Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Nghiên cứu quy hoạch lũ chi tiết sông trà lý, tỉnh thái bình (luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 87 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 3
I. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................3
II. Mục đích nghiên cứu........................................................................................6
III. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................6
IV. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu ...............................................6
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN........................................................................................... 8
1.1 TỔNG QUAN VỀ LƢU VỰC NGHIÊN CỨU .............................................8
1.1.1 Đặc điểm địa lý tự nhiên ............................................................................8
1.1.2 Đặc điểm khí tƣợng thủy văn ...................................................................14
1.2 HIỆN TRẠNG KINH TẾ XÃ HỘI VÀ PHƢƠNG HƢỚNG PHÁT
TRIỂN ..................................................................................................................34
1.2.1 Hiện trạng kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình .................................................34
1.2.2 Xu thế biến đổi các quá trình tự nhiên và xu thế phát triển kinh tế xã hội
...........................................................................................................................39
1.3 QUAN ĐIỂM MỤC TIÊU QUY HOẠCH PHÒNG CHỐNG LŨ ...........44
1.3.1 Quan điểm quy hoạch...............................................................................44
1.3.2 Mục tiêu quy hoạch ..................................................................................45
1.3.3 Các chỉ tiêu tính toán thiết kế phòng chống lũ .........................................45
1.3.4 Mức đảm bảo phòng chống lũ tuyến sông ...............................................46
CHƢƠNG 2: TÍNH TOÁN LŨ THIẾT KẾ CHO SÔNG TRÀ LÝ ......................... 49
2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT MÔ HÌNH MIKE 11 ...............................................49
2.2 ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TÍNH TOÁN THỦY LỰC CHO HỆ THỐNG
SÔNG TRÀ LÝ ...................................................................................................54
2.2.1 Phạm vi nghiên cứu của mô hình thủy lực ...............................................54
2.2.2 Biên tính toán mô hình thủy lực ...............................................................56
2.2.3 Tài liệu địa hình mạng lƣới sông .............................................................56
2.2.4 Tài liệu thuỷ văn.......................................................................................57
2.2.5 Tính toán mô phỏng thủy lực hệ thống sông ...........................................58
2.3 TÍNH TOÁN LŨ THIẾT KẾ TUYẾN SÔNG TRÀ LÝ ...........................66
2.3.1 Tính toán biên mạng thủy lực hệ thống sông ...........................................66


2.3.2 Nội dung các trƣờng hợp tính toán lũ thiết kế. ........................................68
2.3.3 Kết quả tính toán thủy lực mạng sông .....................................................69
2.3.4 Lựa chọn phƣơng án lũ thiết kế cho sông Trà Lý ....................................73
CHƢƠNG 3: XÁC ĐỊNH PHƢƠNG ÁN THOÁT LŨ CHO TUYẾN SÔNG
TRÀ LÝ .......................................................................................................................... 74
3.1 TIÊU CHÍ TÍNH TOÁN HÀNH LANG THOÁT LŨ ...............................74

1


3.1.1 Tiêu chí kỹ thuật.......................................................................................74
3.1.2 Tiêu chí về kinh tế xã hội .........................................................................75
3.2 TÍNH TOÁN THỦY LỰC DÒNG CHẢY LŨ SỬ DỤNG CÁC BỐI BÃI
ỨNG VỚI LŨ THIẾT KẾ ..................................................................................75
3.2.1 Phƣơng pháp tính toán thủy lực dòng chảy lũ thiết kế sông Trà Lý ........76
3.2.2 Vị trí các bối dọc sông Trà Lý .................................................................78
3.3 TÍNH TOÁN VÀ LỰA CHỌN PHƢƠNG ÁN PHỤC VỤ QUY HOẠCH
TUYẾN THOÁT LŨ CHO SÔNG TRÀ LÝ ....................................................81
3.3.1 Các phƣơng án tuyến thoát lũ ...............................................................81
3.3.2 Kết quả tính toán thủy lực tuyến thoát lũ .................................................82
3.3.3 Phân tích kết quả ......................................................................................83
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................ Error! Bookmark not defined.

