Tải bản đầy đủ (.doc) (165 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ VAI TRÒ của NHÀ nước đối với VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN dân CHỦ NHÂN dân ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.55 KB, 165 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội đã được Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định là một trong những vấn đề cốt lõi. Ngay từ khi khởi xướng đường
lối đổi mới này, Đảng ta đã coi việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
không chỉ là một trong những nội dung thể hiện bản chất của chế độ ta, mà
còn là một động lực không thể thiếu của công cuộc xây dựng chế độ xã hội
tốt đẹp đó.
Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay
mặt nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - Nhà nước của dân,
do dân và vì dân mà chúng ta đang từng bước xây dựng - cần phải có đủ
quyền lực, đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời
sống xã hội bằng luật pháp, theo pháp luật. Trong Nhà nước đó, mọi quyền
lực đều thuộc về nhân dân. Để bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi
lĩnh vực, bản thân Nhà nước đó phải tự đổi mới, phải tác động với hiệu quả
ngày càng cao tới việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân. Song đây lại
là một vấn đề hoàn toàn không đơn giản.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có đổi mới hệ thống chính trị,
việc đổi mới hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện
toàn các cơ quan nhà nước để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của
Nhà nước, để nâng cao từng bước vai trò của Nhà nước trong việc thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân đã trở thành vấn đề quan tâm hàng đầu
của các chính khách và giới nghiên cứu lý luận nước ta. Trong đó, vấn đề



2

xác định vai trò của Nhà nước ta đối với việc thực hiện và phát huy quyền
dân chủ của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay luôn
chiếm vị trí đặc biệt. Song, đến nay không phải mọi vấn đề đã được giải
quyết một cách thấu đáo trên bình diện lý luận.
Trên thực tế, thực tiễn của 15 năm tiến hành đổi mới hệ thống chính
trị, đổi mới Nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội đã đem lại
cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu về tổ chức nhà nước, về việc phát
huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân lao động. Bên cạnh những
thành tựu mà chúng ta đã đạt được trên lĩnh vực này, ở nơi này nơi khác,
lĩnh vực này hay lĩnh vực khác vẫn còn có tình trạng vừa thiếu dân chủ,
vừa thiếu kỷ cương; trật tự xã hội yếu kém, quyền làm chủ của nhân dân bị
vi phạm, sự tác động của các cơ quan nhà nước đến việc thực hiện quyền
dân chủ của nhân dân còn kém hiệu quả. Trong khi đó, sự vận động và phát
triển của xã hội ta hiện nay đang đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản
trong tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Nhà nước, phải nâng
cao hơn nữa hiệu quả tác động của Nhà nước tới việc mở rộng và phát huy
quyền dân chủ của nhân dân. Đây đang là một đòi hỏi thực tiễn mà chúng
ta không thể né tránh.
Như vậy, có thể nói, cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn, vấn đề
xác định vai trò của Nhà nước tới việc mở rộng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân ta hiện nay vẫn đang là vấn đề có tính thời sự cấp bách.
Từ những suy nghĩ đó, chúng tôi chọn vấn đề "Vai trò của Nhà
nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam hiện
nay" làm đề tài cho luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh đề tài này, ở nước ta trong những năm gần đây, nhiều
Văn kiện của Đảng và Nhà nước, nhiều bài phát biểu quan trọng của các



3

đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đưa ra những định hướng cơ bản
cho việc xây dựng và củng cố nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, từng bước xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Trong
đó, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Nhà nước ta trong việc phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
Nói về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về quan điểm của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về vấn
đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân, về vai trò của nhà nước trong
việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, có thể kể
đến các công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả: Nguyễn Duy Quý,
Phạm Ngọc Quang, Hoàng Chí Bảo, Hồ Văn Thông, Nguyễn Trọng Chuẩn,
Phạm Như Cương, Nguyễn Duy Gia, Hoàng Văn Hảo, Dương Xuân Ngọc,
Đặng Hữu Toàn, Lưu Văn Sùng, Trần Ngọc Đường, Nghiêm Hưng,
Nguyễn Tiến Phồn...
Vấn đề mối quan hệ giữa đổi mới Nhà nước, cải cách nền hành
chính quốc gia với việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân đã được thể
hiện đậm nét trong các công trình và bài viết của các tác giả: Phạm Ngọc
Quang, Lưu Bích Thu, Nguyễn An Lương, Ngọc Kim, Hà Quang Ngọc, Võ
Kim Sơn, Nguyễn Văn Thảo, Lê Minh Thông...
Về ảnh hưởng của tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà
nước, việc phát huy quyền dân chủ của nhân dân đã được thể hiện tập trung
trong các bài viết của các tác giả Phạm Như Cương, Vũ Đương, Nguyễn
Trần Thành, Đào Trí Úc ...
Trong những công trình và bài viết của các tác giả: Phạm Ngọc
Quang, Nguyễn Văn Mạnh, Hoàng Minh, Lương Ngọc, Trần Quang Nhiếp,
Chu Thành, Hoàng Công, Bùi Ngọc Trinh... đã đề cập tới giải pháp này hay
khác, tới các khía cạnh khác nhau của một giải pháp cụ thể cho việc nâng

cao vai trò tác động của Nhà nước tới việc thực hiện quyền dân chủ của


4

nhân dân.
Phần nào đó liên quan đến đề tài này còn có các luận án tiến sĩ triết
học của Lê Thanh Thập: "Dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ ở nước ta
hiện nay" (bảo vệ tại Viện Triết học năm 1995), Lê Minh Quân: "Mối quan
hệ giữa việc xây dựng Nhà nước pháp quyền với sự phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa" (bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh năm 2000)...
Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu với tư cách là một luận án
tiến sĩ triết học về vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân
chủ của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn đổi mới đất nước, như đề tài
này xác định, thì cho đến nay vẫn chưa có ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án này là: Trên cơ sở làm rõ về phương diện lý
luận vai trò của Nhà nước đối với việc mở rộng và thực hiện quyền dân chủ
của nhân dân ta trong công cuộc đổi mới hiện nay, luận án nêu ra một số
phương hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả tác động của Nhà
nước tới việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ta trong giai đoạn hiện
nay.
Để thực hiện mục đích đó, luận án có nhiệm vụ:
- Thứ nhất, làm rõ nội dung cơ bản của khái niệm "dân chủ",
"quyền dân chủ" và vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện quyền dân
chủ trong lịch sử.
- Thứ hai, phân tích và làm rõ vai trò của Nhà nước ta trong việc
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới ở nước ta
những năm qua.

