Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CÔNG tác PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG SINH VIÊN ở các TRƯỜNG CAO ĐẲNG đại học TRÊN địa bàn TỈNH bạc LIÊU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.01 KB, 106 trang )

3

BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban Chấp hành

BCH

Bộ Chính trị

BCT

Cao đẳng



Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Công tác phát triển Đảng

CTPTĐ

Công tác phát triển đảng viên

CTPTĐV


Công tác chính trị - Quản lý sinh viên

CTCT - QLSV

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Chủ nghĩa Cộng sản

CNCS

Chính trị Quốc gia

CTQG

Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐCSVN

Đại học

ĐH

Hồ Chí Minh

HCM

Hệ thống chính trị


HTCT

Giáo dục và Đào tạo

GDĐT

Khoa học xã hội và nhân văn

KHXHNV

Giáo dục Chính trị - Tư tưởng

GD CT – TT

Phát triển đảng viên

PTĐV

Phát triển Đảng

PTĐ

Trong sạch vững mạnh

TSVM


4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC

5

TIỄN CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
TRONG SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG,
14

1.1.

ĐẠI HỌC TỈNH BẠC LIÊU
Sinh viên và công tác phát triển đảng viên trong sinh viên

14

1.2.

ở các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu
Thực trạng và một số kinh nghiệm công tác phát triển đảng
viên trong sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học tỉnh

Bạc Liêu
Chương 2: YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẨY

37

MẠNH CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
TRONG SINH VIÊN Ở CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG,
2.1.


ĐẠI HỌC TỈNH BẠC LIÊU HIỆN NAY
Sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu đẩy mạnh

56

công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở các trường
2.2.

cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu hiện nay
Những giải pháp cơ bản đẩy mạnh công tác phát triển đảng

56

viên trong sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc
Liêu hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

63
92
94
99


5


Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn quan tâm sâu sắc đến
CTPTĐV và xây dựng đội ngũ đảng viên, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên,
là vấn đề có tính quy luật trong công tác xây dựng Đảng nhằm bảo đảm cho Đảng
không ngừng nâng cao sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo đủ sức hoàn thành sứ mệnh
lịch sử vẻ vang của giai cấp, của dân tộc giao phó. Chỉ thị số 51-CT/TW ngày 21-12000 của Bộ Chính trị (khoá VIII) đã nêu rõ: “Kết nạp đảng viên là một nhiệm vụ
quan trọng, thường xuyên, có tính quy luật trong công tác xây dựng Đảng, nhằm
tăng thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển của Đảng”.
Trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn đề cao vai trò, vị trí của
thanh niên coi thanh niên là ruờng cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất
nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những
nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. PTĐ trong thanh niên, sinh
viên là phương hướng hết sức quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách
mạng và chiến lược xây dựng Đảng trong thời kỳ mới. Chỉ thị số 34-CT/TW của Bộ
Chính trị “Về tăng cường công tác chính trị tư tưởng; củng cố tổ chức đảng, đoàn thể
quần chúng và công tác phát triển đảng trong các trường học’’ đã nhấn mạnh: Nhiệm
vụ phát triển đảng trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp là
điều rất cần thiết... “Cấp uỷ, chi bộ ở các trường Đại học, Cao đẳng và trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề cần làm tốt công tác tạo nguồn phát triển đảng viên, nâng
cao hơn tỷ lệ đảng viên trong số giáo viên trẻ và học sinh, sinh viên’’.
Các trường CĐ, ĐH ở tỉnh Bạc Liêu là nơi đào tạo ra những cán bộ của
Đảng, Nhà nước, trực tiếp tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của
Nhà nước và nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của địa phương. Phát triển
Đảng trong sinh viên của các nhà trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ
góp phần trực tiếp nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của đảng bộ ở các nhà
trường mà còn bổ sung nguồn nhân lực chất lượng cao vừa hồng, vừa chuyên cho
hệ thống chính trị, cơ sở kinh tế, văn hoá –xã hội của địa phương và các tỉnh lân
cận. Nhận thức rõ điều đó, những năm qua các cấp uỷ, tổ chức đảng thuộc Đảng bộ
các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu đã thường xuyên chú trọng đẩy mạnh CTPTĐV,



6

nhất là CTPTĐV trong giáo viên, sinh niên. Do đó đó CTPTĐV đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, số lượng đảng viên là giáo viên, sinh viên ngày càng tăng,
tuyệt đại đa số đảng viên đã phát huy tốt vai trò tiền phong gương mẫu, góp phần
cải thiện cơ cấu và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của các đảng bộ, tạo điều kiện thuận lợi để các đảng bộ lãnh đạo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ, nghiên cứu khoa học ở các nhà trường .
Tuy nhiên, CTPTDV trong sinh viên ở đảng bộ các nhà trường còn bộc lộ
những hạn chế nhất định cả về nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng;
cả về nội dung, hình thức, biện pháp; có lúc, có nơi còn chạy theo số lượng đơn
thuần, coi nhẹ, hạ thấp tiêu chuẩn…
Hiện nay, trước sự phát triển của tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ địa
phương, trước yêu cầu đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo, đổi mới chỉnh đốn
Đảng… ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu đang đặt ra những yêu cầu mới đối với
CTPTĐV. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở
các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu hiện nay” nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở
lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh, nâng cao chất
lượng công tác PTĐV trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu là vấn đề
có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và mang tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
CTPTĐV có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng Đảng. Nên,
những năm qua Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, và có nhiều cơ quan, cán bộ
khoa học… nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu:
* Những công trình về xây dựng đội ngũ đảng viên
Phạm Đình Nhịn (1999), Nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên ở đơn vị
cơ sở làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các binh đoàn chủ lực
trong tình hình hiện nay, luận án tiến sĩ quân sự, Học viện Chính trị Quân sự, H.

Tác giả luận án đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn chất lượng đội ngũ đảng
viên và đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở
đơn vị cơ sở làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các binh đoàn chủ
lực trong tình hình hiện nay.
Cao Thị Thanh Vân (2002), Nâng cao chất lượng đội ngũ Đảng viên ở nông
thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá


7

đất nước, luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện CTQG HCM, H. Tác giả đã đưa ra cơ sở
lý luận và thực tiễn đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên ở nông
thôn đồng bằng sông Hồng, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên của khu vực nông thôn đồng bằng sông Hồng.
Nguyễn Văn Giang (2003), Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên vùng có
đồng bào công giáo ở các tỉnh ven biển đồng bằng Bắc bộ trong giai đoạn hiện
nay, luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện CTQG HCM, H. Trong luận án, tác giả đã
đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nâng cao chất lượng đảng viên ở địa
bàn giáo dân ven biển Bắc bộ, và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng của đội ngũ
này.
Bùi Văn Khoa (2005), Xây dựng đội ngũ đảng viên ở nông thôn đồng bằng
sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay, luận án tiến sĩ Chính trị học, Học viện
CTQG HCM, H. Tác giả, đánh giá thực trạng đội ngũ Đảng viên và công tác xây
dựng đội ngũ đảng viên ở nông thôn Đồng bằng Sông Cửu Long, đề xuất các giải
pháp khả thi góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên ở nông thôn Đồng bằng Sông
Cửu Long.
Nguyễn Thị Minh (2007), Chất lượng đội ngũ Đảng viên là học viên các
trường đào tạo sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam thời kỳ mới, luận án tiến sĩ
Khoa học chính trị, Học viện CTQG HCM, H. Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận và
thực tiễn, đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng

viên, học viên các trường Đào tạo sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời
kỳ mới.
Đặng Thị Huệ (2009), Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình xây dựng đội
ngũ đảng viên từ năm 1996 đến năm 2006, luận văn thạc sĩ Lịch sử, trường đại học
KHXHNV Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về
xây dựng đội ngũ Đảng viên trong những năm đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước (1996-2001). Trình bày quá trình xây dựng đội ngũ đảng viên của
Đảng trong những năm 2001-2006: thời cơ, thách thức mới của cách mạng nước ta
đặt ra với công tác xây dựng đội ngũ đảng viên; chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng
về xây dựng đội ngũ đảng viên từ năm 2001 đến năm 2006, tập trung vào những đối
tượng đảng viên ở khối cơ quan hành chính, sinh viên, phường, thị trấn, đội ngũ


8

đảng viên ở nông thôn, miền núi, vùng có đồng bào tôn giáo, trong các doanh
nghiệp và trong các lực lượng vũ trang. Từ đó, đưa ra kết quả, rút kinh nghiệm từ
quá trình xây dựng đội ngũ Đảng viên của Đảng.
Các công trình khoa học nói trên đều chọn khách thể, phương pháp nghiên
cứu riêng, đã có những đóng góp nhất định về lý luận và thực tiễn xung quanh vấn
đề xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Trong các công trình đều xác
định CTPTĐV là một nội dung cơ bản của công tác xây dựng đội ngũ đảng viên,
nhằm tăng cường năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát
triển liên tục của Đảng. CTPTĐV phải bảo đảm phương châm, phương hướng, điều
kiện, tiêu chuẩn, thủ tục kết nạp đảng. Đó là những đóng góp có giá trị cao, được
tác giả tham khảo, kế thừa khi nghiên cứu luận văn.
* Các công trình liên quan đến công tác phát triển đảng viên
Trần Trọng Đạo (2008), Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo công tác phát
triển Đảng trong đồng bào công giáo giai đoạn 1996-2006, luận văn thạc sĩ Lịch
sử, trường đại học KHXHNV thành phố HCM, HCM.

Nguyễn Thị Hải Hà (2012), Đảng bộ tỉnh Hải Dương với công tác phát triển
đảng viên ở nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010, luận văn thạc sĩ Lịch sử, Trung
tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội, H.
Kết quả nghiên cứu của tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn CTPTĐV của
Đảng bộ tỉnh Hải Dương nói chung và khu vực nông thôn nói riêng. Phân tích, luận
giải làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về phát triển
đảng viên ở khu vực nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010. Nhận xét kết quả, rút ra
một số kinh nghiệm đẩy mạnh PTĐV của Đảng bộ tỉnh ở khu vực nông thôn trong
giai đoạn 2001 – 2010.
Nguyễn Thành Tâm (2012), Công tác phát triển đảng của đảng bộ Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001-2010, luận văn thạc sĩ Lịch sử, trường đại học

KHXHNV thành phố HCM, HCM.
GS.TS Mạch Quang Thắng (chủ biên) (2006 ), Đảng viên và phát triển đảng
viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động, H.
Nhóm tác giả đã đánh giá đúng tình hình đảng viên và công tác phát triển đảng viên
trong nhiệm kỳ Đại hội VIII (1996-2001) và từ Đại hội IX đến nay; làm rõ phương


9

hướng phấn đấu của người đảng viên theo những tiêu chuẩn được xác định trong
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam mà Đại hội IX của Đảng thông qua, những yêu
cầu có tính đặc thù do quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi
hỏi; những đổi mới cần thiết trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên và PTĐV
phù hợp với tình hình mới, đặc biệt trong thập niên đầu thế kỷ XXI.
Trần Đình Hoan, Nguyễn Đông Sương, Dương Tự Đam…(2006), Công tác
phát triển đảng viên trong thanh niên giai đoạn 2005 – 2010, Nxb. Thanh niên, H.
Sách đã tập hợp các bài tham luận, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình công tác
phát triển đảng viên trẻ. Kết luận của Ban Tổ chức Trung ương Đảng về công tác

phát triển đảng viên trẻ trong tình hình mới.
Ngoài ra còn có những bài báo khoa học viết về công tác PTĐV ở các địa
phương, cơ quan đơn vị:
Nguyễn Văn Muộn (1994), “Một số suy nghĩ về công tác phát triển đảng
viên hiện nay”, tạp chí Xây dựng Đảng, (5). Phạm Quang Vịnh (2006), “Kinh
nghiệm chỉ đạo công tác phát triển đảng viên của Kon Tum”, tạp chí Xây dựng
Đảng, (11). Trần Thu Thuỷ (2006), “Làm gì để cơ sở nào cũng có đảng viên”, tạp
chí Xây dựng Đảng, (11). Phúc Sơn (2006), “Kinh nghiệm từ chỉ đạo công tác kết
nạp Đảng viên năm 2005”, tạp chí Xây dựng Đảng, (6). Trần Kiên (2006), “Kết nạp
Đảng viên trẻ: kinh nghiệm từ Tuyên Hoá”, tạp chí Xây dựng Đảng, (3). Trần Thu
Thuỷ (2006), “Kinh nghiệm từ kết nạp Đảng viên lớp Hồ Chí Minh”, tạp chí Xây
dựng Đảng, (1+2). Trần Sỹ Mỹ (2007), “Công tác đảng viên và hướng đi trong mùa
xuân mới”, tạp chí Xây dựng Đảng, (2+3). Phùng Trần Hương (2009), “Nâng cao
chất lượng công tác phát triển đảng viên”, tạp chí Xây dựng Đảng, (1+2). Nguyễn
Hồng Thắng (2013), “Phát triển đảng viên ở “thủ đô gió ngàn”, tạp chí Xây dựng
Đảng, (2+3).
Các công trình nghiên cứu và các bài báo trên đã cung cấp lý luận và thực
tiễn xung quanh CTPTĐV. Đó là những đóng góp có giá trị cao, có thể tham khảo,
kế thừa trong nghiên cứu luận văn.
* Những công trình bàn về công tác PTĐV trong nhà trường
Vũ Quang Tuyến (2000), Nâng cao chất tượng công tác bồi dưỡng nguồn
phát triển đảng trong học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện


10

Chính trị quân sự hiện nay, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, Học viện chính trị Quân sự, H.
Nguyễn Thị Mỹ Trang (2001), Xây dựng đội ngũ đảng viên là thanh niên
sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời

kỳ mới, luận án tiến sĩ Xây dựng Đảng, Học viện CTQG HCM, H.
Lê Thưởng (2001), Công tác phát triển đảng viên mới trong sinh viên đại
học ở Đà Nẵng hiện nay, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện
CTQG HCM, H.
Lê Văn Lương (2002), Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên
mới trong học viên hệ đào tạo sĩ quan ở các nhà trường thuộc Quân chủng Phòng
không - Không quân trong thời kỳ mới, luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam, Học viện chính trị, H.
Đặng Thị Minh Phượng (2008), Công tác phát triển Đảng trong sinh viên
các trường Đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh: 1996 – 2006, luận văn
thạc sĩ Lịch sử, trường đại học KHXHNV thành phố HCM, HCM.
Những bài báo khoa học tổng kết kinh nghiệm về công tác PTĐV trong sinh
viên:
Trần Thu Thuỷ (2004), “Vấn đề đảng viên dự bị là sinh viên đã ra trường ở
Hà Nội”, tạp chí Xây dựng Đảng, (5). Đỗ Duy Truyền (2004), “Suy nghĩ về công
tác phát triển đảng viên ở Đảng bộ trường đại học Ngoại ngữ”, tạp chí Xây dựng
Đảng, (11). Trần Văn Oong (2004), “Hiệu quả từ một mô hình sinh hoạt chi bộ ở
trường đại học”, tạp chí Xây dựng Đảng, (11). Trần Thu Thuỷ (2004), “Nhìn lại
công tác phát triển đảng viên trong trường học: 5 năm thực hiện chỉ thị 34CT/TW”,
tạp chí Xây dựng Đảng, (11). Nguyễn Văn Việt (2005), “Trường sĩ quan lục quân I
gắn công tác đào tạo với phát triển đảng viên”, tạp chí Xây dựng Đảng, (4). Trần
Đình Hoan (2005), “Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong thanh
niên bảo đảm thường xuyên nguồn sinh lực mới cho Đảng”, tạp chí Xây dựng Đảng,
(4). Thủy Anh (2005), “Tạo nguồn phát triển Đảng viên trong học sinh, sinh viên”,
tạp chí Xây dựng Đảng, (11). Trần Đình Thọ (2006), “Kết hợp đào tạo sĩ quan với
phát triển đảng viên”, tạp chí Xây dựng Đảng, (8). Phạm Thu Huyền (2006), “Đảng


11


bộ Đại học Văn hoá nghệ thuật quân đội chăm lo công tác phát triển đảng viên”, tạp
chí Xây dựng Đảng, (11). Phúc Sơn (2006), “Mục tiêu cụ thể giải pháp đồng bộ”, tạp
chí Xây dựng Đảng, (11). Trần Văn Phương (2006), “Đại học Đà Nẵng phát triển
Đảng viên trong sinh viên”, tạp chí Xây dựng Đảng, (4). Phạm Bá Nhiễu (2006),
“Thành phố Hồ Chí Minh phát triển Đảng viên trong trí thức trẻ”, tạp chí Xây dựng
Đảng, (3). Mạch Quang Thắng, Trần Duy Hưng (2007), “Mùa xuân nghĩ về phát
triển đảng trong sinh viên”, tạp chí Xây dựng Đảng, (2+3). Phước Hơn (2013), “Phát
triển đảng viên trong các trường đại học, cao đẳng ở TP. Hồ Chí Minh”, tạp chí Xây
dựng Đảng, (6).
Những công trình khoa học nêu trên đều có khách thể, phương pháp nghiên
cứu riêng, nhưng có điểm chung: đối tượng nghiên cứu là CTPTĐ trong học viên,
sinh viên. Và có những đóng góp nhất định về lý luận và thực tiễn xung quanh vấn
đề CTPTĐV và PTĐ trong học sinh, sinh viên. Những đóng góp đó được tác giả
tham khảo, kế thừa trong nghiên cứu thực hiện luận văn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu đầy đủ,
hệ thống, trực tiếp, toàn diện, chuyên sâu về công tác phát triển đảng viên trong
sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải
pháp cơ bản đẩy mạnh CTPTĐV trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc
Liêu hiện nay.
* Nhiệm vụ
Luận giải làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về CTPTĐV trong sinh viên ở
các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm
CTPTĐV trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản đẩy mạnh CTPTĐV
trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

* Đối tượng nghiên cứu:
CTPTĐV trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu.
* Phạm vi nghiên cứu:


12

Luận văn tập trung nghiên cứu CTPTĐV trong sinh viên ở các trường CĐ,
ĐH tỉnh Bạc Liêu. Phạm vi điều tra khảo sát là: trường Cao đẳng Y tế, Cao đẳng
Nghề và Đại học Bạc Liêu; các tư liệu, số liệu phục vụ cho nghiên cứu được giới
hạn từ năm 2008 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Viêt Nam, chỉ thị, quy định của
Ban tổ chức Trung ương; các nghị quyết, chỉ thị của Tỉnh uỷ, Thành uỷ, hướng dẫn
của ban tổ chức thành uỷ về công tác xây dựng Đảng; xây dựng, phát triển đội ngũ
đảng viên.
* Cơ sở thực tiễn:
Cơ sở thực tiễn của đề tài là hoạt động giáo dục, đào tạo, rèn luyện và
CTPTĐV trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu; báo cáo tổng kết
CTPTĐV hàng năm của nhà trường, kết quả điều tra, khảo sát của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong
đó chú trọng phương pháp: lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thông kê, so sánh,
điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp cho các
cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ, Ban Giám hiệu các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu đẩy

mạnh, nâng cao chất lượng CTPTĐV trong sinh viên nhằm đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp giáo dục đào tạo, xây dựng đảng bộ nhà trường TSVM, xây dựng, phát triển
kinh tế, văn hoá - xã hội của địa phương trong thời kỳ mới.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và
học tập môn xây dựng Đảng ở các trường CĐ, ĐH, trường chính trị.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


13

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN TRONG SINH VIÊN Ở
CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC TỈNH BẠC LIÊU
1.1. Sinh viên và công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở các trường cao
đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Khái quát về sinh viên và các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc
Liêu
* Các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu
Để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho quá trình phát triển của tỉnh và khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, những năm
qua được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo; Tỉnh uỷ và
Uỷ Ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã nâng cấp hai trường trung cấp lên cao đẳng đó
là: Trường Cao đẳng Y tế Bạc Liêu và trường Cao đẳng nghề Bạc Liêu; nâng cấp
trường Cao đẳng Sư phạm Bạc Liêu lên Đại học Bạc Liêu.
Mục tiêu đào tạo của các trường:
Mục tiêu của trường Cao đẳng nghề Bạc Liêu là đào tạo nguồn nhân lực có
phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cao đẳng, trung cấp, sơ cấp

thuộc các ngành nghề khối công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải và dịch vụ để
phục vụ tiến trình CNH, HĐH của tỉnh và vùng.
Mục tiêu trường Cao đẳng y tế Bạc Liêu là đào tạo cán bộ Y - Dược có trình
độ từ cao đẳng trở lên, có phẩm chất đạo đức tốt, chuyên môn giỏi, để góp phần
phục vụ, bảo vệ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
Trường Đại học Bạc Liêu được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định thành
lập số 1558/QĐ-TTg ngày 24/11/2006, hướng tới mục tiêu trở thành cơ sở đào tạo
đại học đa ngành có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, có đội ngũ cán bộ giảng viên
đạt chuẩn, là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; là trung tâm nghiên cứu
khoa học và ứng dụng công nghệ phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh tế
- xã hội tỉnh Bạc Liêu và các tỉnh trong khu vực.
Cơ cấu tổ chức các nhà trường:
Các trường đều được tổ chức theo mô hình bao gồm: hệ thống tổ chức đảng
(Đảng ủy nhà trường, chi uỷ, chi bộ các cơ quan, khoa chủ quản); Ban Giám hiệu,


