Tải bản đầy đủ (.doc) (186 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ kế THỪA và đổi mới các GIÁ TRỊ đạo đức TRUYỀN THỐNG TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN SANG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 186 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa hiện nay, việc xây dựng nền đạo đức lành mạnh của xã
hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Điều đó đòi hỏi phải nhận
thức đúng đắn vấn đề kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc,
tạo tiền đề cho việc xây dựng những chuẩn mực đạo đức mới phù hợp với
yêu cầu phát triển của xã hội. Khi đề cập đến việc xây dựng nền văn hóa vô
sản, V.I. Lênin đã từng chỉ rõ: "Không phải là nghĩ ra một thứ văn hóa vô
sản mới mà là phát triển những kiểu mẫu ưu tú, những kết quả tốt nhất của
nền văn hóa hiện tồn, xét theo quan điểm thế giới quan của chủ nghĩa Mác
và những điều kiện của đời sống và của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
trong thời đại chuyên chính vô sản" [61, 548].
Kế thừa là quy luật chung của sự phát triển trong thế giới. Song,
tính quy luật chung đó có những biểu hiện đặc thù tùy theo từng lĩnh vực
và điều kiện lịch sử - cụ thể của từng dân tộc. Việc nhận thức sâu sắc các
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc và định hướng việc kế thừa nó một
cách đúng đắn là đòi hỏi tất yếu và cấp bách hiện nay.
1.2. Đạo đức là một hiện tượng xã hội mà xét đến cùng chịu sự quy
định của quan hệ kinh tế. Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường đã dẫn tới những biến đổi nhanh chóng trong
thang giá trị đạo đức xã hội về nội dung, hình thức, vị trí của các giá trị đó.
Bản thân các giá trị truyền thống và hiện đại hòa quyện nhau trong từng
yếu tố và cả hệ thống làm cho việc nhận thức sự vận động của các giá trị
đạo đức truyền thống trở nên phức tạp hơn. Cơ chế thị trường được thiết
lập ở nước ta trong gần mười lăm năm qua đã có tác động đến nhiều mặt của
đời sống xã hội, nhất là đến đạo đức, trong đó có cả mặt tích cực và mặt
1



tiêu cực. Sự xuất hiện đến mức báo động của các hiện tượng phản đạo đức,
phi nhân tính trong đời sống xã hội đang hàng ngày làm xói mòn các giá
trị đạo đức truyền thống và gây ra nỗi lo ngại cho nhiều người. Cũng chính
từ đó, nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề đạo đức trong điều kiện
kinh tế thị trường. Bảo tồn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống
dân tộc trong khi vẫn bảo đảm kinh tế thị trường vận hành và phát triển theo
xu hướng tất yếu của nó đang là vấn đề đặt ra một cách cấp bách cả về lý luận
và thực tiễn.
1.3. Kế thừa và phát huy các giá trị đạo đức - văn hóa truyền thống
dân tộc là một trong những nội dung quan trọng của việc "Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Trong
quá trình chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, vấn đề này
càng được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta quan tâm sâu sắc. Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương tại Đại hội VIII khẳng định:
"Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế, phải đặc
biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc; kế thừa và phát
huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc" [29,
111]. Song, kế thừa và phát huy như thế nào đang còn là vấn đề cần phải
được nhận thức đầy đủ để xác định phương hướng và giải pháp đúng đắn
trong chỉ đạo thực tiễn xây dựng đời sống đạo đức phù hợp với yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới hiện nay. Chọn đề tài này, tác giả mong muốn góp
phần làm rõ quan điểm nêu trên của Đảng ta.
1.4. Trong những năm đổi mới vừa qua, trên lĩnh vực văn hóa, nhất
là trên các mặt tư tưởng, đạo đức, lối sống đã có những chuyển biến quan
trọng theo hướng tích cực nhưng vẫn còn những mặt yếu kém. Đáng chú ý
là "Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hóa dân tộc, chạy
theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ
tục của dân tộc" [31, 46]. Để khắc phục những yếu kém trên, công tác lý
2



luận cần làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong quá trình đổi
mới, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị
mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và
hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và chính trị, đạo đức và kinh tế... Đây là
vấn đề lớn và khá phức tạp, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu của nhiều
người, trên nhiều mặt, trong đó việc giải quyết về mặt lý luận vấn đề kế thừa
và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là một hướng quan trọng
góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng nền tảng đạo đức - văn
hóa của con người và xã hội Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kế thừa trong sự phát triển văn hóa nói chung, đạo đức nói
riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà chính trị, triết học, xã hội học,
sử học, dân tộc học trong và ngoài nước. Đáng chú ý là một số chuyên
khảo tiêu biểu của các nhà triết học, văn hóa học Xô viết trước đây bàn về
kế thừa trong lĩnh vực văn hóa (mà đạo đức được quan niệm là một bộ
phận hợp thành của văn hóa) như tác phẩm của E.A.Bale: "Tính kế thừa
trong sự phát triển văn hóa" (Mátxcơva, 1969), của V.I.Kairan: "Tính kế
thừa trong sự phát triển của văn hóa trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội"
(Mátxcơva, 1977). Một số tác giả khác lại xem xét vấn đề kế thừa trong hệ
thống lý luận chung về văn hóa như S.Nartanốpxki với tác phẩm: "Một số
vấn đề lý luận về văn hóa" (Lêningrat, 1977) hoặc A.I.Acnônđốp (Chủ
biên) trong công trình "Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin", (Nxb Văn hóa.
Trường Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tái bản, 1985). Ngoài ra, còn
phải kể đến một số công trình nghiên cứu riêng về đạo đức học mà trong
đó tính kế thừa cũng được đề cập đến với nhiều mức độ khác nhau như:
"Nguyên lý đạo đức cộng sản" của A.Sixkin" (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1961);

3



"Đạo đức học", tập I và II của G.Bandzeladze (Nxb Giáo dục, Hà
Nội,1985).
Ở nước ta, trong Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) Đảng ta đã đề
cập đến vấn đề kế thừa giá trị văn hóa truyền thống dân tộc để xây dựng
nền văn hóa Việt Nam theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Tinh thần đó được phát triển trong báo cáo "Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn
hóa Việt Nam" của đồng chí Trường Chinh tại Hội nghị văn hóa toàn quốc
lần thứ II (1948). Từ đó đến nay, trong các Văn kiện Đại hội Đảng đều đề
cập đến vấn đề kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" với quan niệm đạo đức là một
trong những lĩnh vực then chốt của văn hóa, đã nhấn mạnh yêu cầu kế
thừa và phát huy đạo lý truyền thống của dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng nền văn hóa và con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới
hiện nay.
Quán triệt quan điểm trên của Đảng, từ cách tiếp cận triết học, văn
hóa học, sử học, dân tộc học..., nhiều nhà khoa học nước ta đã đi sâu
nghiên cứu nhằm xác định các giá trị tinh thần truyền thống dân tộc làm
cơ sở cho việc xây dựng đời sống văn hóa và con người Việt Nam trong sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Một số công trình tiêu biểu như "Tìm
hiểu tính cách dân tộc" của GS Nguyễn Hồng Phong (Nxb Khoa học, Hà
Nội, 1963); "Đạo đức mới" do GS Vũ Khiêu chủ biên (Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1974); "Về vấn đề xây dựng con người mới" do GS Phạm Như
Cương chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978); "Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam" của GS Trần Văn Giàu (Nxb Khoa học xã
hội, 1980).


4


Năm 1982, Viện Mác - Lênin và Tạp chí Cộng sản đã tổ chức hội
nghị khoa học đầu tiên về chủ đề "Giá trị văn hóa tinh thần của Việt Nam".
Một số bản tham luận trình bày tại hội nghị của các nhà nghiên cứu thuộc
nhiều ngành văn hóa, giáo dục, nghệ thuật đã được in trong hai tập sách
lấy tên "Về giá trị văn hóa tinh thần Việt Nam" do Nhà xuất bản Thông tin
lý luận ấn hành năm 1983, trong đó đề cập đến một số vấn đề lý luận và
phương pháp luận nghiên cứu về giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của
dân tộc Việt Nam và khẳng định một số nội dung cơ bản trong các giá trị
truyền thống cần được kế thừa trong quá trình xây dựng đời sống tinh thần
ở nước ta. Ngoài ra, còn có công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề kế thừa
trên lĩnh vực văn hóa gắn với điều kiện đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam như luận án phó tiến sĩ "Tính kế thừa trong sự
phát triển của văn hóa Việt Nam (ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội)"
của Nguyễn Thu Linh (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1987),
hoặc đề cập đến kế thừa giá trị truyền thống dân tộc gắn với việc xây dựng
nền văn hóa nghệ thuật hiện nay như luận án phó tiến sĩ "Kế thừa giá trị
truyền thống văn hóa dân tộc trong việc xây dựng nền văn hóa nghệ thuật
hiện nay" của Cù Huy Chữ (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
1995).
Cho đến nay, việc nghiên cứu tác động của kinh tế thị trường đến
đạo đức đã và đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm, đặc
biệt là ở Trung Quốc, nơi mà "thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa"
đang được xây dựng. Nhiều bài viết của các nhà khoa học Trung Quốc
được tập hợp trong thông tin chuyên đề "Những vấn đề đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường" do Viện Thông tin khoa học xã hội thuộc Trung
tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia xuất bản năm 1996 cho thấy sự

quan tâm của họ về vấn đề này.

5


Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu các giá trị truyền thống
dưới tác động và yêu cầu của việc thực hiện cơ chế thị trường và mở rộng
giao lưu quốc tế đã được nhiều người quan tâm nhằm xác định những giá
trị cần được kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Đáng chú ý là các
Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước: "Văn hóa, văn minh vì sự
phát triển và tiến bộ xã hội" (KX.06) và "Con người Việt Nam - mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội" (KX.07), trong đó có kết quả
nghiên cứu của đề tài "Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam
hiện nay" (KX-07-02).
Một số cuộc hội thảo và đề tài khoa học đã đề cập đến vấn đề này
dưới nhiều góc độ khác nhau. Hội thảo khoa học "Sự chuyển đổi giá trị
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam" do Viện
Triết học và Trung tâm giao lưu văn hóa Việt - Đức tổ chức (10-1994) đã
tập trung vào các vấn đề như: phương pháp nghiên cứu giá trị và sự
chuyển đổi giá trị trong quá trình nước ta chuyển sang kinh tế thị trường;
sự hình thành hệ giá trị trong cơ chế thị trường hiện nay; sự chuyển đổi giá
trị trong văn hóa, đạo đức; về định hướng giá trị của con người Việt Nam
nói chung và thanh niên Việt Nam nói riêng. Kết quả hội thảo đã được
phản ánh tập trung trong tạp chí Triết học số 1-1995, trong đó, đáng chú ý
là các bài: "Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi của các giá trị khi
nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường" của GS,PTS Nguyễn Trọng
Chuẩn; "Một số chuẩn mực giá trị ưu trội khi nước ta chuyển sang nền
kinh tế thị trường" của PGS,PTS Nguyễn Văn Huyên; "Suy nghĩ về một hệ
giá trị tinh thần trong thời kỳ đổi mới ở nước ta hiện nay" của PGS Nguyễn

Tài Thư; "Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị văn hóa khi nền kinh tế Việt
Nam chuyển sang kinh tế thị trường" của GS,PTS Đỗ Huy và bài "Bước

6


chuyển đổi và mối quan hệ giữa các giá trị "Chân" và "Thiện" trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" của PGS,PTS Phạm Thị Ngọc Trầm.
Đề tài cấp bộ năm 1995-1996 của Khoa Triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh: "Sự biến đổi thang giá trị đạo đức trong nền
kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở
nước ta hiện nay" cũng là một cố gắng theo hướng này.
Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí và báo ở
trung ương và địa phương đề cập đến vấn đề kế thừa các giá trị truyền thống
dân tộc trong xây dựng đời sống văn hóa, đạo đức của con người Việt Nam
hiện nay ở nhiều góc độ và mức độ khác nhau. Có thể kể đến một số công
trình gần với đề tài của luận án này như: "Quán triệt quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy" của GS,PTS Nguyễn Ngọc
Long, (Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 1-2/1987); "Giá trị truyền thống và giá
trị hiện đại" của TS Nguyễn Ngọc Vân (Tạp chí Thông tin khoa học xã hội số
11/1995); "Mấy suy nghĩ về tính chất kế thừa trong tiến trình phát triển của
văn hóa truyền thống Việt Nam" của GS,PTS Hoàng Vinh (Tạp chí Dân tộc
học số 11/1995), "Giao lưu văn hóa - kinh nghiệm lịch sử và cách nhìn đương
đại" của GS Phạm Xuân Nam (Tạp chí Cộng sản số 9/1996); "Sự hình thành
và phát triển nhân cách người Việt Nam trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế
bao cấp sang nền kinh tế thị trường" của GS,PTS Dương Phú Hiệp (Tạp chí
Cộng sản số 4/1992); "Truyền thống và hiện đại: vài suy nghĩ và đề xuất" của
GS Phan Huy Lê (Tạp chí Cộng sản số 18/1996); "Vấn đề khai thác các giá trị
truyền thống vì mục tiêu phát triển" của GS.PTS Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí
Triết học số 2/1998); "Giá trị truyền thống - nhân lõi và sức sống bên trong

của sự phát triển đất nước, dân tộc" của PGS,PTS Nguyễn Văn Huyên (Tạp
chí Triết học, số 4/1998)...
Như vậy, vấn đề kế thừa giá trị truyền thống dân tộc đã được nhiều
người, nhất là các nhà khoa học quan tâm tìm hiểu. Tuy nhiên, hầu như

7


chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu vấn đề kế thừa và đổi mới các
giá trị đạo đức truyền thống trong điều kiện có sự tác động mạnh mẽ của
quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những thành quả của các nhà
khoa học và bám sát yêu cầu thực tiễn của đất nước hiện nay, tác giả mong
muốn làm sáng tỏ hơn những vấn đề đặt ra trong luận án.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là làm rõ hơn vai trò của kế thừa và đổi mới
các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế
thị trường ở nước ta. Qua đó, góp phần xác định nội dung, phương hướng,
giải pháp cơ bản bảo đảm kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền
thống nhằm xây dựng đời sống đạo đức tốt đẹp của con người và xã hội
Việt nam trong giai đoạn hiện nay.
Với mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:
- Phân tích tính quy luật của kế thừa và đổi mới trong sự phát triển
đạo đức.
- Hệ thống hóa và xác định vai trò của các giá trị đạo đức truyền
thống trong lịch sử phát triển dân tộc. Phân tích tác động của các nhân tố
trong nước và quốc tế, dân tộc và thời đại, nhất là sự tác động của kinh tế
thị trường đến đời sống đạo đức của xã hội nói chung và các giá trị đạo
đức truyền thống nói riêng. Từ đó khẳng định nội dung các giá trị cần

được kế thừa và đổi mới trong giai đoạn hiện nay.
- Trình bày những phương hướng và giải pháp cơ bản bảo đảm kế
thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển
sang nền kinh tế thị trường ở nước ta.
4. Giới hạn đề tài

8


- Do điều kiện hình thành của nó, đạo đức truyền thống có những
yếu tố tích cực và tiêu cực. Song, luận án tập trung phân tích những giá trị
đạo đức truyền thống cần được kế thừa và đổi mới trong điều kiện chuyển
sang kinh tế thị trường hiện nay.
- Trong khi xem xét sự biến đổi của đạo đức truyền thống dưới tác
động của nhiều nhân tố, luận án tập trung phân tích sự tác động của quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường đến đạo đức. Thời gian phân tích chủ
yếu từ khi Đảng ta chủ trương chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
bắt đầu từ Đại hội VI (1986).
- Những phương hướng và giải pháp nêu trong luận án chỉ đề cập
đến những vấn đề cơ bản có tính chất định hướng trong điều kiện của
nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam
liên quan đến vấn đề đạo đức và kế thừa trong lĩnh vực đạo đức.
Ngoài ra, luận án còn sử dụng các tác phẩm, bài phát biểu của các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học trong và ngoài nước, nhất là các nhà triết học, sử học, dân tộc
học, văn hóa học... của Việt Nam có liên quan trực tiếp đến nội dung đề

cập trong luận án.
- Về phương pháp nghiên cứu, luận án chú ý vận dụng tổng hợp
các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú ý sử dụng phương pháp lịch sử và
lôgic, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp
hệ thống, phương pháp đối chiếu, phương pháp điều tra xã hội học... trên
cơ sở quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.

9


6. Đóng góp mới của luận án
- Từ việc phân tích những mặt tích cực và những hạn chế trong đạo
đức truyền thống dân tộc, luận án góp phần xác định những nội dung cần
được kế thừa, đổi mới và những thiếu hụt cần được bổ sung trong các giá
trị đạo đức truyền thống để góp phần phát huy vai trò của đạo đức, nhất là
đạo đức truyền thống trong đời sống xã hội hiện nay.
- Bước đầu đề xuất những phương hướng và giải pháp cơ bản bảo
đảm kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Góp phần vào việc nhận thức vai trò, tác dụng to lớn và lâu dài của
các giá trị đạo đức truyền thống trong sự phát triển của xã hội Việt Nam.
- Góp phần làm sáng tỏ việc định hướng quá trình hình thành các
giá trị và chuẩn mực đạo đức của con người và xã hội Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay.
- Kết quả của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu, giảng dạy triết học, đạo đức học và lý luận văn hóa ở
các trường đảng và trường nhà nước.
8. Kết cấu của luận án

Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án có 3 chương với 10 mục; trình bày trong 160 trang (không kể danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục).

10


Chương 1
KẾ THỪA VÀ ĐỔI MỚI - MỘT QUÁ TRÌNH
CÓ TÍNH QUY LUẬT CỦA SỰ PHÁT TRIỂN ĐẠO ĐỨC

1.1. VAI TRÒ CỦA KẾ THỪA VÀ ĐỔI MỚI TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN

Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan luôn nằm trong
quá trình vận động và phát triển không ngừng. Phát triển là xu hướng
chung trong thế giới. Sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện tượng,
quá trình trong thế giới khách quan có những quy luật của nó. Xét về
phạm vi tác động, có thể phân các quy luật đó thành ba nhóm chính:
những quy luật riêng tác động trong một lĩnh vực hoặc một giai đoạn phát
triển của sự vật; những quy luật chung tác động trong một số lĩnh vực, một
số giai đoạn phát triển của sự vật và những quy luật phổ biến tác động
trong toàn bộ sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật phản ánh quá
trình phát triển từ cấp độ chung nhất của nó, trong đó, quy luật phủ định
của phủ định khái quát tính khuynh hướng của sự phát triển qua việc làm
sáng tỏ mối liên hệ giữa các nấc thang khác nhau của quá trình vận động
và phát triển trong thế giới.
Tính phổ biến của quá trình phủ định diễn ra trong tự nhiên, xã hội
và tư duy là sự phủ định làm cái cũ mất đi và cái mới tiến bộ hơn xuất

hiện. Đó là hình thức giải quyết mâu thuẫn nội tại của sự vật bị phủ định.
Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập giữa cái cũ và cái mới, giữa mặt khẳng định và mặt phủ định - trong bản
thân sự vật. Như vậy, phủ định biện chứng là tự thân phủ định, tự thân

11


phát triển. Quá trình phủ định biện chứng cũng đồng thời là quá trình tích
lũy dần về lượng để tạo nên sự biến đổi về chất của sự vật.
Phủ định biện chứng bao hàm trong nó việc giữ lại những nhân tố
tích cực của cái bị phủ định. Do đó, phủ định biện chứng là phủ định có kế
thừa - nó duy trì những nhân tố có ý nghĩa tích cực đối với sự ra đời và
phát triển của cái mới. V.I. Lênin viết: "Không phải sự phủ định sạch trơn,
không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi,
không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái
bản chất trong phép biện chứng, - dĩ nhiên, phép biện chứng bao hàm trong
nó nhân tố phủ định, và thậm chí với tính cách là nhân tố quan trọng nhất của
nó, - không, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu
của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định" [56, 245].
Trong phủ định biện chứng, kế thừa và đổi mới có ý nghĩa quyết
định khuynh hướng phát triển của sự vật. Thiếu sự kế thừa hoặc kế thừa
không gắn với đổi mới thì sẽ không làm xuất hiện cái mới với tính cách là
cái có trình độ cao hơn, hoàn thiện hơn cái bị phủ định.
Phát triển là sự vận động theo khuynh hướng tiến lên từ thấp đến
cao. Kết quả của sự vận động đó là sự ra đời của sự vật mới hoàn thiện hơn
sự vật cũ. Tuy nhiên, sự vật mới không phải ra đời từ hư vô mà các yếu tố
tích cực của sự vật cũ được giữ lại, cải biến để tham gia vào sự vật mới với
tính cách là yếu tố cấu thành của nó. Phủ định biện chứng không phải là sự
tiêu diệt giản đơn cái cũ mà là làm cho cái mới từ trong lòng cái cũ nảy
sinh, làm cho những nhân tố tích cực trong cái cũ trở thành chất liệu cần

thiết cho cái mới. Phát triển không phải là bước đi lên thuần túy mà là một
khuynh hướng xét qua nhiều giai đoạn bao hàm trong nó những bước đi
quanh co, phức tạp, đầy mâu thuẫn. Phát triển diễn ra theo quy luật phủ
định của phủ định chứ không phải chỉ những lần phủ định riêng biệt. Mỗi

12


chu kỳ phát triển có thể qua nhiều lần phủ định nhưng khái quát bằng tính
chất thì có thể quy thành hai lần phủ định có nội dung khác nhau. Phủ
định lần thứ nhất làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với nó. Phủ
định lần thứ hai tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Qua hai lần
phủ định chính của cả chu kỳ thì sự kế thừa mới tích lũy được những nhân
tố tích cực của cả phía này lẫn phía kia của giai đoạn để tạo nên sự vật
hoàn chỉnh với chất lượng mới. Phủ định của phủ định vừa là sự kết thúc
một chu kỳ phát triển vừa là điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp
theo.
Sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng là sự thống
nhất giữa loại bỏ, giữ lại, đổi mới trong nội dung và hình thức của sự vật.
Mỗi lần phủ định biện chứng được thực hiện sẽ mang lại những nhân tố
tích cực mới. Do vậy, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện
chứng sẽ tạo ra xu hướng tiến lên không ngừng.
Kế thừa là một trong những đặc trưng cơ bản, phổ biến của phủ
định biện chứng nói riêng, quy luật phủ định của phủ định nói chung. Nó
là sự biểu hiện mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình trong thế
giới (tự nhiên, xã hội, tư duy) khi cái mới thay thế cái cũ nhưng vẫn giữ lại một
hoặc một số yếu tố của cái cũ cần thiết cho sự ra đời và phát triển của cái mới.
Trong lịch sử triết học, Hêghen là người đầu tiên đã phân tích tính
kế thừa theo quan điểm biện chứng. Là người đề xuất quy luật phủ định
của phủ định, Hêghen đã xem xét tính kế thừa như một tất yếu khách quan

của sự phát triển. Quy luật phủ định của phủ định với tính cách là sự khái
quát về mặt triết học khuynh hướng của sự phát triển, được Hêghen trình
bày trong "Học thuyết về khái niệm" - một trong ba bộ phận hợp thành
"Khoa học lôgíc" của ông. Hêghen coi sự phát triển không chỉ là sự tăng,
giảm đơn thuần về lượng mà phát triển là quá trình phủ định biện chứng
trong đó diễn ra sự thay thế cái cũ bằng cái mới nhưng không loại trừ
13


những yếu tố tích cực của cái cũ. Hêghen viết: "Cái nụ hoa biến mất khi
hoa nở, và có thể nói rằng nó bị hoa phủ định; và tương tự như vậy có thể
nói khi quả xuất hiện thì sự tồn tại của hoa bị coi là vô lý, thay thế cho sự
hợp lý trước đây của hoa thì giờ đây là quả. Những hình thái trên đây
không chỉ khác nhau, mà còn bài trừ, không dung hợp nhau. Tuy nhiên,
bản chất sống động làm cho chúng trở thành những yếu tố của một chỉnh
thể hữu cơ, trong đó chúng không những không mâu thuẫn với nhau, mà
cái này cũng tất yếu như cái kia, mà chỉ có tính tất yếu như nhau như thế
tạo nên cuộc sống của chỉnh thể" (dẫn theo [132, 196-197]). Hêghen cũng
nhận thức tính kế thừa trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại. Đó là
một quá trình vừa đa dạng vừa thống nhất. Ông cho rằng, học thuyết "Ý
niệm" của Platon là sự thể hiện những chuẩn mực đạo đức, văn hóa Hy
Lạp cổ đại. Mỗi học thuyết triết học trước đây chẳng những không bị
lãng quên mà còn là một vòng khâu tất yếu trong tiến trình phát triển của
tư duy nhân loại. Bản thân Hêghen cũng xây dựng học thuyết triết học của
mình trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và tổng kết những di sản quý báu của
quá trình phát triển tư tưởng triết học trước đó.
Tuy nhiên, là nhà biện chứng duy tâm, các quy luật, phạm trù mà
Hêghen nêu ra chỉ là quy luật vận động và phát triển của tư duy, khái
niệm. Muốn thấy mặt tích cực trong quan niệm của Hêghen, phải nghiên
cứu triết học của ông trên tinh thần duy vật, nghĩa là trên cơ sở khẳng định

biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan chứ không thể
ngược lại. Điều này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
giải quyết. C. Mác đã lưu ý rằng: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng
đã mắc phải trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở
thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình
thái vận động chung của phép biện chứng ấy. Ở Hêghen, phép biện chứng

14


bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái
hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí" [74, 35].
Sự phủ định không chỉ đơn thuần là phá vỡ, xóa bỏ, triệt tiêu cái cũ
mà còn là sự duy trì và phát triển những cái hợp lý đã có, tức là kế thừa.
Kế thừa phản ánh mối liên hệ giữa các giai đoạn hay giữa các cấp độ khác
nhau trong sự phát triển của sự vật. Tính kế thừa biểu hiện ở chỗ một hay
nhiều yếu tố của sự vật được bảo tồn khi sự vật chuyển từ trạng thái này
sang trạng thái khác. Như vậy, khi xem xét tính kế thừa cần phải hiểu rõ cấu
trúc của sự vật, so sánh cấu trúc đó ở các thời điểm khác nhau để thấy những
yếu tố được bảo lưu khi sự vật chuyển sang dạng tồn tại khác của chính nó.
Tính kế thừa biểu hiện trong tự nhiên, xã hội và tư duy mối liên hệ
tất yếu giữa cái cũ và cái mới trong quá trình phát triển của sự vật. Mỗi sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là một cái riêng, trong đó có
những cái khác biệt với những sự vật, hiện tượng khác, đồng thời có cái
chung với những sự vật, hiện tượng khác. Chính cái chung này là cơ sở,
điều kiện cho sự kế thừa trong quá trình phát triển của sự vật.
Tính kế thừa biểu hiện trong sự thống nhất giữa gián đoạn và liên
tục trong sự vận động và phát triển của sự vật. Tính gián đoạn biểu hiện ở
sự khác nhau giữa các cấu trúc, trạng thái của sự vật, tính liên tục biểu
hiện mối liên hệ giữa các trạng thái, cấu trúc của sự vật. Nối liền giữa cái

bị phủ định với cái phủ định, sự kế thừa là biểu hiện của tính liên tục giữa
cái cũ và cái mới trong quá trình vận động và phát triển trong thế giới.
Nội dung của kế thừa phụ thuộc vào hình thức biến đổi của đối
tượng mà tiến hóa và đột biến là các dạng phát triển cơ bản của sự vật,
tương ứng với nó là kế thừa một cấp độ và kế thừa nhiều cấp độ. Kế thừa
một cấp độ là kế thừa trong quá trình biến đổi về lượng xảy ra trong lòng

15


một chất. Kế thừa nhiều cấp độ là kế thừa gắn liền với những biến đổi cơ
bản về chất của sự vật [3, 12-13].
Trong kế thừa một cấp độ, cấu trúc của sự vật về cơ bản được bảo
lưu. Chẳng hạn, trong sự phát triển của một loài sinh vật các thế hệ sau
mang những đặc điểm giống thế hệ trước do chịu ảnh hưởng của di truyền.
Nhìn chung, hạn chế của kế thừa một cấp độ là sự vật còn bảo lưu những
yếu tố cho sự tái sinh các hiện tượng, quá trình cũ trong điều kiện mới.
Trong kế thừa nhiều cấp độ, có sự bảo lưu những yếu tố nào đó của
cấu trúc cũ, nhưng nhìn chung, cấu trúc của sự vật bị biến đổi cơ bản và
chính sự biến đổi đó quyết định sự phát triển tiếp theo của nó. Chẳng hạn,
hình thức cao của vận động bao hàm trong nó những hình thức vận động
thấp hơn (vận động sinh học bao hàm trong nó các vận động cơ học, vật
lý, hóa học song đặc trưng sinh học là cái chi phối).
Kế thừa là nhân tố bên trong của sự phát triển. Không thể nói đến
sự phát triển mà tước bỏ tính kế thừa. Mặt khác, sự phát triển còn bao hàm
sự đổi mới trong nội dung, cấu trúc của sự vật. Một sự "kế thừa" theo kiểu
bê nguyên xi cái cũ sẽ không đem lại sự phát triển từ thấp đến cao, từ kém
hoàn thiện đến hoàn thiện. Nhờ kế thừa và đổi mới mà sự vật vừa giữ lại
những yếu tố tích cực của cái cũ vừa mang những đặc điểm, thuộc tính của
cái mới.

Kế thừa và đổi mới là tính quy luật phổ biến trong các quá trình
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong giới tự nhiên, những nguyên tố vô cơ được giữ lại khi
chuyển sang giới tự nhiên hữu cơ. Trong thế giới động vật, kế thừa là điều
kiện để hoàn thiện các hình thức sống trên cơ sở di truyền và chọn lọc tự
nhiên.
Trong sự phát triển của xã hội, tính kế thừa cũng bộc lộ rõ nét mà
lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất là một minh chứng.
16


Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử của sự phát triển
sản xuất, lịch sử của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến
cao. Quá trình sản xuất cũng chính là quá trình con người từng bước phát
triển lực lượng sản xuất của mình mà trước hết là hoàn thiện công cụ lao
động, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo của mình. Nhưng không thể hoàn
thiện công cụ lao động, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người nếu
không dựa vào những lực lượng sản xuất đã đạt được từ sự phát triển trước
đó. Không có sự hoàn thiện từng bước công cụ lao động và trao truyền
kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác thì sẽ không nâng cao được
hiệu quả sản xuất và do đó cũng không có sự tiến bộ xã hội nói chung, vì
sản xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người
qua mọi thời kỳ lịch sử. Ngay giai cấp vô sản, với tính cách là lực lượng
sản xuất hàng đầu của xã hội hiện đại, cũng được sinh ra và phát triển
cùng với phương thức sản xuất TBCN. Phương thức sản xuất này đã rèn
luyện cho họ tính tổ chức, kỷ luật, tri thức quản lý, kỹ năng nghề nghiệp...
mà điều này rất cần cho công cuộc xây dựng CNXH.
Các quan hệ sản xuất nối tiếp nhau trong lịch sử cũng chịu ảnh
hưởng của tính kế thừa, mặc dù điều này khó nhận thấy hơn so với kế thừa
trong sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất mới ra đời từ sự phủ định quan hệ sản xuất cũ,
nhưng điều đó không có nghĩa là quan hệ sản xuất mới đối lập tuyệt đối
với quan hệ sản xuất cũ vì bản thân nó cũng được xây dựng trên một số
tiền đề được tạo ra từ sự vận động của quan hệ sản xuất cũ. Mỗi loại hình
quan hệ sản xuất trong lịch sử,vào giai đoạn trưởng thành, nhất là vào giai
đoạn cuối của nó có thể tạo ra những hình thức kinh tế mà quan hệ sản
xuất ra đời sau sẽ kế thừa và phát triển trên cơ sở của một trình độ lực
lượng sản xuất mới cao hơn. Ngay cả các quan hệ sản xuất khác nhau về
bản chất như quan hệ sản xuất TBCN và quan hệ sản xuất XHCN thì một
17


số yếu tố của quan hệ sản xuất TBCN vẫn còn phát huy tác dụng tích cực
nhất định trong quá trình xây dựng quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản
xuất XHCN. Sự ra đời của các công ty cổ phần trong chế độ TBCN chứng
tỏ rằng, bản thân sở hữu tư nhân đã có nhiều hình thức kinh tế để thực
hiện mà các chủ thể xây dựng CNXH cần tham khảo và vận dụng phù hợp.
Những hình thức tổ chức quản lý nền sản xuất xã hội như khoán, đấu thầu
và các nghiệp vụ quản lý sản xuất kinh doanh, các biện pháp áp dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ mới vào sản xuất của CNTB chứa đựng những
nhân tố phổ biến có thể và cần phải được vận dụng trong quá trình xây
dựng phương thức sản xuất XHCN. Việc nhà nước tư sản can thiệp vào
quá trình kinh tế - xã hội bằng pháp luật và các chính sách điều tiết ở tầm
vĩ mô như chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả... đã tạo nên những tiền đề
nhất định để nhà nước XHCN kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân trong
điều kiện xây dựng CNXH.
Những biến đổi theo xu hướng tiến bộ trong đời sống kinh tế của
xã hội tất yếu dẫn đến những biến đổi trong đời sống tinh thần của xã hội.
Điều đó thể hiện khả năng to lớn của quần chúng nhân dân qua các thời
đại lịch sử. Sự xuất hiện và phát triển của các hình thái ý thức xã hội như ý

thức chính trị, ý thức đạo đức, nghệ thuật, triết học... thể hiện rõ sự kế thừa
và đổi mới trong sự phát triển nhận thức của con người. Khi nghiên cứu
lịch sử phát triển của triết học, Hêghen cho rằng, triết học hiện đại là kết
quả của những nguyên lý có trước đó, mỗi trình độ đạt được của triết học
trước đó là cơ sở cho trình độ sau. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
cũng nhận xét rằng, trong triết học Hy Lạp cổ đại đã có tất cả những mầm
mống của các trường phái triết học sau này.
Tính kế thừa, như đã phân tích ở trên, phản ánh mối liên hệ lịch sử
giữa các sự vật, hiện tượng, quá trình phát triển trong thế giới. Thiếu sự kế

18


thừa sẽ không có sự phát triển vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng không
thể ra đời từ hư vô.
Kế thừa theo quan điểm biện chứng không phải là bê nguyên xi cái
cũ mà là quá trình chọn lọc, cải biến và nâng cao những yếu tố tích cực
của cái cũ. Như vậy, nội dung của kế thừa đã ít nhiều chứa đựng những
mặt, yếu tố của đổi mới.
Kế thừa và đổi mới gắn bó chặt chẽ với nhau trong sự phát triển
của sự vật nhưng chúng không đồng nhất nhau. Bản thân phạm trù đổi mới
có tính độc lập tương đối của nó. Đổi mới chính là sự thay thế cái này
bằng cái khác cao hơn, hoàn thiện hơn. Đó là quá trình diễn ra thường xuyên
với nhiều mức độ, hình thức, phạm vi... khác nhau. Đó có thể là sự bổ sung
yếu tố mới vào sự vật đã có hoặc đưa nội dung mới vào hình thức cũ của
sự vật; là sự thay đổi trật tự trong cấu trúc của sự vật hoặc sự mở rộng chức
năng của nó... và, nói chung, đó là sự thay thế cái cũ bởi cái mới có chất
lượng cao hơn.
Chính nhờ có sự kết hợp giữa kế thừa và đổi mới mà sự vật mới
vừa chứa đựng những yếu tố tích cực của cái cũ vừa mang những đặc

điểm, thuộc tính mới mà sự vật, quá trình trước chưa có. Ở đây, cần phân
biệt cái mới thật và cái mới giả tạo. Cái mới giả tạo khác với cái mới thật ở
chỗ cái mới giả tạo thực chất chỉ là cái cũ, cái lỗi thời được ngụy trang.
Trong điều kiện nào đó, để kéo dài sự tồn tại của mình, cái cũ, cái lỗi thời
có thể tái sinh dưới hình thức mới. Do vậy, không được lẫn lộn cái cũ và
cái mới.
Lịch sử xã hội loài người lần lượt trải qua các chế độ xã hội khác
nhau, từ chế độ công xã nguyên thủy đến chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, chế độ TBCN và chế độ XHCN - giai đoạn đầu và thấp của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mỗi chế độ xã hội ra đời sau
đều kế thừa những nhân tố tích cực của sự phát triển trước đó về các mặt
19


kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội..., đồng thời đổi mới các nhân tố đó phù
hợp với yêu cầu của sự phát triển xã hội.
Chế độ công xã nguyên thủy là chế độ không có giai cấp, không
có áp bức, bóc lột. Nó bị phủ định bởi xã hội có giai cấp. Theo quy luật
phát triển tất yếu của nó, xã hội có giai cấp sẽ bị phủ định bởi chế độ cộng
sản chủ nghĩa văn minh không có giai cấp, không có áp bức bóc lột.
Chế độ cộng sản chủ nghĩa là sự phủ định các chế độ xã hội đã qua,
đồng thời nó kế thừa và nhân lên những giá trị vật chất và tinh thần mà
loài người đã tích lũy trong các giai đoạn trước đó. Xã hội cộng sản văn
minh lặp lại một số đặc điểm của xã hội cộng sản nguyên thủy (chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, không có giai cấp, không có nhà nước và chế
độ người bóc lột người) nhưng trên một cơ sở hoàn toàn khác, với một
chất lượng mới - chế độ công xã nguyên thủy dựa trên trình độ thấp kém
của lực lượng sản xuất còn chế độ cộng sản văn minh dựa trên trình độ
phát triển rất cao của lực lượng sản xuất, bảo đảm cho mỗi người có thể
"làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu".

Chế độ cộng sản văn minh vừa phủ định triệt để những nhân tố tiêu
cực, lạc hậu kìm hãm sự phát triển của xã hội trong các xã hội có đối
kháng giai cấp vừa tổng hợp trong bản thân mình những thành quả tốt đẹp
của các xã hội đó trên cơ sở mới. Đó là điều kiện không thể thiếu được để
tạo nên sự phát triển cao hơn về chất của chủ nghĩa cộng sản so với các
chế độ xã hội trước đó. C.Mác đã từng khẳng định: "Phương thức chiếm
hữu TBCN do phương thức sản xuất TBCN đẻ ra, và do đó cả chế độ tư
hữu TBCN nữa đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân
dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất TBCN lại đẻ ra sự phủ
định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ
định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu, mà
khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời
đại TBCN: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng
20


đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra" [74, 1059-1060].
Tuy nhiên, một khi loài người đạt đến chủ nghĩa cộng sản trong tương lai
thì không phải là kết thúc quá trình phủ định biện chứng vì sự vận động và
phát triển của xã hội là quá trình không ngừng. Khi chủ nghĩa cộng sản
được thiết lập thì bản thân nó lại tiếp tục quá trình tự phủ định, tự đổi mới
để ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn.
Trong lịch sử phát triển của triết học, các trường phái triết học lần
lượt xuất hiện trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được trước đó,
xét ở từng phạm trù triết học cũng như từng trường phái triết học. Ph.
Ăngghen viết: "... Là một lĩnh vực đặc biệt của sự phân công lao động,
triết học của mỗi thời đại đều có, với tư cách là tiền đề, một chất liệu tư
tưởng nhất định, do những người đi trước nó truyền lại cho nó và nó xuất
phát từ chất liệu ấy" [75, 681-682].
Các nhà duy vật là những người kiên trì kế thừa và đổi mới nội

dung và hình thức của quan điểm duy vật. Họ đã góp phần đấu tranh
chống quan điểm duy tâm và tôn giáo, bảo vệ quan điểm duy vật. Hình
thức của quan điểm duy vật thay đổi theo điều kiện lịch sử của từng thời
đại, từ chủ nghĩa duy vật thô sơ đến chủ nghĩa duy vật siêu hình và đỉnh
cao là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngay từ
thời cổ đại, khái niệm vật chất - khái niệm nền tảng của chủ nghĩa duy vật
- đã được các nhà duy vật tập trung làm sáng tỏ. Lúc đầu, người ta có xu
hướng đi tìm nguyên tố đầu tiên cấu tạo nên vật chất. Sau đó, vật chất
được quy về dạng trừu tượng hơn là nguyên tử mà người đầu tiên nêu lên
quan điểm đó là Lơxip. Quan điểm này được Đêmôcrit phát triển thành
học thuyết nguyên tử. Học thuyết đó được Bêcơn, Hốpxơ, Điđơrô,
Phoiơbắc... kế thừa và phát triển thêm với những nội dung phong phú hơn.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do hàng loạt những phát
minh mới trong khoa học tự nhiên, nhất là của vật lý học, khái niệm vật

21


chất được bổ sung thêm những nội dung mới ở tầm khái quát, thể hiện
trong định nghĩa "vật chất" của V.I. Lênin. Với quan niệm này thì nguyên
tử chỉ là một mức độ tổ chức của vật chất chứ không phải là cơ sở cuối
cùng của toàn bộ thế giới vật chất.
Để phát triển chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác đã kế thừa và đổi mới cả chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc
và phép biện chứng duy tâm của Hêghen để xây dựng chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử mà, theo Ph. Ăngghen: "Chủ
nghĩa duy vật hiện đại - phủ định cái phủ định - không chỉ là phục hồi lại đơn
giản chủ nghĩa duy vật cũ, mà đã đưa thêm vào nền móng vững chắc của chủ
nghĩa duy vật cũ tất cả nội dung tư tưởng của hai nghìn năm phát triển của

triết học của khoa học tự nhiên, và cả nội dung tư tưởng của chính hai
nghìn năm lịch sử đó nữa" [72, 197]. Ở đây, "... triết học đã được "vượt
qua", nghĩa là "vừa được khắc phục, vừa được bảo tồn", được khắc phục
về hình thức, được bảo tồn về nội dung hiện thực" [72, 197].
Có thể nói "Chủ nghĩa Mác là một thí dụ chỉ rõ ràng chủ nghĩa
cộng sản đã phát sinh như thế nào từ tổng số những kiến thức của nhân loại"
[61, 360]. Song, như C.Mác đã lưu ý rằng: "Phương pháp biện chứng của
tôi không những khác phương pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập
hẳn với phương pháp ấy nữa. Đối với Hêghen, quá trình tư duy - mà ông ta
thậm chí còn biến thành một chủ thể độc lập dưới cái tên gọi ý niệm chính là vị thần sáng tạo ra hiện thực, và hiện thực này chẳng qua chỉ là
biểu hiện bên ngoài của tư duy mà thôi. Đối với tôi thì trái lại, ý niệm chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi ở trong đó" [74, 35].
Sự ra đời của triết học Mác là một cuộc cách mạng trong lịch sử
triết học, nhưng đó không phải là điểm kết thúc của nhận thức triết học mà
22