2


MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Lƣu vực sông Trà Lý nằm trọn trong đồng bằng Bắc Bộ, thuộc hạ lƣu hệ

thống sông Hồng tiếp giáp với biển Đông. Sông Trà Lý có hƣớng chung là Tây Đông. Bắt đầu từ xã Hồng Minh, huyện Hƣng Hà tỉnh Thái Bình, chảy quanh co,
uốn khúc qua Quyết Chiến, Đồng Phú, Đông Phù của huyện Đông Hƣng, Thành
Phố Thái Bình, Đông Huy rồi đến Thái Hà, Thái Phúc của huyện Thái Thụy đổi
hƣớng Bắc-Nam đến Thái Thành, Thái Thọ cuối cùng tới Định Cƣ rồi đổ ra Vịnh
Bắc Bộ tại cửa Trà Lý. Sông dài 64 km, và là một con sông tự nhiên, mới chỉ chịu
tác động của con ngƣời là việc đắp đê hai bên bờ và ngăn các sông nhỏ bằng các
cống. Sông Trà Lý chảy dọc theo vùng kẹp giữa sông Hồng và sông Hóa, chia vùng
này thành hai hệ thống thủy lợi tách biệt: hệ thống bắc và hệ thống nam. Là vùng
đồng bằng ở hạ du sông Hồng lại ở ven biển nên hệ thống sông ngòi ở đây đều chịu
ảnh hƣởng của chế độ thủy triều. Mặt khác chế độ thủy văn của sông này cũng chịu
ảnh hƣởng của nguồn nƣớc thƣợng lƣu. Mùa lũ tăng dần từ tháng V đến tháng VIII
và hạ dần từ tháng IX.
Phòng chống lũ là chƣơng trình ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển kinh tế của
tỉnh Thái Bình nói riêng và của cả nƣớc nói chung. Hệ thống công trình chống lũ
dọc theo sông Trà Lý chủ yếu là hệ thống đê sông, đê cửa sông, ngoài ra còn có
hàng chục km các tuyến đê bối, hàng trăm công trình dƣới đê. Hệ thống đê đã phát
huy hiệu quả rất tốt, đảm bảo an toàn cho các vùng dân sinh kinh tế xã hội ven sông
trong suốt thời gian dài.
Tuy nhiên do sức ép của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, việc khai thác
các khu vực bãi sông, lòng sông bừa bãi, không có quy hoạch cụ thể, thiếu sự kiểm
soát và đã ở mức đáng báo động: các đê bối ngày càng lấn ra phía lòng sông và
đƣợc tôn tạo cao hơn, dân cƣ vùng bãi sông trở nên đông đúc và bùng phát việc xây
dựng nhà cửa, lấn chiếm bờ làm co hẹp lòng sông, bãi sông... Mặt khác, diễn biến lũ
trong những năm gần đây ở đồng bằng Bắc bộ rất phức tạp do các nguyên nhân
chính nhƣ thay đổi khí hậu, phá rừng, triều cƣờng, bão, nƣớc biển dâng. Xu thế biến

3


đổi khí hậu toàn cầu ngày càng bất lợi, lũ lụt thƣờng xuyên và lớn hơn, nạn thiếu