14

Hội đồng tư vấn, các Phòng, Khoa, Tổ quản lý, chuyên môn; các tổ chức quần
chúng: Công đoàn, Đoàn thanh niên.
Trường Cao đẳng y tế Bạc Liêu hiện nay có 77 cán bộ, giảng viên. Trong đó,
đội ngũ có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ chiếm 22%, trình độ đại học là 48%, còn lại là
trình độ cao đẳng, trung cấp và trình độ khác.
Trường Cao đẳng nghề Bạc Liêu có 67 giảng viên, trong đó đội ngũ có trình
độ tiến sĩ, thạc sĩ là 20%, trình độ đại học là 43%.
Trường Đại học Bạc Liêu hiện có 304 cán bộ, giảng viên và nhân viên.
Trong đó, 42% có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ; 51% trình độ đại học, cao đẳng.
Về cơ sở vật chất:
Từ khi được thành lập đến nay, cơ sở vật chất của các trường không ngừng
được bổ sung, từng bước đáp được yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của từng

trường.
Về quy mô đào tạo:
Hiện nay trường Đại học Bạc liêu đã có các bậc đào tạo: đại học, cao đẳng,
liên kết đào tạo đại học, sau đại học với các trường trong toàn quốc. Năm 2013 nhà
trường đã tuyển 1225 sinh viên hệ cao đẳng, đại học chính quy, hệ vừa làm vừa học
là 418, liên kết đào tạo đại học là 345, cao học là 40.
Trường Cao đẳng nghề Bạc Liêu đào tạo các bậc: cao đẳng nghề, trung cấp
nghề và sơ cấp nghề, dạy nghề thường xuyên. Năm 2013, trường có tổng số 52 sinh
viên cao đẳng, 58 học sinh trung cấp.
Trường Cao đẳng Y tế Bạc Liêu đào tạo các bậc: cao đẳng, trung cấp y, liên
kết đào tạo đại học, sau đại học. Năm 2013, trường có 1193 học sinh - sinh viên,
trong đó gần 400 sinh viên cao đẳng.
Về địa bàn trụ sở:
Các trường CĐ, ĐH đều đứng chân trên địa bàn thành phố Bạc Liêu gần với
trung tâm chính trị - hành chính, văn hóa, vui chơi giải trí của tỉnh.
* Tổ chức Đảng ở các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu.
Đảng bộ ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu có chức năng là hạt nhân chính
trị, lãnh đạo tất cả các mặt công tác của nhà trường như: lãnh đạo nhà trường thực
hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
nhiệm vụ chính trị của địa phương; lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các


15

chủ trương, nhiệm vụ quản lý giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hợp
tác nghiên cứu khoa học thuộc các lĩnh vực khoa học cơ bản và khoa học công
nghệ; lãnh đạo nhà trường tích cực tham gia xây dựng địa phương giàu đẹp, văn
minh; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, công chức, giảng viên,
chuyên viên và người lao động; xây dựng đảng bộ TSVM và nhà trường vững mạnh
toàn diện.

Nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu hiện nay
là:
Thứ nhất: Lãnh đạo nhà trường thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng - an ninh ở địa phương; cùng với toàn ngành GD tiếp tục
xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thân thiện trên cơ sở tăng cường đoàn
kết, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương; tập trung nguồn lực, thực hiện đồng bộ
các giải pháp đổi mới công tác quản lý giáo dục, đào tạo, đảm bảo nâng cao chất
lượng đào tạo và hiệu quả nghiên cứu khoa học đáp ứng yêu cầu thời kỳ CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế. Lãnh đạo và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, giám sát
mọi hoạt động của nhà trường theo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước; thực hành dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp thời giải
quyết những những vướng mắc phát sinh trong nhà trường theo đúng pháp luật,
không để tích tụ mâu thuẫn trở thành điểm nóng, không để xảy ra tình trạng khiếu
kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị trong nhà
trường.
Lãnh đạo nhà trường tham gia thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng toàn
dân và chính sách hậu phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an
toàn xã hội ở địa phương. Đề cao tinh thần cảnh giác cánh mạng, bảo vệ nội bộ, bảo
vệ tài sản của nhà nước, của nhà trường, tính mạng, tài sản của cán bộ, giáo viên,
công nhân viên, sinh viên… và nhân dân trên địa bàn; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ
nạn xã hội, nhất là nạn ma tuý, mại dâm.
Thứ hai: Lãnh đạo công tác tư tưởng. Thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng, tác phong, đạo đức Hồ Chí Minh, phát huy truyền thống yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong nhà trường, nhất là trong sinh viên; xây dựng tình
đoàn kết gắn bó trong nhà trường, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Chú


16

trọng tuyên truyền và nhân rộng gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trên

mọi lĩnh vực. Tuyên truyền, vận động làm cho mọi lực lượng trong nhà trường hiểu
và chấp hành đúng đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước và các nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của
cán bộ, giáo viên, sinh viên… để giải quyết và báo cáo lên cấp trên. Lãnh đạo mọi
lực lượng trong nhà trường đấu tranh chống các quan điểm sai trái, những hành vi
nói, viết và làm trái với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
chống tư tưởng thực dụng, cơ hội, bè phái, gia trưởng, bảo thủ, lạc hậu, mê tín, dị
đoan; phòng chống sự suy thoái về đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên, giáo
viên.
Thứ ba: Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ.
Lãnh đạo xây dựng hệ thống quản lý, các khoa chủ quản, các tổ chức quần
chúng trong nhà trường vững mạnh; xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ, từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ.
Xây dựng, thực hiện tốt quy chế công tác cán bộ. Quy hoạch, tạo nguồn, bồi
dưỡng, quản lý, nhận xét, đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, và
thực hiện chính sách đối với cán bộ nhà trường theo phân cấp; giới thiệu người đủ
tiêu chuẩn, có tín nhiệm để bầu vào các chức danh chủ chốt của các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở địa phương theo quy định.
Thứ tư: Lãnh đạo các tổ chức quần chúng.
Lãnh đạo xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ theo luật định và Điều lệ của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt các chính
sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đoàn kết trong nhà
trường, phát huy quyền làm chủ của mọi người, thi đua thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ được giao.
Lãnh đạo các tổ chức quần chúng tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối chủ
chương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của địa phương.
Thứ năm: Thực hiện nhiệm vụ xây dựng đảng bộ.
Xây dựng đảng bộ TSVM, gắn xây dựng các tổ chức đảng với xây dựng,
củng cố các tổ chức trong nhà trường vững mạnh toàn diện; nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, phát hiện và đấu tranh

chống tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí và các biểu hiện tiêu cực; chú trọng nâng