bản thân triết học Mác cũng không ngừng được bổ sung và hoàn thiện để
ngày càng khái quát đầy đủ hơn tính chất phong phú, đa dạng của sự phát
triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy trong điều kiện mới. V.I. Lênin viết:
"Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì xong xuôi hẳn
và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng
cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn
nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống" [55,
232].
Như vậy, sự phát triển của nhận thức nói chung, khoa học, triết học
nói riêng được đánh dấu bởi những phát minh, những đổi mới, nhưng bao
giờ cũng trên cơ sở của thực tiễn và sự chắt lọc những hiểu biết đã được
tích lũy từ trước đó. Nghiên cứu lịch sử phát triển của các ngành khoa học,

thậm chí của từng phát minh khoa học, người ta đều nhận thấy rõ vai trò to
lớn của sự kế thừa trong tiến trình phát triển nhận thức của nhân loại.
Sự phát triển của nghệ thuật cũng không thể thiếu sự đổi mới
thường xuyên. Nhưng không thể hình dung được sự đổi mới này nếu thiếu
sự kế thừa truyền thống nghệ thuật mà loài người đã sáng tạo ra. Truyền
thống nghệ thuật bao gồm: những nguyên tắc thẩm mỹ nhất định; những
thủ pháp sáng tạo nghệ thuật cụ thể chung cho các dân tộc khác nhau
trong từng thời đại và trong những thời đại lịch sử khác nhau; những yếu
tố gắn liền với các hình thức đặc thù dân tộc được truyền đạt từ thế hệ này
đến thế hệ khác trong mỗi dân tộc; những yếu tố đặc trưng cho sự tồn tại
của các trường phái nhất định trong nghệ thuật... [1, 80]. Những truyền
thống nghệ thuật đó thường xuyên được duy trì, bồi bổ qua sự sáng tạo của
các thế hệ người nối tiếp nhau trong lịch sử. Chẳng hạn, nghệ thuật phục
hưng - một trào lưu văn hóa, văn nghệ xuất phát từ Ý (thế kỷ XIV-XV) rồi
lan ra các nước Tây và Trung Âu - đã kế thừa một cách tích cực những
thành tựu rực rỡ của nghệ thuật Hy-La cổ đại.

23


Kế thừa và đổi mới là hai mặt thống nhất biện chứng trong sự phát
triển. Chúng không tách rời nhau mà luôn thâm nhập vào nhau.
Kinh nghiệm xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta trong những năm qua cho thấy, việc học tập kinh nghiệm xây
dựng CNXH ở các nước đi trước là điều hết sức cần thiết đối với những
nước đi sau. Song, nếu chỉ bê nguyên xi kinh nghiệm nước ngoài mà
không tính đến đặc điểm của đất nước để vận dụng cho thích hợp thì sẽ
làm ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp xây dựng CNXH. Do vậy, phải hết sức
sáng tạo trong việc vận dụng kinh nghiệm nước ngoài. Mặt khác, khi thực
hiện bất kỳ sự đổi mới nào cũng phải gắn với kế thừa những thành tựu đã

đạt được. Đó là chất liệu ban đầu cần thiết để tạo dựng nên cái mới. Tránh
quan điểm hư vô, phi lịch sử.
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng
XHCN, Đảng ta chỉ rõ, đổi mới không phải là phủ nhận những thành tựu
đã đạt được trong quá khứ, không phải là tước bỏ tính cách mạng và tính
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà đổi mới
chính là phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong hoạt động nhận thức và thực tiễn xây dựng CNXH ở
nước ta. Rõ ràng là, một khi nhận thức lý luận và công tác lý luận bị lạc
hậu quá xa so với thực tiễn trong nước và trên thế giới thì đổi mới mang tính
cách mạng là yêu cầu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của nhận
thức.
Quan điểm siêu hình coi kế thừa và đổi mới là hai quá trình loại trừ
nhau. Theo quan điểm này, khi thực hiện sự thay đổi nào đó có nghĩa là
phải bắt đầu xóa bỏ hoàn toàn những gì đã có từ trước. Tiêu biểu cho quan
điểm sai lầm này là những người thuộc phái "Văn hóa vô sản" tồn tại trong
những năm đầu sau Cách mạng tháng Mười Nga. Những người trong phái

24


"Văn hóa vô sản" chủ trương xây dựng một nền văn hóa vô sản hoàn toàn
mới, không liên quan chút nào đến các nền văn hóa trước đó. Họ cho rằng,
các nền văn hóa trước đó được tạo ra trong xã hội có đối kháng giai cấp
đều là của giai cấp quý tộc hay giai cấp tư sản nên phải xóa bỏ tất cả và
xây dựng lại từ đầu và hoàn toàn mới nền văn hóa "thuần túy vô sản". V.I.
Lênin đã nghiêm khắc phê phán và kiên quyết đấu tranh chống lại quan
điểm sai trái đó và Người khẳng định: "Văn hóa vô sản không phải bỗng
nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về
văn hóa vô sản, phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hóa vô

sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài
người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn
địa chủ và xã hội của bọn quan liêu" [61, 361].
Những phân tích trên cho thấy, kế thừa và đổi mới là quá trình có
tính quy luật chung của sự phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Song, kế thừa và đổi mới có những đặc điểm riêng, tùy theo tính chất, đặc
điểm của từng sự vật, hiện tượng, quá trình nhất định.
Các sự vật, hiện tượng và quá trình trong thế giới khách quan tồn
tại dưới nhiều hình thức phong phú với bản chất, đặc trưng riêng. Điều đó
quy định tính đặc thù trong kế thừa và đổi mới của nó.
Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề kế thừa và đổi mới trong sự phát
triển của đạo đức, cần phải vạch rõ những biểu hiện đặc thù của nó với
tính cách là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và xem xét
nó trong tương quan với các hình thái ý thức xã hội khác.
1.2. ĐẶC THÙ CỦA KẾ THỪA VÀ ĐỔI MỚI TRONG SỰ PHÁT
TRIỂN ĐẠO ĐỨC

Đạo đức, với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm hệ
thống những quan điểm, quan niệm, quy tắc, chuẩn mực nhờ đó con người

25


×