nƣớc, xâm nhập mặn do nƣớc biển dâng, lũ quét, lũ ống làm cản trở quá trình phát
triển kinh tế trên lƣu vực nhất là đối với tỉnh Thái Bình.
Bên cạnh các yếu tố bất lợi trên thì tại đầu nguồn những hồ chứa lớn đã và
đang đƣợc xây dựng phục vụ công tác cắt lũ và điều tiết lũ cho đồng bằng Bắc bộ
nhƣ Hồ thác Bà, Hồ Hoà Bình, Hồ Tuyên Quang, Hồ Sơn La. Khi hồ Sơn La đi vào
hoạt động việc điều tiết liên hồ sẽ làm thay đổi cơ bản chế độ thuỷ văn thuỷ lực hạ
du đặc biệt là vùng sông chịu ảnh hƣởng thuỷ triều.
Song song với những thách thức của lũ lụt đồng bằng Bắc bộ cũng chịu ảnh
hƣởng không nhỏ trƣớc sự gia tăng của thiên tai và sự khai thác lƣu vực sông gia
tăng, ngày 21/6/2007 Thủ tƣớng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số
92/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phòng, chống lũ hệ thống sông Hồng, sông
Thái Bình. Quy hoạch này nhằm mục tiêu: xác định mức bảo đảm phòng, chống lũ
cho hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình; xác định lũ thiết kế của tuyến sông gồm
lƣu lƣợng lũ thiết kế và mực nƣớc lũ thiết kế; xác định giải pháp công trình, phi
công trình để phòng, chống lũ đối với từng địa phƣơng thuộc hệ thống sông Hồng,
sông Thái Bình; làm cơ sở để lập quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch phòng, chống lũ
chi tiết thuộc phạm vi quản lý của địa phƣơng; quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
xây dựng và các quy hoạch khác liên quan của các Bộ, ngành, địa phƣơng.
Phạm vi quy hoạch bao gồm các tỉnh, thành phố có đê thuộc hệ thống sông
Hồng, sông Thái Bình là Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hoà Bình, Phú Thọ, Hà Nội, Thái
Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Quảng Ninh, Hải Phòng,
Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam và các tỉnh thƣợng nguồn của hệ thống
hai sông này. Tiêu chuẩn phòng, chống lũ giai đoạn 2007-2010 bảo đảm chống lũ
có chu kỳ 250 năm (tần suất 0,4%), lƣu lƣợng tƣơng ứng tại Sơn Tây 42.600 m3/s;
giai đoạn 2010-2015 bảo đảm chống lũ có chu kỳ 500 năm (tần suất 0,2%), lƣu
lƣợng tƣơng ứng tại Sơn Tây 48.500 m3/s. Tiêu chuẩn phòng lũ đối với hệ thống đê:
tại Hà Nội bảo đảm chống đƣợc lũ tƣơng ứng với mực nƣớc sông Hồng tại trạm
Long Biên là 13,4 m và thoát đƣợc lƣu lƣợng tối thiểu là 20.000 m3/s; tại Phả Lại

4



bảo đảm chống đƣợc lũ tƣơng ứng với mực nƣớc sông Thái Bình tại trạm Phả Lại là
7,2 m. Đối với hệ thống đê điều các vùng khác bảo đảm chống đƣợc lũ tƣơng ứng
với mực nƣớc sông Hồng tại trạm Long Biên là 13,1 m, phần lƣu lƣợng vƣợt quá
khả năng trên đƣợc sử dụng các giải pháp khác nhƣ: điều tiết hồ chứa, phân lũ,
chậm lũ, cải tạo lòng sông thoát lũ... Các giải pháp phòng, chống lũ hệ thống sông
Hồng, sông Thái Bình bao gồm: điều tiết các hồ chứa cắt giảm lũ; trồng rừng phòng
hộ đầu nguồn; củng cố và nâng cấp hệ thống đê điều; cải tạo lòng dẫn tăng khả năng
thoát lũ; thực hiện phân lũ, chậm lũ, tràn qua các đƣờng tràn cứu hộ và có giải pháp
bảo đảm an toàn đê trong trƣờng hợp tràn toàn tuyến; tổ chức cứu hộ đê.
Sông Trà Lý hiện tại chƣa có quy hoạch phòng chống lũ chi tiết cho tuyến
sông, nên việc tổ chức quản lý và khai thác hợp lý các khu vực bãi sông kết hợp hài
hoà giữa đảm bảo phòng, chống lũ và phát triển kinh tế trung hạn và dài hạn còn
nhiều hạn chế, các công trình dự kiến xây dựng không triển khai đƣợc do chƣa có
quy hoạch, do thiếu cơ sở pháp lý: Nhiều đoạn đê chƣa bảo đảm yêu cầu thiết kế,
nhiều công trình dƣới đê bị xuống cấp cần bổ sung, nâng cấp; Vấn đề vi phạm hành
lang thoát lũ sông trục và hành lang bảo vệ đê điều vẫn xảy ra thƣờng xuyên; Việc
xác định chỉ giới thoát lũ cho các tuyến sông này cần đƣợc thực hiện.
Vì những lý do nêu trên việc xây dựng Quy hoạch phòng chống lũ chi tiết
cho sông Trà Lý để làm cơ sở cho việc lập và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất,
quy hoạch xây dựng ở khu vực ngoài bãi sông đáp ứng nhu cầu phát triển của các
ngành kinh tế xã hội và đảm bảo thoát lũ, an toàn đê điều và phòng, chống lụt, bão
là cần thiết và cấp bách. Đây cũng là lý do dẫn đến sự hình thành của luận văn:
“Ngiên cứu quy hoạch lũ chi tiết cho sông Trà Lý tỉnh Thái Bình”. Kết quả nghiên
cứu sẽ là một phƣơng án tham khảo cho việc đƣa ra các phƣơng án sử dụng các bối
trong quá trình định hƣớng hoàn thiện các giải pháp phòng, chống lũ phù hợp với
các quy hoạch khác về phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh quốc phòng;
chiến lƣợc phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai của tỉnh trong giai đoạn mới.


