Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CÔNG tác PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN nữ của các ĐẢNG bộ xã TỈNH sóc TRĂNG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.05 KB, 95 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đảng viên là tế bào của Đảng, là người tham gia tích cực vào quá trình
xây dựng tổ chức, thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phát triển đảng viên là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên, là vấn đề có tính quy luật trong công tác XDĐ, bảo đảm cho
Đảng tồn tại, phát triển, có sức sống mạnh mẽ, xứng đáng là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Xây dựng
ĐNĐV có chất lượng cao, số lượng đủ là nhân tố cơ bản quyết định năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Chính vì vậy, ngay từ khi mới ra đời và
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác
phát triển Đảng.
Thực tiễn hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành của ĐCSVN cho thấy,
công tác phát triển đảng là nội dung rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến
sự sống còn của Đảng, sự thành bại của cách mạng. Tiến hành CTPTĐV, xây
dựng ĐNĐV là cơ sở nền tảng để xây dựng các tổ chức cơ sở đảng TSVM,
nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng, để lãnh đạo toàn dân
thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam, đặc biệt là từ khi có Đảng lãnh đạo, phụ nữ Việt Nam đã đóng góp vai
trò quan trọng trên các lĩnh vực hoạt động, lớp lớp phụ nữ Việt Nam, bằng
công sức, trí tuệ đã xây dựng nên truyền thống “kiên cường, bất khuất, trung
hậu, đảm đang”, nhiều chị em phụ nữ đã phấn đấu đứng trong hàng ngũ của
Đảng, được giao giữ trọng trách lãnh đạo trên các lĩnh vực công tác và ngày
càng khẳng định được vai trò bình đẳng của người phụ nữ trong chế độ xã hội
mới. Phát triển đảng viên nữ là một trong những biện pháp góp phần xây

3



dựng tổ chức đảng vững mạnh toàn diện, đồng thời còn thể hiện chủ trương,
quan điểm của Đảng về quan tâm xây dựng và phát huy vai trò phụ nữ trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng ở đảng bộ các xã trên địa
bàn tỉnh Sóc Trăng đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc về chủ trương xây dựng và
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ, vì thế đã có nhiều chủ trương biện pháp lãnh
đạo sát đúng, thường xuyên quan tâm chăm lo tiến hành CTPTĐV nữ. Số
lượng đảng viên nữ được kết nạp vào Đảng ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh
Sóc trăng ngày càng tăng, đội ngũ đảng viên nữ đã phát huy tốt vai trò tiên
phong gương mẫu trên các lĩnh vực hoạt động, góp phần xây dựng các tổ
chức đảng vững mạnh toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tuy nhiên, CTPTĐV
nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất
định như chạy theo số lượng đơn thuần, coi nhẹ, hạ thấp chất lượng, tiêu
chuẩn đảng viên, buông lỏng quản lý, hoặc hẹp hòi định kiến vẫn chưa được
khắc phục triệt để.
Hiện nay, đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa, mở cửa hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Sóc Trăng đang đặt ra yêu
cầu đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức
đảng trong toàn Đảng bộ. Tăng cường PTĐV nói chung và đảng viên nữ nói
riêng của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng đang là vấn đề cấp thiết, là nội
dung quan trọng góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến của của toàn
Đảng bộ trong tình hình mới.
Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, tìm ra những
giải pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng, hiệu quả CTPTĐV nữ của các đảng
bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa thiết thực.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
4



Tiến hành CTPTĐV nói chung và PTĐV trong đội ngũ cán bộ nữ là
vấn đề quan trọng, là một trong những chủ trương luôn được Đảng ta quan
tâm chỉ đạo trong công tác XDĐ. Vì vậy, Đảng đã có nhiều chỉ thị, nghị
quyết; các cán bộ lãnh đạo, các nhà khoa học đã có nhiều công trình khoa học,
luận văn, luận án nghiên cứu, đề cập vấn đề này. Tiêu biểu là:
Bộ Quốc phòng (1996) “Phát triển bồi dưỡng nâng cao chất lượng
đảng viên trong quá trình đào tạo cán bộ các trường sỹ quan Quân đội”, đề
tài cấp bộ do Trường Sỹ quan Lục quân I thực hiện. Trong đề tài này, các tác
giả đã làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của CTPTĐV và
bồi dưỡng ĐNĐV là học viên gắn liền với quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ
cho Quân đội.
Nguyễn Thị Mỹ Trang (2001), “Xây dựng đội ngũ đảng viên là sinh viên
ở các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hà Nội”, luận án tiến sỹ
khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng ĐCSVN. Tác giả đã đi sâu phân
tích, đánh giá, làm rõ: vị trí, vai trò của CTPTĐV trong sinh viên - nguồn nhân
lực chất lượng cao trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đặc điểm đối
tượng đảng viên là sinh viên và sự tác động ảnh hưởng của tình hình thế giới,
trong nước đến ĐNĐV là sinh viên; đánh giá thực trạng CTPTĐV trong sinh
viên ở các trường đại học cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những
năm qua, mặc dù tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp ra trường được kết nạp vào Đảng
ngày càng tăng, nhưng so với nhu cầu, tiềm năng thì vẫn còn hạn chế. Luận án
đã xác định những cụm giải pháp tập trung vào công tác tuyên truyền giáo dục,
xây dựng nhận thức, động cơ, quyết tâm phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện cho sinh
viên, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức đảng, nhất là các chi bộ sinh viên
trong trường, các phòng, khoa chức năng, các tổ chức đoàn thanh niên, hội sinh
viên, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể của người đảng viên là sinh viên để
quần chúng tu dưỡng, phấn đấu rèn luyện.

5



Nguyễn Văn Hào (2003) “Đẩy mạnh công tác PTĐV trong thanh niên
của các đảng bộ phường ở Thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay”, luận văn
thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng ĐCSVN. Tác giả đã đi
sâu phân tích, luận giải làm rõ đặc điểm tình hình của các đảng bộ, chi bộ trên
địa bàn Thành phố Đà Nẵng cũng như đối tượng quần chúng là đoàn viên,
thanh niên ở địa phương, từ đó đưa ra những dự báo và phương hướng
CTPTĐV trong thanh niên của các đảng bộ phường, tập trung vào những vấn
đề sau: đổi mới việc đánh giá về thanh niên, thống nhất nhận thức về
CTPTĐV trong thanh niên ở địa phương; quán triệt, cụ thể hóa tiêu chuẩn
đảng viên trong độ tuổi thanh niên; củng cố kiện toàn xây dựng các cấp ủy
đảng TSVM thực sự là chủ thể của CTPTĐV; chủ động làm tốt và đổi mới
nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục bồi dưỡng chính trị, tư tưởng, đạo
đức cách mạng cho thanh niên trong tình hình mới, thường xuyên lựa chọn
đoàn viên ưu tú bổ sung vào nguồn kết nạp đảng; kiện toàn nâng cao chất
lượng hoạt động của tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong
tham gia CTPTĐV; đồng thời tác giả cũng khẳng định việc tăng cường theo
dõi giúp đỡ của quận ủy, thành ủy và các cơ quan đơn vị trên địa bàn có vai
trò quan trọng trong CTPTĐV của đảng bộ các phường.
Tổng cục Chính trị (2004), Báo cáo tổng kết công tác phát triển đảng,
bồi dưỡng đội ngũ đảng viên trong Học viên đào tạo sỹ quan, nhân viên
chuyên môn kỹ thuật trong các nhà trường Quân đội giai đoạn 1994 - 2004
(Số 361 - BC/CT). Báo cáo đã tổng kết 10 năm CTPTĐV và bồi dưỡng
ĐNĐV trong học viên đào tạo sỹ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật trong
các nhà trường Quân đội, làm rõ những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm, đồng thời xác định phương hướng và những giải pháp nâng
cao chất lượng CTPTĐV, bồi dưỡng ĐNĐV trong học viên đào tạo sỹ quan,
nhân viên chuyên môn kỹ thuật trong các nhà trường Quân đội với những nội
dung cơ bản đó là: Phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi tổ chức, mọi lực

lượng trong công tác phát triển ĐNĐV; thường xuyên quán triệt sâu sắc thực
6


hiện nghiêm túc, điều kiện, phương châm phương hướng kết nạp đảng viên
trong Quân đội; các cấp ủy tổ chức đảng, cơ quan chính trị phải làm tốt công
tác lựa chọn, giáo dục, bồi dưỡng nguồn kết nạp đảng; kết hợp CTPTĐV với
xây dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD, tạo môi trường tích cực cho
quá trình phấn đấu rèn luyện của quần chúng vào Đảng; tổ chức kết nạp quần
chúng ưu tú vào Đảng đúng nguyên tắc thủ tục và giáo dục bồi dưỡng đảng
viên dự bị để chuyển thành đảng viên chính thức đúng kỳ hạn.
Nguyễn Văn Chất (2005), “Nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện
đảng viên là học viên người dân tộc thiểu số đào tạo cán bộ chính trị cấp
phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự trong giai đoạn hiện nay”, luận văn
thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng ĐCSVN. Luận văn đã đi
sâu phân tích làm rõ đặc điểm của đảng viên là người dân tộc thiểu số, đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội với những nét đặc trưng về văn hóa, phong tục
tập quán, cá tính, từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
rèn luyện đảng viên là người dân tộc thiểu số nói chung và đào tạo cán bộ
chính trị cấp phân đội nói riêng, từng bước hoàn thiện phẩm chất năng lực,
phương pháp tác phong công tác, đáp ứng tiêu chuẩn đảng viên, đủ điều kiện
hoàn thành nhiệm vụ, chức trách được giao khi tốt nghiệp ra trường về đơn vị
công tác.
GS.TS Mạch Quạng Thắng (chủ biên) (2006), “Đảng viên và phát triển
đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Nxb
Lao động.H. Các tác giả đã nghiên cứu, đánh giá tình hình, chất lượng đội
ngũ đảng viên và CTPTĐV trong nhiệm kỳ Đại hội Đảng VIII (1996 - 2001)
và từ Đại hội IX của Đảng đến nay, luận giải rõ nội hàm tiêu chuẩn phấn đấu
của người đảng viên được xác định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam,
chỉ rõ những yêu cầu có tính đặc thù đặt ra với CTPTĐV trong điều kiện nền

kinh tế thị trường định hướng XHCN, trên cơ sở đó, phân tích những nội dung

7


đổi mới cần thiết trong CTPTĐV và công tác xây dựng đội ngũ đảng viên phù
hợp với tình hình mới của những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Trần Trọng Đạo (2008), Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lãnh đạo công tác
phát triển đảng viên trong đồng bào công giáo giai đoạn 1996 – 2006, luận
văn thạc sỹ lịch sử, trường Đại học KHXHNV Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Hải Hà (2012) “Đảng bộ tỉnh Hải Dương với công tác
phát triển đảng viên ở nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010”, luận văn thạc
sỹ lịch sử, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học
Quốc gia Hà Nội, H. Tác giả đã nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn
CTPTĐV của Đảng bộ tỉnh Hải Dương, phân tích, luận giải rõ những chủ
trương và sự chỉ đạo của cấp ủy các cấp trong Đảng bộ tỉnh đối với công tác
phát triển đảng viên nông thôn giai đoạn năm 2001 đến năm 2010.
Ngoài ra, trên phạm vi cả nước còn có nhiều công trình khoa học, bài
nói, bài viết nghiên cứu về CTPTĐV, về giáo dục, bồi dưỡng mục tiêu, lý
tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng cho thanh niên, cho học viên
các nhà trường quân sự như: Nâng cao chất lượng CTPTĐV trong học viên
các Trường sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, luận án tiến sỹ khoa học
chính trị, chuyên ngành Xây dựng ĐCSVN của Lê Văn Bình (2000); PTĐV
trong các trường Đại học Công an nhân dân ở phía Bắc trong giai đoạn hiện
nay, luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng ĐCSVN
của Vũ Thế Kỳ (2001); Nâng cao chất lượng công tác PTĐV mới trong học
viên đào tạo sỹ quan ở các nhà trường thuộc Quân chủng Phòng không,
Không quân thời kỳ mới, luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành
Xây dựng ĐCSVN của Lê Văn Lương (2002); Công tác phát triển đảng
trong sinh viên một số trường đại học ở Hà Nội hiện nay, thực trạng và giải

pháp; luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng ĐCSVN
của Dương Trung Ý (2001).

8


Trong công trình luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây
dựng Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề: “Phát triển đảng viên là người dân
tộc Khmer của các đảng bộ xã, thị trấn ở tỉnh Sóc Trăng giai đoạn hiện nay”
của Nguyễn Thị Kiều Linh (2012), tác giả luận văn đã tập trung luận rõ những
đặc điểm, yêu cầu mang tính đặc trưng của công tác PTĐV trong đồng bào
Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, từ đó đề xuất những giải pháp góp phần
nâng cao chất lượng công tác PTĐV là người dân tộc Khmer ở các đảng bộ
xã, thị trấn trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã góp
phần làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn về chất lượng công tác phát
triển đảng viên trong đồng bào Khmer ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
Các công trình khoa học, luận văn, luận án nêu trên của các tác giả đã
đi sâu luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ ra những ưu điểm,
khuyết điểm, nguyên nhân, rút ra những bài học kinh nghiệm ở từng lĩnh vực.
Trên cơ sở nghiên cứu những yếu tố tác động, cả khách quan và chủ quan của
từng lĩnh vực, phạm vi, đối tượng cụ thể để xác định phương hướng, yêu cầu
và hệ thống các giải pháp đa dạng phong phú, phù hợp với đối tượng nghiên
cứu đã xác định. Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, luận văn,
luận án trên đây có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn cần được tiếp tục kế
thừa, phát triển, vận dụng phù hợp với tình hình hiện nay.
Tuy nhiên, CTPTĐV là vấn đề rất quan trọng gắn liền với sự phát triển
và xây dựng các tổ chức đảng TSVM, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng, gắn liền với tính đặc thù của từng đối tượng, từng loại hình cơ
quan, đơn vị, nhà trường, từng lĩnh vực hoạt động của xã hội. Thực tiễn
CTPTĐV nữ ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có những đặc thù,

yêu cầu riêng, đồng thời luôn vận động biến đổi, đặt ra những tác động ảnh
hưởng thường xuyên cần giải quyết cụ thể, song cho đến nay, chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về CTPTĐV nữ ở các
đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
9


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn, xác
định yêu cầu và đề xuất một số giải pháp tăng cường CTPTĐV nữ của các
đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề cơ bản về CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh
Sóc Trăng.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh
nghiệm tiến hành CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng.
Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp tăng cường CTPTĐV nữ của các
đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở
tỉnh Sóc Trăng; các tư liệu, số liệu điều tra, khảo sát giới hạn từ năm 2010
đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các nguyên lý, nguyên tắc cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và công tác

phát triển đảng viên; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam, các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung

10


ương về CTPTĐV và xây dựng ĐNĐV. Đồng thời, luận văn kế thừa, tham
khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đã nghiệm
thu, công bố.
* Cơ sở thực tiễn
Hiện thực CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng; tham
khảo các tài liệu, số liệu trong các báo cáo, tổng kết về công tác xây dựng
Đảng có liên quan trực tiếp đến CTPTĐV nữ của Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng từ
năm 2010 đến nay và các số liệu điều tra khảo sát, trưng cầu ý kiến trong quá
trình nghiên cứu của tác giả ở các cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa
học chuyên ngành và liên ngành, trong đó đặc biệt chú ý các phương pháp
logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra khảo sát, tổng
kết thực tiễn và phương pháp xin ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp
cho các cấp ủy, tổ chức đảng của Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng trong lãnh đạo, chỉ
đạo tiến hành CTPTĐV nữ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu trong giảng dạy môn xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phần phụ lục.


11


Chương 1
CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN NỮ CỦA CÁC ĐẢNG BỘ
XÃ Ở TỈNH SÓC TRĂNG - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các đảng bộ xã và công tác phát triển đảng viên nữ của các đảng
bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng
1.1.1. Các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng và đội ngũ đảng viên nữ ở
các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng
* Khái quát tỉnh Sóc Trăng.
Sóc Trăng là tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nằm trong
vùng hạ lưu sông Hậu, trên trục lộ giao thông thủy bộ nối liền thành phố Hồ
Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam Bộ, có bờ biển dài 72 km và 03 cửa
sông lớn Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra biển Đông. Đến năm 2014 tỉnh
Sóc Trăng có 8 huyện, 2 thị xã, 1 thành phố.
Toàn tỉnh Sóc Trăng có 80 xã, 12 thị trấn và 17 phường. Tỉnh Sóc
Trăng có diện tích 3.311,2 km2. Diện tích các xã, thị trấn là 3.235,1 km 2
chiếm 97,7% diện tích của tỉnh Sóc Trăng, dân số ở các xã, thị trấn là
1.163.951 người chiếm 89,4% dân số toàn tỉnh. Các xã, thị trấn là vùng nông
thôn kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển cây lúa
nước; cây Công nghiệp ngắn ngày như mía, đậu nành, bắp; các loại rau màu
như hành, tỏi và các loại cây ăn trái như bưởi, xoài, sầu riêng... Hiện đất nông
nghiệp là 276.677 ha, chiếm 82,89%; trong đó, đất sản xuất nông nghiệp là
205.748 ha (chiếm 62,13%), đất lâm nghiệp có rừng 11.356 ha (chiếm
3,43%), đất nuôi trồng thuỷ sản 54.373 ha (chiếm 16,42%), đất làm muối và
đất nông nghiệp khác chiếm 0,97%. Trong tổng số 278.154 ha đất nông
nghiệp có 144.156 ha sử dụng cho canh tác lúa, 21.401 ha trồng cây hàng năm

và 40.191 ha trồng cây lâu năm và cây ăn trái (số liệu được cập nhật theo niên
12


giám thống kê Sóc Trăng 2010). Sóc Trăng có hệ thống sông ngòi chằng chịt,
điều kiện đi lại khó khăn, ảnh hưởng đến việc giao thương hàng hóa. Dân cư
Sóc Trăng chủ yếu gồm ba dân tộc: Kinh (835.629 người, chiếm 64,24%),
Khmer (399.463 người, chiếm 30,71%), Hoa (65.311 người, chiếm 5,02%),
đã cùng chung sức khai phá, xây dựng và bảo vệ vùng đất này.
* Các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng :
Các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng được hình thành khá sớm, với tiền
thân là các chi bộ, sau phát triển thành đảng bộ trong những năm 1930, hiện
nay được tổ chức thành đảng bộ 2 cấp, dưới đảng bộ xã là các chi bộ trực
thuộc và đảng bộ bộ phận, không có chi bộ cơ sở xã. Quy mô các đảng bộ xã
có từ 160 đến 315 đảng viên, sinh hoạt ở các chi bộ ngành, chi bộ khóm, ấp.
Khi mới tách tỉnh, Tỉnh ủy Sóc Trăng có 10 đảng bộ trực thuộc gồm: 06
đảng bộ huyện, 01 đảng bộ thị xã và 03 đảng ủy (Công an, Quân sự, Bộ đội
biên phòng). Đến tháng 12/2013, Tỉnh ủy Sóc Trăng có 16 đảng bộ trực thuộc
gồm: 09 đảng bộ huyện, 02 đảng bộ thị xã, 01 đảng bộ thành phố và 05 đảng
ủy (Công an, Quân sự, Bộ đội biên phòng, Khối các cơ quan, Khối doanh
nghiệp). Đến tháng 12/2013 toàn tỉnh có 693 tổ chức cơ sở đảng với 2.527
chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở (trong đó có 1.934 chi bộ trực thuộc đảng ủy
xã, phường, thị trấn).
Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên như đào tạo, đào tạo lại cho đảng viên, mạnh dạn bố
trí, phân công đảng viên về công tác ở cơ sở nhằm giúp đảng viên được cọ sát
thực tế, rèn luyện trong thực tiễn để đúc kết kinh nghiệm và quan trọng hơn
hết là lựa chọn, tạo nguồn bồi dưỡng quần chúng ưu tú kết nạp vào Đảng, vừa
đảm bảo chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, vừa thực
hiện trẻ hóa đội ngũ đảng viên, tăng sinh lực cho Đảng nâng cao năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng.

