây dựng. Tăng cường chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa…, bên cạnh duy trì kinh tế nhà nước, huyện đã hình
thành rất nhiều công ty tư doanh, các đơn vị này đã tạo ra một khối lượng sản
phẩm đáng kể góp phần thu ngân sách và giải quyết việc làm cho hàng trăm
lao động mỗi năm. Sự phát triển về kinh tế đã tạo điều kiện nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân, trình độ dân trí và sinh hoạt tinh thần ngày
một cao và phong phú. Bộ mặt xã hội, con người An Dương đều đổi mới.
Tiềm lực quốc phòng - an ninh ngày càng được củng cố và tăng cường.
* Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã:
Luật cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, định
nghĩa:
Cán bộ: Là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, ở xã, phường, thị trấn
thuộc quận, huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ xã: Là công dân Việt Nam, được bố trí các chức vụ: Bí thư, Phó
bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó
Chủ tịch UBND; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Bí thư Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Công chức: Là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
13


chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công
lập theo quy định của pháp luật.
Công chức trong hệ thống chính trị cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ. Công chức cấp xã có các
chức danh: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng - thống kê;
Địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường; Tài chính - kế toán; Tư
pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội.
Cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị cấp xã bao gồm cả cán bộ,
công chức được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã. Căn cứ vào điều
kiện kinh tế-xã hội, quy mô, đặc điểm của địa phương, Chính phủ quy định cụ
thể số lượng cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị cấp xã.

* Nhiệm vụ của cán bộ cấp xã:
Một là, quán triệt, cụ thể hóa và tổ chức cho nhân dân trong xã thực
hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết, Chỉ
thị, Kế hoạch, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của tỉnh ủy, HĐND, UBND TPHP và huyện ủy, HĐND, UBND huyện An
Dương. Tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ và phát triển đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết, Chỉ thị của cấp trên. Kiểm tra đôn
đốc việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết,
Chỉ thị của cấp trên.
Hai là, nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hóa nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên, nắm chắc tình hình của xã, đề xuất chủ trương, biện pháp để Đảng ủy,
HĐND, UBND xã xác định Nghị quyết, Kế hoạch, Chương trình phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trên địa bàn xã. Phổ biến, quán triệt, chỉ
14


đạo, hướng dẫn, tổ chức cho nhân dân trong xã thực hiện thắng lợi các Nghị
quyết, Kế hoạch, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an
ninh trên địa bàn xã. Động viên cổ vũ, kiểm tra đôn đốc, tổ chức sơ, tổng kết
thực hiện nhiệm vụ của xã.
Ba là, tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhân dân thường xuyên theo
dõi, nắm bắt, giải quyết kịp thời tình hình tư tưởng trong các tầng lớp nhân
dân. Xây dựng củng cố niềm tin của nhân dân trong xã vào sự nghiệp đổi
mới, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Bốn là, đại diện cho lợi ích và chăm lo bảo đảm đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh
tế - xã hội, xây dựng đời sống văn hóa, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Chỉ đạo, tổ chức thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Chỉ
đạo tổ chức giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, phòng chống, ngăn chặn
các tiêu cực và tệ nạn xã hội.

Năm là, thực hiện chức trách, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý, nòng cốt
trong xây dựng hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
ở xã. Chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật, các nguyên tắc, chế độ quy định
của địa phương. Duy trì chấp hành pháp luật trong xã, các nguyên tắc, chế độ
hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở.
Sáu là, tích cực học tập, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao phẩm chất,
năng lực, phương pháp công tác. Quan hệ mật thiết với nhân dân. Đấu tranh
kiên quyết và chịu trách nhiệm về tình trạng tham nhũng, quan liệu, mất đoàn
kết nội bộ trong xã.
Chỉ đạo, quản lý, điều hành hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, bồi
dưỡng, rèn luyện đội ngũ công chức. Tham gia công tác cán bộ theo quyền
hạn.
* Nhiệm vụ của công chức cấp xã:
Nhiệm vụ của công chức cấp xã, làm công tác chuyên môn thuộc biên
chế của UBND xã, có nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND cấp xã thực hiện
15


chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác được phân công và thực
hiện nhiệm vụ khác do Chủ tịch UBND cấp xã giao. Để hoàn thành nhiệm vụ
kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh cấp xã theo quy định của Bộ
Nội vụ, đội ngũ công chức cấp xã có những nhiệm vụ trên các lĩnh vực sau
đây:
Trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Công chức cấp xã có
nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của UBND cấp xã trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn
theo quy định của pháp luật; trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định
của pháp luật về Công an xã và các văn bản có liên quan của cơ quan có thẩm
quyền.
Trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự địa phương: Công chức cấp xã có

nhiệm vụ tham mưu, giúp UBND xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của UBND cấp xã trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự trên địa bàn theo quy
định của pháp luật; trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp
luật về dân quân tự vệ, quốc phòng toàn dân, nghĩa vụ quân sự và các văn bản
có liên quan của cơ quan có thẩm quyền.
Trong lĩnh vực Văn phòng - thống kê: Công chức cấp xã có nhiệm vụ
tham mưu, giúp UBND xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND
cấp xã trong các lĩnh vực: văn phòng, thống kê, tổ chức, nhân sự, thi đua,
khen thưởng, kỷ luật, tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc và thanh niên trên địa bàn
theo quy định của pháp luật. Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ sau: xây dựng
và theo dõi việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, lịch làm việc định
kỳ và đột xuất của HĐND, Thường trực HĐND, UBND, Chủ tịch UBND cấp
xã; giúp Thường trực HĐND và UBND cấp xã tổ chức các kỳ họp; chuẩn bị
các điều kiện phục vụ các kỳ họp và các hoạt động của HĐND, UBND cấp
xã; tổ chức lịch tiếp dân, tiếp khách của UBND cấp xã; thực hiện công tác văn
thư, lưu trữ, cơ chế một cửa và một cửa liên thông tại UBND cấp xã; nhận
đơn thư khiếu nại, tố cáo và chuyển đến Thường trực HĐND, UBND xem
16


xét, giải quyết theo thẩm quyền; tổng hợp, theo dõi và báo cáo việc thực hiện
quy chế làm việc của UBND cấp xã và thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy
định của pháp luật; chủ trì, phối hợp với công chức khác xây dựng và theo dõi
việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tổng hợp, thống kê, báo
cáo tình hình phát triển công nghiệp, thương mại, du lịch và các hoạt động
kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp xã; dự thảo các văn bản theo yêu cầu của
HĐND, Thường trực HĐND, UBND, Chủ tịch UBND cấp xã. Thực hiện các
nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành và do Chủ tịch
UBND cấp xã giao.
Trong lĩnh vực đất đai, tài nguyên, môi trường, xây dựng, đô thị, giao

thông, nông nghiệp và xây dựng nông thôn: Công chức cấp xã có nhiệm vụ
tham mưu, giúp UBND xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND
cấp xã trong các lĩnh vực đất đai, tài nguyên, môi trường, xây dựng, đô thị,
giao thông, nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn theo quy
định của pháp luật. Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ: thu thập thông tin, tổng
hợp số liệu, lập sổ sách các tài liệu và xây dựng các báo cáo về đất đai, địa
giới hành chính, tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học, công tác quy
hoạch, xây dựng, đô thị, giao thông, nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn theo quy định của pháp luật; tổ chức vận động nhân dân áp dụng
các tiến bộ khoa học vào sản xuất, bảo vệ môi trường trên địa bàn cấp xã;
giám sát về kỹ thuật các công trình xây dựng thuộc thẩm quyền quản lý của
UBND cấp xã; chủ trì, phối hợp với công chức khác thực hiện các thủ tục
hành chính trong việc tiếp nhận hồ sơ và thẩm tra để xác nhận nguồn gốc,
hiện trạng đăng ký và sử dụng đất đai, tình trạng tranh chấp đất đai và biến
động về đất đai trên địa bàn; xây dựng các hồ sơ, văn bản về đất đai và việc
cấp phép cải tạo, xây dựng các công trình và nhà ở trên địa bàn để Chủ tịch
UBND cấp xã quyết định hoặc báo cáo UBND cấp trên xem xét, quyết định
theo quy định của pháp luật. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của
pháp luật chuyên ngành và do Chủ tịch UBND cấp xã giao.
17


Trong lĩnh vực Tài chính, kế toán: Công chức cấp xã có nhiệm vụ tham
mưu, giúp UBND xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp
xã trong lĩnh vực tài chính, kế toán trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ: xây dựng dự toán thu, chi ngân sách cấp xã
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức thực hiện dự toán thu, chi ngân
sách và các biện pháp khai thác nguồn thu trên địa bàn cấp xã; kiểm tra và tổ
chức thực hiện các hoạt động tài chính, ngân sách theo hướng dẫn của cơ
quan tài chính cấp trên; quyết toán ngân sách cấp xã và thực hiện báo cáo tài

chính, ngân sách theo đúng quy định của pháp luật; thực hiện công tác kế toán
ngân sách (kế toán thu, chi ngân sách cấp xã, kế toán các quỹ công chuyên
dung và các hoạt động tài chính khác…) theo quy định của pháp luật; chủ trì,
phối hợp với công chức khác quản lý tài sản công, kiểm tra, quyết toán các dự
án đầu tư xây dựng thuộc thẩm quyền quản lý của UBND cấp xã theo quy
định của pháp luật. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật
chuyên ngành và do Chủ tịch UBND cấp xã giao.
Trong lĩnh vực Tư pháp và hộ tịch: Công chức cấp xã có nhiệm vụ
tham mưu, giúp UBND xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND
cấp xã trong lĩnh vực tư pháp và hộ tịch trên địa bàn theo quy định của pháp
luật. Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ: phổ biến, GDPL; quản lý tủ sách pháp
luật, tổ chức phục vụ nhân dân nghiên cứu pháp luật và tổ chức lấy ý kiến
nhân trên địa bàn cấp xã trong việc tham gia xây dựng pháp luật…
* Đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã:
Một là, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã rất đa dạng, phong phú về ngành
nghề, chủ yếu là người địa phương, trình độ kiến thức, năng lực hạn chế.
Đội ngũ cán bộ, công chức trong huyện hình thành từ nhiều nguồn,
nhiều thời kỳ, rất đa dạng, phong phú về ngành nghề, về lĩnh vực công tác.
Phần lớn đội ngũ cán bộ, công chức chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức
về nhà nước pháp luật. Số lượng đông nhưng trình độ năng lực còn hạn chế, vì
vậy xảy ra tình trạng vừa thừa, vừa thiếu, không đồng bộ. Hiện đang tồn tại sự
18


bất hợp lý trong phân bố đội ngũ cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức có
trình độ, có năng lực, cán bộ khoa học kỹ thuật tập trung chủ yếu ở huyện và
các xã phát triển, ở các ngành, các cơ quan đơn vị có thu nhập cao. Đội ngũ cán
bộ, công chức ở cơ sở vừa thiếu, vừa yếu…Với họ, thường thiếu hụt kiến thức,
hiểu biết về pháp luật, thiếu những kinh nghiệm thực tiễn trong tổ chức, chỉ
đạo, xử lý các “tình huống” pháp luật, thiếu những kỹ năng cần thiết về tuyên

truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật do trưởng thành từ cơ sở hoặc không được
đào tạo bài bản… Trong ý thức và hành vi của không ít cán bộ, công chức còn
mang nặng những dấu ấn, thói quen, tập tục của thành phần xuất thân và tư
tưởng phong kiến tiểu nông. Tuyệt đại đa số cán bộ, công chức ở huyện An
Dương, TPHP có gia đình cư trú trên địa bàn huyện, nhưng lại có nguồn gốc
xuất thân chủ yếu từ nông dân, dân nghèo, bộ đội xuất ngũ…ở các địa phương
khác nhau của TPHP và vùng miền trên cả nước. Cho nên trong ý thức, hành vi
của họ luôn chịu ảnh hưởng những hạn chế của giai cấp nông dân, của thói quen
sản xuất nhỏ…, sự tác động của phong tục, tập quán của vùng miền địa phương.
Hai là, hầu hết trưởng thành từ cán bộ cơ sở, ít được đào tạo, bồi
dưỡng theo đúng chuyên ngành công tác.
Hẩu hết là người trưởng thành từ cán bộ cơ sở nên họ có nhiều kinh
nghiệm trong hoạt động thực tiễn, gắn bó và am hiểu tình hình thực tế địa
phương nhưng về mặt chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế còn nhiều hạn chế.
Đội ngũ cán bộ, công chức ở huyện An Dương, TPHP đa dạng về trình
độ học vấn và cương vị công tác. Có người có trình độ học vấn sau đại học,
cao đẳng, đại học, trung cấp với nhiều chuyên ngành đào tạo khác nhau.
Nhưng cũng có người, chủ yếu là cấp xã chưa được đào tạo cơ bản mà chủ
yếu trưởng thành từ thực tiễn công tác và chỉ được bồi dưỡng tập huấn ở các
trung tâm giáo dục lý luận chính trị của Huyện, Thành phố. Tuy nhiên, do tính
chất đa dạng về chuyên ngành, cương vị công tác nên kiến thức về pháp luật
của đối tượng này cũng rất khác nhau. Mỗi một chức danh, chuyên môn,
19


nghiệp vụ có các yêu cầu, nội dung cụ thể khác nhau về kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm chuyên môn và yêu cầu, nội dung học tập, nghiên cứu về pháp
luật cũng khác nhau. Với những người chưa qua các trường đào tạo cơ bản,
nên còn thiếu hụt những kiến thức hiểu biết về pháp luật. Ở họ rất khó khăn

trong việc nắm kiến thức pháp luật để đưa vào thực hiện chức trách nhiệm vụ
cũng như tuyên truyền, phổ biến GDPL cho nhân dân.
Ba là, đời sống vật chất tinh thần của đội ngũ cán bộ, công chức còn
nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Đời sống vật chất và tinh thần của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
mặc dù được nâng lên so với trước đây, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều khó
khăn, thiếu thốn. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vừa là người đại diện cho
Đảng và Nhà nước thực hiện quản lý điều hành và thực thi công vụ trong hệ
thống chính trị cơ sở, vừa là người trực tiếp tham gia lao động, sản xuất, buôn
bán,…để có thêm thu nhập ở gia đình (có khi là lao động chính trong hộ gia
đình) cho nên ít nhiều ảnh hưởng đến tính “chuyên nghiệp” của đội ngũ này.
Mặt khác, địa phương cơ sở ở huyện An Dương còn nhiều khó khăn, cơ cấu
kinh tế nông nghiệp toàn diện mới tăng cường chuyển dịch theo hướng sản
xuất hàng hóa nên chế độ, chính sách đãi ngộ còn thiếu và nhiều bất cập, chưa
tương xứng, chưa thể sống nổi bằng thu nhập từ lương.
* Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã:
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là người trực tiếp quán triệt, triển
khai, tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước muốn đi vào đời sống xã hội đều phải triển khai xuống cơ sở cho quần
chúng, nhân dân thông hiểu và thực hiện. Để làm được điều đó, cần phải có
một lực lượng ở cơ sở có khả năng nắm rõ chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước, có nhiệm vụ “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với quần
chúng nhân dân. Lực lượng cơ sở đó không ai khác mà chính là đội ngũ cán
bộ, công chức cấp xã. Họ là người gần dân nhất, thường xuyên trực tiếp tiếp
20


xúc với nhân dân, họ là “tai mắt” của Đảng và Chính quyền.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là những người người đại diện cho

Đảng và Nhà nước thực hiện các quyền và nghĩa vụ cụ thể trong quan hệ với
nhân dân, có trách nhiệm trực tiếp triển khai, thực hiện các chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Mọi hoạt động của họ đều góp phần
quan trọng vào việc tổ chức thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống,
duy trì trật tự, kỷ cương xã hội. Mặt khác, họ cũng chính là những người phản
ánh tâm tư, ý kiến của nhân dân cho Đảng, cho Nhà nước, giúp Đảng và Nhà
nước kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chủ trương, đường lối, chính sách
đã ban hành.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò quan trọng trong phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị ở địa phương.
Thực tiễn hiện nay, các chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của
Đảng và Nhà nước khi được triển khai ở xã nào mà đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhất định,
năng động sáng tạo, thì chủ trương, đường lối, chính sách đó sẽ được tổ chức
thực hiện nhanh chóng và phát huy hiệu quả cao trong đời sống xã hội. Ngược
lại, nơi nào có đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn nghiệp vụ
không đồng đều, năng lực tổ chức thực hiện kém, thì ở địa phương đó các chủ
trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước thường được
triển khai và tổ chức thực hiện qua loa, không đến nơi, đến chốn, thậm chí có
lúc còn vi phạm dẫn đến gây hậu quả nghiêm trọng.
Từ đó có thể thấy, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước có đến được với dân hay không, tâm tư nguyện vọng của dân có được
Đảng xem xét giải quyết kịp thời, kinh tế - xã hội có phát triển, quốc phòng an ninh được củng cố trật tự an toàn xã hội có được giữ vững hay không,…
phần lớn đều do đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức cách mạng sẽ là điều kiện quan
trọng đảm bảo cho việc ổn định an ninh trật tự, thúc đẩy kinh tế - xã hội ở cấp
21


xã phát triển.

Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là lực lượng nòng cốt trong xây
dựng, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở,
xã, phường, thị trấn.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là những trụ cột, là trung tâm đoàn
kết, tổ chức, sắp xếp, tập hợp lực lượng, là linh hồn của các tổ chức trong hệ
thống tổ chức bộ máy ở xã. Có vai trò quyết định đến năng lực và hiệu quả
quản lý của chính quyền và hoạt động của các đoàn thể quần chúng của địa
phương. Các tổ chức này có hoàn thành nhiệm vụ hay không, trước hết tùy
thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Đội ngũ cán bộ, công chức
cấp xã “tốt” sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy tổ chức hoạt động có hiệu quả.
Ngược lại, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã “kém” sẽ kìm hãm hoạt động
của tổ chức đó. Đồng thời làm ảnh hưởng chung đến cả hệ thống chính trị.
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là nguồn bổ sung cho cán bộ cấp
quận, huyện.
Họ là những người được rèn luyện trong môi trường thực tiễn ở cơ sở, có
kiến thức thực tế và bề dày kinh nghiệm, năng động, nhanh nhạy trong xử lý công
việc, gần gũi với nhân dân. Thực tế cho thấy, đa số cán bộ, công chức đã từng trải
qua chức danh cán bộ lãnh đạo ở cơ sở, khi bổ nhiệm, bầu cử giữ chức lãnh đạo ở
cấp huyện, cấp tỉnh thì thường thể hiện được bản lĩnh, sự nhạy bén, sáng tạo trong
giải quyết công việc và có chiều hướng phát triển tốt. Trong khi đó, một số cán bộ,
công chức đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo mà chưa kinh qua cấp cơ sở thường chậm
thích nghi và gặp nhiều khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ.
Vì vậy, để có được “Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân” ở
nước ta hiện nay, điều quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được một đội
ngũ cán bộ, công chức vừa có đức vừa có tài. Với tư cách là người lãnh đạo,
người quản lý nhà nước và quản lý xã hội, thái độ và hành vi xử sự đúng pháp
luật hay không của cán bộ, công chức là ví dụ sinh động, là tấm gương phản
chiếu tính pháp chế trong tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị nói
22



chung, bộ máy nhà nước nói riêng. Với tư cách là những người trực tiếp, có
tác động rất mạnh đến hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân dân đối
với pháp luật, đội ngũ cán bộ, công chức phải được trang bị các kiến thức về
pháp luật và kỹ năng trong áp dụng pháp luật và trước tiên họ phải có ý thức
đầy đủ về trách nhiệm chủ thể GDPL của mình trong khi tiến hành các hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ cụ thể.
Tính đến tháng 12 năm 2014, tổng số cán bộ, công chức đương chức
trong cả hệ thống chính trị cấp xã ở huyện An Dương là 316, trong đó số
lượng cán bộ là 174, số lượng công chức là 142. Số trình độ sơ cấp và chưa
qua đào tạo là: 16. Số trình độ trung cấp là: 158. Số trình độ đại học là: 142.
* Quan niệm công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện An Dương, TPHP
Pháp luật là quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, mọi công dân phải
có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, do đó không cần đặt vấn đề GDPL. Pháp luật
không thể là cái thuộc tính tuyên truyền vận động, ngược lại, bản thân pháp
luật sẽ tự thực hiện chức năng của mình bằng các quy định về quyền và nghĩa
vụ thông qua các chế tài đối với những người tham gia vào các quan hệ xã hội
do pháp luật điều chỉnh.
GDPL trước hết là một hoạt động mang đầy đủ tính chất chung của
giáo dục, nhưng nó cũng có những nét đặc thù riêng, phạm vi riêng để tác
động lên ý thức con người. Theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp của giáo dục,
GDPL được hiểu là: con người nói chung là khách thể (hay đối tượng) chịu
ảnh hưởng và tác động của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan để
hình thành nên ý thức, tình cảm và hành vi pháp luật. GDPL vừa mang những
đặc điểm chung của giáo dục, sử dụng những hình thức phương pháp của giáo
dục nói chung, vừa thể hiện những nét đặc thù riêng có của mình trong mối
liên hệ chặt chẽ với các loại hình giáo dục khác như giáo dục chính trị, đạo
đức…Tính đặc thù của GDPL thể hiện ở cả mục đích, nội dung và ở cả hình
thức, phương pháp. Nét đặc thù của GDPL khác tương đối với các dạng giáo

23


dục khác ở chỗ: GDPL có mục đích riêng của minh, đó là hoạt động nhằm
hình thành tri thức, tình cảm và thói quen xử sự phù hợp với quy định của
pháp luật; GDPL có nội dung riêng, đó là sự tác động định hướng với nội
dung cơ bản là chuyển tải tri thức của nhân loại nói chung, của một Nhà nước
nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật; GDPL so với các dạng
giáo dục khác, đó là quá trình tác động liên tục, thường xuyên, lâu dài chứ
không phải là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục.
Từ điển CTĐ, CTCT trong quân đội nhân dân Việt Nam chỉ rõ:
“GDPL, hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và đoàn
thể nhân dân tuyên truyền, phổ biến các tri thức pháp luật, các bộ luật, các
văn bản pháp luật của Nhà nước, xây dựng ý thức pháp luật, bồi dưỡng tình
cảm, thói quen, hành vi chấp hành pháp luật cho nhân dân và cán bộ, chiến sỹ,
nhằm làm cho mỗi người nắm vững và biết phát huy quyền làm chủ của mình
trong chấp hành pháp luật, giám sát hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, hệ
thống chính quyền các cấp…".
GDPL cho cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương, TPHP là hoạt
động có mục đích, có kế hoạch của cả chủ thể và đối tượng, thông qua các nội
dung, hình thức, biện pháp của công tác tư tưởng - văn hoá để trang bị, nâng
cao kiến thức, hiểu biết về pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, công
chức; làm cho những kiến thức, hiểu biết ấy trở thành nhận thức, tư tưởng,
tình cảm, niềm tin vững chắc và ý chí quyết tâm phấn đấu rèn luyện, tự giác
chấp hành triệt để những yêu cầu của pháp luật, góp phần phát triển phẩm
chất, năng lực, phong cách làm việc của cán bộ, công chức và phòng ngừa
ngăn chặn hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật trong đội ngũ cán bộ, công chức
của huyện An Dương - TPHP.
Từ cách tiếp cận trên đây có thể quan niệm: Công tác GDPL cho đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương là hoạt động có mục đích, có kế

hoạch của các tổ chức và các lực lượng để tuyên truyền, phổ biến các tri thức
pháp luật, các bộ luật, các văn bản pháp luật của Nhà nước nhằm nâng cao kiến

24


thức hiểu biết, xây dựng ý thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm, thói quen, hành vi,
niềm tin và ý chí quyết tâm phấn đấu rèn luyện, chấp hành triệt để những yêu cầu
của pháp luật trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, góp phần phát triển phẩm
chất, năng lực, phong cách làm việc của cán bộ, công chức.
Quan niệm chỉ rõ:
Mục đích công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
huyện An Dương nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, góp phần củng cố,
phát triển ở đội ngũ cán bộ, công chức khả năng tự ý thức, tự chủ, tự giác và
tự trọng trong việc tiếp nhận và chấp hành luật pháp; kiên quyết đấu tranh
chống lại những hiện tượng vi phạm luật pháp.
Chủ thể GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An
Dương bao gồm nhiều tổ chức, lực lượng. Chủ thể lãnh đạo trực tiếp công tác
GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương là Huyện ủy,
Hội đồng nhân dân, UBND, Đảng ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban xã,
phường, thị trấn thuộc huyện An Dương, TPHP. Chủ thể trực tiếp tiến hành
công tác GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở huyện An Dương là
các cơ quan, ban ngành, đoàn thể của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân; Ban tuyên
giáo, Phòng tư pháp, các cơ quan truyền thông, báo chí, truyền hình, phát
thanh của TPHP và của các quận, huyện... Các tổ chức kinh tế - xã hội của
Trung ương, Thành phố và toàn thể nhân dân trên địa bàn huyện An Dương,
TPHP.
Đối tượng công tác GDPL là toàn thể cán bộ, công chức đang công tác
làm việc tại các xã, thị trấn của huyện An Dương, TPHP.
Nội dung GDPL cho cán bộ, công chức bao gồm Hiến pháp, các bộ

luật, các văn bản dưới luật, các quy định của địa phương liên quan trực tiếp đến
việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mỗi cán bộ, công chức. Trọng tâm là
các quy định của pháp luật về dân sự, hình sự, hành chính, hôn nhân và gia
đình, bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục,
y tế, quốc phòng, an ninh, giao thông, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
25


×