5


II. Mục đích nghiên cứu
Quy hoạch phòng chống lũ nhằm xác định giải pháp thực hiện đảm bảo tháo
lũ cho hệ thống sông Hồng – Thái Bình, đảm bảo an toàn phòng chống lũ cho toàn
bộ hệ thống vùng đồng bằng Bắc Bộ và tỉnh Thái Bình, đảm bảo khai thác hợp lý tài
nguyên nƣớc, tài nguyên đất phục vụ phát triển bền vững kinh tế -xã hội.
Các mục tiêu cụ thể:
1. Xác định mức bảo đảm phòng, chống lũ cho tuyến sông Trà Lý tỉnh Thái
Bình.
2. Xác định lũ thiết kế của tuyến sông Trà Lý gồm lƣu lƣợng lũ thiết kế và
mực nƣớc lũ thiết kế.
3. Xác định phƣơng án sử dụng các bối bãi trong quá trình thực hiện quy
hoạch phòng chống lũ cho tuyến sông Trà Lý.
III. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Tính toán trên toàn bộ hệ thống lƣu vực sông Trà
Lý tỉnh Thái Bình.
Đối tƣợng nghiên cứu: Đƣờng quá trình mực nƣớc và lƣu lƣợng tại các
trạm trên hệ thống lƣu vực sông Trà Lý tỉnh Thái Bình.
IV. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
Hƣớng tiếp cận: Căn cứ vào tình hình thu thập tài liệu, nghiên cứu trên lƣu
vực, tác giả lựa chọn hƣớng tiếp cận vừa mang tính kế thừa vừa đảm bảo tính sáng
tạo trong nghiên cứu.
Tổng hợp hệ thống, xem xét các thành phần tƣơng tác lẫn nhau nhƣ: địa
hình, địa chất, thổ nhƣỡng, khí hậu, nƣớc, sinh vật, con ngƣời, điều kiện kinh tế xã
hội, đặc điểm tình hình lũ lụt và những tác hại do lũ lụt gây ra...
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trƣớc đây đã sử dụng mô hình 1

6



chiều và sử dụng mô hình 1 chiều tìm ra đƣợc phƣơng án sử dụng các bỗi bãi
trong quá trình quy hoạch lũ cho sông Trà Lý tỉnh Thái Bình.
Phƣơng pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp mô hình thủy lực mô phỏng quá
trình thủy động lực học trên hệ thống sông Trà Lý.

7


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1 TỔNG QUAN VỀ LƢU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1.1 Đặc điểm địa lý tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Sông Trà Lý có hƣớng chung là Tây - Đông. Bắt đầu từ xã Hồng Minh,
huyện Hƣng Hà tỉnh Thái Bình, chảy quanh co, uốn khúc qua Quyết Chiến của
huyện Đông Hƣng, Thành Phố, TP Thái Bình, Đông Mỹ, Đông Huy rồi đến Thái
Hà, Thái Phúc của huyện Thái Thụy đổi hƣớng Bắc-Nam đến Thái Thành, Thái Thọ
cuối cùng tới Định Cƣ rồi đổ ra Vịnh Bắc Bộ tại cửa Trà Lý. Sông dài 64 km, là
một con sông tự nhiên, mới chỉ chịu tác động của con ngƣời là việc đắp đê hai bên
bờ và ngăn các sông nhỏ bằng các cống.
+ Bờ hữu sông Trà Lý gồm các huyện Vũ Thƣ, Thành phố Thái Bình, Kiến
Xƣơng, Tiền Hải
+ Bờ tả sông Trà Lý gồm các huyện Hƣng Hà, Đông Hƣng, TP. Thái Bình,
Thái Thụy
b. Đặc điểm địa hình
Địa thế chung của khu vực: Nằm dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Từ
sông Hồng ra đến biển cửa Ba Lạt, từ cửa vào sông Trà Lý đến cửa ra sông Trà Lý
(biển). Từ ven sông Luộc ra tới biển cũng thoải dần theo hƣớng chảy của các sông

