Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Khả năng sinh sản, sinh trưởng và định hướng chọn lọc đối với lợn Duroc, Landrace Và Yorkshire

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 142 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

ĐOÀN PHƯƠNG THÚY

KHẢ NĂNG SINH SẢN, SINH TRƯỞNG
VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHỌN LỌC ĐỐI VỚI LỢN
DUROC, LANDRACE VÀ YORKSHIRE

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP-2016


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngành chăn nuôi lợn ở nước ta hiện nay đã có những bước phát triển khá
mạnh, giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm đáp ứng nhu
cầu đời sống con người. Ngày 16 tháng 01 năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã
phê duyệt “Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020”, định hướng phát
triển chăn nuôi trở thành ngành sản xuất hàng hóa, từng bước đáp ứng nhu cầu
thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên, chăn nuôi lợn ở
nước ta hiện nay mới chỉ đạt được về số lượng còn năng suất và chất lượng vẫn
thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, song song với
việc cải tiến điều kiện chăn nuôi, cần chú trọng tới công tác giống.
Nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác giống, trong những năm qua, chúng ta
đã nhập khá nhiều giống lợn ngoại có năng suất cao, chất lượng thịt tốt từ những
nước có nền chăn nuôi tiên tiến. Những nguồn gen quý này đã góp phần tích cực
nâng cao năng suất, tỷ lệ nạc trong sản xuất chăn nuôi lợn nước ta. Cũng như
nhiều nước chăn nuôi phát triển, trong hệ thống nhân giống lợn công nghiệp của
Việt Nam, ba giống thuần Yorkshire, Landrace và Duroc đang chiếm vị trí quan
trọng trong đàn giống cụ kỵ (GGP), nái lai F1 là con lai giữa đực Landrace với


nái Yorkshire hoặc giữa đực Yorkshire với nái Landrace cũng chiếm tỷ trọng cao
trong đàn bố mẹ (PS). Các lợn đực giống Landrace, Yorkshire, Duroc cũng như
đực lai PiDu (con lai giữa Piétrain và Duroc) tham gia tạo nhiều tổ hợp lai khác
nhau, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng thịt của đàn lợn cả nước.
Để phát huy hơn nhiệm vụ của công tác giống, bên cạnh việc tiếp tục bổ
sung nguồn gen, cần tập trung nghiên cứu đánh giá chọn lọc nhằm duy trì, nâng
cao tiềm năng di truyền một số tính trạng chủ yếu ở lợn nái sinh sản và lợn đực
giống của ba giống lợn ngoại nói trên. Trong những năm gần đây, một số nghiên
cứu trong nước đã tập trung theo hướng này. Phan Xuân Hảo (2007) đã đánh giá
tăng khối lượng trung bình hàng ngày, tỷ lệ nạc và tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng đối với lợn Landrace và Yorkshire. Nguyễn Quế Côi và Võ Hồng Hạnh
(2000) đã ước tính hệ số di truyền, tương quan di truyền giữa các tính trạng tăng
khối lượng trung bình hàng ngày, dày mỡ lưng và khả năng chuyển hoá thức ăn

1


của lợn Landrace và Yorkshire. Nguyễn Hữu Tỉnh và cs. (2006) đã ước tính hệ
số di truyền của tuổi đạt 90 kg, dày mỡ lưng đối với lợn Yorkshire, Landrace và
Duroc nuôi tại các tỉnh phía Nam. Trần Thị Minh Hoàng và cs. (2010) đã ước
tính giá trị giống đối với tăng khối lượng trung bình hàng ngày, dày mỡ lưng của
lợn Landrace và Yorkshire. Cũng đã có khá nhiều nghiên cứu về năng suất sinh
sản của nái lai thuận nghịch giữa Yorkshire và Landrace (Lê Đình Phùng và
Nguyễn Trường Thi, 2009; Phan Xuân Hảo, 2010; Vũ Đình Tôn và Nguyễn
Công Oánh, 2010; Đoàn Văn Soạn và Đặng Vũ Bình, 2011; Phạm Thị Đào và
cs., 2013). Trần Thị Minh Hoàng và cs. (2008a) đã đánh giá các yếu tố ảnh
hưởng đến năng suất sinh sản của đàn lợn nái Landrace và Yorkshire nuôi tại Mỹ
Văn, Tam Điệp và Thuỵ Phương. Nguyễn Hữu Tỉnh và cs. (2006, 2012, 2013) đã
đánh giá tiềm năng di truyền của một số tính trạng năng suất trên các giống lợn
thuần Duroc, Landrace và Yorkshire ở các tỉnh phía Nam cũng như xác định ảnh

hưởng di truyền cộng gộp trực tiếp và của mẹ đối với số con sơ sinh sống/ổ của
nái Yorkshire và Landrace thuần chủng. Nguyễn Hữu Tỉnh và Nguyễn Thị Viễn
(2011) đã ước tính giá trị giống liên kết đàn thuần và đàn lai đối với một số tính
trạng sản xuất của lợn Yorkshire và Landrace.
Tuy nhiên, vẫn còn ít các nghiên cứu đánh giá năng suất sinh sản ở lợn nái
cũng như khả năng sinh trưởng, dày mỡ lưng ở lợn đực hậu bị của ba giống
Duroc, Landrace và Yorkshire thuần chủng và định hướng chọn lọc chúng, đặc
biệt là đối với các cơ sở nhân giống ở các tỉnh phía Bắc.
Đề tài nghiên cứu của luận án này nhằm đánh giá năng suất sinh sản ở lợn
nái, khả năng sinh trưởng, dày mỡ lưng ở lợn đực hậu bị của ba giống Duroc,
Landrace và Yorkshire thuần chủng trong đàn cụ kỵ nuôi tại Công ty Lợn giống
hạt nhân Dabaco, một trong những cơ sở lớn về nhân giống lợn ngoại ở nước ta.
Trên cơ sở đó, xây dựng định hướng chọn lọc nhằm nâng cao năng suất sinh sản,
tốc độ sinh trưởng, giảm dày mỡ lưng cho ba giống lợn này.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu chung
Nâng cao tiềm năng di truyền đàn lợn giống Duroc, Landrace và Yorkshire,
đáp ứng yêu cầu chăn nuôi lợn hướng nạc năng suất cao của nước ta.

2


1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá tốc độ sinh trưởng, dày mỡ lưng; ước tính hệ số di truyền, dự
đoán giá trị giống của hai tính trạng này và xây dựng định hướng chọn lọc đối
với lợn đực giống hậu bị của ba giống Duroc, Landrace và Yorkshire nuôi tại
Công ty Lợn giống hạt nhân Dabaco.
- Đánh giá khả năng sinh sản; ước tính hệ số di truyền, dự đoán giá trị giống
của số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ và xây dựng định hướng chọn lọc đối
với lợn nái sinh sản của ba giống Duroc, Landrace và Yorkshire nuôi tại Công ty

Lợn giống hạt nhân Dabaco.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lợn đực và lợn nái trên ba giống lợn
thuần chủng Duroc, Landrace và Yorkshire thuộc đàn cụ kỵ nuôi tại Công ty Lợn
giống hạt nhân Dabaco.
Thời gian nghiên cứu: dữ liệu theo dõi và xử lý từ năm 2011 tới năm 2015.
Địa điểm nghiên cứu: Công ty Lợn giống hạt nhân Dabaco, xã Tân Chi,
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, thuộc tập đoàn Dabaco.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
- Đã xác định được hệ số di truyền, giá trị giống của bố mẹ và đời sau: xây
dựng được định hướng chọn lọc đối với chỉ tiêu số con sơ sinh sống/ổ, số con cai
sữa/ổ đối với lợn nái thuần Duroc, Landrace và Yorkshire.
- Đã xác định được hệ số di truyền, giá trị giống của bố mẹ và đời sau: xây
dựng được định hướng chọn lọc đối với chỉ tiêu tăng khối lượng trung bình hàng
ngày và dày mỡ lưng đối với lợn đực giống hậu bị Duroc, Landrace và
Yorkshire.
- Bổ sung vào tư liệu quản lý giống về năng suất sinh sản, hệ số di truyền,
giá trị giống của một số chỉ tiêu năng suất chủ yếu đối với 3 giống lợn quan trọng
là Duroc, Landrace và Yorkshire.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
- Đánh giá được các tính trạng chủ yếu về năng suất sinh sản của lợn nái
và tốc độ sinh trưởng, dày mỡ lưng của lợn đực hậu bị đối với ba giống lợn
Duroc, Landrace và Yorkshire.
3


- Ước tính được hệ số di truyền, hệ số lặp lại về số con sơ sinh sống/ổ, số
con cai sữa/ổ; hệ số di truyền về tốc độ sinh trưởng, dày mỡ lưng của lợn đực hậu
bị đối với ba giống lợn Duroc, Landrace và Yorkshire.