- Thứ ba, đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm


5

nâng cao hiệu lực, hiệu quả tác động của Nhà nước tới việc mở rộng quyền
dân chủ của nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về dân chủ, về việc xây dựng
và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, về vai trò của Nhà nước trong
việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân và kế thừa quan niệm của các
nhà nghiên cứu có liên quan đến đề tài này.
- Để thực hiện luận án này, chúng tôi sử dụng các phương pháp
phân tích và tổng hợp, kết hợp phương pháp lôgíc và phương pháp lịch sử,
phương pháp của xã hội học.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Thứ nhất, luận án góp phần làm rõ vai trò của Nhà nước đối với
việc thực hiện dân chủ trong lịch sử.
- Thứ hai, qua phân tích thực trạng tác động của Nhà nước tới việc
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ta trong những năm chúng ta thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, luận án góp phần khẳng định rằng, từng
bước đổi mới hệ thống chính trị nói chung, đổi mới Nhà nước nói riêng,
tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện không thể thiếu để
nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của
nhân dân ta trong giai đoạn hiên nay.
- Thứ ba, tác giả luận án đã đề xuất phương hướng và một số giải
pháp cơ bản để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
tác động của Nhà nước tới việc mở rộng và phát huy quyền dân chủ của
nhân dân ta hiện nay.



6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, về vai trò của Nhà nước trong việc mở rộng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân; làm rõ thực trạng của vấn đề này ở nước ta hiện nay và
luận chứng tính khả thi của các giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả tác động của Nhà nước tới việc mở rộng và phát huy quyền dân chủ
của nhân dân ta hiện nay.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
giảng dạy triết học Mác - Lênin (phần Nhà nước xã hội chủ nghĩa) và cho
những ai quan tâm tới việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong việc thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm 3 chương, 7 tiết.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
DÂN CHỦ VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN DÂN CHỦ TRONG LỊCH SỬ
Trong nhiều công trình của mình, Ph. Ăngghen cho rằng động cơ đã
lay chuyển những khối quần chúng đông đảo, những dân tộc trọn vẹn là
động lực thực tế cuối cùng của lịch sử. Rõ ràng là, chính quần chúng sáng
tạo ra lịch sử. Nhưng, năng lực sáng tạo đó cần một môi trường chính trị
trong sạch, thuận lợi để hiện thực hóa. Môi trường đó chính là dân chủ. Và
cũng chính vì vậy, vấn đề dân chủ hiện nay, trong bối cảnh nhân tố chủ
quan đang đóng một vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự sống còn và sự



7

phát triển của toàn bộ nền văn minh nhân loại, đang trở thành một vấn đề
có ý nghĩa thực tiễn và lý luận hết sức cấp bách.
Trước khi đi sâu vào vấn đề thực hiện dân chủ ở nước ta, cần làm rõ
khái niệm "dân chủ", "quyền dân chủ" và vai trò của nhà nước đối với việc
thực hiện các quyền dân chủ của nhân dân trong lịch sử.
1.1. "DÂN CHỦ" VÀ "QUYỀN DÂN CHỦ"

1.1.1. "Dân chủ"
Cuối thời kỳ cộng sản nguyên thủy, vấn đề dân chủ đã giữ một vị trí
đặc biệt trong hàng loạt vấn đề xã hội, làm đau đầu các nhà triết học, luật
học, các nhà khoa học xã hội nói chung suốt bao thế kỷ. Khi viết về dân
chủ, các nhà khoa học đã đưa ra nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau, thậm
chí còn đối lập nhau. Tất cả quan điểm, quan niệm ấy đều đặt ra một mục
đích duy nhất là làm sáng tỏ: Dân chủ là gì? Cái gì không phải là dân chủ?
Cái gì mang tính dân chủ ? Cho tới nay, các nhà khoa học vẫn chưa đưa ra
được một sự lý giải thống nhất cho các vấn đề ấy.
Trước khi đi sâu vào phân tích khái niệm dân chủ, chúng ta xem xét
một số cách tiếp cận cơ bản khi lý giải vấn đề dân chủ.
Cách tiếp cận với dân chủ từ giác độ từ nguyên học. Theo cách tiếp
cận này, "dân chủ" được dịch từ tiếng Hy lạp cổ như là "quyền lực của nhân
dân". Theo chúng tôi, Lincôn đã giải mã chính xác nội dung của khái niệm
này: đó là sự cầm quyền của dân, do dân và vì dân.
Từ quan niệm từ nguyên học, dân chủ còn là một hình thức xây
dựng bất kỳ tổ chức nào căn cứ trên sự tham gia bình quyền của các thành
viên tổ chức vào việc quản lý và thông qua quyết định theo nguyên tắc đa
số. Với nghĩa đó, người ta nói tới dân chủ trong đảng, trong công đoàn,
trong sản xuất và, thậm chí, trong gia đình. Được hiểu theo nghĩa rộng như

vậy, dân chủ có thể tồn tại ở khắp mọi nơi có tổ chức, có quyền lực và quản


8

lý.
Cũng gắn liền với quan niệm từ nguyên học, "dân chủ" được xem là
lý tưởng về chế độ xã hội căn cứ trên một hệ thống giá trị xác định và thế
giới quan phù hợp với lý tưởng ấy. Các giá trị cấu thành lý tưởng này bao
gồm: tự do, bình đẳng, các quyền của con người, chủ quyền của nhân dân,
v.v..
Nghĩa thứ tư của cách tiếp cận với dân chủ từ giác độ từ nguyên
học: dân chủ được xem là phong trào chính trị - xã hội vì quyền lực của
nhân dân, vì việc thực hiện các mục đích và các lý tưởng dân chủ. Phong
trào này đã xuất hiện ở châu Âu dưới ngọn cờ đấu tranh với chế độ chuyên
chế phong kiến vì sự giải phóng và bình quyền của đẳng cấp thứ ba; dần
dần phong trào này đã mở rộng mục đích và quy mô người tham gia trong
tiến trình lịch sử. Các phong trào dân chủ hiện đại là vô cùng đa dạng. Đó
là phái dân chủ xã hội, dân chủ Thiên Chúa giáo, phái tự do, v.v và v.v.
Cách tiếp cận thứ hai với dân chủ là cách tiếp cận giá trị. Dân chủ
với tư cách quyền lực của nhân dân được coi như một giá trị đứng ngang
hàng với các giá trị cơ bản khác của con người - như tự do, bình đẳng, tôn
trọng phẩm giá của con người, đoàn kết. Dân chủ trở nên rất phổ biến
trong thế giới hiện đại trước hết là nhờ chính nội dung giá trị ấy của nó.
Cách tiếp cận thứ hai này về dân chủ từ khi chủ nghĩa tư bản xuất
hiện, theo chúng tôi, có cả mặt tiến bộ lẫn mặt phản tiến bộ. Mặt tiến bộ
của nó là ở sức hấp dẫn của các giá trị mới so với chế độ quân chủ chuyên
chế được bao chứa trong nó, là ở khả năng lôi kéo được nhiều người vào
hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện lý tưởng dân chủ dù còn rất hạn chế.
Mặt phản tiến bộ của nó là ở sự tách rời với hiện thực, là ở sự lý tưởng hóa

dân chủ đến mức lừa bịp đại đa số nhân dân về rất nhiều mặt trong đời sống
xã hội với các chiêu bài "Dân chủ phi giai cấp, siêu giai cấp", "đánh lận con
đen" bằng những "giá trị chung", "giá trị nhân loại", kể cả những cái phản