Hoá, sông Diêm Hộ (Diêm Điền), sông Tiên Hƣng, Sa Lung 1, Sa Lung 2.
Phía Bắc sông Trà Lý hay (phía bờ tả) có các sông ngang, kênh nội đồng
chảy nhập vào. Khi lấy nƣớc tƣới, lợi dụng lúc thuỷ triều lên, một số cống trên sông
nội đồng mở, lúc này mực nƣớc sông Trà Lý cao hơn mực nƣớc sông trong đồng và
hƣớng chảy có chiều ngƣợc lại (từ sông Trà Lý vào sông, kênh trong đồng). Khu
này gọi chung là Bắc Thái Bình.
Phía Nam Thái Bình hay còn gọi là phía hữu sông Trà Lý cũng có địa hình
chung là dốc thoải dần về phía đông nam ra biển. Các sông tự nhiên và kênh đào

8


cũng dựa vào hƣớng đó mà tạo ra các trục sông tiêu thoát nƣớc và lấy nƣớc tƣới
ngang dọc chằng chịt mà vẫn đảm bảo hƣớng chung Tây Bắc – Đông Nam.
Đây là vùng phù sa châu thổ sông Hồng, đƣợc bồi tụ phù sa sau nhiều triệu
năm. Sau hàng ngàn năm sinh sống, nhân dân đã xây dựng nên hệ thống đê sông
Hồng, sông Luộc, Trà Lý .. và nhiều hệ thống thuỷ lợi, tạo ra vùng đất phì nhiêu
nhƣ ngày nay. Đồng thời hệ thống đê sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý, sông
Hoá… đã chia cắt đồng bằng nói chung và tỉnh Thái Bình ra thành nhiều ô riêng
biệt, có những vùng trũng úng và cũng có những cồn cát cao 2-3 mét. Giữa sông
Trà Lý và sông Hồng có khoảng 25 dải song song tạo thành vùng đất cồn rộng 30
km, cao hơn mặt ruộng 1-2 m, có các làng mạc ở trên đó. Cũng do quá trình khai
hoang lấn biển, qua nhiều năm đất đai đã đƣợc mở rộng ra phía biển theo hƣớng
Đông và Đông Nam.
Cao trình mặt đất trung bình phía bắc tỉnh Thái Bình khoảng +1 ÷ +2.5m
Cao trình mặt đất trung bình phía nam tỉnh Thái Bình khoảng: +0.5 ÷ +1.75m.
Các đƣờng giao thông có cao độ từ +1.75 - +2.5 m.
c. Hệ thống sông ngòi
Diện tích lƣu vực sông Hồng và sông Thái Bình là 169.020 km2, trong đó
phần lƣu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam là 86.720 km 2, tức chiếm 51%. Riêng lƣu

vực sông Hồng tính đến Sơn Tây là 143.700 km2, sông Thái Bình là 12.680 km2,
vùng đồng bằng gồm cả sông Tích, sông Bôi là 12.640 km2. Hệ thống sông Hồng,
sông Thái Bình đƣợc hợp thành bởi các lƣu vực sông sau đây:
 Sông Thao (dòng chính sông Hồng) bắt nguồn từ dãy Ngụy Sơn - Trung
Quốc có diện tích lƣu vực 51.800 km2, tổng chiều dài 843 km. Thuộc
lãnh thổ Việt Nam có diện tích 12.000 km2 và chiều dài tới Việt Trì 332
km.
 Sông Đà, chi lƣu bên phải cũng bắt nguồn từ dãy Ngu Sơn chảy vào
Việt Nam theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam và song song với sông Thao.
Sông Đà có diện tích lƣu vực là 52.900 km2, chiều dài 1010 km. Trên
lãnh thổ Việt Nam có diện tích 26.800 km2 và chiều dài 570 km.

9


 Sông Lô bắt nguồn từ cao nguyên Vân Quý Trung Quốc, đầu nguồn cũng
chảy theo hƣớng Tây Bắc - Đông Nam, tới thị xã Hà Giang thì chuyển
hƣớng Bắc Nam và nhập vào sông Hồng ở gần Việt Trì, sông Lô có diện
tích lƣu vực 39.000 km2, chiều dài 470 km, diện tích thuộc lãnh thổ Việt
Nam 22.600 km2 với chiều dài 275 km. Sông Lô có phụ lