Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NĂNG lực LÃNH đạo, sức CHIẾN đấu của các CHI bộ ấp ở HUYỆN VĨNH LỢI TỈNH BẠC LIÊU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (432.91 KB, 135 trang )

3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao NLLĐ,SCĐ là quy luật tất yếu trong suốt quá trình tồn tại,
trưởng thành, phát triển của Đảng ta, là một nội dung trọng tâm, then chốt
trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất
nước, Đảng ta luôn nhất quán khẳng định lấy đổi mới, “Phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Bởi vậy, yêu
cầu đặt ra phải tiếp tục nâng cao NLLĐ, SCĐ bảo đảm cho toàn Đảng và
từng tổ chức đảng thực sự TSVM đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ thời
kỳ mới.
Chi bộ nói chung, chi bộ ấp nói riêng là tế bào của Đảng, lập thành nền
tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, có vị trí, vai trò hết sức quan
trọng cấu thành hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng; nơi trực tiếp tuyên
truyền, phổ biến, quán triệt và lãnh đạo quần chúng, Nhân dân, tổ chức thực
hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
Ý thức sâu sắc được vị trí, vai trò, tầm quan trọng của chi bộ, Đảng ta đã
đặc biệt quan tâm đến việc củng cố, xây dựng và không ngừng nâng cao
NLLĐ, SCĐ của các TCCSĐ nói chung và chi bộ nói riêng; nhất là từ khi
thực hiện Nghị quyết TW 3 (khóa VII) về “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh
đốn Đảng”, Nghị quyết TW 6 lần 2 ( khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và
cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết TW 6 (khoá
X) về “Nâng cao NLLĐ,SCĐ của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ
cán bộ, đảng viên", đặc biệt là Nghị quyết TW 4 (khóa XI) “Một số vấn đề
cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Với nhiều chủ trương, giải pháp đúng
đắn, đồng bộ được triển khai, nên chất lượng của các TCCSĐ nói chung và
chi bộ nói riêng đã được nâng lên một bước, số lượng chi bộ TSVM ngày
càng tăng, số chi bộ yếu kém giảm dần, NLLĐ,SCĐ của chi bộ từng bước
được nâng lên, nhiều chi bộ đã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ góp phần




4

quan trọng tạo nên những thành tựu trong công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước; đặc biệt trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Trong xu thế chung của toàn Đảng, những năm gần đây, đặc biệt là từ
khi điều chỉnh địa giới hành chính và chính thức đi vào hoạt động từ tháng
10/2005, Đảng bộ huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu đã rất quan tâm chú trọng tới
công tác xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao NLLĐ,SCĐ của các chi bộ ấp, đã tạo
được nhiều chuyển biến tích cực; số chi bộ ấp đạt TSVM ngày càng tăng,
NLLĐ,SCĐ của chi bộ ấp được nâng lên, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ chính trị, nhất là nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH nông
nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên, vẫn còn không ít chi bộ ấp NLLĐ, SCĐ chưa
ngang tầm với nhiệm vụ thời kỳ mới. Tình trạng mất đoàn kết nội bộ, kèn
cựa, thiếu hợp tác trong cấp ủy vẫn xảy ra; TPB và PB chưa được duy trì
thường xuyên; nguyên tắc TTDC chưa được thực hiện nghiêm túc; một số
đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống. Nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm
Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước chưa được phát hiện và xử lý kịp thời hoặc
phát hiện xử lý chưa triệt để; tình trạng phô trương hình thức vẫn còn khá phổ
biến, nhiều chi bộ ấp tuy đạt TSVM nhưng chất lượng lãnh đạo còn yếu.
Vì vậy, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề
xuất những giải pháp thiết thực, khả thi nâng cao NLLĐ,SCĐ của chi bộ ấp ở
huyện Vĩnh Lợi thực sự là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết đặt ra cả trên
phương diện lý luận và thực tiễn. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài
“Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở huyện
Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu hiện nay” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây
dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến công tác xây dựng

và chỉnh đốn Đảng, đồng thời đã ban hành rất nhiều nghị quyết chỉ đạo công
tác này, đặc biệt là Nghị quyết TW4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”. Hiện nay, cũng đã có nhiều công trình khoa học


5

tập trung nghiên cứu vấn đề NLLĐ, SCĐ và nâng cao NLLĐ, SCĐ của Đảng
và các tổ chức đảng. Tiêu biểu như:
Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng và những yêu cầu xây dựng Tổ
chức cơ sở đảng ở nông thôn một số tỉnh miền núi, vùng cao phía Bắc nước
ta hiện nay”, do tác giả Nguyễn Minh Bích làm chủ nhiệm, Hà Nội, tháng 10
năm 1998. Đề tài tập trung phân tích thực trạng TCCSĐ và đề xuất một số
giải pháp củng cố và kiện toàn các TCCSĐ ở vùng núi, cao phía Bắc Tổ quốc.
Đề tài luận án tiến sĩ "Chất lượng các đảng bộ vùng trung du Bắc Bộ
hiện nay", của tác giả Dương Trung Ý (2008). Tác giả tập trung phân tích,
đánh giá thực trạng và nguyên nhân chất lượng các đảng bộ vùng trung du
Bắc Bộ, đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đảng viên, đổi mới
phương thức lãnh đạo và xác định đúng nhiệm vụ chính trị của các đảng bộ
vùng trung du Bắc Bộ.
Đề tài luận án phó tiến sĩ “Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng nông
thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng” của tác giả Đỗ Ngọc Ninh
(1995). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân chất
lượng tổ chức cơ sở đảng nông thôn (cấp xã) vùng đồng bằng sông Hồng; đề
xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng TCCSĐ nông thôn: nâng
cao chất lượng đảng viên, đổi mới phương thức lãnh đạo và xác định đúng
nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
Đề tài luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử chuyên ngành xây dựng Đảng
“Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng trong các trường sĩ quan quân đội
đáp ứng yêu cầu bậc đào tạo đại học” của tác giả Nguyễn Trọng Hân (2000).

Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng về chất lượng của các tổ chức cơ sở
đảng trong các trường sĩ quan quân đội, từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao
chất lượng tổ chức cơ sở đảng để đáp ứng yêu cầu tào tạo bậc đại học.
Đề tài luận văn thạc sĩ ngành xây dựng Đảng “Nâng cao chất lượng sinh
hoạt các chi bộ khối nghiên cứu, giảng dạy ở học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh” của tác giả Cao Duy Tiến (2001). Đề tài đã tập trung phân tích
thực trạng chất lượng sinh hoạt chi bộ, từ đó đề xuất hệ giải pháp nâng cao


6

chất lượng sinh hoạt chi bộ của khối nghiên cứu giảng dạy ở Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Đề tài luận án Phó tiến sĩ “Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các
tổ chức cơ sở đảng phường và xã ven đô trong công cuộc đổi mới hiện nay”
của tác giả Đặng Đình Phú (1996). Tác giả đã phân tích những cơ sở khoa học
của quan niệm mới về chất lượng đảng viên. Thực trạng chất lượng đội ngũ
đảng viên trong tổ chức cơ sở đảng. Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng phường và xã ven đô trong
tình hình hiện nay.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng nông thôn vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định
trong giai đoạn hiện nay- Thực trạng và giải pháp” của tác giả Bùi Hữu
Dược( 2003). Đề tài đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên nhân, rút ra bài
học kinh nghiệm, xây dựng tiêu chí đánh giá và đề xuất hệ giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn
vùng có đông đồng bào công giáo ở tỉnh Nam Định.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi
bộ ấp ở huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay-Thực trạng và
giải pháp” của tác giả Huỳnh Ngọc Thành (2005). Tác giả đã tập trung phân

tích thực trạng, nguyên nhân và đề xuất hệ giải pháp nâng cao NLLĐ và SCĐ
của các chi bộ ấp ở huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đề tài luận văn thạc sĩ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay” của tác giả
Phùng Đức Thái (2000). Đề tài đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên
nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá và đề xuất hệ
giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An hiện nay” của tác giả
Nguyễn Văn Dũng (2000). Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên


7

nhân và đề xuất hệ giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng nông thôn tỉnh Long An.
Đề tài luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Ái (2001) “Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng nông thôn vùng cao
phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Tác giả đã tập trung làm những rõ cơ sở lý luận và thực trạng NLLĐ và SCĐ; đề
xuất hệ giải pháp cơ bản nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở nông thôn vùng
cao phía Bắc.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các chi bộ phân đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng Phòng
không- Không quân trong giai đọan hiện nay” của tác giả Nguyễn Học
(2001). Tác giả đã tập trung phân tích thực trạng, nguyên nhân và đề xuất hệ
giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ phân
đội chiến đấu phòng không thuộc quân chủng Phòng không - Không quân.
Đề tài luận văn thạc sĩ “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang trong giai đọan hiện
nay” của tác giả Dương Trung Ý (2002). Tác giả tập trung phân tích, đánh giá
thực trạng và nguyên nhân, đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
NLLĐ và SCĐ của các đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng tải trên các sách báo, tạp chí
như: “Nâng cao NLLĐ,SCĐ của tổ chức cơ sở đảng Bộ đội biên phòng ” của
tác giả Đặng Vũ Liêm, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 1/1999. Tác giả đã trình
bày những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, thực trạng
các TCCSĐ Bộ đội biên phòng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao
NLLĐ,SCĐ của TCCSĐ Bộ đội biên phòng.
“ Tăng cường sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở
đảng - Một nhiệm vụ quan trọng của cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
Đảng-tổ chức cơ sở đảng” của tác giả Vũ Ngọc Lâm đăng trên Tạp chí Cộng
sản số 15/1999. Tác giả đã trình bày quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết TW6
lần 2 (khóa VIII), phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp tăng cường


8

sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, nhằm góp
phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết TW6 lần 2 ( khóa VIII).
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng gắn với bảo vệ
an ninh chính trị trong thời kỳ mới” của tác giả Nguyễn Đình Ban, đăng trên
Tạp chí Lịch sử Đảng, 2001, số 9. Trên cơ sở phân tích thực trạng, tác giả đã
đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng gắn với bảo vệ an ninh chính trị trong thời kỳ mới.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở” của tác giả Trần Đình
Hoan, đăng trên Tạp chí xây dựng Đảng, số 6, 2004. Tác giả đã luận giải vai
trò của tổ chức cơ sở đảng trong hệ thống chính trị ở cơ sở, nêu lên thực trạng

những ưu điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ
chức cơ sở đảng, đề xuất các giải pháp nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức
cơ sở đảng gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở.
“Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên ở Học viện Chính trị quân sự” của Tiến sĩ Nguyễn
Tiến Quốc, đăng trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 10, 2008. Tác giả đã
trình bày các nội dung và giải pháp nâng cao NLLĐ,SCĐ của TCCSĐ và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Học viện Chính trị quân sự.
“Nâng cao NLLĐ,SCĐ của Đảng bộ Quân đội trong tình hình mới” của
Đại tướng Lê Văn Dũng, Bí thư TW Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị
(Tạp chí Quốc phòng toàn dân số 2, 2009). Tác giả đã đề xuất một số trọng
tâm: tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ
trương, giải pháp của Hội nghị TW 9 (khoá X); Tiếp tục đổi mới toàn diện
công tác cán bộ; Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đối với công
tác kiểm tra, giám sát, công tác giáo dục, quản lý, rèn luyện cán bộ, đảng viên.
“Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng” của tác giả Vũ Văn Phúc (2011), đăng trên Tạp chí Cộng sản
(chuyên đề cơ sở số 55). Từ cơ sở lý luận cũng như phân tích thực trạng của


9

năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, tác giả đã đề xuất
các giải pháp tiếp tục nâng cao NLLĐ,SCĐ của tổ chức cơ sở đảng.
“Nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở đảng” của tác giả Bùi Quang
Cường (2012), đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả đã
nêu, phân tích thực trạng của NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở đảng, từ đó đưa
ra các giải pháp để tiếp tục nâng cao NLLĐ, SCĐ của tổ chức cơ sở đảng.
“Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng” của tác giả Lê Quốc
Lý (2013), đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị (số 11). Tác giả đã phản ánh

thực trạng về sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, trên cơ sở đó đề xuất một
số giải pháp để góp phần nâng cao sức chiến đấu của TCCSĐ hiện nay.
Về sách tham khảo gồm có: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng trong thời kỳ mới” GS,TS Nguyễn Phú Trọng, PGS,TS Tô Huy
Rứa và PGS,TS Trần Khắc Việt đồng chủ biên-Nxb CTQG-Hà Nội-2004;
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các Đảng bộ phường
ở thủ đô Hà Nội hiện nay” của tập thể tác giả, PGS,TS Đỗ Ngọc Ninh chủ
biên, Nxb CTQG, Hà Nội- năm 2004 v.v…
Các công trình nghiên cứu trên đã góp phần làm sáng tỏ cả về lý luận và
thực tiễn về TCCSĐ. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
việc nâng cao NLLĐ, SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu; vì
vậy “Nâng cao NLLĐ,SCĐ của các chi bộ ấp ở hyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu
hiện nay” là đề tài độc lập, không trùng lặp với hướng nghiên cứu của các
công trình, đề tài, luận văn, luận án đã nghiệm thu, công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn, trên cơ sở đó đề
xuất giải pháp chủ yếu nâng cao NLLĐ,SCĐ của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh
Lợi tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về NLLĐ, SCĐ và nâng cao NLLĐ,
SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu.


10

Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở huyện
Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu.
Xác định yêu cầu, đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao NLLĐ,SCĐ

của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ ấp
ở huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động nâng cao NLLĐ,SCĐ của các
chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu hiện nay. Các tư liệu, số liệu điều
tra, khảo sát tập trung trên địa bàn các ấp ở huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu;
thời gian giới hạn từ năm 2005 đến 2013.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu đề tài
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng; các chủ trương, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; các chỉ thị,
nghị quyết, hướng dẫn của BCHTW, BCT về xây dựng chi bộ, tổ chức cơ sở
đảng và nâng cao NLLĐ,SCĐ của chi bộ, TCCSĐ.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn xây dựng chi bộ ấp và nâng cao NLLĐ,SCĐ của chi bộ ấp ở
huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu; các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, các
công trình nghiên cứu liên quan đã công bố; các tư liệu, số liệu điều tra, khảo
sát thực tế về NLLĐ,SCĐ và hoạt động nâng cao NLLĐ,SCĐ của chi bộ ấp ở
huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu thời gian qua.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và


11


liên ngành; trong đó đặc biệt coi trọng các phương pháp: phân tích; tổng hợp;
logic, lịch sử; điều tra xã hội học; thống kê; so sánh; tổng kết thực tiễn và
phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận,
thực tiễn giúp cho các cấp ủy, chi bộ vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo nâng
cao NLLĐ,SCĐ của chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi nói riêng và tỉnh Bạc Liêu
nói chung trong thời gian tới.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy,
học tập môn xây dựng Đảng ở trường chính trị tỉnh Bạc Liêu, các học viện,
nhà trường trong và ngoài quân đội; làm tài liệu bồi dưỡng cho các cấp ủy,
nhất là những chi ủy viên và đảng viên của chi bộ ấp.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết) kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


12

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO, SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC
CHI BỘ ẤP Ở HUYỆN VĨNH LỢI TỈNH BẠC LIÊU
1.1. Các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi và một số vấn đề cơ bản về nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Huyện Vĩnh Lợi và các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
* Khái quát về huyện Vĩnh Lợi
Vĩnh Lợi là huyện cửa ngõ của tỉnh Bạc Liêu, có tổng diện tích tự nhiên
là 24.942 ha, phía Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, phía Đông và Nam giáp Thành

phố Bạc Liêu, phía Tây giáp huyện Hòa Bình, dân số 95.479 người (dân tộc
Kinh chiếm 90,69%, dân tộc Khmer 9,05%, dân tộc Hoa 0,225%, dân tộc
khác 0,032%). Huyện có tổng số 7 xã và 01 thị trấn với tổng số 77 ấp, quy mô
mỗi ấp trung bình có khoảng 200 đến 300 hộ, với 1.000 đến 1.500 dân.
Về kinh tế: thế mạnh kinh tế của huyện là nông nghiệp, với đặc điểm tự
nhiên chia làm 2 vùng sinh thái khác nhau (vùng Nam Quốc lộ I là vùng nước
ngọt chuyên trồng lúa, vùng Bắc Quốc lộ I là vùng nước mặn chuyên nuôi
trồng thủy hải sản). Với 24.942 ha đất tự nhiên thì đã có 20.374 ha diện tích
đất nông nghiệp (chiếm 82%). Cơ cấu đất sản xuất nông nghiệp như sau: Đất
trồng lúa: 16.583 ha; đất nuôi trồng thủy sản: gần 2.846 ha, chủ yếu nuôi tôm
sú; đất trồng hoa màu: 3.150 ha; đất nông nghiệp khác: 3.791 ha. Sản phẩm
đã có thương hiệu của Huyện là Gạo Tài nguyên Vĩnh Lợi.
Về chính trị: Hệ thống chính trị của huyện gồm các cơ quan cấp huyện:
Huyện Ủy, HĐND, UBND, UBMTTQ, Hội nông dân, Hội liên hiệp phụ nữ,
Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Liên đoàn lao động và các tổ chức xã
hội khác. Ở 07 xã và 01 thị trấn của huyện tương ứng có các tổ chức giống
như huyện; riêng ở 77 ấp của huyện thì có 77 chi bộ (mỗi ấp 01 chi bộ đảng),
mỗi chi bộ có từ 3 đảng viên chính thức trở lên. Có 47 chi bộ ấp chỉ bầu bí
thư, 7 chi bộ ấp ngoài bí thư thì bầu thêm 01 phó bí thư và có 23 chi bộ có chi


13

ủy. Đảng viên của chi bộ ấp gồm những đồng chí tham gia trong Ban dân
chánh ấp, cán bộ hưu trí sinh hoạt tại ấp, dân quân tự vệ, dự bị động viên…
Ban dân chánh ấp có 5 chốt phụ trách các chức danh như: Trưởng ấp, Phó ấp,
Bí thư đoàn thanh niên, Chủ tịch chi hội phụ nữ, Chi hội trưởng nông dân,
Cựu chiến binh, Trưởng ban MTTQ, Tổ trưởng dân vận, Công an, Quân sự.
Về văn hóa: Huyện có 02 khu di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia là Đền
thờ chủ tịch Hồ Chí Minh và tháp cổ Vĩnh Hưng-di chỉ văn hóa Óceo. Ngoài

ra, ở hầu hết các ấp của huyện đều có câu lạc bộ đờn ca tài tử - loại hình nghệ
thuật được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại. Năm 2013 huyện có 77/77 ấp văn hóa với 20.635/21.635 hộ gia đình văn
hóa. Hiện nay, toàn huyện có 2 trường THPT, trên 40 trường THCS cùng hệ
thống trường tiểu học và trường mẫu giáo bảo đảm nhu cầu học tập của
người dân. Huyện có 01 bệnh viện với 60 giường bệnh, 01 phòng khám đa
khoa khu vực và 07 trạm y tế ở các xã, thị trấn. Đội ngũ cán bộ, thầy thuốc
huyện có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và y đức; hiện có 8 Bác
sĩ chuyên khoa cấp 1 và cấp 2.
Về Quốc phòng, an ninh: Vĩnh Lợi có khu căn cứ bí mật từ thời chống
Mỹ, hiện nay đã được tôn tạo trùng tu, các cơ quan của huyện cũng như Nhân
dân có thể sơ tán về đây khi có chiến tranh xảy ra. Khu vực phòng thủ được
xây dựng vững chắc gắn với thế trận lòng dân.
Những năm qua, tình hình an ninh chính trị- trật tự an tòan xã hội của
huyện luôn được giữ vững và chuyển biến rõ rệt. Phong trào bảo vệ an ninh tổ
quốc và giữ gìn trật tự xã hội, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, xây dựng mô hình tự quản về an ninh trật tự ở những nơi công
cộng luôn được duy trì thực hiện tốt.


14

* Các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
+ Quan niệm chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
Thực tiễn hơn 80 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng đã cho thấy,
Đảng ta luôn trung thành, vận dụng sáng tạo những tư tưởng, quan điểm cơ
bản của học thuyết Mác-Lênin về Đảng vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam, nên mặc dù ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, giai cấp công
nhân còn nhỏ bé, nhưng ngay từ đầu Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập và
xác định, rõ vị trí, vai trò lãnh đạo và thiết lập đồng bộ cơ cấu, hệ thống tổ

chức của Đảng. Trong đó, chi bộ đảng luôn được xác định là bộ phận giữ vai
trò, vị trí hết sức quan trọng, là bộ phận cấu thành nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở, nơi giữ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần
chúng, trực tiếp vận động quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng.
Trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, đẩy nhanh tiến độ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hịên nay, vị trí, vai trò của chi bộ đảng nói
chung, chi bộ ấp nói riêng càng trở nên hết sức quan trọng. “Tổ chức cơ sở
đảng (chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính
trị ở cơ sở” [ 22, tr .35]. “Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh
đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, lãnh đạo phát triển kinh tế -xã hội ở cơ sở địa phương” [16].
Theo đó, mỗi chi bộ được xác định là một tế bào cấu thành cơ thể
sống của Đảng, là yếu tố bảo đảm cho sự phát triển bền vững của toàn
Đảng; là hạt nhân chính trị ở cơ sở; trực tiếp đưa đường lối, chủ trương
của Đảng vào quần chúng và tổ chức thực hiện đường lối ấy. Chi bộ cũng
là nơi thường xuyên sâu sát, gắn bó mật thiết với quần chúng, trực tiếp
nắm, giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng; nơi hàng
ngày đảng viên sinh hoạt, học tập, chiến đấu, là trường học giáo dục, rèn
luyện đảng viên, nơi sàng lọc đảng viên và giới thiệu quần chúng ưu tú cho
Đảng.


15

Thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước đã chứng minh: nơi nào có
TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, nội bộ đoàn kết, nhất trí thì nơi đó đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, được quán triệt, thực hiện kịp thời,
có hiệu quả, kinh tế phát triển, đời sống Nhân dân được cải thiện và nâng
lên, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, lòng

tin của dân đối với Đảng không ngừng được củng cố, quan hệ giữa Đảng
với quần chúng ngày càng thắt chặt. Ngược lại, nơi nào chi bộ, đảng bộ
yếu kém, mất đoàn kết, đảng viên không tiền phong, gương mẫu thì lòng
tin của Nhân dân đối với Đảng bị giảm sút, tiềm năng, thế mạnh của địa
phương không được phát huy, chủ trương, đường lối của Đảng thực hiện
không đến nơi, đến chốn, dân chủ cơ sở không được thực hiện, quyền làm
chủ của Nhân dân bị vi phạm.
Theo hướng tiếp cận trên, có thể quan niệm:
Chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi là một bộ phận tổ chức của Đảng, trực
thuộc đảng bộ cơ sở xã, là tế bào nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở
cơ sở; nơi trực tiếp đưa đường lối của Đảng vào cuộc sống, nơi kiểm nghiệm
tính đúng đắn của đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và cung cấp
cơ sở thực tiễn để bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối; trực tiếp phân
công nhiệm vụ, quản lý, giáo dục, rèn luyện, phát triển và sàng lọc đội ngũ
đảng viên ở cơ sở, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của Đảng ở cơ sở.
+ Chức năng, nhiệm vụ của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
Xác định chức năng, nhiệm vụ của chi bộ ấp phải dựa vào Điều lệ Đảng,
trực tiếp là Quy định số 95-QĐ/TW ngày 3-3-2004 của Ban Bí thư về chức
năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã để cụ thể hóa.
Về chức năng của chi bộ ấp:
“Chi bộ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; giáo dục,
quản lý và phân công công tác cho đảng viên; làm công tác vận động quần
chúng và công tác phát triển đảng viên; kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật


16

đảng viên; thu, nộp đảng phí. Chi bộ, chi ủy họp thường lệ mỗi tháng một
lần” [22, tr.41].

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và các nghị
quyết của BCHTW (khóa XI) đã quy định cụ thể chức năng của các loại hình
TCCSĐ như chi bộ, đảng bộ cơ sở ở nông thôn, xã, phường, đơn vị sự
nghiệp, trong các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan, các đơn vị cơ sở quân sự,
công an, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân.
“Đảng bộ, chi bộ cơ sở xã là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, lãnh
đạo phát triển kinh tế -xã hội; xây dựng HTCT ở xã vững mạnh, nông thôn
giàu đẹp, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước” [ 16].
Theo đó, có thể hiểu các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi tỉnh Bạc Liêu là tế
bào nền tảng của Đảng, nơi hàng ngày giữ mối liên hệ mật thiết giữa Đảng
với quần chúng ở cơ sở, có chức năng chủ yếu là lãnh đạo công tác quần
chúng của Đảng ở cơ sở; tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân thực
hiện thắng lợi mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của đảng ủy xã; quan tâm chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với
Nhà nước; xây dựng nông thôn mới (làng, xã văn minh, sạch đẹp, trật tự- an
toàn …).
Thông qua công tác vận động quần chúng và trực tiếp lãnh đạo quần
chúng thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chi bộ ấp giữ vai trò
quan trọng trong việc kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn của đường lối,
nghị quyết của Đảng, đồng thời phản ánh với Đảng những ý kiến xác đáng để
sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh đường lối. Chi bộ ấp cũng là nơi đảng viên hàng
ngày sinh hoạt, học tập, tu dưỡng rèn luyện bản thân, là nơi trực tiếp giáo
dục, rèn luyện, sàng lọc và giới thiệu những quần chúng ưu tú cho Đảng.
Thực tiễn cho thấy, nơi nào xây dựng được chi bộ ấp TSVM thì nơi đó Nhân
dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật



17

của Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng lên,
tình hình an ninh - trật tự xã hội được giữ vững và ngược lại.
Về nhiệm vụ của chi bộ ấp:
Với phạm vi, đối tượng lãnh đạo khá phong phú, nên nhiệm vụ của chi
bộ ấp bao gồm những nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, lãnh đạo chăm lo đời sống Nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự khu
vực và thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở.
Tuyên truyền, vận động, lãnh đạo mọi tầng lớp Nhân dân trong phạm vi
ấp tập trung phát triển sản xuất, nhất là ngành nghề truyền thống và động
viên Nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Lãnh đạo thực hịên tốt
QCDCCS; xây dựng và và sửa chữa công trình phúc lợi, xoá đói giảm nghèo,
xây dựng nhà tình thương, nhà tình nghĩa, lãnh đạo Nhân dân giữ gìn an ninh
trật tự xã hội, xây dựng nông thôn mới. Quan tâm chăm lo cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần của Nhân dân; lãnh đạo phát huy vai trò của Nhân dân, của
các lực lượng dân quân, tự vệ để giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội ở địa phương, bảo đảm cho địa phương có đời sống kinh tế phát triển, trật
tự an ninh, an toàn xã hội được giữ vững, ổn định.

Hai là, làm công tác chính trị tư tưởng.
Trực tiếp vận động, tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho mọi
tầng lớp Nhân dân địa phương; đồng thời quán triệt đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy cấp
trên, bám sát tình hình địa phương, trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức, cơ
quan đoàn thể tiến hành công tác chính trị tư tưởng trong Nhân dân. Đặc biệt,
trong tình hình hiện nay, các chi bộ ấp phải coi trọng tăng cường công tác
giáo dục chính trị tư tưởng cho đảng viên, quần chúng, nhất là đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gắn với thực hiện
Nghị quyết TW4 (khóa XI), coi đây là nhiệm vụ hàng đầu, là mặt trận chiến

đấu của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng.


18

Ba là, xác định đúng nhiệm vụ chính trị, kịp thời xây dựng và tổ chức
thực hiện thắng lợi nghị quyết.
Để lãnh đạo và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong từng giai
đoạn, yêu cầu đặt ra với chi bộ ấp là phải bám sát quan điểm, đường lối của
Đảng, trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được quy định, nắm chắc tình hình
mọi mặt của địa phương, tình hình dân cư để xác định đúng những nhiệm vụ
chính trị trung tâm cần tập trung lãnh đạo. Trên cơ sở đó, xây dựng nghị
quyết lãnh đạo phải bảo đảm kịp thời, đúng đắn, sát hợp và sau khi nghị
quyết đã được thông qua phải lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, phân công
trách nhiệm triển khai tổ chức thực hiện nghị quyết đã đề ra từ trong nội bộ
chi bộ, chi ủy đến mọi đối tượng, tổ chức, lực lượng thuộc phạm vi lãnh đạo.
Bốn là, làm công tác tổ chức, đảng viên và xây dựng Đảng.
Thường xuyên lãnh đạo chặt chẽ và tiến hành có hiệu quả công tác tổ chức
xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên. Trên cơ sở các nguyên tắc tổ
chức, sinh hoạt của Đảng, cụ thể hóa và duy trì nghiêm túc trong tổ chức, sinh
hoạt, hoạt động lãnh đạo của chi bộ; nhất là nền nếp chế độ sinh hoạt Đảng, bảo
đảm cho mọi sinh hoạt của chi bộ được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, có hiệu
lực, hiệu quả. Thường xuyên làm tốt công tác quản lý, rèn luyện, phân công
công tác cho đảng viên; lãnh đạo phát huy vai trò của MTTQ, Đoàn thanh niên,
Hội phụ nữ, Công đoàn tham gia xây dựng Đảng, bồi dưỡng, rèn luyện, lựa
chọn những quần chúng ưu tú giới thiệu cho Đảng. Thực hiện nghiêm nguyên
tắc, phương hướng, mục tiêu công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ở chi bộ.
Năm là, lãnh đạo các tổ chức quần chúng.
Lãnh đạo xây dựng các tổ chức, đoàn thể vững mạnh và phát huy vai trò
của các tổ chức, nhất là Đoàn thanh niên, Hội nông dân, MTTQ, Hội người cao

tuổi, Hội cựu chiến binh, Hội chữ thập đỏ, Hội phụ nữ trong tập hợp, vận động
đoàn viên, hội viên thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, nghị quyết
của cấp ủy các cấp và nghị quyết của chi bộ, chi ủy trong phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, QPAN. Đồng thời, phát huy có hiệu quả hoạt động của các tổ chức, lực


19

lượng trong tham gia xây dựng chi bộ, chi ủy TSVM, xây dựng địa phương vững
mạnh toàn diện về mọi mặt.
Ngoài những nhiệm vụ cơ bản trên, chi bộ ấp còn có nhiệm vụ lãnh đạo
thực hiện những phong trào tự quản của quần chúng Nhân dân và xây dựng
đời sống văn hóa mới ở địa bàn, địa phương.
+ Đặc điểm tổ chức, hoạt động của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi
Ngoài những đặc điểm của chi bộ cơ sở nói chung, các chi bộ ấp ở
huyện Vĩnh Lợi còn những đặc điểm mang tính đặc thù như sau:
Một là, chi bộ ấp là hệ thống chân rết của Đảng ở địa bàn ấp, nên cấp ủy
viên, cán bộ, đảng viên thường cùng lúc phải kiêm nhiệm nhiều chức danh,
đảm nhiệm nhiều công việc cả trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lí, điều hành.
Thông tư số 04/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tổ chức và hoạt động
của thôn, tổ dân phố quy định: “Thôn, làng, ấp, bản, buôn, bon, phum, sóc,...
(gọi chung là thôn); thôn được tổ chức ở xã; dưới xã là thôn. Tổ dân phố, khu
phố, khối phố, khóm, tiểu khu,... (gọi chung là tổ dân phố); tổ dân phố được
tổ chức ở phường, thị trấn; dưới phường, thị trấn là tổ dân phố. Thôn, tổ dân
phố không phải là một cấp hành chính mà là tổ chức tự quản của cộng đồng
dân cư có chung địa bàn cư trú trong một khu vực ở một xã, phường, thị trấn
(xã, phường, thị trấn sau đây gọi chung là cấp xã); nơi thực hiện dân chủ trực
tiếp và rộng rãi để phát huy các hình thức hoạt động tự quản, tổ chức Nhân
dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước và nhiệm vụ cấp trên giao” [8].

Theo quy định của Thông tư số 04/2012 của Bộ Nội vụ, thì chính quyền
ấp không phải là một đơn vị hành chính trong bốn cấp hành chính của Nhà
nước, nên tổ chức đảng, cũng như bộ máy chính quyền đều không được tổ
chức kiện toàn đầy đủ như cấp xã trở lên, cán bộ phụ trách đoàn thể thường
do cán bộ lãnh đạo kiêm nhiệm. Vì thế, nên bộ máy tổ chức của chi bộ cũng
không được kiện toàn đầy đủ thành phần như ở cấp xã, hầu hết các đảng viên
làm nhiệm vụ kiêm nhiệm, như: bí thư chi bộ kiêm nhiệm làm công tác mặt
trận; phó bí thư chi bộ kiêm nhiệm trưởng ấp; phó ấp kiêm công tác quân sự,


20

công an hoặc kiêm đoàn thanh niên… Do phải kiêm nhiệm nhiều chức danh,
đảm nhiệm nhiều công việc nên việc tập trung để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ lãnh đạo, chỉ đạo của đội ngũ cán bộ chủ trì, bí thư, phó bí thư, cấp ủy
viên bị phân tán, dẫn tới chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ không cao.
Hai là, chi bộ ấp chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của đảng ủy xã, thị
trấn, nên phạm vi, chức năng lãnh đạo không toàn diện như các cấp bộ đảng
từ cấp xã trở lên.
Các chi bộ ấp là tổ chức lãnh đạo thấp nhất trong hệ thống tổ chức đảng
ở bộ máy chính quyền địa phương, chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
thường vụ, đảng ủy xã nên phạm vi, chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của chi bộ
ấp không bao quát toàn diện như các cấp bộ đảng cấp trên.
Các chi bộ ấp phải phục tùng và chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
đảng ủy xã, thị trấn; chịu trách nhiệm trước ban chấp hành đảng bộ, ban
thường vụ và thường trực đảng ủy các xã, thị trấn về toàn bộ hoạt động của
ấp. Dưới sự lãnh đạo của thường vụ, đảng ủy xã, các chi bộ ấp phải kịp thời
cụ thể hóa và triển khai lãnh đạo Nhân dân trên địa bàn ấp thực hiện có hiệu
quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước,
trực tiếp là chủ trương, biện pháp lãnh đạo của đảng ủy cấp xã; đồng thời

thực hiện nghiêm chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình ở ấp mình
cho đảng ủy xã, thị trấn.
Mọi hoạt động xây dựng và lãnh đạo của chi bộ ấp đều phải tuân thủ và
phục tùng quan điểm, đường lối của Đảng, chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy cấp
trên, trực tiếp là nghị quyết, chủ trương của thường vụ, đảng ủy xã; đồng thời
phải tuân thủ theo đúng các quy định về phân công, phân cấp phạm vi, quyền
hạn lãnh đạo, chỉ đạo theo quy định của Điều lệ Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư, bao gồm cả công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của
ấp, công tác xây dựng, kiện toàn chi ủy, chi bộ, đến công tác cán bộ, công tác
lãnh đạo kiện toàn và phát huy vai trò của các tổ chính trị - xã hội, các ban
ngành đoàn thể, quần chúng trên địa bàn của ấp.


21

Ba là, chi bộ ấp của huyện Vĩnh Lợi có quy mô ở mức trung bình, trình
độ chuyên môn - nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị của hầu hết các đảng
viên của chi bộ ấp còn thấp.
Theo số liệu thống kê đến tháng 12/2013, tổng số đảng viên của chi bộ
ấp 741 đảng viên, gồm 652 nam chiếm tỷ lệ 87,98% và 89 nữ chiếm 12,02%,
đảng viên là cán bộ hưu trí 95 đồng chí chiếm 12,82%; bình quân mỗi chi bộ
có khoảng 10 đảng viên. Đội ngũ đảng viên của các chi bộ ấp được hình thành
từ nhiều nguồn: bộ đội xuất ngũ, cán bộ công chức nghỉ hưu, nghỉ mất sức và
nghỉ theo chế độ, chuyển từ địa phương khác đến, cán bộ công chức sinh họat
tại địa phương, phát triển tại chỗ.v.v... Về trình độ học vấn, cấp II là 47,64%,
cấp III là 38,32%, trung cấp, cao đẳng và đại học là 9,77%. Trình độ lý luận
chính trị: sơ cấp chiếm tỷ lệ 35,36%,; trung cấp chiếm tỷ lệ 11,20%; cao cấp
và cử nhân mới có 7 đảng viên, chiếm 0,94% và số còn lại là chưa qua trường
lớp đào tạo lý luận chính trị. Về tuổi đời, từ 30 tuổi trở xuống chiếm tỷ lệ
22,80%, từ 31 tuổi đến 40 tuổi chiếm 18,22%, từ 41 tuổi đến 50 tuổi chiếm

16,87%, từ 51 đến 60 tuổi chiếm tỷ lệ 21,46%, số còn lại là 61 tuổi trở lên.
Số liệu trên cho thấy trình độ chuyên môn - nghiệp vụ, trình độ lý luận
chính trị của hầu hết các đảng viên của chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi còn thấp,
số đảng viên là người nghỉ hưu, nghỉ mất sức tuy kém năng động và có tính
bảo thủ nhưng đây là lực lượng có bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhiều kinh
nghiệm, là chỗ dựa nòng cốt nhưng chiếm tỷ lệ thấp; trong khi đó số đảng
viên trẻ chiếm số lượng tương đối đông, tuy họ có tính năng động, sáng tạo
nhưng lại thiếu kinh nghiệm, thiếu bản lĩnh chính trị. Số lượng đảng viên phát
triển của các chi bộ ấp không nhiều, có chi bộ nhiều năm liền không phát triển
được đảng viên nào. Chỉ tính riêng năm 2013 các chi bộ ấp của huyện Vĩnh
Lợi chỉ phát triển được 34 đảng viên mới. Đảng viên nữ chiếm tỷ lệ thấp,
phần lớn đảng viên nữ của chi bộ ấp là những người lớn tuổi. Ngoài ra, các
chi bộ ấp còn có một lượng đảng viên không nhỏ là cán bộ, công chức đang
công tác trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức quần chúng cư trú


22

trên địa bàn ấp nên có điều kiện nắm chắc quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và cập nhật thông tin nhanh chóng.
Bốn là, số đông đảng viên, chi ủy viên của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh
Lợi là những người sinh ra và trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ,
trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Nhìn chung các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh lợi, có số đông đảng viên và chi ủy
viên là những người đã từng tham gia họat động cách mạng, trực tiếp tham gia
kháng chiến chống Mỹ, họ là những người được tôi luyện trong đấu tranh cách
mạng, trong những hoàn cảnh khó khăn, khốc liệt của chiến tranh, nên thường
có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào mục tiêu con đường XHCN, thường xuyên gần gũi và gắn bó mật thiết với
Nhân dân, được Nhân dân tin cậy, là chỗ dựa nòng cốt cho hoạt động lãnh đạo

của chi bộ. Do được Nhân dân tin cậy, nên số đảng viên trải qua kháng chiến
cũng là lực lượng thường xuyên gần dân hơn, được Nhân dân thẳng thắn phản
ánh tâm tư và kiến nghị với Đảng, chính quyền những băn khoăn, thắc mắc về
chủ trương, đường lối, chính sách; về đội ngũ cán bộ ở cơ sở. Qua đó, đội ngũ
này nắm chắc được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, kịp thời
phản ánh và tham mưu đề xuất với các cơ quan lãnh đạo đảng, chính quyền để
có chủ trương, biện pháp giải quyết thỏa đáng, góp phần tạo nên sự đồng thuận
trong xã hội và sự nhất trí cao trong các tầng lớp Nhân dân đối với quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Họ cũng
là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa tin cậy, là điểm tựa cho mọi hoạt động xây
dựng và lãnh đạo, chỉ đạo của chi bộ ấp. Hầu hết lực lượng đảng viên này đều
có tâm huyết, luôn trăn trở, mong muốn lãnh đạo ấp vươn lên về mọi mặt,
không ngừng cải thiện đời sống của Nhân dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở địa bàn địa phương. Thực tế cho thấy, hầu hết những kết quả
đạt được ở địa bàn ấp đã thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của những đảng viên này.
+Vai trò của các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi.


23

Thứ nhất, các chi bộ ấp trực tiếp cấu thành nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở, trực tiếp quyết định việc xây dựng, phát huy vai trò,
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
ở cơ sở.
Trong cơ cấu hệ thống tổ chức của Đảng hiện nay, chi bộ ấp là cấp bộ
đảng cuối cùng được tổ chức ở cấp chính quyền địa phương, đây là những
đơn vị tế bào nhỏ nhất cấu thành hệ thống tổ chức đảng, lập thành nền tảng
của Đảng, các chi bộ ấp TSVM là nhân tố trực tiếp quyết định sự bền vững
của nền tảng của Đảng. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng mạnh là do các chi
bộ tốt, chi bộ tốt thì mọi đảng viên đều tốt. Chi bộ ấp không chỉ giữ vai trò

quan trọng trong tạo thành nền tảng vững chắc cho Đảng, mà còn giữ vai trò
là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, trực tiếp lãnh đạo và phát huy vai trò
của các tổ chức trong HTCT ở địa phương trong vận động Nhân dân thực
hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà
nước và xây dựng địa phương vững mạnh về mọi mặt.


24

Thể theo Hiến pháp năm 2013, các chi bộ ấp vừa là một bộ phận cấu
thành HTCT ở địa phương, vừa là lực lượng lãnh đạo hệ thống ấy. Trên cơ sở
tuân thủ quan điểm, chủ trương, đường lối và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chi bộ ấp trực tiếp cụ thể hóa xác
định biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát huy vai trò của HTCT ở
cơ sở trong xây dựng địa phương vững mạnh về mọi mặt. Thực tiễn cho thấy,
chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền, các tổ chức chính trị - xã
hội, các đoàn thể ở địa phương như thế nào đều phụ thuộc trực tiếp bởi vai
trò lãnh đạo, chỉ đạo của các chi ủy, chi bộ ấp.
Hai là, các chi bộ ấp là nơi hàng ngày gắn bó với Nhân dân, trực tiếp
quyết định việc giữ vững mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng,
Nhân dân ở cơ sở.
Liên hệ mật thiết với quần chúng, Nhân dân vừa là vấn đề thuộc về bản
chất của Đảng, vừa là cội nguồn sức mạnh, đồng thời là quy luật tồn tại phát
triển của Đảng ta. Thực tế cho thấy, Đảng chỉ tồn tại với tư cách là người


25

lãnh đạo khi có đối tượng lãnh đạo, vì vậy liên hệ mật thiết với quần chúng,
Nhân dân là vấn đề sống còn của Đảng. Các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi là tổ

chức gần gũi với Nhân dân, hàng ngày liên hệ mật thiết với Nhân dân, mọi
hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đều có liên quan trực tiếp đến Nhân
dân, vì mục tiêu chăm lo cho lợi ích Nhân dân và phát huy vai trò của Nhân
dân trong xây dựng quê hương, đất nước. Các chi bộ ấp cũng là nơi hàng
ngày trực tiếp nắm tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân để phản ánh với Đảng,
cung cấp cơ sở thực tiễn để Đảng bổ sung, phát triển, hoàn thiện đường lối,
quan điểm, chủ trương, chính sách. Mặt khác, Nhân dân quan hệ với Đảng
chủ yếu, trực tiếp thông qua các chi bộ, chi ủy và đội ngũ cán bộ đảng viên ở
cơ sở. Vì vậy, các chi bộ ấp có vai trò hết sức quan trọng, là nơi trực tiếp giữ
gìn, củng cố và tăng cường mối liên hệ hữu cơ, mật thiết giữa Đảng với Nhân
dân. Nếu các chi bộ ấp TSVM, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ sẽ góp
phần trực tiếp củng cố tăng cường, giữ vững mối liên hệ giữa Đảng với Nhân
dân và ngược lại.


26

Ba là, các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi là nơi quyết định chất lượng, hiệu
quả việc tổ chức, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước; trực tiếp đưa quan điểm đường lối của Đảng vào đời sống ở
cơ sở.
Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đến được với Nhân dân như
thế nào phụ thuộc trực tiếp và quyết định bởi các chi bộ đảng ở cơ sở. Chi bộ
ấp là nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đến với
các tầng lớp Nhân dân trong ấp; đồng thời vận động, tổ chức để Nhân dân
chấp hành nghiêm chỉnh và nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi mọi đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Mặt khác, chi bộ
ấp cũng là nơi trực tiếp cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng vào thực tiễn thông qua các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo trên
tất cả các lĩnh vực, các mặt công tác của các tổ chức, lực lượng ở địa phương;

nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối, chính sách, nơi cung cấp cơ sở
thực tiễn để Đảng sửa đổi, bổ sung hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính
sách cho phù hợp với thực tiễn mọi mặt của đất nước.


27

Bốn là, các chi bộ ấp là nơi trực tiếp quyết định chất lượng, hiệu quả
công tác phát triển đảng và xây dựng đội ngũ đảng viên về mọi mặt.
Theo quy định của Điều lệ Đảng, các chi bộ ấp ở huyện Vĩnh Lợi cũng
như tất cả các chi bộ của Đảng nói chung, đều là nơi trực tiếp hàng ngày
phân công, công tác, giao nhiệm vụ cho từng đảng viên; nơi trực tiếp quản lý,
giáo dục, rèn luyện đảng viên về mọi mặt. Mọi sự tiến bộ trưởng thành của
đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đều bắt nguồn trực tiếp từ sự quản lý,
giáo dục, rèn luyện của chi bộ. Chi bộ ấp là nơi trực tiếp nắm, quản lý trình
độ phẩm chất, năng lực, đạo đức của từng đảng viên và của toàn đội ngũ, trên
cơ sở đó tiến hành giáo dục, rèn luyện không ngừng trau dồi nâng cao phẩn
chất chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực mọi mặt cho đội ngũ đảng viên,
bảo đảm đáp ứng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ.
Đây cũng là nơi trực tiếp làm công tác phát triển đảng, số lượng, chất lượng
đội ngũ đảng viên và hiệu quả công tác phát triển đảng như thế nào phụ thuộc
trước hết vào vai trò, trách nhiệm của các chi bộ; đồng thời chi bộ ấp cũng là


×