9

giá trị đối với nhân dân. Trước khi có chủ nghĩa xã hội, nền dân chủ chưa ở
đâu và chưa bao giờ thực sự là quyền lực của nhân dân. Từ thời điểm xuất
hiện khái niệm này, dân chủ, về cơ bản, luôn gắn liền với Nhà nước, tức là
với sự cưỡng bức; trong trường hợp tốt nhất, nó cũng chỉ là hình thức cầm
quyền của thiểu số có đặc quyền được tổ chức tốt, ít nhiều chịu sự giám sát
của nhân dân. Dân chủ thực tại vẫn còn rất xa với các giá trị dân chủ (tự do,
bình đẳng, v.v.).
Cách tiếp cận thứ ba với dân chủ là cách tiếp cận kinh nghiệm.
Việc vạch rõ yếu tố không tưởng, sự không phù hợp giữa khái niệm chuẩn
mực về dân chủ và hiện thực, lý tưởng và cuộc sống sẽ dẫn đến cách tiếp
cận kinh nghiệm chủ nghĩa trong quan niệm về dân chủ. Cách tiếp cận này
được hình thành trên cơ sở trừu tượng hóa lý tưởng và đưa ra các phán
đoán mang tính tiên nghiệm. Với cách tiếp cận này, yêu cầu nghiên cứu dân
chủ với tư cách là dân chủ tự nó đã được coi là đòi hỏi bức thiết. Trong
cách tiếp cận này, khái niệm dân chủ và lý luận dân chủ được đã xem xét
lại theo những tiêu chí được coi là chuẩn mực trong các công trình nghiên
cứu mang tính kinh nghiệm. Do vậy, trong cách tiếp cận này, khái niệm
"dân chủ" được xây dựng trên cơ sở hiện thực nhưng lại không quan tâm
đến các giá trị dân chủ được nhà nước tuyên bố. Ở đây, dân chủ được lý
giải là một hình thức cầm quyền trong cuộc đấu tranh quyền lực giữa các
nhà lãnh đạo, các chính khách, là cái được hình thành bởi sự tin tưởng của
cử tri qua các cuộc bầu cử.
Khi tính đến sự bất đồng lớn giữa cách tiếp cận giá trị và cách tiếp

cận kinh nghiệm về "dân chủ", cũng như những sự bất tiện sinh ra từ đó
khi sử dụng khái niệm này trong khoa học, một số học giả đề nghị sử dụng
thuật ngữ "Poliarchia" để chỉ các nhà nước tồn tại hiện thực được gọi là dân
chủ. "Poliarchia" là sự cầm quyền của thiểu số do nhân dân bầu ra qua các
cuộc bầu cử. Nó được phổ biến vào các nhà nước - thị thành cổ đại, các nền


10

cộng hòa trung cổ, các nhà nước lập hiến hiện đại cùng với quyền bầu cử
phổ thông đầu phiếu và cuộc đấu tranh vì quyền lực của các đảng phái
chính trị. Khác với "Poliarchia", dân chủ là lý tưởng - lý tưởng cần đến sự
giả định rằng mọi công dân đều có quyền tham gia công việc quản lý xã hội
một cách bình đẳng.
Khi cố gắng xác định dân chủ là gì, nhiều học giả phương Tây cho
rằng dân chủ - đó là: a) bản thân con người cai quản trực tiếp hay gián tiếp
đất nước; b) Nhà nước, đất nước, cộng đồng có chính phủ dân chủ; c) sự
cai quản của đa số; d) thừa nhận và thực hiện nguyên tắc bình đẳng về các
quyền và các quyền tự do của công dân, cũng như các khả năng của họ
[xem: 122].
Trong các tài liệu mácxít, khi xem xét khái niệm và nội dung của
dân chủ, các học giả mácxít cũng xuất phát từ quan niệm truyền thống về
dân chủ như là về quyền lực của nhân dân. Nhưng, khác với các học giả
phương Tây, trọng tâm ở đây được đặt không phải vào các quyền tự do của
công dân hay vào các đặc trưng khác của dân chủ, mà là vào tính đặc thù
của hình thức nhà nước [xem: 113, tr.15-30]. Lập trường như vậy cũng đã
thống trị suốt nhiều năm trong giới triết học Xô viết. Thí dụ, dân chủ được
định nghĩa trong Từ điển Bách khoa thư Liên Xô là "hình thức nhà nước
căn cứ trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, quyền của
nhân dân tham gia vào việc giải quyết các công việc nhà nước, kết hợp với

nhiều quyền và quyền tự do của công dân" [xem:137,tr.387].
Đương nhiên, điều đó không có nghĩa rằng các phương diện và các
biểu hiện khác của dân chủ không được quan tâm tới. Khi khảo cứu dân
chủ từ các giác độ khác nhau và từ lập trường của các khoa học khác nhau triết học, xã hội học, sử học, chính trị học, v.v. - nhiều tác giả xem dân chủ
là một chế độ chính trị đặc biệt, là "đặc tính của Nhà nước" mà ở đó, "toàn
bộ quyền lực thuộc về nhân dân, người lao động có khả năng thực tế để


11

tham gia quản lý xã hội và Nhà nước thông qua các tổ chức xã hội và Nhà
nước do họ tạo ra và giám sát" [135, tr.27].
Ngoài các cách tiếp cận cơ bản nêu trên, còn có một số cách tiếp
cận khác với dân chủ, nhưng thực chất chúng cũng chỉ là sự phản ánh các
phương diện này hay phương diện khác của các cách tiếp cận trên đây. Có
lẽ, không thể có một khái niệm, một quan niệm, một định nghĩa duy nhất
về một hiện tượng phức tạp, đa diện như "dân chủ". Theo chúng tôi, ngay
quan niệm xem dân chủ như quyền lực của nhân dân (hay như một hình
thức nhà nước) cũng không thể đáp ứng hoàn toàn các nhu cầu của xã hội.
Xem dân chủ chỉ như một hình thức nhà nước là quá phiến diện, còn quan
niệm về dân chủ như là quyền lực của nhân dân (từ demos - nhân dân và
kratos - quyền lực) [xem: 127; 111] là quá chung chung, đòi hỏi phải cụ thể
hóa và "giải mã" cho rõ hơn.
Thêm vào đó, theo chúng tôi, không nên bỏ qua một thực tế là một
số tác giả nghiên cứu vấn đề dân chủ không có quan niệm hoàn toàn phù
hợp với hiện thực khách quan về "demos" - nhân dân, đại diện của quyền
lực - và về "kratos" - quyền lực, khái niệm chỉ nội dung và dấu hiệu cơ bản
của quyền dân chủ. Tất cả những điều đó, một mặt, không thể không cản
trở việc nhận thức sâu sắc và toàn diện về dân chủ với tư cách một hiện
tượng thực tồn ở nước này hay nước khác; mặt khác, né tránh sự lẫn lộn

giữa dân chủ với tư cách một chế độ hiện thực và dân chủ với tư cách một
hiện tượng mang tính tư tưởng hệ.
Trên thực tế, lẽ nào có thể quy dân chủ với tư cách quyền lực của
nhân dân về một quan niệm thống nhất, nếu một thành tố của nó - "nhân
dân" trong điều kiện chế độ chiếm hữu nô lệ lại loại trừ ra khỏi thành phần
của mình một bộ phận lớn của dân cư là nô lệ? Trong điều kiện chế độ
phong kiến thì nông nô bị loại ra, còn trong xã hội tư bản hiện đại thì lẽ nào
giai cấp cầm quyền, giai cấp bóc lột lại là "nhân dân"? Với cách tiếp cận