1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Cung cấp thêm tư liệu về khả năng sản xuất, hệ số di truyền, hệ số lặp lại
đối với một số tính trạng năng suất chủ yếu của ba giống lợn Duroc, Landrace
và Yorkshire.
- Xây dựng định hướng chọn lọc nhằm nâng cao năng suất chăn nuôi đối
với ba giống lợn Duroc, Landrace và Yorkshire trên cơ sở đó góp phần đáp ứng
yêu cầu sản xuất chăn nuôi lợn hướng nạc năng suất cao ở nước ta.

4


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cải thiện năng suất sinh sản, sinh trưởng và chất lượng thịt luôn được quan
tâm xem xét trong các mục tiêu nhân giống vật nuôi nói chung và giống lợn nói
riêng. Trong công tác giống lợn, chọn lọc đóng vai trò quan trọng trong việc cải
tiến di truyền đối với đàn giống vật nuôi. Chọn lọc là phương thức được ưu tiên
hàng đầu đối với các tính trạng có hệ số di truyền cao. Phương pháp dự đoán hồi
quy không sai lệch tốt nhất (BLUP) để ước tính giá trị giống ngày càng được ứng
dụng rộng rãi trong chăn nuôi. Sử dụng BLUP cho phép dự đoán được giá trị
giống một cách chính xác nhất. Với quy mô đàn giống lớn, dữ liệu giống được
tích luỹ qua nhiều thế hệ, thông qua việc sử dụng được tất cả giá trị kiểu hình của
các con vật họ hàng, BLUP khắc phục được cả những hạn chế đối với các tính
trạng vốn có hệ số di truyền thấp. Chọn lọc trên cơ sở phương pháp BLUP là
định hướng đúng đắn góp phần cải tiến di truyền vật nuôi một cách nhanh hơn và
bền vững hơn.
1.1.1. Tính trạng số lượng
Tính trạng số lượng là những tính trạng thể hiện một đại lượng biến thiên
liên tục, giá trị của chúng được xác định bằng các phép đo (cân, đong, đo, đếm).
Hầu hết các tính trạng có giá trị về mặt kinh tế ở vật nuôi đều là những tính trạng

số lượng. Trong các chương trình giống lợn, các tính trạng số lượng được quan
tâm nhiều nhất gồm số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng cai sữa/ổ
hoặc khối lượng 21 ngày tuổi/ổ, tăng khối lượng trung bình hàng ngày hoặc tuổi
đạt khối lượng xuất bán, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng, dày mỡ lưng.
Cơ sở khoa học cho việc cải tiến di truyền các giống vật nuôi đó là hai hiện
tượng di truyền cơ bản liên quan đến tính trạng số lượng:
- Cơ sở di truyền của sự chọn lọc: sự giống nhau giữa các con vật thân
thuộc, quan hệ thân thuộc càng gần, các con vật càng giống nhau.
- Cơ sở di truyền của sự chọn phối để nhân thuần và lai tạo: sự suy hoá cận
thân và hiện tượng ưu thế lai.
Giá trị được sử dụng để biểu thị các đặc tính của tính trạng số lượng. Giá trị
kiểu hình (Phenotype Value) của một cá thể là các giá trị thu được của các phép

5


đo khi đánh giá các tính trạng. Giá trị kiểu hình (P) bao gồm giá trị kiểu gen (G)
và sai lệch môi trường (E).
P=G+E
Giá trị kiểu gen chịu tác động của rất nhiều gen, chúng gây ra các hiệu ứng:
cộng gộp (Addition), trội (Dominance) và át chế hoặc tương tác (Interaction).
Tác động cộng gộp hay giá trị giống (A) là sự tác động có tính độc lập và tích luỹ
lại của tất cả các gen. Tác động trội (D) được thực hiện bởi tương tác giữa các
gen trong cùng locus. Tác động tương tác (I) được thực hiện bởi tương tác giữa
các gen khác locus. Như vậy, giá trị kiểu gen được xác định:
G=A+D+I
Sai lệch môi trường được tạo ra do tính trạng số lượng chịu ảnh hưởng rất
lớn bởi điều kiện môi trường. Sai lệch môi trường cũng được phân tích thành hai
phần: Sai lệch môi trường chung (General Environment, Eg) hoặc sai lệch môi
trường thường xuyên (Permanent Environment, Ep) tác động tới tất cả các cá thể

trong cùng một quần thể. Sai lệch môi trường riêng (Special Environment, Es)
hoặc sai lệch môi trường tạm thời (Temporary Environment, Et) tác động tới một
số cá thể trong quần thể. Như vậy, sai lệch môi trường được xác định:
E = Eg + Es = Ep + Et
Do vậy:
P = A + D + I + Eg + Es
Để nâng cao năng suất của vật nuôi, những biện pháp cần phải tác động
bao gồm:
- Tác động lên yếu tố di truyền (giá trị kiểu gen): được thực hiện bởi các
nhà nghiên cứu về công tác giống.
+ Phương pháp chọn lọc được thực hiện để tác động vào hiệu ứng cộng gộp
(A) và sẽ có hiệu quả cao đối với những tính trạng có hệ số di truyền trung bình
hoặc cao. Khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng sản phẩm là những tính
trạng có hệ số di truyền trung bình hoặc cao.
+ Lai giống được thực hiện để tác động vào hiệu ứng trội (D) và tương tác
gen (I) và sẽ có hiệu quả cao đối với những tính trạng có hệ số di truyền thấp.
Những tính trạng về khả năng sinh sản đều có hệ số di truyền thấp.
- Tác động lên yếu tố môi trường (E): được thực hiện bằng cách cải tiến
điều kiện chăn nuôi (dinh dưỡng thức ăn, kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh
phòng bệnh, kỹ thuật chuồng trại…)

6


1.1.2. Hệ số di truyền
Hệ số di truyền của tính trạng số lượng có vai trò quan trọng trong công tác
giống. Những tính trạng có hệ số di truyền cao, năng suất của thế hệ con được cải
tiến một cách nhanh chóng và chắc chắn thông qua việc chọn lọc bố mẹ có năng
suất cao. Ngược lại, những tính trạng có hệ số di truyền thấp, năng suất của thế
hệ con được cải tiến một cách có hiệu quả thông qua lai giống hơn là chọn lọc.

Hệ số di truyền có thể được hiểu theo 2 nghĩa khác nhau: hệ số di truyền
theo nghĩa rộng và hệ số di truyền theo nghĩa hẹp.
* Hệ số di truyền theo nghĩa rộng
Hệ số di truyền theo nghĩa rộng (h2G) được biểu thị bằng tỷ số giữa phương
sai di truyền ( σ G2 ) và phương sai kiểu hình ( σ 2P ), hoặc được biểu thị bằng hồi quy
tuyến tính của giá trị di truyền theo giá trị kiểu hình, hoặc bằng bình phương của
hệ số tương quan giữa giá trị di truyền và giá trị kiểu hình. Hệ số di truyền theo
nghĩa rộng được biểu diễn bằng công thức:

h G2 =

σG2
σ 2P

* Hệ số di truyền theo nghĩa hẹp
Hệ số di truyền theo nghĩa hẹp (h2A) được biểu thị bằng tỷ số giữa phương
sai di truyền cộng gộp ( σ 2A ) và phương sai kiểu hình ( σ 2P ), hoặc được biểu thị
bằng hồi quy tuyến tính của giá trị di truyền cộng gộp (giá trị giống) theo giá trị
kiểu hình, hoặc bình phương của hệ số tương quan giữa giá trị di truyền cộng gộp
và giá trị kiểu hình.

h 2A =

σ 2A
σ 2P

Hệ số di truyền theo nghĩa hẹp biểu thị phần giá trị kiểu hình được quy định
bởi các gen truyền đạt từ thế hệ bố mẹ sang thế hệ con. Hệ số di truyền theo
nghĩa hẹp được sử dụng trong công tác giống vật nuôi.
* Phương pháp xác định hệ số di truyền

Phân tích hồi quy con theo bố (mẹ), con theo trung bình bố (mẹ); phân tích
phương sai anh chị em nửa ruột thịt, anh chị em ruột được sử dụng để ước tính hệ
số di truyền. Trong đó, phân tích phương sai anh chị em nửa ruột thịt được sử
dụng phổ biến trong các phần mềm chuyên dụng ước tính hệ số di truyền.
7