13


Một trong những khó khăn trong quá trình nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên ở các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là, lực lượng đảng viên ở xã, thị
trấn chiếm trên 50% đảng viên toàn tỉnh, tổng số đảng viên của các chi bộ xã
đông nhưng đảng viên hưu trí, đảng viên tuổi cao sức yếu được miễn công
tác, miễn sinh hoạt hiện chiếm một số lượng không nhỏ. Một bộ phận đảng
viên ở ấp vì điều kiện kinh tế gia đình khó khăn phải đi làm ăn xa (ra các
thành phố lớn làm công) sinh hoạt đảng không đều ảnh hưởng đến việc chấp
hành nguyên tắc sinh hoạt đảng và sức mạnh chiến đấu, năng lực lãnh đạo của
các đảng bộ xã. Số đảng viên có trình độ, năng lực thì phần lớn có xu hướng
ly hương lên thành phố để mong muốn tìm được công việc ổn định hơn, có
thu nhập cao hơn, có điều kiện thăng tiến hơn.
Thực hiện chủ trương nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 4 Khóa XI của Đảng, những năm qua, Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng đã có
nhiều chủ trương, giải pháp về nâng cao chất lượng tổ chức đảng và chất
lượng đội ngũ đảng viên được đưa vào nghị quyết của Đảng bộ tỉnh như:
Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 06 tháng 01 năm 2003 về nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, Đề án số 01ĐA/BTCTU, ngày 03 tháng 5 năm 2006 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về xây
dựng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên vùng đồng bào dân tộc Khmer và Kế
hoạch số 10-KH/BTCTU, ngày 20 tháng 02 năm 2008 của Ban Tổ chức Tỉnh
ủy về củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống chính trị cơ sở nơi có
đông đồng bào dân tộc, tôn giáo…
Các chủ trương của Tỉnh ủy được triển khai sâu rộng đến các tổ chức
cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên đã có tác động tích cực, góp phần nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.

Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ đảng viên có sự phát triển tiến bộ
theo từng năm, nếu như năm 2008 tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành
14


nhiệm vụ là 84,09% thì đến năm 2014 đã có 100% đảng viên đủ tư cách hoàn
thành nhiệm vụ (trong đó 16,48% đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ, 83,52% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ).
Các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là nền tảng của Đảng bộ tỉnh, là
loại hình tổ chức chiếm phần lớn tổ chức đảng và đảng viên của Đảng bộ tỉnh,
là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện và phát triển ĐNĐV ở nông thôn.
Các đảng bộ xã là hạt nhân chính trị ở xã, trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân
dân ở địa phương thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, nhất là đường lối phát triển nông nghiệp, xây dựng
nông thôn mới; có vai trò quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân, thế trận an ninh nhân dân, quốc phòng toàn dân, là cầu nối giữa Đảng với
nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân
để phản ánh với Đảng. Các đảng bộ xã cũng là nơi góp phần cung cấp cho
Đảng bộ tỉnh nguồn nhân lực mới để tăng cường số lượng và chất lượng cán
bộ, đảng viên, xây dựng Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng trong sạch, vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
* Đội ngũ đảng viên nữ ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng .
Sức mạnh của Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng được tạo thành từ chất lượng
đội ngũ đảng viên của Đảng bộ. Đội ngũ đảng viên của tỉnh Sóc Trăng phần
lớn được trải qua kháng chiến gian khổ, vượt qua thử thách, rèn luyện và
trưởng thành. Trong điều kiện hiện nay, đội ngũ đảng viên của đảng bộ tiếp
tục phấn đấu rèn luyện, học tập nâng cao trình độ chính trị, trình độ chuyên
môn, kiến thức về quản lý nhà nước, quản lý xã hội, vềkiến thức kinh tế thị
trường, đáp ứng đòi hỏi sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Tính đến năm 2014, dân số toàn tỉnh Sóc Trăng đạt gần 1.303.700

người, mật độ dân số đạt 394 người/km². Trong đó, dân số sống tại thành thị
đạt gần 339.300 người, dân số sống tại nông thôn đạt 964.400 người. Trong
khi dân số nam là 647.900 người thì dân số nữ đạt 655.800 người, như vậy
15


dân số nữ của tỉnh Sóc Trăng đang chiếm tỷ lệ cao hơn dân số nam, lực lượng
phụ nữ của Sóc Trăng là bộ phận đông đảo trong cơ cấu dân số của tỉnh. Với
truyền thống kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang của người phụ nữ
Việt Nam, phụ nữ Sóc Trăng đã đóng góp nhiều công sức vào sự nghiệp xây
dựng và phát triển của địa phương, trải qua quá trình rèn luyện, cống hiến
trong thực tiễn của hai cuộc kháng chiến và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc thời kỳ đổi mới, phụ nữ Sóc Trăng đã không ngừng lớn mạnh, nhiều chị
em đã được đứng trong hàng ngũ của Đảng, được giao các trọng trách quản
lý, lãnh đạo trong các cơ quan, chính quyền, đoàn thể của tỉnh. Đến nay số
đảng viên nữ trong toàn tỉnh là 9.958 đồng chí bằng 27,7% tổng số đảng viên
của đảng bộ tỉnh (35.836 đảng viên). Riêng đội ngũ đảng viên nữ ở các đảng
bộ xã là 4.718 đồng chí trên tổng số 18.960 đảng viên, chiếm 24,8%.
* Đặc điểm đảng viên nữ ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng
Đảng viên nữ ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng là lực
lượng có truyền thống anh dũng trong đấu tranh cách mạng, cần cù lao động
sản xuất. Lực lượng phụ nữ của tỉnh Sóc Trăng chiếm hơn 50% dân số của
tỉnh. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, phụ nữ Sóc Trăng
đã không ngại gian khổ, không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến đấu hi sinh,
cống hiến không chỉ cuộc đời mình mà cả con em cho độc lập, tự do của Tổ
quốc. Phụ nữ Sóc Trăng không chỉ chiến đấu anh hùng mà còn lao động cần
cù để vượt lên cảnh đói nghèo và lạc hậu, góp phần xây dựng quê hương ngày
càng giàu đẹp hơn. Đến nay, các tổ chức, đoàn thể quần chúng phụ nữ đều có
những mô hình hoạt động rất hiệu quả, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia vào
các câu lạc bộ như: phụ nữ chăn nuôi và sản xuất giỏi, khuyến nông, tiền hôn

nhân, phụ nữ với kiến thức pháp luật, gia đình hạnh phúc, tổ phụ nữ 5 không
3 sạch, tổ phụ nữ nuôi dạy con ngoan... Đây không chỉ là cơ hội thuận lợi để
chị em thi đua phấn đấu mà còn là điều kiện tốt giúp cơ sở đảng tháo gỡ khó
khăn trong công tác tạo nguồn phát triển đảng viên là nữ. Hiện nay, đảng viên
16


nữ ở địa bàn tỉnh Sóc Trăng được cơ cấu đều khắp các sở ban, ngành từ tỉnh
đến huyện, xã và địa bàn dân cư (kể cả ở khu công nghiệp của tỉnh và các xí
nghiệp trên địa bàn tỉnh). Đảng viên nữ ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng phần lớn là phụ nữ trực tiếp lao động, sản xuất nông nghiệp, là đồng
bào dân tộc và theo đạo nên còn nhiều ràng buộc về tập tục.
Sóc Trăng là một địa phương vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí nói
chung của nhân dân Sóc Trăng còn thấp so với cả nước. Tỷ lệ đồng bào dân
tộc và đồng bào theo đạo chiếm khá cao, trong đó một số dân tộc như đồng
bào Khơmer, đồng bào theo đạo Ky tô giáo hoặc Hồi giáo có nhiều quan niệm
khắc khe về quan hệ xã hội của người phụ nữ. Truyền thống văn hóa đã để lại
cho phụ nữ ở địa bàn tỉnh Sóc Trăng đến nay vẫn còn biểu hiện tự ti, an phận,
chưa có ý chí phấn đấu vươn lên; quan niệm “việc nhà là của phụ nữ” còn tồn
tại khá phổ biến trong đời sống xã hội của tỉnh Sóc Trăng, từ đó đẫn đến tình
trạng chị em phụ nữ ít nhận được sự chia sẻ của nam giới cũng như sự ủng hộ
của gia đình và người chồng khi tham gia công tác xã hội. Thực tế cho thấy,
chị em phụ nữ trên địa bàn Sóc Trăng phải chịu nhiều sức ép khi vừa phải
phấn đấu trong chuyên môn, vừa phải gánh vác hầu hết vai trò đảm đương nội
trợ, vì vậy, một bộ phận không nhỏ phụ nữ nảy sinh tư tưởng an phận, chấp
nhận hoàn cảnh và không muốn tham gia phấn đấu trở thành đảng viên hoặc
đảm nhận các vị trí công tác xã hội.
Đảng viên nữ ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng còn những
hạn chế bất cập về trình độ văn hóa. Do hoàn cảnh lịch sử để lại, mặt bằng
văn hóa của chị em phụ nữ ở tỉnh Sóc Trăng nhìn chung còn thấp so với nam

giới. Mặt khác, do điều kiện đời sống văn hóa còn hạn chế mà nhiều chị em
chưa được tiếp cận với văn minh công nghiệp, khả năng khai thác, sử dụng
các phương tiện thông tin hiện đại phục vụ cho đời sống, sinh hoạt và nâng
cao dân trí còn nhiều hạn chế.

17


Những đặc điểm của đội ngũ đảng viên nữ ở các đảng bộ xã trên địa
bàn tỉnh Sóc Trăng phản ảnh những đặc thù của lực lượng phụ nữ ở tỉnh Sóc
Trăng, những đặc điểm trên đây đặt ra những yêu cầu đối với cấp ủy, chính
quyền các cấp của tỉnh Sóc Trăng trong quá trình quản lý, rèn luyện, sử dụng
đảng viên nữ ở các đảng bộ xã trên địa bàn Tỉnh phải có quan điểm, chủ
trương và nội dung, biện pháp phù hợp, khả thi, bảo đảm cho đội ngũ đảng
viên nữ ở các đảng bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng có điều kiện phấn đấu,
rèn luyện và cống hiến và trưởng thành, thể hiện rõ được chính sách, sự linh
hoạt, phù hợp của cơ sở, hiện thực hóa chủ trương bình đẳng giới của Đảng
và Nhà nước ta.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về công tác phát triển đảng viên nữ của
các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng
* Quan niệm công tác phát triển đảng viên nữ của các đảng bộ xã ở
tỉnh Sóc Trăng:
Trong hoạt động thực tiễn, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
đã khẳng định sức mạnh, chỉ rõ cốt lõi của việc tạo dựng tổ chức chính là
công tác PTĐV và xây dựng ĐNĐV.
C.Mác và Ph.Ăngghen là người đặt nền móng, nêu lên những tư tưởng
cơ bản về chính đảng của giai cấp công nhân, trong đó đã rất quan tâm đến
CTPTĐV và xây dựng ĐNĐV của Đảng. Bảo vệ, kế thừa và phát triển sáng
tạo những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I Lê nin người xây dựng
Học thuyết về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, cho rằng: “chúng ta cần

có những đảng viên mới không phải là để quảng cáo mà là để làm việc thật
sự. Những người đó chúng ta kêu gọi vào hàng ngũ của chúng ta. Đảng ta mở
rộng cửa để đón những người lao động”. Đồng thời, người cũng khẳng định
“phải tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục, giác ngộ quần chúng,
tăng cường CTPTĐV, thực hiện nhiều biện pháp nhằm nâng cao vai trò của tổ
chức cơ sở đảng, không ngừng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở cơ
18