12

như vậy, khái niệm "nhân dân" chỉ bao hàm các tầng lớp, các nhóm, các
giai cấp xã hội mà, "xét về địa vị khách quan của mình, có khả năng tham
gia vào việc giải quyết các nhiệm vụ phát triển xã hội một cách tiến bộ".
Đó chủ yếu là "quần chúng lao động - người sáng tạo ra lịch sử, lực lượng
chủ đạo của những cải tạo xã hội căn bản" [137, tr.870].
Tình hình cũng tương tự đối với thành tố thứ hai của dân chủ quyền lực. Trong một số trường hợp, quyền lực chủ yếu được quy về hiện
tượng nhà nước - quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, quyền hành pháp,
quyền tư pháp). Trong một số trường hợp khác, quyền lực được quy về một
hiện tượng chính trị rộng hơn (quyền lực chính trị trong xã hội) . Trong
trường hợp thứ ba, quyền lực và, cùng với nó, là dân chủ được liên hệ với
toàn thể xã hội, với toàn bộ quyền lực chính trị - xã hội.
Tình trạng thiếu một quan niệm thống nhất (hay đủ chung) về dân
chủ - về khái niệm, bản chất và nội dung của nó - tạo khả năng cho sự tùy
tiện trong việc lý giải nó, và gọi mọi nhà nước, chế độ cầm quyền và hệ
thống chính trị, mà vốn dĩ không phải là dân chủ, là dân chủ [xem: 132,
tr.224-230]. Thí dụ, tất cả các chế độ nhà nước phương Tây hiện đại đều tự
coi mình là chế độ dân chủ; song, thực tế không phải hoàn toàn là như vậy.
Tất cả những điều đó chứng tỏ, để tránh việc lạm dụng dân chủ và

nhằm sử dụng nó một cách hợp lý, hữu hiệu hơn, phải hình thành một quan
niệm chung về nó. Theo chúng tôi, một quan niệm như vậy chỉ có thể được
hình thành từ những đặc trưng bản chất của dân chủ đã được tích lũy qua
hàng thế kỷ và đã được bản thân cuộc sống khẳng định. Trong số đó, trước
hết cần phải nhấn mạnh những đặc trưng bản chất sau đây:
1. Dân chủ bao giờ cũng liên hệ với nhân dân, nguyện vọng và lợi
ích của họ, với quyền lực của nhân dân. Do vậy, các khái niệm "nhân dân",
"quyền lực" và "dân chủ" đều có tính chất lịch sử. Cùng với sự phát triển
của xã hội, của Nhà nước và pháp luật thì không những quan niệm về nhân


13

dân và quyền lực, mà cả khái niệm về dân chủ và chủ thể dân chủ cũng
biến đổi.
2. Dân chủ trong đời sống hiện thực là một hiện tượng phức tạp và
đa diện, được biểu hiện khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau của cuộc
sống và thực sự có vô số con đường, phương thức thực hiện. Nó hoàn toàn
không chỉ được quy về lĩnh vực sinh hoạt chính trị của xã hội hay của Nhà
nước, mà còn được phổ biến sang các lĩnh vực khác - kinh tế, xã hội, văn
hóa, khoa học, hệ tư tưởng... Tùy thuộc vào việc dân chủ thể hiện trong các
lĩnh vực nào của đời sống xã hội và hoạt động nhà nước, người ta nói tới
các loại dân chủ tương ứng. Thí dụ, nếu các nguyên tắc, các chuẩn mực và
các tư tưởng dân chủ được thực hiện trong lĩnh vực chính trị của đời sống
xã hội (trong đó có Nhà nước), thì nó được gọi là dân chủ trên lĩnh vực
chính trị. Khi chúng thể hiện trong lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực xã hội hay
lĩnh vực hệ tư tưởng, thì tương ứng sẽ là dân chủ trên lĩnh vực kinh tế, dân
chủ trên lĩnh vực xã hội và dân chủ trên lĩnh vực tư tưởng (đôi khi chúng
ta gọi tắt là "dân chủ chính trị", "dân chủ kinh tế"...).
Dân chủ không thể chỉ quy về một trong các lĩnh vực của đời sống

xã hội. Và cũng tương tự như vậy, dân chủ không thể chỉ xem xét hoàn toàn
thông qua một trong những biểu hiện nào đó của nó. Chẳng hạn, dân chủ
không thể chỉ được coi là một chế độ chính trị, một nhà nước đặc biệt nào
đó, nghĩa là không thể coi dân chủ chỉ là các phương thức thực hiện quyền
lực, hay là một hình thức tổ chức nhà nước, một thiết chế nhà nước, một
thể chế chính trị - xã hội nào đó. Dân chủ được thể hiện ra qua các phẩm
chất và những biểu hiện rất khác nhau của nó trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Cụ thể, đối với chủ thể của quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội
- tức nhân dân, thì dân chủ thể hiện là sự biểu thị tối đa ý chí, khát vọng và
lợi ích của nhân dân. Đó là một đặc trưng của dân chủ. Đối với các đại


14

diện trực tiếp của quyền lực đó - các cơ quan và các tổ chức nhà nước,
đảng phái và xã hội, thì dân chủ thể hiện ra là hình thức (hay nguyên tắc) tổ
chức tương ứng của chúng. Đối với quá trình thực hiện quyền lực nhà nước
và xã hội, thì dân chủ thể hiện ra là tổng thể các phương pháp, các phương
thức cai trị, tức là chế độ tương ứng. Cuối cùng, đối với khách thể biểu
hiện của quyền lực - các công dân riêng biệt, các pháp nhân, các tầng lớp,
các nhóm, các giai cấp, các tổ chức xã hội - thì dân chủ thể hiện dưới dạng
địa vị tương ứng của họ, phương thức hoạt động sống tương ứng, các
quyền và các quyền tự do của họ được Hiến pháp ghi nhận.
3. Xuất phát từ mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa các lĩnh vực
biểu hiện khác nhau của dân chủ, giữa các con đường, các hình thức và các
phương thức biểu hiện khác nhau của nó, dân chủ ở một nước riêng biệt
không phải là một tổ hợp ngẫu nhiên của các biểu hiện, các thiết chế và các
thể chế dân chủ, mà là một hệ thống nào đó của chúng.
Sự phân chia các bộ phận cấu thành (hay các thành tố cấu trúc) của

"dân chủ" như vậy tùy thuộc vào phương diện nghiên cứu, vào cấp độ (bình
diện) của dân chủ được xem xét. Từ đó, chúng ta nói tới các biến thể riêng
biệt của dân chủ (dân chủ trong đảng, dân chủ trong Nhà nước, dân chủ
trong công đoàn, v.v.). Các biến thể đó là các thành tố phát sinh (xét về
dung lượng, nội dung, vị trí trong hệ thống và vai trò xã hội của chúng),
chúng trực tiếp cấu thành một hệ thống dân chủ chung và, đến lượt mình,
thể hiện là các tiểu hệ thống đối với hệ thống đó.
Ngoài việc tách biệt các thành tố phát sinh của hệ thống dân chủ
chung, cũng còn có thể tách biệt các thành tố phái sinh của nó, các thành tố
trực tiếp tạo thành các tiểu hệ thống dân chủ nhờ có sự liên hệ qua lại và
tác động lẫn nhau giữa chúng. Thí dụ, xem xét ở cấp độ các hình thức tổ
chức nội tại với tư cách các thành tố phái sinh như vậy của hệ thống dân
chủ chung, có thể kể ra các thiết chế dân chủ (của đảng, Nhà nước, tổ chức


15

xã hội); còn ở cấp nội dung của dân chủ - đó là các nguyên tắc khác nhau
của nó (chế độ bầu cử, chế độ báo cáo, nguyên tắc công khai, nguyên tắc
bãi miễn, nguyên tắc lãnh đạo tập thể, v.v.), các truyền thống dân chủ, các
chuẩn mực xã hội khác nhau kiến tạo nên các thiết chế dân chủ, bao hàm
các quyền dân chủ và các quyền tự do của công dân.
Ngoài việc tách biệt các thành tố cấu trúc, sự nghiên cứu có hệ
thống về dân chủ cũng đòi hỏi phải xác lập tất cả những mối liên hệ đa
dạng cấu thành hệ thống; phải xác định cấp độ toàn vẹn về cấu trúc và chức
năng của hệ thống dân chủ ở giai đoạn phát triển này hay giai đoạn phát
triển khác của nó; phải phân biệt các mục đích hoạt động trung gian và cuối
cùng của nó; phải xác định môi trường bao quanh của hệ thống dân chủ và
tính chất tác động qua lại của nó với các điều kiện sinh hoạt kinh tế, chính
trị, hệ tư tưởng v.v. trực tiếp bao quanh nó.

Nghiên cứu có hệ thống về dân chủ cho phép thâm nhập sâu sắc
hơn vào bản chất của hiện tượng này, hiểu rõ hơn cơ chế hoạt động và vô
số phương thức biểu hiện của nó. Tuy nhiên, khi đó cần phải lưu ý rằng, sự
tồn tại của hệ thống dân chủ chung, do vậy, sự khảo cứu tương ứng về nó
chỉ có thể thực hiện được trong các hệ thống chính trị và xã hội, mà ở đó,
không có sự tách biệt sâu sắc không thể khắc phục được giữa các tầng lớp
khác nhau của xã hội.
Ở những nơi mà có sự tách biệt như vậy, nơi mà các mục đích và
các lợi ích vật chất không tương ứng được với nhau thống trị trong các tầng
lớp và các giai cấp khác nhau, thì ở đó không thể có một hệ thống dân chủ
chung; mỗi một chủ thể xã hội có quan niệm riêng của mình về dân chủ quan niệm được thiết định bởi các điều kiện sinh hoạt và các lợi ích khách
quan của nó, do vậy, có hệ thống giá trị và hệ thống dân chủ riêng của
mình. Thí dụ, chủ nô, địa chủ, nhà tư bản có hệ thống giá trị và lợi ích riêng
của mình, từ đó, có quan niệm riêng của mình về dân chủ, còn nô lệ, nông


16

nô, người công nhân - có hệ thống giá trị và lợi ích, quan niệm riêng của
mình về dân chủ.
Trong hiện thực, bất kỳ ở đâu mà các tầng lớp, giai cấp xã hội bảo
vệ những lợi ích và giá trị khác nhau, không dung hợp được với nhau, thì ở
đó không có và không thể có các tư tưởng chung về dân chủ. Mỗi tầng lớp,
giai cấp xã hội đều có tư tưởng riêng của mình, quan niệm riêng của mình
về "nhân dân", về chủ nghĩa nhân đạo và về công bằng trong việc xác lập
và thực hiện quyền lực, về dân chủ "đích thực".
Một điều vô cùng tai hại đối với một xã hội được gọi là dân chủ,
nếu không có sự bình đẳng - dù là mang tính hình thức - đối với mọi người,
nếu những kẻ có nhiều của cải công khai thống trị trong các cơ quan nhà
nước và hoạt động của các cơ quan ấy. Trong xã hội đó, để duy trì bằng các

biện pháp cưỡng bức sự "thống nhất" của Nhà nước và xã hội, đòi hỏi phải
có ảo tưởng về sự bình quyền của mọi tầng lớp và giai cấp xã hội, ảo tưởng
về sự được phép sử dụng như nhau của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội đối
với của cải do toàn thể xã hội tạo ra cũng như đối với các cơ quan quản lý
nhà nước.
Trên thực tế, các tầng lớp và giai cấp giàu có, chiếm độc quyền
quyền lực trong xã hội đã và đang đóng vai trò quyết định trong mọi xã hội
có giai cấp, trong mọi nền dân chủ đã từng tồn tại trong lịch sử trước chủ
nghĩa xã hội. Những kẻ giàu có luôn tự coi mình là xứng đáng được cai trị;
vì, theo họ, chỉ họ mới có khả năng làm cho mọi người trở nên xứng đáng
với quyền lực.
Khi được phép trực tiếp sử dụng quyền lực và có các đòn bẩy giám
sát đáng tin cậy đối với sự thực hiện nó, các nhóm thống trị trong bất kỳ xã
hội có giai cấp hiện đại nào cũng đều cố gắng sử dụng rộng rãi đại biểu của
các tầng lớp dân cư khác trong quá trình hình thành và hoạt động của quyền
lực. Nhờ đó, chúng tạo ra được ảo tưởng vững chắc, ăn sâu vào ý thức và


17

tiềm thức của quần chúng hàng thế kỷ - ảo tưởng về sự được phép sử dụng
phổ biến đối với quyền lực trong xã hội, về "tính nhân dân" của Nhà nước,
về sự công bằng phổ biến, v.v..
Trên thực tế, trong các xã hội trước chủ nghĩa xã hội chưa bao giờ
có một chế độ "thuần túy" nhân dân, mang tính mẫu mực như vậy trong xã
hội có giai cấp. Sẽ chính xác hơn và trung thực hơn, nếu gọi "dân chủ"
trong một xã hội được cấu thành từ các giai cấp và các tầng lớp với những
giá trị và lợi ích trực tiếp đối lập với nhau, như Platôn đã làm, là chính thể
đầu sỏ (Oligarchie).
Cho đến nay, nền dân chủ "thuần túy", "hoàn hảo nhất", "chân

chính", "đích thực", dân chủ cho nhân dân và vì lợi ích của mọi người trong
xã hội... còn đang là lý tưởng, là lược đồ lý luận, là khuôn mẫu để phấn đấu
và đang được hiện thực hóa từng bước trong sự phát triển Nhà nước và xã
hội theo con đường xã hội chủ nghĩa. Lý tưởng và lược đồ lý luận này có
liên hệ mật thiết với các lý tưởng "xã hội cộng sản chủ nghĩa". Chỉ có sự
vận động, phát triển lâu dài và đầy gian nan của nhân loại lên xã hội xã hội
chủ nghĩa mới cho phép đạt tới lý tưởng đó.
Cho dù có tính phức tạp và mâu thuẫn trong những quan niệm và
thái độ rất khác nhau đối với nó từ phía đại diện của các tầng lớp xã hội
khác nhau, song, dân chủ trong bất kỳ xã hội và Nhà nước nào cũng đều có
giá trị xác định của mình. Giá trị này tăng lên đáng kể trong các hệ thống
xã hội và Nhà nước pháp quyền, mà ở đó, đã hình thành truyền thống tham
gia của các tầng lớp nhân dân rộng rãi vào việc điều hành các công việc của
Nhà nước và xã hội, nơi mà các tư tưởng và các nguyên tắc dân chủ không
những được tuyên bố và ghi nhận trong Hiến pháp, mà còn được thực hiện
từng phần trong cuộc sống. Do vậy, để có được một quan niệm đúng đắn về
dân chủ, theo chúng tôi, cần phải xét đến các giá trị của nó.
1. Giá trị của dân chủ được thể hiện ở chỗ, các quyền của công dân


18

được thực hiện trong thực tế ngày càng tăng. Khi bao trùm đại bộ phận các
quan hệ, các thiết chế xã hội và lôi kéo các tầng lớp nhân dân đông đảo vào
đời sống chính trị -xã hội của đất nước, dân chủ góp phần mở rộng cơ sở xã
hội của hệ thống chính trị, làm tăng tính ổn định xã hội, làm ổn định toàn
bộ đời sống xã hội và Nhà nước. Dân chủ tạo điều kiện tiếp tục hoàn thiện,
phát triển các thiết chế trong hệ thống chính trị về mặt tổ chức và, nhờ vậy,
dân chủ trong xã hội sẽ không ngừng tăng lên. Khi đề cập tới xu hướng
này, V.I. Lênin đã viết: " Nhưng điều quan trọng là phải nhìn thấy sự dối trá

vô hạn trong cái quan niệm tư sản thông thường cho rằng chủ nghĩa xã hội
là một cái gì chết, cứng đờ, vĩnh viễn không thay đổi, thật ra, chỉ có ở dưới
chủ nghĩa xã hội, thì trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân,
mới bắt đầu có một sự tiến lên mau chóng, thật sự, thực sự có tính chất
quần chúng, lúc đầu được đa số dân cư tham gia, rồi về sau được toàn thể
dân cư tham gia" [43, tr.122-123].
2. Giá trị của dân chủ cũng thể hiện ở chỗ, khi được phổ biến vào
mọi lĩnh vực của đời sống chính trị - xã hội và đem lại nội dung dân chủ
cho hoạt động của các thiết chế nhà nước và xã hội; dân chủ tạo điều kiện
để liên tục phát triển nhân cách, phát triển ý thức xã hội; để nâng cao tính
tích cực chính trị - xã hội của quần chúng; để làm bộc lộ và huy động các
năng lực tổ chức, trí tuệ, v.v. của họ vì lợi ích của sự phát triển xã hội; để
các tầng lớp xã hội rộng rãi tham gia tích cực vào việc quản lý nhà nước,
vào việc giải quyết các công việc nhà nước và xã hội quan trọng nhất. Trật
tự dân chủ trong việc tổ chức đời sống xã hội và nhà nước cũng góp phần
trực tiếp nâng cao hiệu quả xã hội của toàn bộ hệ thống chính trị - xã hội;
cũng cho phép xã hội tích lũy nhanh chóng các giá trị vật chất, văn hóa,
v.v.; góp phần kiện toàn luật pháp và Hiến pháp.
3. Cuối cùng, giá trị của dân chủ còn thể hiện ở chỗ, nó là yếu tố
duy nhất có thể làm sáng tỏ ý chí của quần chúng; là cơ chế hình thành,


19

tích tụ và thực hiện dân chủ một cách thích hợp; là phương thức tốt nhất để
đặt các đại biểu của nhân dân có phẩm chất chính trị - đạo đức, chuyên
môn xứng đáng nhất vào địa vị lãnh đạo Nhà nước, vào cơ quan lãnh đạo
của các tổ chức chính trị - xã hội.
Ngoài các điều đã nói ở trên, cũng còn có các con đường và các
hình thức khác biểu hiện giá trị của dân chủ. Tuy nhiên, sự hiện thực hóa

các giá trị của dân chủ, việc sử dụng toàn bộ tiềm năng xã hội của dân
chủ...chỉ có thể có được với một điều kiện bắt buộc là không những cần
phải tuyên bố, ghi nhận các nguyên tắc, các tư tưởng dân chủ và các đặc
trưng bản chất của dân chủ về mặt hình thức - pháp lý, mà còn phải thực
hiện chúng trong cuộc sống, bảo đảm tính hữu hiệu của nó trong đời sống
xã hội.
Trong suốt nhiều thế kỷ phát triển lý luận về xã hội và nhà nước dân
chủ, sự quan tâm chủ yếu của các nhà nghiên cứu được tập trung không
những vào phương diện pháp lý - hình thức, mà cả vào phương diện thực tế
của dân chủ. Vấn đề trung tâm khi đó luôn luôn là vấn đề về các nhân tố
bảo đảm tính chất hiện thực của dân chủ , vấn đề về các điều kiện bảo đảm
dân chủ.
Có thể phân chia các nhân tố đó ra thành hai loại: các nhân tố
khách quan - các nhân tố được quy định bởi các điều kiện sinh tồn hiện
thực; các nhân tố chủ quan - các nhân tố phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng
và các ý định chủ quan khác của công dân bình thường hay là của các nhà
chức trách.
Trong nhiều tài liệu khoa học, do truyền thống đã hình thành, các
nhân tố chủ quan thường được coi nhẹ hơn so với ý nghĩa của chúng trên
thực tế. Điều này đương nhiên là một sự giản đơn hóa. Vả lại, quan niệm về
tính chất của bản thân Nhà nước, về bản chất dân chủ hay phi dân chủ của
nó, về tính được hay không được bảo đảm của các quyền tự do phụ thuộc


20

rất nhiều vào việc ai cầm quyền, người cầm quyền đó đi theo nền chính trị
nào và hình thành nó như thế nào (một mình hay là dựa vào ý kiến của một
nhóm ít ỏi các cộng sự, hay là dựa vào ý kiến của đại bộ phận xã hội) ?
Theo chúng tôi, vai trò của nhân tố chủ quan trong việc bảo đảm

tính chất hiện thực của dân chủ thể hiện trước hết ở chỗ, nó đặt lên vai các
nhà hoạt động nhà nước và xã hội các nghĩa vụ pháp lý và đạo đức nhiệm
vụ thực hiện, duy trì và bảo vệ các tư tưởng, các nguyên tắc và các truyền
thống dân chủ hiện tồn (hay đang ra đời) thông qua hoạt động hàng ngày
của mình. Do vậy, một thực tế không phải ngẫu nhiên là Hiến pháp của các
nước dân chủ ghi nhận nghĩa vụ của các nhà chức trách là phải tuân thủ
những nguyên tắc dân chủ trong hoạt động của mình và phải bảo vệ chế độ
dân chủ.
Các nhân tố chủ quan bảo đảm dân chủ còn là:
- Trình độ văn hóa, trình độ học vấn của chủ thể thực hiện dân chủ.
- Năng lực nhận thức và vận dụng các chuẩn mực pháp lý.
- Khả năng và năng lực hoàn thiện các quy định pháp luật...
Những nhân tố bảo đảm khách quan của dân chủ, theo
V.M.Côrenxki, là các yếu tố như vật chất, xã hội, pháp lý, chính trị, hệ tư
tưởng, v.v. [Xem: 135, tr.60].
Khi hiểu các bảo đảm khách quan cho dân chủ được hiện thực hóa
trong cuộc sống, một số tác giả khác trước hết tập trung vào các đảm bảo
vật chất.
"Các đảm bảo vật chất", theo họ, cần được hiểu theo nghĩa rộng
nhất của từ này và đó chính là các điều kiện kinh tế của đời sống xã hội và
của các tầng lớp xã hội khác nhau mà các nguyên tắc dân chủ được thiết lập
trong quan hệ giữa chúng; mức sống của nhân dân là cái cho phép hay,


21

ngược lại, không cho phép họ tham gia vào việc quản lý các công việc của
Nhà nước và xã hội; các khả năng kinh tế và tài chính là cái cho phép hay,
ngược lại, không cho phép nó bảo đảm sự hoạt động bình thường của các
thiết chế chính trị dân chủ, thực hiện các quyền tự do của công dân, hình

thành các cơ quan bầu cử nhà nước trên cơ sở dân chủ.
Các khả năng vật chất, đặc biệt là các khả năng tài chính, là điều
kiện rất quan trọng của dân chủ hiện thực không những đối với Nhà nước
và xã hội, mà còn đối với các công dân riêng biệt. Chúng cho phép họ thực
hiện các quyền của mình, như quyền học tập, quyền tham gia bầu cử,
quyền nghỉ ngơi, v.v..
Một số tác giả khi tán thành quan điểm của V.M.Côrenxki, cũng cho
rằng, các nhân tố khách quan bảo đảm dân chủ còn là:
- Tính chất và trạng thái của thể chế chính trị.
- Tính chất và trình độ phát triển nền kinh tế.
- Trình độ thông tin và mức độ dân chủ trong thông tin.
- Trình độ giao lưu quốc tế...
Trong số các nhân tố quy định tính chất hiện thực của dân chủ, một
số tác giả thường đặc biệt quan tâm tới các bảo đảm pháp lý. Đó là tổng thể
các điều kiện và phương tiện pháp lý bảo đảm việc thực hiện các nguyên
tắc dân chủ, các quyền tự do của công dân đã được chính thức tuyên bố.
Theo chúng tôi, không nên tách biệt và, hơn nữa, không nên đối lập
các đảm bảo pháp lý với các loại bảo đảm khác. Chúng ta chỉ có thể hiểu và
đánh giá đúng vai trò, ý nghĩa của các bảo đảm nêu trên nhờ phân tích
chúng trong một thể thống nhất với các bảo đảm khác, xem xét chúng như
là một bộ phận của một chỉnh thể thống nhất. Cách tiếp cận hệ thống với
các bảo đảm pháp lý cho phép chúng ta xác định đúng vị trí và vai trò của


22

các bảo đảm ấy. Một mặt, không nên thổi phồng vai trò và ý nghĩa của các
bảo đảm pháp lý; cụ thể là trong việc đảm bảo, duy trì, bảo vệ các quyền tự
do được Hiến pháp ghi nhận, gắn cho chúng vai trò quyết định. Mặt khác,
không nên xem xét các bảo đảm pháp lý là cái phụ thêm cho những bảo

đảm khác.
Điều đó cũng đúng, khi nói về các bảo đảm khác.
Nói tới dân chủ, chúng ta không thể không nói tới các hình thức của
dân chủ. Chúng tôi hiểu các hình thức của dân chủ là phương thức hay các
phương tiện đã hình thành trong lịch sử nhằm vạch ra và biểu thị ra bên
ngoài ý chí, lợi ích của các tầng lớp xã hội khác nhau.
Tùy thuộc vào việc ý chí, lợi ích ấy của xã hội và nhân dân được
biểu thị bằng con đường nào - trực tiếp hay gián tiếp - các phương thức
thực hiện dân chủ được phân ra thành: dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp. Chúng tôi sẽ đề cập cụ thể hơn vấn đề này ở chương sau.
Để thực hiện dân chủ, cần có những tiền đề kinh tế, xã hội, văn hóa
và chính trị cùng hệ thống thông tin đại chúng tương ứng.
Các tiền đề kinh tế
Một trong các tiền đề kinh tế quan trọng nhất cho việc thực hiện
dân chủ là trình độ phát triển tương đối cao của kinh tế và công nghiệp. Xét
theo các chỉ tiêu kinh tế, các nhà nước dân chủ vượt đáng kể các nhà nước
quyền uy và cực quyền. Tuy nhiên, theo chúng tôi, không có sự phụ thuộc
nhân quả trực tiếp giữa trình độ phát triển kinh tế và dân chủ. Chứng tỏ
cho điều đó là hàng loạt sự kiện lịch sử, thí dụ, nước Mỹ chuyển lên chế độ
dân chủ ở giai đoạn phát triển chủ yếu là tiền công nghiệp; trong khi đó,
tuy đang trong chế độ cực quyền, Hàn Quốc đã bước vào giai đoạn phát
triển với trình độ công nghiệp tương đối cao.
Sự phát triển của công nghiệp cũng tạo ra một tiền đề khác - mức


23

độ đô thị hóa cao. Cư dân ở các thành thị lớn thường được chuẩn bị cho
việc thực hiện dân chủ tốt hơn là dân cư nông thôn - những người còn
mang nặng tính bảo thủ, trung thành với các hình thức cầm quyền truyền

thống.
Cần lưu ý thêm rằng, cùng với sự phát triển của công nghiệp, sự
phát triển của kinh tế thị trường có vai trò thúc đẩy rất mạnh quá trình mở
rộng dân chủ. Nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ nhất định và
trong một thể chế chính trị tiến bộ sẽ là vật cản sự tập trung quyền lực kinh
tế và quyền lực chính trị vào tay một nhóm, một tầng lớp xã hội nào đó
(hiện nay, do trình độ phát triển rất cao của kinh tế thị trường lại được thực
hiện trong nền chuyên chính tư sản nên nền kinh tế đó thúc đẩy quá trình
tập trung quyền lực vào các công ty xuyên quốc gia). Ngoài ra, kinh tế thị
trường còn là cái bảo đảm cho sự tự trị của người lao động, bảo vệ họ khỏi
sự giám sát kiểu cực quyền của Nhà nước, kích thích họ hình thành các
phẩm chất cần thiết cho dân chủ (như khát vọng tự do, tính trách nhiệm, sự
tháo vát, tinh thần chủ động). Kinh tế thị trường còn góp phần tạo ra xã hội
công dân với tư cách là cơ sở cho việc mở rộng dân chủ.
Các tiền đề xã hội
Sự phát triển của kinh tế tạo ra một tiền đề quan trọng của nền dân
chủ - mức độ phúc lợi tương đối cao của công dân, nhờ đó có thể làm giảm
các xung đột xã hội, đạt tới sự đồng thuận cần thiết cho việc thực thi dân
chủ. Của cải xã hội được coi là cái có tác động tích cực đến quá trình dân
chủ hóa xã hội, khi nó được sử dụng để làm giảm bớt sự bất bình đẳng xã
hội, tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho việc thực thi dân chủ. Điều đó
liên quan trực tiếp tới chính sách của giới cầm quyền, tới bản chất kinh tế chính trị - xã hội của thể chế xã hội tương ứng. Thực tiễn cho thấy, ngay ở
một số nước có trình độ phát triển kinh tế rất cao như Anh, Mỹ..., do mức
độ bất bình đẳng xã hội cao nên đã sinh ra các xung đột chính trị gay gắt,


24

yêu cầu của quần chúng xây dựng các thiết chế và sử dụng các biện pháp
dân chủ thường tỏ ra ít được thực thi có hiệu quả. Do vậy, việc thay đổi thể

chế chính trị để có thể thực hiện hệ thống chính sách cho phép hạn chế, đi
đến xóa bỏ bất bình đẳng xã hội sẽ tạo ra những thuận lợi lớn cho việc thực
hiện dân chủ.
Cùng với sự giảm bớt bất bình đẳng xã hội, quá trình đa dạng hóa
xã hội, đa dạng hóa thành phần dân cư xã hội, hình thành các khu vực dân
cư, các nhóm nghề nghiệp, tôn giáo, văn hóa, dân tộc, v.v. cùng với tự ý
thức tập thể của họ cũng góp phần hạn chế xu hướng tập trung quyền lực
nhà nước, chống lại những thế lực có ý định độc chiếm quyền lực nhà
nước, tạo ra khả năng thiết lập một sự giám sát hữu hiệu của nhân dân đối
với việc thực thi quyền lực nhà nước.
Để thực hiện dân chủ, một tiền đề xã hội khác là trình độ thông
thạo của dân cư, trình độ học vấn nói chung của họ. Đây là yếu tố có ảnh
hưởng trực tiếp đến sự am hiểu trong phán đoán chính trị của cá nhân, đến
sự phát triển trí tuệ, năng lực tư duy và khả năng nhận thức, khả năng đánh
giá vị thế của bản thân họ. Một con người không có học vấn, như V.I.Lênin
đã nói, là người đứng ngoài chính trị, đứng ngoài nền dân chủ.
Sự hiện diện của các tiền đề kinh tế và xã hội đa dạng không phải
lúc nào và ở bất cứ đâu cũng dẫn đến sự ra đời hình thức cầm quyền dân
chủ. Song, bước chuyển sang nền dân chủ, theo ý kiến của một số học giả
phương Tây, thường xuất hiện trước ở các nước công nghiệp phát triển, nơi
mà trình độ dân trí cao.
Văn hóa chính trị
Sự tác động của các yếu tố kinh tế và xã hội đến chế độ nhà nước
chủ yếu được trung gian hóa bởi nền văn hóa chính trị đang chiếm địa vị
thống trị trong xã hội. Chế độ dân chủ, như nhận định của một số nhà triết


25

học - chính trị phương Tây, chỉ dung hợp được với một kiểu văn hóa chính

trị mà họ gọi là văn hóa công dân. Các nhà triết học - chính trị này
(H.Almond và S. Verba) đã phân biệt ba kiểu văn hóa chính trị cơ bản: "văn
hóa gia trưởng", "văn hóa phục tùng" và "văn hóa tích cực".
Các ông cho rằng cái đặc trưng cho kiểu "văn hóa gia trưởng" là
việc hạn chế tầm nhìn chính trị của con người ở các lợi ích trực tiếp, hàng
ngày của con người, là việc con người không ý thức được những hậu quả sẽ
diễn ra, khi họ tham gia vào hoạt động chính trị, không nhận thức được vai
trò chính trị của mình. Với kiểu "văn hóa phục tùng", con người dẫu có thể
hiểu được mục đích và chức năng của chính trị, song họ tham gia vào các
hoạt động chính trị chỉ với tư cách là người thực hiện chỉ thị của các thủ
lĩnh chính trị. Những đại biểu của kiểu "văn hóa tích cực" tự coi mình là
những người đồng tham gia một cách tích cực vào những hoạt động chính
trị, có ý thức rõ ràng về mục đích và con đường thực hiện dân chủ. Theo
các ông, nền dân chủ chỉ có thể xuất hiện và được củng cố trên mảnh đất
của văn hóa chính trị công dân - nền văn hóa kết hợp trong nó những đặc
điểm của kiểu văn hóa chính trị phục tùng và kiểu văn hóa chính trị tích
cực. Dân chủ chỉ trở thành hiện thực trên cơ sở của nền văn hóa chính trị
cởi mở, coi trọng các quyền con người, quyền tự do và trách nhiệm công
dân.
Bầu không khí chính trị bên ngoài
Các yếu tố kinh tế, xã hội và văn hóa được coi là các tiền đề bên
trong của việc thực hiện dân chủ. Cùng với các tiền đề ấy, bầu không khí
chính trị bên ngoài cũng có ảnh hưởng ngày một tăng đối với việc thực
hiện dân chủ. Ảnh hưởng này thường được thể hiện qua sự tác động trực
tiếp về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa của nước ngoài; qua việc tuyên
truyền, truyền bá thể chế dân chủ của các nhà nước dân chủ.
Lịch sử phát triển nhân loại đã cho thấy, dân chủ không những có



×