* Giá trị của hệ số di truyền
Hệ số di truyền được biểu thị thấp nhất bằng 0 và cao nhất bằng 1 hoặc tỷ lệ
phần trăm từ 0% đến 100%. Hệ số di truyền được chia thành 3 mức độ (3 nhóm)
khác nhau:
- Các tính trạng có hệ số di truyền thấp (từ 0,0 đến 0,2): bao gồm các tính
trạng như số con đẻ ra, khối lượng sơ sinh, khối lượng toàn ổ lúc cai sữa…
- Các tính trạng có hệ số di truyền trung bình (từ 0,2 đến 0,4): bao gồm các
tính trạng như tăng khối lượng trung bình hàng ngày, chi phí thức ăn cho 1 kg
tăng khối lượng…
- Các tính trạng có hệ số di truyền cao (từ 0,4 đến 1) bao gồm: dày mỡ lưng,
diện tích mắt thịt, tỷ lệ nạc…
1.1.3. Hệ số lặp lại
Hệ số lặp lại của một tính trạng là một đại lượng biểu thị mức độ trùng lặp
của tính trạng đó nếu được đo lường nhiều lần.
Hệ số lặp lại của một tính trạng là tỷ lệ giữa tổng của phương sai của giá trị
2
) với phương sai
kiểu gen ( σ G2 ) và phương sai của sai lệch môi trường chung ( σ Eg

của giá trị kiểu hình ( σ P2 ).
R=

2

σ G2 + σ Eg
σ P2

Như vậy, hệ số lặp lại là giới hạn trên của hệ số di truyền. Hệ số lặp lại
được biểu thị bằng một số thập phân có giá trị từ 0 đến 1. Hệ số lặp lại lớn hay
nhỏ phụ thuộc vào bản chất di truyền của các tính trạng (phụ thuộc vào đặc điểm
di truyền của quần thể) và điều kiện môi trường mà cá thể đó được nuôi dưỡng
(Falconer, 1993). Khi tính trạng của cá thể được xác định m lần, phương sai sai
lệch môi trường riêng ( σ Es2 ) sẽ giảm đi m lần, do vậy phương sai kiểu hình trung
bình của m lần xác định sẽ giảm đi. Tỷ số giữa phương sai kiểu hình của m lần
xác định ( σ P2 (m ) ) và phương sai kiểu hình ( σ P2 ) biểu thị độ chính xác của giá trị
kiểu hình:
σ P2 ( m ) 1 + ( m − 1) R
=
σ P2
m

8


Khi số lần xác định tăng lên, tỷ lệ này giảm mạnh ở các tính trạng có hệ số
lặp lại nhỏ. Do đó sử dụng giá trị kiểu hình trung bình sẽ làm tăng độ chính xác
của giá trị này trong đánh giá chọn lọc vật giống.
1.1.4. Hệ số tương quan di truyền
Trong thực tế sản xuất, các nhà chọn giống thường quan tâm chọn lọc đồng
thời một số tính trạng. Về mặt di truyền, các tính trạng này thường có tương quan
với nhau do tính đa hiệu của gen và sự liên kết gen trong quá trình di truyền
(Lasley, 1972). Sự tồn tại của các tương quan di truyền giữa các tính trạng đã
được quan sát thấy khi tính trạng này được cải thiện thường kéo theo những biến
đổi di truyền nhất định của tính trạng khác.

Hệ số tương quan di truyền (rA), tương quan ngoại cảnh bao gồm cả tác
động cộng gộp và tương tác (rE) và tương quan kiểu hình (rP) giữa 2 tính trạng X
và Y được tính theo các công thức sau:
σAxy
2
σ σ Ay

- Hệ số tương quan di truyền: rA =

2
.
Ax

- Hệ số tương quan ngoại cảnh: rE =

σE x y
2
2
σ Ex

Ey
σPxy
σ .σ 2Py

- Hệ số tương quan kiểu hình: rP =

2
Px

Trong đó:


rA , rE , rP : các hệ số tương quan di truyền, ngoại cảnh và kiểu hình
σAxy , σExy , σPxy : các hiệp phương sai di truyền, ngoại cảnh và kiểu hình
2
σAx2 ; σAy
, σ2Ex , σ 2Ey , σ2Px , σ 2Py : phương sai di truyền, ngoại cảnh và kiểu hình

Hiện nay, việc ước tính các tham số di truyền thường sử dụng một tập hợp
lớn các số liệu, các mô hình hỗn hợp bao gồm cả yếu tố cố định và yếu tố ngẫu
nhiên được sử dụng và một số phần mềm chuyên dụng như Harvey (1990),
MTDF.REML (Boldman et al., 1995), VCE (Groeneveld et al., 2008) đáp ứng
được yêu cầu này.
1.1.5. Giá trị giống
Giá trị di truyền cộng gộp (A) hay giá trị giống (Breeding Value, BV) là
phần mà kiểu gen truyền được từ thế hệ trước cho thế hệ sau.

9


Chỉ có thể ước tính được giá trị giống, vì vậy giá trị giống ước tính
(Estimated Breeding Value, EBV) được sử dụng rộng rãi trong đánh giá chọn lọc
vật giống. Ước tính giá trị giống một tính trạng của vật nuôi phải dựa vào giá trị
kiểu hình của tính trạng này. Các giá trị kiểu hình được sử dụng để ước tính giá
trị giống được gọi là các nguồn thông tin, bao gồm:
+ Giá trị kiểu hình của một, hoặc trung bình của các lần xác định lặp lại trên
chính bản thân con vật;
+ Giá trị kiểu hình của một hoặc trung bình trên các anh chị em (ruột hay
nửa ruột thịt) của con vật;
+ Giá trị kiểu hình của một hoặc trung bình trên các đời con của con vật;
+ Giá trị kiểu hình của một hoặc trung bình của các lần xác định lặp lại trên

tổ tiên (bố, mẹ, ông, bà…) của con vật.
* Dự đoán giá trị giống bằng phương pháp BLUP
Trên cơ sở ước tính giá trị giống bằng phương pháp chỉ số chọn lọc
(Selection Index) kinh điển, phương pháp BLUP do Henderson xây dựng và phát
triển.
BLUP là phương pháp dự đoán hồi quy không sai lệch tốt nhất được sử
dụng rộng rãi trong việc dự đoán giá trị giống của con vật (BLUP) và ước tính
ảnh hưởng của các yếu tố cố định (BLUE). Phương pháp BLUP có những ưu
điểm như sau:
- Sử dụng được tất cả các nguồn thông tin về giá trị kiểu hình của các con
vật có họ hàng với con vật cần đánh giá, nên dự đoán được giá trị giống một cách
chính xác nhất, nhờ đó hiệu quả chọn lọc theo BLUP cũng cao hơn;
- Loại trừ được ảnh hưởng của các yếu tố cố định như đàn vật nuôi, năm,
mùa vụ, lứa đẻ… do nguồn thông tin của các con vật họ hàng chịu ảnh hưởng
của các yếu tố này;
- Đánh giá được khuynh hướng di truyền của các đàn vật giống do xử lý các
nguồn thông tin thu được trong một khoảng thời gian nhất định;
- Sử dụng được các nguồn thông tin dưới dạng số liệu giữa các nhóm không
cân bằng.
Mô hình hỗn hợp được sử dụng trong phương pháp BLUP như sau:
Y=X +Z +e
Trong đó:
Y: Véc tơ giá trị của tính trạng nghiên cứu

10


: Véc tơ giá trị ước tính của các yếu tố cố định
: Véc tơ giá trị giống dự đoán của các con vật trong hệ phổ
e: Véc tơ sai số ngẫu nhiên

X: Ma trận ảnh hưởng của các yếu tố cố định
Z: Ma trận ảnh hưởng của các con vật trong hệ phổ.
Henderson đã sử dụng phương trình sau để tính các vec tơ và :

Trong đó:
- X’ và Z’: các ma trận chuyển vị của X và Z
- A: ma trận quan hệ di truyền cộng gộp của các con vật trong hệ phổ, còn
gọi là NRM (Numerator Relationship Matrix)
- α = (1-h2)/h2 hoặc

(h2: hệ số di truyền,



: phương sai di

truyền cộng gộp và phương sai sai lệch môi trường)
Một số mô hình BLUP được sử dụng để dự đoán giá trị giống của vật nuôi:
- Mô hình đực giống (Sire Model): Dùng để dự đoán khác biệt mong đợi ở
đời con (Expected Progeny Differences, EPD), từ đó dự đoán giá trị giống của
con đực;
- Mô hình vật giống (Animal Model): Dùng để dự đoán giá trị giống của
bản thân con vật;
- Mô hình lặp lại (Repeatability Model): Dùng để dự đoán giá trị giống khi
giá trị kiểu hình của một tính trạng được xác định lặp lại với một số lần. Mô hình
này còn được gọi là mô hình với các ảnh hưởng ngoại cảnh ngẫu nhiên (Models
with Random Environmental Effects);
- Mô hình nhiều tính trạng (Mutivariate Animal Model): Dùng để dự đoán
giá trị giống với hai hay nhiều tính trạng dựa trên mối quan hệ kiểu hình và mối
quan hệ di truyền giữa các tính trạng này.

Trong những năm gần đây, các nghiên cứu liên quan đế dự đoán giá trị
giống bằng các mô hình khác nhau thường sử dụng phần mềm MTDF.REML
(Boldman et al., 1995) hoặc PEST (Groeneveld et al., 2002).
1.1.6. Hiệu quả chọn lọc
Hiệu quả chọn lọc (Selection Response, R) về một tính trạng thuộc mục tiêu
chọn giống là sự chênh lệch giữa giá trị trung bình kiểu hình của đời con sinh ra

11


từ những bố mẹ được chọn lọc so với giá trị trung bình kiểu hình của toàn bộ thế
hệ bố mẹ đối với tính trạng đó.
Hiệu quả chọn lọc của một tính trạng phụ thuộc hệ số di truyền vào ly sai
chọn lọc (Selection Differential, S) của tính trạng đó. Ly sai chọn lọc là sự chênh
lệch giữa giá trị trung bình kiểu hình của các bố mẹ được chọn lọc so với giá trị
trung bình kiểu hình của toàn bộ thế hệ bố mẹ đối với tính trạng đó.
Do ly sai chọn lọc được tiêu chuẩn hoá theo độ lệch chuẩn kiểu hình của
tính trạng (σP) nên hiệu quả chọn lọc của một tính trạng phụ thuộc tỷ lệ thuận với
hệ số di truyền, cường độ chọn lọc (i) và độ lệch chuẩn của tính trạng:
R = h2S = h2iσP
1.2. KHẢ NĂNG SINH SẢN VÀ SINH TRƯỞNG CỦA LỢN
1.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái và các yếu tố ảnh
hưởng

1.2.1.1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh sản của lợn nái
Một yêu cầu quan trọng của chăn nuôi lợn nái là phải tăng khả năng sinh
sản nhằm đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và chất lượng lợn cho khâu sản xuất
lợn thịt.
Có nhiều chỉ tiêu sinh học đánh giá năng suất sinh sản của lợn cái nhưng
các nhà di truyền chọn giống lợn chỉ quan tâm tới một số chı̉ tiêu năng suất sinh

sản nhất định, đó là các chỉ tiêu có tầm quan trọng quyế t đinh
̣ hiê ̣u quả kinh tế
trong chăn nuôi lợn nái.
Gordon (2004) cho rằng: trong các trại chăn nuôi hiện đại, số lợn con cai
sữa do một nái sản xuất trong một năm là chỉ tiêu đánh giá đúng đắn nhất năng
suất sinh sản của lợn nái. Chỉ tiêu này phản ánh được đầ y đủ toàn bộ chu kı̀ sản
suấ t của một lợn nái trong mô ̣t năm. Tác giả cũng cho biết tầm quan trọng của
các thành phần cấu thành ảnh hưởng đến chỉ tiêu số lợn con cai sữa do một nái
sản xuất trong một năm lần lượt là: số con đẻ ra trong ổ, tỷ lệ chết của lợn con từ
sơ sinh đến cai sữa, thời gian bú sữa, tuổi đẻ lứa đầu và thời gian từ cai sữa đến
khi thụ thai lứa sau.
Theo Ducos (1994), các thành phần đóng góp vào chỉ tiêu số con còn sống
khi cai sữa gồm: số trứng rụng, tỷ lệ sống khi sơ sinh và tỷ lệ lợn con sống tới lúc
cai sữa.

12


Mabry et al. (1996) cho rằng, các tính trạng năng suất sinh sản chủ yếu của
lợn nái bao gồm: số con đẻ ra/ổ, số con cai sữa/ổ, khối lượng toàn ổ ở 21 ngày
tuổi và số lứa đẻ/nái/năm. Các tính trạng này ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của
người chăn nuôi lợn nái.
Theo quyết định số 657/QĐ-BNN-CN (2014) về việc phê duyệt các chỉ
tiêu định mức kinh tế kỹ thuật cho các đàn vật nuôi giống gốc đối với lợn ngoại
như sau:
- Số con đẻ ra còn sống/ổ: ≥ 10,5 con (Yorkshire, Landrace), ≥ 9,5 con
(Duroc), ≥ 9,0 con (Piétrain), ≥ 11,0 con (các giống tổng hợp), thấp hơn 10% (đối
với lợn cụ kỵ các giống tương ứng).
- Số con cai sữa/ổ: ≥ 9,7 con (Yorkshire, Landrace), ≥ 8,7 con (Duroc), ≥8,3
con (Piétrain), ≥ 10,1 con (các giống tổng hợp), thấp hơn 10% (đối với lợn cụ kỵ

các giống tương ứng)
- Số ngày cai sữa: 21 – 28 ngày
- Khối lượng toàn ổ lúc sơ sinh: ≥ 14,5 kg (Yorkshire, Landrace), ≥ 13,0 kg
(Duroc), ≥ 12,0 kg (Piétrain), ≥ 15,5 kg (các giống tổng hợp)
- Khối lượng toàn ổ lúc cai sữa: 65 - 80 kg (Yorkshire, Landrace), 55 -80 kg
(Duroc), 50 - 80 kg (Piétrain), 65 – 85 kg (các giống tổng hợp)
- Số con 75 ngày tuổi/ổ: ≥ 9,2 con (Yorkshire, Landrace), ≥ 8,3 con
(Duroc), ≥ 7,9 con (Piétrain), ≥ 9,6 con (các giống tổng hợp)
- Khối lượng lợn ở 75 ngày tuổi: ≥ 25 kg/con
- Tuổi đẻ lứa đầu: 340-385 ngày
- Số lứa đẻ/nái/năm: ≥ 2,2 lứa (Yorkshire, Landrace), ≥ 2 lứa (Duroc), ≥ 1,9
lứa (Piétrain), ≥ 2,25 lứa (Các giống tổng hợp)
- Tỷ lệ nuôi sống từ sơ sinh đến cai sữa: ≥ 92%
- Tỷ lệ nuôi sống từ cai sữa đến 75 ngày: ≥ 95%
- Thời gian nuôi cái hậu bị (từ 75 ngày đến khi phối giống lần đầu): 150160 ngày

1.2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn nái
* Yếu tố di truyền
Giống là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến các chỉ tiêu sinh sản của lợn nái
(Marsac et al., 2000; Hamann et al., 2004).
13


Theo Legault (1985), căn cứ vào khả năng sinh sản và sức sản xuất thịt, các
giống lợn được chia thành 4 nhóm chính (dẫn theo Rothschild and Bidanel, 1998)
như sau:
- Các giống đa dụng như Yorkshire, Landrace và một số dòng nguyên
chủng được xếp vào loại có khả năng sản xuất thịt và sinh sản khá;
- Các giống chuyên dụng “dòng bố” như Piétrain, Landrace của Bỉ,
Hampshire, Poland China có khả năng sinh sản trung bình nhưng khả năng sản

xuất thịt cao;
- Các giống chuyên dụng “dòng mẹ”, đặc biệt một số giống chuyên sản của
Trung Quốc như Taihu (điển hình là Meishan) có khả năng sinh sản đặc biệt cao
nhưng khả năng cho thịt kém;
- Các giống địa phương có đặc tính chung là khả năng sinh sản và sức sản
xuất thịt kém, song có khả năng thích nghi tốt với môi trường.
Các giống “dòng bố” thường có khả năng sinh sản thấp hơn so với các
giống đa dụng. Ngoài ra chúng có chiều hướng hơi kém về khả năng nuôi con, tỷ
lệ lợn con chết trước khi cai sữa của các giống này cao hơn so với Landrace và
Large White (Blasco et al., 1995).
Theo Hamann et al. (2004), lợn Landrace có số con đẻ ra cao hơn so với
lợn Piétrain.
Theo Dan and Summer (1995), số con sơ sinh/ổ của nái Large White và nái
Landrace lần lượt là 9,6 và 10,4 con; số con sơ sinh sống/ổ tương ứng đạt 9,1 và
9,7 con. Sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,001).
Judge et al. (1996) nhận thấy lợn có hội chứng stress có tỷ lệ nạc cao,
song thân hình thường ngắn hơn, thu nhận thức ăn thấp và tăng khối lượng
trung bình hàng ngày không cao cũng như số con trong ổ, tỷ lệ nuôi sống
thấp (dẫn theo Rothschild and Bidanel, 1998). Trên đàn lợn Landrace và
Yorkshire, yếu tố giống ảnh hưởng đến tất cả các tính trạng số con/ổ (số con đẻ
ra, số con sơ sinh sống, số con để nuôi và số con cai sữa), khoảng cách lứa đẻ và
khối lượng toàn ổ giai đoạn sơ sinh, cai sữa (Hoque et al., 2002). Đặng Vũ Bình
(1999) khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới các tính trạng năng suất sinh sản
trong một lứa đẻ của lợn nái ngoại (Landrace và Yorkshire) nuôi tại Xí nghiệp
Lợn giống Mỹ Văn cho thấy giống chỉ ảnh hưởng tới số con để nuôi (P<0,05).
Các chı̉ tiêu sinh sản thường có hê ̣ số di truyề n thấ p, tuổ i đẻ lứa đầ u với
h2 = 0,27 (Rydhmer et al., 1995); hệ số di truyền cộng gộp đối với tính trạng số

14



con đẻ ra/ổ và số con cai sữa/ổ của một số công bố đề u dao động từ 0,03 đến
0,12: số con đẻ ra/lứa với h2 = 0,12 (Damgaard et al., 2003), h2 = 0,08 (Smital
et al., 2005), h2 = 0,03 (Imboonta et al., 2007), h2 = 0,09 (Lundgren et al.,
2010) và h2 = 0,12 (Schneider et al., 2011); số con cai sữa/ổ với h2 = 0,11
(Schneider et al., 2011). Khố i lươṇ g sơ sinh/ổ với h2 = 0,07 (Grandinson et al.,
2005) và h2 = 0,18 (Schneider et al., 2011); khố i lươ ̣ng sơ sinh/con với h2 = 0,44
(Schneider et al., 2011); khố i lươ ̣ng cai sữa/ổ với h2 = 0,20 (Grandinson et al.,
2005), h2 = 0,21 (Lundgren et al., 2010) và h2 = 0,22 (Schneider et al., 2011);
khoảng cách giữa hai lứa đẻ với h2 = 0,08 (Rydhmer et al., 1995). Các chı̉ tiêu
sinh sản có hê ̣ số di truyề n thấ p nên năng suấ t sinh sản chiụ ảnh hưởng lớn bởi
tác đô ̣ng của các yế u tố môi trường. Trong cho ̣n lo ̣c nhân thuầ n, các tı́nh tra ̣ng
năng suấ t sinh sản thường đa ̣t tiế n bô ̣ di truyề n châ ̣m so với nhóm các tı́nh tra ̣ng
sinh trưởng và chấ t lươ ̣ng thit.̣ Khi nghiên cứu các yế u tố ảnh hưởng đế n ưu thế
lai ở lơ ̣n, cho đế n nay các kế t quả nghiên cứu đã khẳ ng đinh
̣ ở lơ ̣n các tı́nh tra ̣ng
sinh sản có hê ̣ số di truyề n thấ p thı̀ khi lai ta ̣o đa ̣t ưu thế lai cao.
Đánh giá ảnh hưởng của lai giống đối với năng suất sinh sản, nhiều tác giả
cho biết nhờ có ưu thế lai cao mà lai giống có thể cải thiện năng suất sinh sản của
lợn. Các lợn nái lai có tuổi thành thục về tính sớm hơn (11,3 ngày), tỉ lệ thụ thai
cao hơn (2 - 4%), số trứng rụng nhiề u hơn (0,5 trứng), số con đẻ ra/ổ cao hơn
(0,6- 0,7 con) và số con cai sữa/ổ (0,8 con) nhiều hơn so với lơ ̣n nái thuần chủng.
Tỉ lệ nuôi sống lợn con ở các lơ ̣n nái lai cao hơn (5%), khối lượng sơ sinh/ổ
(1 kg), khối lượng 21 ngày/ổ (4,2 kg) cao hơn so với lơ ̣n nái giống thuần
(Gunsett and Robison, 1990). Ngoài ra, năng suất sinh sản của lợn nái cũng chịu
ảnh hưởng của cận huyết. Theo Johnson (1990), khi hệ số cận huyết ở lợn nái
tăng thêm 10% thì số con đẻ ra sẽ giảm khoảng 0,29 con/ổ.
Ngoài sự ảnh hưởng của giống, kiểu gen halothane cũng có ảnh hưởng đến
khả năng sinh sản của lợn nái (Biedermann et al., 1997; Stalder et al., 1998).
* Yếu tố ngoại cảnh

Ngoài yếu tố di truyền, các yếu tố ngoại cảnh cũng ảnh hưởng rất rõ rệt và
có ý nghĩa đến năng suất sinh sản của lợn nái. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới khả
năng sinh sản của lợn nái như: chế độ nuôi dưỡng, tuổi, khối lượng phối, phương
thức phối, lứa đẻ, mùa vụ, nhiệt độ môi trường, thời gian chiếu sáng, bệnh tật...
(Gamba, 2000; Riha et al., 2000; Dierckx et al., 1997; Sohst, 1997).
15


- Chế độ nuôi dưỡng
Dinh dưỡng là yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo khả năng sinh sản
của lợn nái. Lợn nái và lợn cái hậu bị có chửa cần được cung cấp đủ về số và
chất lượng các chất dinh dưỡng để có kết quả sinh sản tốt.
Zimmerman et al. (1996) cho biết các mức ăn khác nhau trong giai đoạn
từ cai sữa đến phối giống trở lại có ảnh hưởng tới tỷ lệ thụ thai.
Yamada and Nakamura (1998) nhận thấy nuôi dưỡng hạn chế lợn cái
trong giai đoạn hậu bị sẽ làm tăng tuổi động dục lần đầu, tăng tỷ lệ loại thải so
với nuôi dưỡng đầy đủ.
Nuôi dưỡng tốt lợn nái trước khi động dục có thể làm tăng số lượng trứng
rụng, tăng số phôi sống (Ashworth et al., 2000).
- Mùa vụ
Mùa vụ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của lợn
nái. Gaustad-Aas et al. (2004) cho biết mùa vụ có ảnh hưởng đến số con đẻ ra/ổ.
Mùa có nhiệt độ cao là nguyên nhân làm kết quả sinh sản ở lợn nái nuôi chăn thả
thấp, tỷ lệ chết ở lợn con cao (Akos and Bilkei, 2004). Theo Quiniou et al.
(2000), nhiệt độ cao làm lợn nái thu nhận thức ăn thấp, tỷ lệ hao hụt lợn nái tăng
và tỷ lệ động dục trở lại sau cai sữa giảm.
Tỷ lệ thụ thai bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ và mùa vụ. Lợn nái phối giống
vào các tháng nóng có tỷ lệ thụ thai thấp, làm tăng số lần phối giống, giảm khả
năng sinh sản từ 5 đến 20%.
Số con đẻ ra/ổ khi phối giống vào mùa hè có thể ít hơn một con so với

khi phối giống vào mùa thu, mùa đông (Peltoniemi et al., 2000a, Koketsu et al.,
1998). Theo Dominguez et al. (1998) thì tỷ lệ thụ thai thấp và số con đẻ ra ít
vào mùa hè.
Đặng Vũ Bình (1999) phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến các tính
trạng năng suất sinh sản trong một lứa đẻ của lơ ̣n nái ngoa ̣i đã kết luận yếu tố
mùa vụ ảnh hưởng đến hầu hết các tính trạng (trừ tính trạng số con 35 ngày tuổi,
khối lượng toàn ổ giai đoạn sơ sinh và 21 ngày tuổi). Khối lượng toàn ổ sơ sinh ở
mùa đông cao hơn mùa thu (P<0,01). Trần Thị Minh Hoàng và cs. (2008a), Phạm
Thị Kim Dung và Trần Thị Minh Hoàng (2009) cũng cho biế t yếu tố mùa vụ ảnh
hưởng đến tất cả các tính trạng sinh sản mà các tác giả đã nghiên cứu.

16


- Tuổi và lứa đẻ
Clark and Leman (1996) cho biết tuổi và lứa đẻ đều là yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến số con đẻ ra/ổ (dẫn theo Gordon, 1997).
Số lượng trứng rụng thấp nhất ở chu kỳ động dục thứ nhất, tăng đến 3 tế
bào trứng ở chu kỳ động dục thứ hai và đạt tương đối cao ở chu kỳ động dục thứ
ba (Deckert et al., 1998).
Warrick et al. (1989) cho biết số con đẻ ra tương quan thuận với số lượng
trứng rụng (dẫn theo Gordon, 1997).
Theo Tretinjak et al. (2009), số con đẻ ra/ổ thường thấp nhất ở lứa thứ
nhất, tăng lên và đạt cao nhất ở lứa thứ 3 đến lứa thứ 5.
- Ảnh hưởng của lợn đực phố i và phương thức phối giố ng
Nhiều tác giả cho biết số lần phối giống trong một lần động dục ở lợn nái
ảnh hưởng tới số con đẻ ra/ổ (Serenius et al., 2003).
Theo Anon (1993), phối giống kết hợp giữa thụ tinh nhân tạo và nhảy trực
tiếp có thể làm tăng 0,5 lợn con so với phối riêng rẽ (dẫn theo Gordon, 1997).
Phối giống bằng thụ tinh nhân tạo, tỷ lệ thụ thai và số con đẻ ra/ổ đều thấp hơn

(0-10%) so với phối giống trực tiếp (Colin, 1998), nhưng kết quả nghiên cứu của
Alexopoulos et al. (1997) lại ngược lại.
- Thời gian cai sữa
Mabry et al. (1996); Gaustad-Aas et al. (2004) cho biết: phối giống sớm
sau khi đẻ, tỷ lệ đẻ và số con đẻ ra/ổ thấp hơn so với phối giống muộn. Theo
Gordon (2004), giảm thời gian cai sữa từ 20 xuống 15 ngày sẽ làm giảm 0,2 con
trong ổ, giảm thời gian cai sữa từ 15 xuống 10 ngày sẽ làm giảm trên 0,2 con
trong ổ.
Lợn nái phối giống khi cai sữa sớm có số lượng trứng rụng thấp (15,9 so
với 24,6) và số phôi ở ngày chửa thứ 11 ít. Lợn nái cai sữa sớm có tỷ lệ thụ thai
thấp, số phôi sống ít và thời gian động dục trở lại dài (Tonn et al., 1995, dẫn theo
Gordon, 1997; Deckert et al., 1998).
- Chế độ nuôi nhốt
Nuôi nhốt lợn cái hậu bị hoàn toàn ảnh hưởng đế n quá trı̀nh sinh lý và gây
trở ngại cho phối giống, chủ yếu là gây hiê ̣n tươ ̣ng lợn cái không hoă ̣c châ ̣m
động dục. Các nhà chăn nuôi khuyế n cáo khắc phục vấn đề này bằng cách không
nhốt lợn cái hậu bị mà thả chúng ra bên ngoài trước thời kỳ phối giống
(Zimmerman et al., 1996). Việc nuôi nhốt cá thể hoặc nuôi riêng biệt từng lợn cái
17


hậu bị cũng sẽ làm chậm thành thục về tính so với những cái hậu bị được nuôi
theo nhóm. Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu khuyến cáo không nên nuôi lơ ̣n cái
giai đoa ̣n hậu bị tách biệt đàn. Mâ ̣t đô ̣ nuôi hâ ̣u bi ̣không phù hơ ̣p cũng làm châ ̣m
tuổ i đô ̣ng du ̣c của lơ ̣n cái hâ ̣u bi.̣
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng

1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh trưởng
Sinh trưởng là sự tăng lên về kích thước hoặc khối lượng của vật nuôi do
có sự tăng lên về số lượng và thể tích tế bào. Mối liên hệ giữa khối lượng và tuổi

của vật nuôi được thể hiện bằng đồ thị hình chữ S. Giai đoạn trước thành thục
sinh dục có tốc độ sinh trưởng nhanh, sau đó tốc độ sinh trưởng chậm lại và giảm
dần cho đến khi đạt ổn định về khối lượng, lúc này vật nuôi thành thục về thể
vóc. Khả năng sinh trưởng được mô tả bằng sinh trưởng tuyệt đối và sinh trưởng
tương đối.
Sinh trưởng tuyệt đối được xác định bằng tỷ lệ giữa khối lượng cơ thể vật
nuôi tăng lên (w2 – w1) với khoảng thời gian để tăng được khối lượng đó (t2 – t1).
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng tăng khối lượng trung bình hàng
tháng (kg/tháng) hoặc hàng ngày (g/ngày). Sinh trưởng tuyệt đối được mô hình
hoá bằng đồ thị parabol. Đối với lợn thịt cần xác định được thời điểm đạt giá trị
cực đại (đỉnh parabol) để kết thúc giai đoạn nuôi thịt nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Sinh trưởng tương đối được xác định bằng tỷ lệ giữa khối lượng cơ thể vật
nuôi tăng lên (w2 – w1) với khối lượng tại thời điểm bắt đầu (w1).

1.2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng
* Yếu tố di truyền
Ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến khả năng sinh trưởng bao gồm sự
khác biệt giữa các giống và sự khác biệt giữa các cá thể trong cùng một giống.
Khả năng sinh trưởng của lợn bị ảnh hưởng bởi giống, dòng và kiểu gen
khác nhau (Campell and Taverner, 1988). Mrode and Kennedy (1993) đã chỉ ra
sự khác biệt về khả năng sinh trưởng giữa giống Yorkshire và Landrace. Trong
một nghiên cứu ở Úc, khi so sánh năng suất sinh trưởng của hai giống lợn
Yorkshire và Landrace. McPhee et al. (1981) đã cho biết giống lợn Yorkshire có
tốc độ sinh trưởng cao hơn và hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn giống lợn
Landrace. Một số nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự khi so sánh năng
suất sinh trưởng các giống lợn Landrace và Yorkshire tại Hà Lan (Haer and de

18



Vries, 1993).
Ảnh hưởng của kiểu di truyền đến lượng thức ăn thu nhận hàng ngày đã
được Kalm (1986) chỉ ra khi so sánh lượng thức ăn thu nhận hàng ngày của
giống lợn Piétrain chỉ tương đương 87% so với giống lợn Landrace. Sự khác biệt
này đã được Webb and Simpson (1986) giải thích rằng một phần do ảnh hưởng
của gen halothane ở trạng thái đồng hợp tử. Đã có rất nhiều nghiên cứu tập trung
vào việc đánh giá ảnh hưởng của kiểu gen halothane đến khả năng sinh trưởng.
Lợn mang gen halothane đồng hợp tử lặn hoặc dị hợp có khối lượng thân thịt và
tỷ lệ nạc cao hơn (Leach et al., 1996; Larzul et al., 1997; Youssao et al., 2002;
Merour et al., 2009; Salmi et al., 2010; Werner et al., 2010). Lợn Landrace mang
kiểu gen halothane dị hợp tử (CT) có tỷ lệ nạc cao hơn so với lợn mang kiểu gen
CC (Đinh Văn Chỉnh và cs., 1999).
Gen RN- được nhận thấy trên giống lợn Hampshire với tác động làm giảm
sản lượng thịt từ 5 – 6% (Leroy et al., 2000).
Tính biệt
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng giới tính có ảnh hưởng rất rõ rệt đến năng
suất sinh trưởng, chuyển hóa thức ăn của lợn trong phương thức cho ăn tự do
(Haer and de Vries, 1993). Những con đực có tốc độ sinh trưởng cao hơn và hiệu
quả chuyển hóa thức ăn tốt hơn con cái. Campell et al. (1985) cho rằng do khả
năng sinh trưởng nạc cao, những con đực luôn thể hiện tăng khối lượng nhanh và
nạc hơn so với con cái và đực thiến. Trong quy trình cho ăn tự do, lượng thức ăn
thu nhận và tăng khối lượng trung bình hàng ngày của những con đực thiến luôn
cao hơn tương ứng là 9% và 11% so với những con cái, mặc dù hiệu quả chuyển
hóa thức ăn không có sự sai khác giữa hai giới tính này (Thomke et al., 1995).
Do sự khác biệt về tốc độ sinh trưởng giữa con đực và con cái, nên giới tính luôn
được khuyến cáo như một trong những tiêu chí quan trọng cho việc thiết lập các
nhóm tương đồng trong đánh giá di truyền các tính trạng sinh trưởng.
* Yếu tố ngoại cảnh
- Mức ăn và dinh dưỡng
Dinh dưỡng là yếu tố quan trọng nhất trong số các yếu tố ngoại cảnh chi

phối sinh trưởng và khả năng cho thịt của gia súc. Mối quan hệ giữa năng lượng
và protein trong khẩ u phầ n thức ăn là yếu tố quan trọng giúp cho việc điều khiển
tốc độ tăng khối lượng, tỉ lệ nạc mỡ và tiêu tốn thức ăn của lợn thịt. Tốc độ tăng
19