17

cao chất lượng lãnh đạo của chi bộ các cơ quan, khoa giáo viên. Thực hiện đúng
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ
tự phê bình và phê bình; thực hiện có nề nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng,
nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.
Chăm lo xây dựng các chi bộ TSVM; giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên
nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu; nghiêm chỉnh chấp hành Nghị quyết của
Đảng, chỉ thị, kế hoạch của chính quyền và chương trình của các đoàn thể quần
chúng. Xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho đảng viên thực hiện nhiệm vụ học
tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt, hoàn thành tôt nhiệm vụ được giao.
Làm tốt công tác động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng viên; xử lý nghiêm
minh kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Làm tốt công tác tạo nguồn và PTĐV, bảo đảm tiêu chuẩn và quy trình, chú
trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và những người học
tập, công tác tốt, có uy tín trong quần chúng.
Xây dựng cấp uỷ và bí thư bảo đảm tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, thực
sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được mọi người tín nhiệm. Định kỳ
hàng năm tổ chức để quần chúng tham gia, góp ý kiến xây dựng Đảng.
Thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ, Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của Bộ Chính trị về
những điều đảng viên không được làm. Phối hợp với các tổ chức, cơ sở đảng trên
địa bàn và các tổ chức, cơ sở đảng có đảng viên, cán bộ, công chức đang cư trú trên
địa bàn thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ của địa phương.
Hiện nay, đảng bộ trường Đại học Bạc Liêu có 105 đảng viên trong đó 12

đảng viên là sinh viên, gồm có 8 chi bộ, 1 chi bộ có 2 tổ đảng. Trong đó có 3 chi bộ
khoa chủ quản sinh viên. Từ khi thành lập trường đến nay, số lượng đảng viên luôn
dao động theo hàng năm. Năm 2008, đảng bộ thành lập chi bộ sinh viên, nhưng đến
tháng 12 năm 2011 đã sáp nhập với chi bộ Phòng CTCT – QLSV.
Trong năm 2012, Ban thường vụ Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh Bạc Liêu đã
có quyết định số 316 – QĐ/ĐUK ngày 16 tháng 8 năm 2012, về việc nâng cấp chi
bộ cơ sở trường Cao đẳng Y tế Bạc Liêu thành đảng bộ cơ sở. Hiện nay, tổng số


18

đảng viên của đảng bộ là 34, trong đó có 4 đảng viên là sinh viên, gồm 3 chi bộ cơ
sở trực thuộc. Từ năm 2010, trường đã có Tổ Đảng học sinh – sinh viên, đến nay là
chi bộ khối học sinh – sinh viên.
Chi bộ trường Cao đẳng nghề Bạc Liêu hiện có 24 đảng viên. Do mới được
nâng cấp từ trung cấp lên cao đẳng nên số lượng sinh viên còn ít, và chưa có sinh
viên được kết nạp Đảng.
Đảng bộ các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu trực thuộc Đảng bộ Khối các cơ
quan tỉnh. Trong CTPTĐV, Đảng bộ các nhà trường phải báo cáo, trình lên Đảng
ủy Khối để quyết định kết nạp đảng viên, công nhận đảng viên chính thức.

* Sinh viên ở các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu
Quan niệm về sinh viên
Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, sinh viên là: “Người học ở
bậc đại học” [34, tr.829].
Từ điển Bách khoa Việt Nam, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa Việt Nam,
Hà Nội năm 2002 định nghĩa: “Học sinh cao đẳng, đại học là sinh viên, học sinh các
trường trung học và cao đẳng sư phạm là giáo sinh”.
Theo Luật Giáo dục đại học 2012 quy định: “Người học là người đang học
tập và nghiên cứu khoa học tại cơ sở giáo dục đại học, gồm sinh viên của chương

trình đào tạo cao đẳng, chương trình đào tạo đại học; học viên của chương trình đào
tạo thạc sĩ; nghiên cứu sinh của chương trình đào tạo tiến sĩ.” [25, tr.49]. Từ đó có
thể quan niệm:
Sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học tỉnh Bạc Liêu là người có đủ điều
kiện, tiêu chuẩn theo quy chế tuyển sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã trúng
tuyển qua kỳ thi tuyển sinh, được tiếp nhận vào học tập ,rèn luyện tại các trường
Cao đẳng, Đại học tỉnh Bạc Liêu, quá trình học tập được Nhà trường trang bị kiến
thức, kỹ năng về một ngành nghề theo trình độ Cao đẳng, Đại học và rèn luyện
hoàn thiện nhân cách theo tiêu chuẩn người cán bộ, công chức.
Nhiệm vụ của sinh viên các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu là:
Thực hiện nhiệm vụ của công dân theo quy định của pháp luật; chấp hành
nghiêm các quy chế về đào tạo, về công tác sinh viên và các quy định của pháp luật
liên quan đến người học; thực hiện quy chế, nội quy, quy định của nhà trường và


19

các đoàn thể quần chúng; tôn trọng giảng viên, cán bộ, nhân viên của nhà trường và
cơ sở giáo dục liên kết; đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, rèn luyện; tích cực
tham gia hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội và các
phong trào cách mạng ở địa phương; giữ gìn, bảo vệ tài sản của nhà trường; góp
phần xây dựng, bảo vệ và phát huy truyền thống nhà trường, địa phương...
Đặc điểm của sinh viên các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu
Mặc dù các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu thi và xét tuyển trong phạm vi cả
nước, nhưng phần lớn sinh viên ở các trường có quê quán ở các tỉnh phía Nam, tập
trung ở Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Kiên Giang… Sinh viên ở các trường CĐ,
ĐH tỉnh Bạc Liêu vừa mang đặc điểm chung của sinh viên cả nước vừa có những
đặc điểm riêng do văn hóa, thổ nhưỡng, tập quán, lịch sử, địa chính trị của vùng
miền.
Sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu là những thanh niên có tuổi

đời còn trẻ, sinh ra trong điều kiện đất nước hòa bình, phát triển. Hầu hết, sinh viên
là đoàn viên, thanh niên, có tuổi đời từ 18 đến 23, được giáo dục, rèn luyện trong hệ
thống nhà trường XHCN. Ưu điểm nổi bật của sinh viên là: có nếp sống, thói quen
lành mạnh, trung thực, thẳng thắn, thật thà trong các mối quan hệ, luôn kính trọng
thầy, cô; thông minh, sáng tạo, trình độ văn hoá cao. Ở một mức độ nhất định, họ có
nhận thức đúng đắn về Đảng Cộng sản Việt Nam, về lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng,
đạo đức lối sống XHCN; họ rất nhiệt tình sôi nổi trong tham gia các hoạt động tập
thể, các phong trào hành động cách mạng do nhà trường và đoàn thể phát động. Bên
cạnh đó họ có nhiều ước mơ hoài bão, khát khao lý tưởng, thích hướng về tương lai,
ưa công bằng bình đẳng, luôn muốn tự khẳng định mình, ham học cầu tiến bộ, dễ
tiếp thu cái mới… Đây là những chất liệu quý là điều kiện thuận lợi để đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao và hình thành, phát triển những nhân cách cộng sản.
Trình độ nhận thức của sinh viên về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội không
đồng đều, nhân cách đang hình thành. Bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, dễ bi
quan, dao động trước những thử thách khó khăn. Sinh viên các trường CĐ, ĐH tỉnh
Bạc Liêu họ được tuyển sinh qua hình thức xét tuyển nguyện vọng 2 đối với hệ ĐH,