sở thì những mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng thời kỳ thực hiện chính sách
kinh tế mới của nhà nước Xô viết mới giành được thắng lợi”.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lê nin về XDĐ, đặc
biệt khi bàn về CTPTĐV, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng “cũng ở trong xã
hội”, Đảng là một cơ thể sống, tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan,
có hấp thu, có đào thải. Đảng phải có một số lượng đảng viên nhất định mới
hình thành nên tổ chức đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng là sự nghiệp vĩ
đại, lâu dài phải do nhiều thế hệ chiến sỹ cộng sản tham gia gánh vác. Đảng
phải liên hệ mật thiết với quần chúng, phải không ngừng nâng cao chất lượng
lãnh đạo, sức chiến đấu tương xứng với đòi hỏi khách quan của tình hình
nhiệm vụ. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu chỉ có thể trên cơ sở số lượng,
chất lượng ĐNĐV tương ứng. Do đó, Đảng phải thường xuyên làm tốt
CTPTĐV. Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích “Nếu Đảng ta không biết chọn
lọc, kết nạp, đề bạt đồng chí mới thì đâu có như ngày hôm nay” [34, tr.467].
Người vạch rõ tính tất yếu, yêu cầu phương châm, phương pháp của
CTPTĐV: “Để làm tròn nhiệm vụ rất nặng nề nhưng rất vẻ vang... Đảng phải
phát triển tổ chức của mình một cách thận trọng, vững chãi và rộng rãi trong
quần chúng” [31, tr.20,21].
Tư tưởng xuyên suốt trong quan điểm của Hồ Chí Minh về PTĐV là coi
trọng chất lượng cùng với việc xác định đúng tiêu chuẩn đảng viên, có
phương hướng lựa chọn và có những quy định chặt chẽ về điều kiện, thủ tục

kết nạp quần chúng vào Đảng, Người dạy rằng: Đảng mạnh không chỉ do số
lượng đảng viên quyết định, số lượng đảng viên chỉ trở thành sức mạnh khi nó
đạt được những yêu cầu về chất lượng, sức mạnh của Đảng không chỉ phụ
thuộc vào số lượng, thành phần giai cấp của đảng viên mà chính là ở chất
lượng đảng viên. Theo Người, nếu không quán triệt và thực hiện đúng đắn
vấn đề có tính nguyên tắc đó thì dù có kết nạp được nhiều đảng viên, dù số
lượng đảng viên tăng vẫn không làm cho tổ chức đảng mạnh lên mà ngược lại
19


có khi còn làm cho tổ chức đảng lỏng lẻo, biến thành câu lạc bộ không làm
tròn vai trò người lãnh đạo. Người luôn nhắc nhở: "Đảng không phải chỉ cần
con số cho nhiều, tuy nhiều là tốt, nhưng phải có cái chất của người đảng
viên” [31, tr.222].
Công tác PTĐV bao giờ cũng phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của
cách mạng trong từng giai đoạn, từ yêu cầu nhiệm vụ của từng tổ chức, từng
đối tượng cụ thể. Phụ nữ là một đối tượng đặc thù, là lực lượng đông đảo và
có vai trò quan trọng trong xã hội. Trong quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm
vụ cách mạng, Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến xây dựng
đội ngũ cán bộ nữ, coi thực hiện bình đẳng nam, nữ là thể hiện bản chất ưu
việt của chế độ xã hội XHCN. Ngay từ năm 1946, trong Hiến pháp đầu tiên
của chế độ mới, mục tiêu bình đẳng giới đã được ghi nhận. Tiếp đó, trong các
lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, việc bảo đảm bình đẳng giới đều được quy
định rõ ràng. Hiến pháp năm 2013 quy định “công dân nam, nữ bình đẳng về
mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới”
và “nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Khoản 1 và Khoản 3, Điều 26).
Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện nhiều bước đột phá về nhận thức và
hành động, từ khía cạnh luật pháp, chính sách đến thực tiễn và đạt được nhiều
thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Việt Nam được đánh giá là một trong
những quốc gia xóa bỏ khoảng cách giới nhanh nhất trong vòng 20 năm qua.

Quan tâm bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ nói chung, xây dựng và phát triển đội
ngũ đảng viên nữ nói riêng luôn là một trong những vấn đề được ưu tiên của
lãnh đạo, chính quyền các cấp. Đội ngũ đảng viên nữ trên toàn quốc nói
chung, ở tỉnh Sóc Trăng nói riêng ngày càng phát triển, chất lượng được nâng
lên, đội ngũ đảng viên nữ trên các lĩnh vực công tác ngày càng khẳng định
được vai trò, khả năng trong các hoạt động.
Từ những luận giải trên có thể quan niệm: Công tác phát triển đảng viên
nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là hoạt động có mục đích, có kế
20


hoạch, do các cấp ủy, chi bộ tiến hành bao gồm các hoạt động tuyên truyền,
giáo dục,rèn luyện, phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng, giao nhiệm vụ thử thách
và xem xét kết nạp những quần chúng nữ ưu tú vào Đảng nhằm xây dựng
ĐNĐV nữ có số lượng và cơ cấu hợp lý, chất lượng ngày càng cao, góp phần
xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh về mọi mặt, nâng cao năng lực lãnh
đạo sức chiến đấu cho toàn Đảng bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới.
Quan niệm đã chỉ rõ:
Mục đích của CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là kết
nạp những quần chúng nữ ưu tú vào Đảng để bổ sung số lượng đảng viên trẻ,
tăng tỷ lệ lãnh đạo nữ cho các chi bộ, đảng bộ, góp phần xây dựng các tổ chức
đảng TSVM, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nữ có chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương trong tình hình mới.
Chủ thể lãnh đạo CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là hệ
thống các cấp ủy, tổ chức đảng từ Thường vụ Tỉnh uỷ, đến các đảng ủy, chi
ủy, chi bộ cơ sở trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Chủ thể quản lý, tổ chức thực
hiện CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là các cấp ủy, tổ chức
đảng cơ sở từ đảng bộ xã đến các chi bộ khóm, ấp… có trách nhiệm bàn bạc,
quyết định các vấn đề theo phạm vi, chức năng, nội dung quy định cho từng

cấp dựa trên cơ sở Điều lệ Đảng và các chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của
Đảng về CTPTĐV.
Đối tượng CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là lực
lượng quần chúng nữ ưu tú ở các xã trên địa bàn tỉnh.
Nội dung quy trình phát triển đảng viên nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh
Sóc Trăng bao gồm:
Bước 1: Phát hiện, lựa chọn nguồn. Cấp ủy, chi bộ quán triệt và ra nghị
quyết lãnh đạo về CTPTĐV và phổ biến cho quần chúng. Thông qua phong