khố i lươ ̣ng, chất lượng thịt cũng thay đổi tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa các
vitamin với nhau và giữa vitamin với protein và khoáng. Việc bổ sung các axit
amin giới hạn vào khẩu phần lợn thịt giúp tăng khối lượng trung bình hàng ngày
cao hơn, tiết kiệm được thức ăn và protein. Chẳng hạn, bổ sung lysin đủ nhu cầu
vào khẩu phần cho lợn sẽ làm cơ bắp phát triển nâng cao tỉ lệ nạc.
Đối với tốc độ sinh trưởng, tương quan giữa năng lượng ăn vào và
protein tăng dần trong khẩu phần đã được nghiên cứu trong suốt giai đoạn sinh
trưởng của lợn từ 45 – 90kg (Campell et al., 1985; Dunkin et al., 1986). Ảnh
hưởng của năng lượng ăn vào đến năng suất sinh trưởng thể hiện mối tương
quan thuận tuyến tính với tăng khối lượng trung bình hàng ngày (Campell et al.,
1985; Quiniou et al., 1995). Hệ số chuyển hóa thức ăn không bị ảnh hưởng bởi
hàm lượng năng lượng trong khẩu phần (Quiniou et al., 1995), mặc dù Campell
et al. (1985) đã nhận thấy hệ số chuyển hóa thức ăn cao hơn đối với những con
lợn thu nhận trên 33 MJ năng lượng tiêu hóa mỗi ngày. Ngoài ra, mối tương tác
giữa kiểu gen và mức protein trong khẩu phần đối với tốc độ tăng trưởng và tỷ
lệ nạc cũng được Stern et al. (1995) báo cáo. Henry (1985) cho biết ở những
con lợn đang sinh trưởng, lượng thức ăn thu nhận chủ yếu phụ thuộc vào mật
độ năng lượng trong khẩu phần.
Về phương thức cho ăn, Thomke et al. (1995) đã so sánh lượng thức ăn
thu nhận và tăng khối lượng trung bình hàng ngày giữa quy trình cho ăn hạn chế
và quy trình cho ăn tự do. Kết quả cho thấy lượng thức ăn thu nhận và tăng khối
lượng trung bình hàng ngày tăng 20% đối với quy trình cho ăn tự do, song tỷ lệ
nạc thấp hơn 1,5% so với quy trình cho ăn hạn chế. Tương tác giữa kiểu gen với
quy trình cho ăn cũng đã được báo cáo khi Cameron and Curran (1995) nghiên

cứu chọn lọc những dòng lợn cho ăn hạn chế và cho ăn tự do.
- Mùa vụ
Lợn điề u chı̉nh thân nhiê ̣t của chúng bằ ng cách cân bằ ng nhiê ̣t lươ ̣ng mấ t
đi với nhiệt tạo ra qua trao đổi chấ t và lươ ̣ng nhiệt hấ p thu ̣ đươ ̣c. Khi sư ̣ khác
nhau giữa thân nhiê ̣t và nhiê ̣t độ môi trường trở nên lớn thı̀ tı̉ lê ̣ thoát nhiê ̣t sẽ
tăng lên. Về mùa lạnh nhiệt độ môi trường xuố ng thấ p dưới nhiê ̣t đô ̣ hữu hiê ̣u thı̀
tăng thêm chi phí thức ăn để tăng nhiê ̣t lươ ̣ng trao đổ i chấ t để vâ ̣t nuôi tự nó ta ̣o
ra nhiê ̣t lươ ̣ng để giữ ấm cho cơ thể .
Theo Curstis (1996), khi nhiê ̣t đô ̣ thấ p hơn 100C so với nhiê ̣t đô ̣ tố i ưu thı̀
nhu cầ u thức ăn/1 lơ ̣n nái/ngày đêm tăng 0,68 kg; với lơ ̣n choai có khố i lươ ̣ng
20


trung bı̀nh 36 kg khi nhiê ̣t đô ̣ giảm 70C so với nhiê ̣t đô ̣ tố i ưu thı̀ nhu cầ u thức ăn
tăng 0,11 kg/con/ngày.
Ảnh hưởng của mùa vụ đến lượng thức ăn thu nhận của lợn trong giai
đoạn sinh trưởng là rất rõ rệt. Theo Gourdine et al. (2006), trong suốt giai đoạn
mùa hè, lượng thức ăn thu nhận hàng ngày giảm 20% ở giống lợn Yorkshire và
14% ở giống lợn địa phương, do có sức chịu đựng khí hậu nóng giống của lợn
Yorkshire kém hơn giống lợn địa phương. Khi lượng thức ăn thu nhận giảm đã
dẫn tới sinh trưởng giảm.
Đối với năng suất sinh trưởng, Vries et al. (1994) đã chỉ ra trong một
nghiên cứu kết hợp các số liệu của giống lợn Yorkshire và Landrace ở Hà Lan
và Úc, các ảnh hưởng của mùa vụ đến tăng khối lượng trung bình hàng ngày
là rất đáng kể. Điều này có thể được giải thích bởi sự khác biệt về nhiệt độ
giữa các mùa (Sakai et al., 1992). Đối với lợn giai đoạn sinh trưởng, tăng khối
lượng trung bình hàng ngày đạt cao nhất trong khoảng nhiệt độ từ 16 – 20oC
và tăng khối lượng trung bình hàng ngày giảm xuống khi nhiệt độ dưới 8oC
hoặc trên 24oC.
- Ảnh hưởng của thời gian nuôi

Thời gian nuôi ảnh hưởng lớn đế n năng suất thit.̣ Dựa vào quy luật sinh
trưởng tích lũy chất dinh dưỡng trong cơ thể lợn người ta đề ra hai phương thức
nuôi: nuôi lấy nạc đòi hỏi thời gian nuôi ngắn, khối lượng giết thịt nhỏ hơn
phương thức nuôi lấy thịt - mỡ, còn phương thức nuôi lấy mỡ cần thời gian nuôi
dài, khối lượng giết thịt lớn hơn.
- Ảnh hưởng của chăm sóc nuôi dưỡng
Nhiệt độ chuồng nuôi thấp hoặc cao hơn nhiệt độ giới hạn thích ứng cho
phép đều là các yếu tố bất lợi đối với sinh trưởng của lợn thịt. Các nhân tố stress
trong thời gian chăn nuôi cũng ảnh hưởng xấu tới quá trình trao đổi chất, sức sản
suất thịt của lợn. Theo Curstis (1996), khi nhiê ̣t đô ̣ chuồ ng nuôi tăng trên mức tố i
ưu thı̀ lơ ̣n thịt giảm tăng khố i lươ ̣ng và tăng chi phí thức ăn.
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
1.3.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Nâng cao năng suất - chất lượng con giống trong quá trình sản xuất lợn
thịt luôn là yếu tố hàng đầu, then chốt được các nhà nghiên cứu, các nhà chăn
nuôi của mọi quốc gia trên thế giới quan tâm. Việc nghiên cứu chọn lọc dòng cao
sản và lai tạo tìm ra các tổ hợp lai đạt số con sơ sinh sống/ổ cao, tỷ lệ nạc cao,

21


tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng thấp và dày mỡ lưng thấ p đã thành công lớn
ở các nước có trình độ chăn nuôi tiên tiến như: Mỹ, Đức, Canada, Anh, Hà Lan,
Đan Mạch và Úc (Hermesch et al., 1995; Alfonso et al., 1997).
Việc nghiên cứu lai tạo dòng tổng hợp, dòng chuyên hoá và lai tạo tìm ra
các tổ hợp lai cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao đã rất thành công tại các
nước có trình độ chăn nuôi tiên tiến như Mỹ, Đức, Canada, Anh, Đan Mạch,
Australia… Hầu hết các nước có nền chăn nuôi phát triển đều xây dựng riêng cho
mình một hệ thống giống lợn hoàn thiện theo mô hình giống hình tháp. Các
chương trình nhân giống đã phát triển đến mức tinh vi hơn với các hệ thống đàn