20

thi tuyển ở hệ CĐ. Do đa dạng về đối tượng tuyển sinh nên nhận thức của sinh viên
về chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội có sự chênh lệch nhất định. Măt khác, do tuổi
đời còn trẻ và chưa được rèn luyện thử thách nhiều nên bản lĩnh chính trị, sự giác
ngộ giai cấp của sinh viên còn hạn chế, chưa vững vàng dễ bi quan, dao động trước
những thử thách, khó khăn. Trong học tập, một bộ phận sinh viên xác định động cơ
nghề nghiệp chưa thật ổn định vững chắc; nhận thức trách nhiệm của một số sinh
viên còn đơn giản, thiếu chín chắn, thiếu kinh nghiệm trong hoạt động chính trị - xã
hội, trình độ giác ngộ cách mạng, tự định hướng tình cảm, ý chí còn hạn chế. Trong
điều kiện kinh tế thị trường và sự bùng nổ thông tin số hiện nay, sinh viên rất dễ bị
tác động, bị lôi kéo hay bi quan, chán nản, thiếu nhẫn nại kiên trì khi gặp phải tình

huống khó khăn.
Theo đó, CTPTĐ trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH trong giai đoạn hiện
nay cần phải phát huy tốt những nhân tố tích cực trong nhân cách sinh viên, đồng
thời giải quyết tốt mâu thuẫn giữa yêu cầu năng lực, phẩm chất đạo đức của sinh
viên trong môi trường hội nhập quốc tế với thực tế những mặt hạn chế từ đặc điểm
của đối tượng đào tạo của nhà trường.
Sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu xuất thân từ nhiều thành phần,
địa phương, dân tộc khác nhau, trong quá trình học tập, rèn luyện chịu sự tác động,
chi phối mạnh mẽ bởi môi trường vùng miền, môi trường gia đình, xã hội và trường
học. Trong điều kiện lịch sử trước 1975, miền Nam Việt Nam là nơi đế quốc Mỹ
thực hiện mưu đồ xây dựng thuộc địa kiểu mới. Mặc dù không trực tiếp bị tác động
từ nền văn hóa thực dân mới nhưng thế hệ sinh viên ngày nay vẫn chịu ảnh hưởng
từ tàn tích và di hại của nó. Đặc điểm lịch sử nói trên ảnh hưởng đến hiệu quả công
tác giáo dục tình cảm, tư tưởng, động cơ phấn đấu và gây khó khăn khi xác minh lý
lịch của quần chúng sinh viên.
Đa số sinh viên có xuất thân từ thành phần gia đình nông dân, nhân dân lao
động, sống ở nông thôn vùng sâu; một số là con em các gia đình chính sách, diện
được hỗ trợ theo chương trình xã nghèo. Về thành phần dân tộc, đa số là dân tộc
Kinh, còn lại là Hoa, Khmer và các dân tộc khác… Các tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau
gồm Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau là vùng đất màu mỡ, giàu tiềm năng nhưng cũng


21

là vùng trũng của giáo dục và dân trí của cả nước. Do phải lo lắng về kinh tế, chống
chọi với thiên tai, người dân ở đây xem nhẹ việc học. Không có truyền thống hiếu
học từ gia đình, nên quyết tâm học tập của sinh viên không mạnh mẽ để có thể vượt
qua khó khăn trong cuộc sống và học tập.
Sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu được học tập, rèn luyện trong
môi trường giáo dục, cường độ học tập cao. Thực hiện chương trình, nội dung, quy

chế huấn luyện, sinh viên được rèn luyện trong môi trường học tập với cường độ
lớn. Ngoài giờ học trên lớp, sinh viên phải tự nghiên cứu, thực hành trong phòng thí
nghiệm, trong bệnh viện… để lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo đáp ứng
yêu cầu của môn học. Đồng thời, họ còn tham gia các phong trào hành động cách
mạng do nhà trường, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức. Môi trường học tập,
rèn luyện ở các trường CĐ, ĐH không chỉ là nơi hun đúc, rèn luyện ra những cán
bộ, người cán bộ kỹ thuật mà còn là môi trường lý tưởng để sản sinh ra những nhân
cách cộng sản.
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản về công tác phát triển đảng viên trong sinh
viên ở các trường cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu
* Quan niệm về công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở các trường
cao đẳng, đại học tỉnh Bạc Liêu
PTĐ là một nội dung cơ bản trong học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ chí Minh và Đảng ta đều thống nhất
cho rằng:
PTĐ là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là quá trình Đảng lựa
chọn, bồi dưỡng, rèn luyện thử thách chuyển hoá những quần chúng ưu tú trong
thực tiễn đấu tranh cách mạng thành đảng viên cộng sản, nhằm hoàn thành tốt
nhiệm vụ đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc.
PTĐ là một nhiêm vụ của công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng
viên, công tác PTĐ phải luôn luôn xuất phát từ yêu cầu bản chất giai cấp công nhân,
đường lối nhiệm vụ chính trị của Đảng và phải nhằm giữ vững, tăng cường bản chất
giai cấp công nhân, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng, thực hiện
thắng lợi đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng.


22

PTĐ luôn luôn đi đôi với củng cố Đảng. Một mặt, kết nạp những người ưu tú, đủ

tiêu chuẩn; mặt khác, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất,
những người không đủ tư cách đảng viên, cảnh giác đề phòng những phần tử xấu,
phản động, xu thời vụ lợi chui vào Đảng.
Thường xuyên nâng cao điều kiện, tiêu chuẩn đảng viên cho tương xứng với
sự phát triển của tình hình nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu lãnh đạo của Đảng trong
từng thời kỳ, đồng thời cụ thể hoá điều kiện, tiêu chuẩn kết nạp đảng viên cho phù
hợp với từng đối tượng.
PTĐ phải chú trọng kết nạp đảng viên từ giai cấp công nhân, coi đó là
phương hướng chính, đồng thời có phương hướng lựa chọn đảng viên đúng đắn phù
hợp với tình hình cơ cấu xã hội - giai cấp và yêu cầu lãnh đạo của Đảng trong từng
thời kỳ.
Quy định một cách chặt chẽ và tuân thủ một cách nghiêm ngặt thủ tục kết nạp
đảng viên, thời kỳ dự bị và quy trình xét công nhận đảng viên chính thức.
Công tác giáo dục bồi dưỡng xây dựng phẩm chất nhân cách cộng sản cho
quần chúng phải được tiến hành toàn diện cả về phẩm chất chính trị, đạo đức và
năng lực chuyên môn, trong đó lấy đạo đức cách mạng làm gốc; phương pháp cơ
bản để giáo dục quần chúng là: thông qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, bằng giáo
dục thuyết phục nêu gương, bằng phê bình và tự phê bình trong các đoàn thể cách
mạng; phát huy vai trò của quần chúng trong tự tu dưỡng rèn luyện phấn đấu vào
Đảng.
Việc xem xét lựa chọn quần chúng để kết nạp vào Đảng phải dựa trên cơ sở
tiêu chuẩn đảng viên, điều kiện kết nạp đảng viên. Phải xem xét một cách toàn diện:
cả trình độ giác ngộ cộng sản chủ nghĩa, động cơ vào Đảng; cả phẩm chất đạo đức
cách mạng và năng lực công tác; cả lý lịch gia đình, bản thân và uy tín trước quần
chúng… phải xem xét trong một quá trình liên tục, trong những điều kiện khác
nhau, với những thử thách nghiêm ngặt và lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ theo
chức trách, theo cương vị công tác của đối tượng làm thước đo.
PTĐ phải được tiến hành trong phong trào cách mạng của quần chúng gắn
bó chặt chẽ với các hoạt động của Đảng trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát



23

huy được sức mạnh tổng hợp các ngành, các giới, các lực lượng cách mạng cùng
tham gia.
Như vậy, thuật ngữ PTĐ sử dụng trong di sản lý luận của các nhà kinh điển
Mác - Lênin, các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn kiện của Đảng Cộng
sản Viêt Nam là để chỉ CTPTĐV. Công tác này là một bộ phận của hoạt động xây
dựng đội ngũ đảng viên của Đảng. Thực chất là quá trình Đảng lựa chọn, giáo dục
chuyển hoá những quần chúng ưu tú trong đấu tranh cách mạng thành đảng viên
cộng sản. Theo đó có thể quan niệm về công tác PTĐV trong sinh viên ở các trương
CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu như sau :
Công tác phát triển đảng viên trong sinh viên ở các trường cao đẳng, đại
học tỉnh Bạc Liêu là hoạt động cơ bản, thường xuyên của công tác xây dựng Đảng,
là quá trình đảng bộ nhà trường tiến hành tổng thể các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục, rèn luyện, phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng, thử thách, và xem xét kết nạp
những sinh viên ưu tú vào Đảng, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
hoạt động của Nhà trường và xây dựng đảng bộ Nhà trường trong sạch, vững mạnh
có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục đào
tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường trong từng thời kỳ.
Mục đích của CTPTĐ trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu là
nhằm tăng cường nguồn sinh lực và trí tuệ cho Đảng, trẻ hoá đội ngũ đảng viên,
nâng cao năng lực sức chiến đấu cho đảng bộ các nhà trường, đảng bộ tỉnh Bạc
Liêu. Đồng thời góp phần xây dựng các nhà trường vững mạnh toàn diện, hoàn
thành tốt nhiệm vụ GDĐT.
Chủ thể lãnh đạo CTPTĐ trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc
Liêu là các cấp uỷ, tổ chức đảng trong nhà trường. Các cơ quan chức năng, tổ chức
đoàn thanh niên, hội sinh viên, cán bộ lãnh đạo quản lý, giảng viên, đảng viên là
chủ thể tham mưu, quản lý, tổ chức, thực hiện.
Lực lượng tham gia CTPTĐ trong sinh viên là toàn thể các tổ chức, các lực

lượng ở trong nhà trường, sự tự tu dưỡng, phấn đấu của các sinh viên, và sự giúp đỡ
của các cơ quan chức năng ở địa phương. Dưới sự lãnh đạo của đảng uỷ nhà trường,
tổ chức đảng các cấp, các cơ quan, khoa giáo viên, lớp sinh viên, tổ chức quần
chúng, cán bộ, đảng viên tiến hành các hoạt động PTĐ theo chức năng, nhiệm vụ.


24

Đối tượng CTPTĐ trong sinh viên là tất cả các đoàn viên, thanh niên đang là
sinh viên theo học hệ CĐ, ĐH. Đây là lực lượng quần chúng đã được xét duyệt về
lý lịch chính trị, gia đình, bản thân, phẩm chất, năng lực, sức khoẻ trong quá trình
tuyển sinh; là nguồn để chọn lọc đưa vào danh sách đối tượng kết nạp Đảng, kế
hoạch PTĐV.
Nội dung quy trình phát triển đảng viên.
Nội dung, quy trình PTĐV là tổng thể các hoạt động PTĐ được diễn ra theo
một trình tự lôgíc, khoa học, chặt chẽ bao gồm những bước cơ bản sau:
Bước một: Phát hiện, lựa chọn nguồn. Cấp uỷ, chi bộ quán triệt và ra nghị
quyết lãnh đạo về công tác PTĐV và phổ biến cho quần chúng. Thông qua phong
trào cách mạng của quần chúng, các cấp uỷ Đảng, tổ chức quần chúng tìm hiểu lựa
chọn đưa vào nguồn PTĐ những quần chúng ưu tú, có lịch sử chính trị rõ ràng, “đã
tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong việc đấu tranh”, “liên lạc mật thiết với quần
chúng”, tin tưởng vào Đảng và có nguyện vọng muốn gia nhập Đảng để phấn đấu
cho lợi ích của Đảng. Việc đưa người vào nguồn PTĐ do tổ chức đảng có thẩm
quyền quyết định dựa trên cơ sở phát hịên giới thiệu của đảng viên, tổ đảng, và các
tổ chức quần chúng.
Bước 2: Tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, rèn luyện, thử thách nguồn. Mục
đích là để hình thành phát triển những phẩm chất nhân cách cộng sản. Nội dung bồi
dưỡng giáo dục, rèn luyện toàn diện, cả phẩm chất và năng lực, cả chính trị, đạo
đức và nghịêp vụ chuyên môn, trong đó lấy đức làm gốc. Phương pháp cơ bản để
giáo dục, rèn luyện, chuyển hoá quần chúng là: động viên quần chúng tự giác tu

dưỡng, rèn luyện theo tiêu chuẩn đảng viên; giáo dục thông qua học tập, lao động
sản xuất, phong trào cách mạng; giáo dục bằng thuyết phục nêu gương, tự phê và
phê bình trong các đoàn thể cách mạng, thông qua đó cảm hoá, xây dựng, nâng dần
trình độ giác ngộ của quần chúng từ thấp lên cao, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ
giai cấp, từ tán thành chủ trương chính sách của Đảng đi đến ủng hộ, đấu tranh cho
sự nghiêp cách mạng của Đảng và tự nguyện xin gia nhập Đảng.
Bước 3: Xét kết nạp quần chúng đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào Đảng theo
đúng thủ tục mà Điều lệ Đảng đã quy định.


25

Bước 4: Bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên dự bị và xét công nhận đảng viên dự
bị thành đảng viên chính thức.
Đó là toàn bộ nội dung của quy trình PTĐV đòi hỏi bắt buộc các tổ chức
đảng phải chấp hành một cách nghiêm túc.
* Phương châm, điều kiện, thủ tục, nguyên tắc kết nạp đảng viên
Phương châm phát triển Đảng là quan điểm nguyên tắc chỉ đạo quá trình
tiến hành công tác phát triển Đảng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định:
“Chú trọng và tăng cường công tác phát triển Ðảng, sớm khắc phục tình trạng một
số cơ sở, địa bàn chưa có đảng viên, tổ chức đảng. Việc kết nạp đảng viên phải coi
trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng của Ðảng, đạo
đức lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ” [6; tr.301]. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI nhấn mạnh: PTĐV phải chú trọng chất lượng “Đổi mới, tăng cường công
tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo yêu cầu của
Điều lệ Đảng” [7; tr.260]. Như vậy, nội dung cụ thể của phương châm là:
Một là, PTĐ phải giải quyết đúng mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng,
trong đó chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu. PTĐ phải đáp ứng đồng thời
giữa yêu cầu cao về chất lượng và số lượng thích hợp; coi trọng chất lượng, bảo
đảm tiêu chuẩn, không chạy theo số lượng đơn thuần. Trong bất cứ điều kiện hoàn

cảnh nào, việc kết nạp đảng viên mới phải bảo đảm chất lượng ngay từ đầu, người
được kết nạp phải có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Điều lệ Đảng. Các tổ chức
đảng phải tích cực chủ động tạo nguồn, coi trọng việc lựa chọn, bồi dưỡng, rèn
luyện giao nhiệm vụ thử thách qua thực tiễn. Khắc phục bệnh thành tích chạy theo
số lượng, hạ thấp tiêu chuẩn.
Hai là, PTĐ luôn đi đôi với củng cố Đảng, đề phòng bọn cơ hội, phần tử xấu
tìm cách chui vào Đảng. Củng cố tổ chức cơ sở đảng TSVM là cơ sở để nâng cao
chất lượng công tác phát triển Đảng. Tăng cường công tác giáo dục rèn luyện đội
ngũ đảng viên, chú trọng bồi dưỡng đảng viên dự bị, thận trọng xem xét không để
phần tử xấu, cơ hội chui vào Đảng, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người
không đủ tư cách để làm trong sạch Đảng.


26

Phương hướng phát triển Đảng là tư tưởng chỉ đạo việc lựa chọn, bồi dưỡng
người kết nạp vào Đảng. Nội dung, yêu cầu của phương hướng luôn vận động, phát
triển theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn.
Đại hội Đảng X chỉ rõ, hiện nay “Việc kết nạp đảng viên phải coi trọng chất
lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng của Ðảng, đạo đức lối sống,
năng lực hoàn thành nhiệm vụ”; “trọng tâm phát triển hướng vào thế hệ trẻ, công
nhân, nông dân, trí thức, quân nhân, cán bộ, con em các gia đình có công với cách
mạng” [6; tr.301].
Để bảo đảm chất lượng đảng viên, phương hướng PTĐ cần phải nắm vững
các nội dung sau:
Một là, coi trọng kết nạp vào Đảng những quần chúng ưu tú trong công
nhân, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất công nghiệp, công nhân kỹ thuật để nâng
cao tỷ lệ đảng viên là công nhân trong Đảng.
Hai là, quan tâm giáo dục, bồi dưỡng thanh niên để lựa chọn những người
ưu tú trong đoàn thanh niên kết nạp vào Đảng, từng bước trẻ hóa đội ngũ đảng viên.

Ba là, kết nạp vào Đảng những quần chúng ưu tú trong nông dân, trí thức,
cán bộ khoa học, kỹ thuật, giáo viên, sinh viên, học sinh các trường ĐH, CĐ, trong
lực lượng vũ trang, phụ nữ, dân tộc ít người và ở những cơ sở trọng điểm còn ít
đảng viên hoặc chưa có đảng viên.
Bốn là, lựa chọn kết nạp vào Đảng những quần chúng ưu tú trong các tầng
lớp nhân dân lao động, quần chúng ưu tú ở các ngành kinh tế - kỹ thuật trong các
doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, liên doanh với nước ngoài, trong vùng đồng bào
có đạo.
Phương hướng PTĐV đã nêu trên là kim chỉ nam, tạo thuận lợi cho CTPTĐ
nói chung và CTPTĐ trong sinh viên nói riêng. Các cấp ủy đảng khi tiến hành
CTPTĐ phải quán triệt phương hướng này trong xác định cơ cấu đội ngũ đảng viên.
Điều kiện, kết nạp đảng viên.
Để bảo đảm chất lượng đảng viên ngay từ khi mới kết nạp, Đảng ta đã xác
định chính xác các điều kiện kết nạp đảng viên và đòi hỏi các tổ chức đảng phải
thực hiện nghiêm túc vì đây là một trong những vấn đề then chốt trong việc hình
thành Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, với mục đích xây dựng Đảng cách mạng của
giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh, điều 1 Điều lệ ĐCSVN (Khóa XI) đã quy


27

định điều kiện của người được xét công nhận là đảng viên của Đảng là những “công
dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, thừa nhận và tự nguyện: thực hiện cương lĩnh chính
trị, điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ
sở đảng chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét kết
nạp vào Đảng” [8; tr.8]. Đây là những yếu tố cần có đối với người xin gia nhập Đảng,
là cơ sở để các tổ chức đảng lựa chọn xem xét, kết nạp quần chúng vào Đảng.
CTPTĐ trong sinh viên ở các trường CĐ, ĐH tỉnh Bạc Liêu, cần chú ý: Trình độ học
vấn của người vào Đảng phải có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc tương
đương; về lịch sử chính trị thực hiện theo Quy định của Bộ Chính trị; không kết nạp

lại là những người tự ý bỏ sinh hoạt Đảng, làm đơn xin ra khỏi Đảng, bị phạt tù vì tội
tham nhũng, bị án hình sự từ mức nghiêm trọng trở lên, gây mất đoàn kết nội bộ
nghiêm trọng.
Về thủ tục kết nạp đảng viên, theo quy định hiện hành, người được kết nạp
vào Đảng cần những điều kiện, thủ tục sau:
Một là, được dự học và có chứng nhận đã qua lớp bồi dưỡng nhận thức về
Đảng.
Hai là, Hội nghị Chi ủy thống nhất các đối tượng đủ điều kiện có thể kết nạp,
đưa ra hội nghị chi bộ xem xét, quyết định và cho đối tượng tiến hành làm thủ tục
để kết nạp.
Ba là, người được chi bộ xem xét kết nạp phải thực hiện nghiêm chỉnh khoản
1 Điều 4 trong Điều lệ ĐCSVN (khóa XI):
“Người vào Đảng phải:
- Có đơn tự nguyện xin vào Đảng;
- Báo cáo trung thực lý lịch với chi bộ;
- Được hai đảng viên chính thức giới thiệu.
Nơi có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng
trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được Ban chấp hành đoàn cơ sở và một
đảng viên chính thức giới thiệu.” [8; tr.11].
Đối với người giới thiệu quần chúng vào Đảng được thực hiện theo khoản 2
Điều 4 Điều lệ ĐCSVN (khóa XI): “Người giới thiệu phải:
- Là đảng viên chính thức và cùng công tác với người vào Đảng ít nhất một
năm;


×