21


trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân, các cấp ủy đảng, các tổ
chức quần chúng tìm hiểu, lựa chọn những quần chúng ưu tú, có lịch sử chính
trị rõ ràng, đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong đấu tranh, có sự liên lạc
mật thiết với quần chúng, tin tưởng vào Đảng và có nguyện vọng trở thành
đảng viên để phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng để đưa vào nguồn
PTĐ. Việc đưa người vào nguồn PTĐ do tổ chức đảng có thẩm quyền quyết
định dựa trên cơ sở phát hiện giới thiệu của đảng viên, tổ chức đảng và các tổ
chức quần chúng, phải tuân thủ các tiêu chuẩn quy định và thể hiện được chủ
trương quan tâm bình đẳng giới của Đảng và Nhà nước.
Bước 2: Tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, rèn luyện, thử thách nguồn
PTĐ. Đây là quá trình nâng cao giác ngộ về Đảng, về mục tiêu lý tưởng của
Đảng và hình thành, phát triển những phẩm chất nhân cách cộng sản cho lực
lượng nguồn PTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng. Nội dung bồi
dưỡng, tuyên truyền, giáo dục rèn luyện phải toàn diện, cả phẩm chất và năng
lực, chính trị, đạo đức và phương pháp, tác phong cũng như trình độ chuyên
môn; trong đó lấy đức làm gốc. Phương pháp giáo dục, rèn luyện nguồn
PTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là gắn giáo dục của tổ chức
với phát huy tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện của đội ngũ nguồn PTĐ

theo tiêu chuẩn đảng viên; coi trọng giáo dục, rèn luyện qua quá trình học tập,
lao động, sản xuất, các hoạt động phong trào tại địa phương; đặc biệt chú ý
giáo dục qua việc nêu gương, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình. Quá trình
giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ nguồn PTĐ phải nhằm mục đích nâng
cao trình độ nhận thức, hình thành niềm tin, xây dựng tinh thần trách nhiệm
để mỗi cá nhân tự nguyện phấn đấu trở thành đảng viên.
Bước 3: Xét kết nạp quần chúng đủ điều kiện, tiêu chuẩn vào Đảng theo
đúng thủ tục mà Điều lệ Đảng đã quy định. Khi xét thấy quần chúng nữ đã
tiến bộ trưởng thành, hoàn thành tốt cương vị chức trách và các nhiệm vụ mà
đoàn thể giao cho; có nhận thức đúng đắn về mục tiêu, lý tưởng của Đảng; có
22


phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, phương pháp tác phong của người
đảng viên của Đảng; có nguyện vọng muốn được đứng vào trong hàng ngũ
của Đảng để hi sinh phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng thì tiến hành
các bước xét và kết nạp quần chúng nữ vào Đảng. Quá trình xét và kết nạp
phải thực hiện nghiên túc theo đúng qui định của Điều lệ Đảng và hướng dẫn
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Tổ chức Trung ương về công tác phát
triển đảng viên.
Bước 4: Bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên dự bị và xét công nhận đảng
viên dự bị thành đảng viên chính thức. Kết nạp quần chúng nữ vào Đảng chưa
phải đã kết thúc quy trình của công tác PTĐV, trái lại phải tiếp tục giáo dục,
bồi dưỡng, giao nhiệm vụ thử thách và theo dõi, tạo điều kiện giúp đỡ để quần
chúng tiếp tục phấn đấu trở thành đảng viên chính thức. Khi hết thời gian dự
bị, nếu đảng viên dự bị có đủ tiêu chí để công nhận đảng viên chính thức thì
chi ủy, chi bộ tiến hành thủ tục xem xét chuyển đảng viên chính thức. Đồng
thời, đây cũng chính là bắt đầu quá trình rèn luyện, sàng lọc đảng viên, nếu
trong thời gian dự bị đảng viên không chịu tu dưỡng, phấn đấu rèn luyện bản
thân, không hoàn thành nhiệm vụ được giao hoặc vi phạm tư cách đảng viên

thì căn cứ theo qui định của Đảng và tùy theo mức độ vi phạm để xem xét xử
lý nghiêm minh, nếu đến mức phải xóa tên trong danh sách đảng viên thì kiên
quyết xóa tên đảng viên dự bị.
Các nội dung trên được tiến hành thường xuyên, liên tục, mỗi nội dung
có vị trí vai trò nhất định, song giữa chúng có quan hệ biện chứng tác động
ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động ảnh hưởng đến chất lượng hiệu quả
CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức
đảng các cấp của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng phải chú ý thực hiện đầy
đủ, có chất lượng các khâu các bước thì CTPTĐV mới giữ đúng định hướng
và có hiệu quả thiết thực.

23


Hình thức, biện pháp tiến hành CTPTĐV, để thực hiện nội dung đã xác
định, cần triển khai nhiều hình thức biện pháp thông qua hoạt động của cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp, các tổ chức, các lực lượng như: quán triệt quan
điểm, chủ trương, phương hướng, mục tiêu, nguyên tắc và phương châm
CTPTĐV của Đảng; tiến hành rà soát đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ
đảng viên nữ và nguồn kết nạp đảng viên nữ trong toàn Đảng bộ và từng chi
bộ; bám sát thực tiễn, phong trào cách mạng ở địa phương; kịp thời phát hiện
quần chúng nữ ưu tú lựa chọn đưa vào nguồn cảm tình đảng; chủ động xây
dựng kế hoạch của từng chi bộ, từng thời gian; tổ chức các lớp cảm tình đảng
để bồi dưỡng nhận thức về Đảng; quản lý, giáo dục, rèn luyện, giao nhiệm vụ
thử thách nguồn kết nạp đảng viên nữ thông qua các hoạt động thực tiễn ở địa
phương; tổ chức lễ kết nạp đảng viên; phân công đảng viên theo dõi kèm cặp
giúp đỡ quần chúng nữ phấn đấu, rèn luyện; kết hợp chặt chẽ tuyên truyền
giáo dục bồi dưỡng giúp đỡ của đảng viên, tổ chức đảng với quá trình tự tu
dưỡng rèn luyện phấn đấu của quần chúng nữ, đảng viên nữ.
Lực lượng tham gia CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng

bao gồm cán bộ, đảng viên các cấp; trực tiếp là cán bộ, đảng viên ở các đảng
bộ xã trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Phương châm CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng: tích
cực, thận trọng, coi trọng chất lượng không chạy theo số lượng đơn thuần,
phát triển Đảng phải đi đôi với củng cố Đảng. Để thực hiện đúng tinh thần:
chú trọng và tăng cường công tác phát triển Đảng, việc kết nạp đảng viên phải
coi trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng của
Đảng, đạo đức, lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.
Phương châm CTPTĐ nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng hiện nay
là: giải quyết đúng mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng, trong đó chất
lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu. Trong bất kể hoàn cảnh nào, việc PTĐV
nữ cũng phải đảm bảo chất lượng ngay từ đầu, người được kết nạp Đảng phải
24


có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Điều lệ Đảng. Phát triển Đảng luôn đi đôi
với củng cố Đảng, đề phòng cơ hội, xét lại, phần tử xấu tìm cách chui vào
Đảng. Củng cố tổ chức cơ sở đảng TSVM là cơ sở để nâng cao chất lượng
công tác PTĐ. Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên,
chú trọng bồi dưỡng đảng viên dự bị, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những
người không đủ tư cách để làm trong sạch Đảng.
* Vai trò công tác phát triển đảng viên nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh
Sóc Trăng:
Thứ nhất, CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng góp phần
tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ
xã, xây dựng tổ chức đảng TSVM, xây dựng địa phương vững mạnh toàn diện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là
do đảng viên tốt. CTPTĐV góp phần xây dựng cho Đảng đội ngũ đảng viên
mạnh. Vì vậy, phát triển đảng viên nữ là một nội dung quan trọng trong xây
dựng ĐNĐV, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng của các đảng

bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng, góp phần xây dựng đội ngũ những người lãnh đạo,
lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo ở địa phương. Trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội của tỉnh Sóc Trăng, phụ nữ đã tích cực tham gia
và có đóng góp quan trọng vào các phong trào: “giỏi việc nước, đảm việc
nhà”, “đền ơn đáp nghĩa”, “xóa đói, giảm nghèo”, phụ nữ giúp nhau phát triển
kinh tế gia đình, cần kiệm xây dựng đất nước; phong trào nuôi con khỏe, dạy
con ngoan, vì an ninh Tổ quốc. Lực lượng phụ nữ đã thực sự xứng đáng với
lời ngợi khen, đánh giá của Hồ Chí Minh và Đảng ta: “Non sông gấm vóc
Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực
rỡ”... ''Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng"...
"Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và
cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời bảo
vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại. Kết nạp những phụ nữ ưu tú vào
25


Đảng không chỉ tăng cường cho Đảng những đảng viên nữ ưu tú, phát triển
đội ngũ của Đảng ngày càng hùng hậu, mà với đặc thù và thiên chức của phụ
nữ, những đảng viên nữ sẽ góp phần đưa đường lối của Đảng đến với một lực
lượng đông đảo trong xã hội, vận động họ trở thành quần chúng tích cực thực
hiện thắng lợi mọi chủ trương mà Đảng đề ra.
Thứ hai, CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là một mặt
hoạt động công tác xây dựng Đảng, thực hiện chủ trương giải phóng phụ nữ,
bình đẳng giới trong chế độ XHCN.
Công tác phát triển Đảng nói chung, phát triển đảng viên nữ nói riêng
gắn liền với hoạt động xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên địa bàn tỉnh Sóc
Trăng, luôn được tiến hành thường xuyên, liên tục, góp phần thực hiện thắng
lợi mục tiêu xây dựng Đảng bộ TSVM, lãnh đạo nhân dân hoàn thành các
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong xây dựng chủ nghĩa

xã hội, giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu
của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển
của đất nước. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ không chỉ dừng lại ở quan điểm,
tư tưởng mà quan trọng hơn là Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chủ
trương, chính sách với những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể, tạo điều kiện để
phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào mọi mặt của đời sống xã hội. Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng ta khẳng định: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời
sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các
luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện
tốt vai trò của mình; tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào cấp ủy và bộ máy quản lý
nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hành vi bạo
lực, buôn bán, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ” [17, 243].
Thực hiện tốt CTPTĐV nữ không chỉ góp phần nâng cao chất lượng,
năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng ở địa phương mà còn trực tiếp tạo điều
26


kiện để phụ nữ thực hiện vai trò của mình là công dân, người lao động, người
mẹ, người thầy dạy đầu tiên của con người; đảm bảocho phụ nữ tham gia
ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở
các cấp, từ đó phụ nữ được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe tốt hơn.
Thứ ba, CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng góp phần
quan trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nữ cho các cơ quan, đơn vị
trên địa bàn. Thực hiện quan điểm, chủ trương bình đẳng giới trong công tác
cán bộ của Đảng, trước yêu cầu đòi hỏi khách quan của công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, nhất là việc thực hiện tốt quyền con người mà Hiến pháp
năm 2013 đã qui định, việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ nữ đang đặt ra
là vấn đề cấp thiết cho các cấp, các ngành. Thực tiễn hiện nay đội ngũ cán bộ
nữ trong các cơ quan, đơn vị vừa thiếu, vừa yếu, vì vậy làm tốt CTPTĐV nữ
sẽ thiết thực góp phần bổ sung số lượng đảng viên trẻ về tuổi đời, có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ và trí tuệ cao, có phẩm chất đạo đức tốt, góp phần
quan trọng bổ sung nguồn cán bộ lãnh đạo nữ cho các tổ chức đảng cấp xã
trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, hiện thực hoá quan điểm, chủ trương của Đảng
về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong giai đoạn hiện nay.
* Những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác phát triển đảng viên
nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng.
Thứ nhất, thường xuyên quán triệt phương châm, phương hướng,
nguyên tắc, thủ tục tiến hành CTPTĐV của Đảng.
Công tác PTĐV nữ của các đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng là một bộ phận
không thể tách rời công tác PTĐV của Đảng nên việc quán triệt phương
châm, phương hướng, nguyên tắc, thủ tục PTĐV của Đảng là tất yếu trong
toàn bộ CTPTĐV nữ của các Đảng bộ xã ở tỉnh Sóc Trăng. Chỉ như vậy mới
đảm bảo cho công tác này giữ đúng định hướng chính trị và đem lại hiệu quả
thiết thực. Quán triệt thực hiện vấn đề có tính nguyên tắc này, đòi hỏi các chủ
thể, lực lượng tiến hành CTPTĐV nữ của các đảng bộ xã tỉnh Sóc Trăng phải
27


×