hạt nhân, đàn nhân giống và đàn sản xuất được bao hàm trong mô hình tháp
giống. Trong đó, đàn hạt nhân (cụ kỵ - GGP) là những đàn thuần, được kiểm tra
và chọn lọc theo những định hướng cụ thể. Đàn nhân giống (ông bà - GP) thường
là các tổ hợp lai, có số lượng nhiều hơn so với đàn cụ kỵ được chọn lọc và cuối
cùng là đàn sản xuất (bố mẹ - PS).
* Khả năng sinh sản
Hermesch (2005) khi nghiên cứu trên giống lợn Large White và Landrace
cho biết tiến bộ di truyền về tính trạng số lợn con sơ sinh sống/ổ của hai giống
này là 0,10 con/năm, tính trạng khả năng tăng khối lượng trung bình hàng ngày
của hai giống lợn này tương ứng 5,0 gam/năm và 6,0 gam/năm.
Mccann et al. (2008) khẳng định sử dụng đực thuần hoặc đực lai không
ảnh hưởng đến năng suất sinh sản của lợn nái.
Kết quả công bố của Pholsing et al. (2009) cho thấy lợn Large White nuôi
tại Thái Lan có tuổi đẻ lứa đầu 428,34 ngày, số con sơ sinh sống/ổ đạt 8,58 con
và khối lượng sơ sinh/ổ đạt 11,80 kg. Tác giả khẳng định hệ số di truyền ước tính
ở mức thấp cho các tính trạng tuổi đẻ lứa đầu (0,06), số con sơ sinh sống/ổ (0,11)
và khối lượng sơ sinh/ổ (0,08).
Nghiên cứu hai giống lợn Landrace và Yorkshire, hệ số di truyền của tính
trạng số con sơ sinh sống/ổ và khối lượng 21 ngày tuổi/ổ đã được công bố đạt
0,03 - 0,18 và 0,07 - 0,20 (Southwood and Kennedy, 1991; Ferraz and Johnson,
1993; See et al., 1993; Irgang et al., 1994; Estany and Sorensen, 1995; Roeche
and Kennedy, 1995; Kerr and Cameron, 1996; Crump et al., 1997; Alfonso et al.,
1997; Wang and Lee, 1999; Wolf et al., 1999; Hermesch et al., 2000b; Ishida et
al., 2001; Hanenberg et al., 2001; Chen et al., 2003a, b; Damgaard et al., 2003;

22


Hamann et al., 2004; Kanis et al., 2005; Arango et al., 2005; Holm et al., 2005;
Rho et al., 2006; Roh et al., 2006; Imboonta et al., 2007).

Theo Mabry (2001) nghiên cứu trên lơ ̣n Yorkshire nuôi tại Mỹ cho biế t
giá trị giống của số con sơ sinh số ng/ổ sau 15 năm tăng lên 0,36 con. Holl and
Robinson (2003) cho biế t giá tri ̣ giố ng về số con sơ sinh số ng/ổ ở dòng lơ ̣n đươ ̣c
cho ̣n lo ̣c thế hê ̣ thứ 9 đã tăng lên 0,63 con. Boyette et al. (2005) cho biế t giá tri ̣
giố ng của số con sơ sinh số ng/ổ của lơ ̣n nuôi tại Mỹ là 0,63 con.
Kaplon et al. (1991) nghiên cứu trên lợn Large White nuôi tại Balan từ
1978 đến 1987 đã ước tính khuynh hướng kiểu hình và khuynh hướng ngoại
cảnh về các tính trạng số con sơ sinh sống/ổ, số con 21 ngày tuổi/ổ, khối lượng
21 ngày tuổi/ổ lần lượt là: 0,17 và 0,11 con; 0,16 và 0,10 con; 1,86 và 1,43 kg.
Một số nghiên cứu tương quan di truyền đối với các tính trạng sinh sản
giữa số con sơ sinh sống/ổ với khối lượng 21 ngày tuổi/ổ đã tương quan di truyền
thuận, biến động khá lớn về mức độ tương quan giữa các nghiên cứu: từ +0,14
đến +0,89 (Seiwerdt et al., 1995; Hermesch et al., 2000a; Damgaard et al., 2003).
Ngược lại nghiên cứu của Wang and Lee (1999) cho hai tính trạng này trên lợn
Landrace lại có tương quan di truyền nghịch đạt -0,07.
Escriche et al. (2009) cho biết lợn nái nuôi tại Tây Ban Nha có số con đẻ
ra/ổ ở nái Large White (13,29 con), Landrace (11,58 con). Tuy nhiên, tỷ lệ sơ
sinh chết của nái Large White (14,30%), Landrace (9,45%).
Số con đẻ ra/ổ thường thấp ở lứa thứ nhất, tăng dần và đạt cao nhất từ lứa
thứ 3 đến lứa thứ 5 (Tretinjak et al., 2009).
Theo Roeche et al. (2009), hệ số di truyền ước tính ở mức thấp đối với
tính trạng khối lượng sơ sinh (0,20).
* Khả năng sinh trưởng
Rauw et al. (2006) nghiên cứu trên lợn Duroc nuôi tại Tây Ban Nha cho
thấy tăng khối lượng trung bình hàng ngày đạt 861 g/ngày và tiêu tốn thức
ăn/tăng khối lượng đạt 3,12 kg. Tribout et al. (2010) cho biết lợn Large White
nuôi tại Pháp giai đoạn từ 10 đến 20 tuần tuổi có tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối
lượng đạt 2,76 kg. Kết quả công bố của Lewis and Bunter (2011) trên lợn
Large White và Landrace nuôi tại Úc, tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng đạt
2,80-3,21 kg.

Tomka et al. (2010) cho rằng, hệ số di truyền về tăng khối lượng trung
bình hàng ngày trong khoảng từ 0,13 đến 0,23. Szyndler-Nedza et al. (2010) cho

23


biết hệ số di truyền tăng khối lượng trung bình hàng ngày của lợn Pulawska ở
mức thấp (0,07), lợn Piétrain ở mức cao (0,578), nhưng hệ số di truyền của tính
trạng tỷ lệ nạc trên lợn đực, cái Piétrain đạt các giá trị lần lượt 0,124 và 0,242.
Theo Kiszlinger et al. (2011), hệ số di truyền về tăng khối lượng trung bình hàng
ngày và tỷ lệ nạc trên lợn Piétrain thuần nuôi tại Hungary ước tính được ở mức
thấp (0,20 và 0,17). Theo Saintilan et al. (2011), hệ số di truyền tăng khối lượng
trung bình hàng ngày trên lợn Piétrain nuôi tại Pháp ở mức trung bình (0,4) và hệ
số di truyền về tỷ lệ nạc ở mức cao (0,58). Radović et al. (2013) khẳng định hệ số
di truyền tăng khối lượng trung bình hàng ngày của lợn Landrace nuôi tại Serbia
ở mức thấp (0,11) và tỷ lệ nạc ở mức cao (0,633).
Nghiên cứu hai giống lợn Landrace và Yorkshire, hệ số di truyền của tính
trạng tăng khối lượng trung bình hàng ngày đã được công bố ở mức trung bình
thấp tương ứng ở 2 giống đạt 0,16 – 0,25 và 0,13 – 0,25 (Ferraz and Johnson,
1993; Bidanel et al., 1994; Hall et al., 1999; Hermesch et al., 2000a; Kanis et al.,
2005; Van Wijk et al., 2005). Trong khi đó, một số nghiên cứu khác lại cho rằng
hệ số di truyền của tính trạng này ở mức trung bình cao đạt 0,36 – 0,42 trên cả
hai giống Landrace và Yorkshire (Sonesson et al., 1998; Lopez-Serrano et al.,
2000; Chen et al., 2003a; Roh et al., 2006; Imboonta et al., 2007; Kang, 2008).
Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu đều thống nhất hệ số di truyền của tính trạng
này ở mức trung bình trên cả giống Landrace và Yorkshire đạt 0,25 – 0,35 (Van
Steenbergen et al., 1990; Cameron and Curran, 1994b; Li and Kennedy, 1994;
Hicks et al., 1998; Hall et al., 1999; Solanes et al., 2004).
Hệ số di truyền của tính trạng tăng khối lượng trung bình hàng ngày đã
được công bố trên hai giống lợn Landrace và Yorkshire đạt 0,5 – 0,7 (Ferraz and

Johnson, 1993; Bidanel et al., 1994; Li and Kennedy, 1994; Hicks et al., 1998;
Hermesch et al., 2000a; Chen et al., 2003a; Solanes et al., 2004; Rho et al., 2006;
Roh et al., 2006; Imboonta et al., 2007; Kang, 2008).
Sở dĩ có sự khác biệt khá lớn giữa các kết quả nghiên cứu là do các
quần thể có tần số gen khác nhau, nguồn dữ liệu, các phương pháp tính toán
khác nhau.
Nghiên cứu về tương quan di truyền giữa tăng khối lượng trung bình hàng
ngày và dày mỡ lưng trên hai giống lợn Landrace và Yorkshire cũng có sự khác
biệt. Một số kết quả cho biết tương quan di truyền thuận đạt +0,04 đến +0,65
(Andersen and Vestergaard, 1984; Van Steenbergen et al., 1990; Hicks et al.,

24


×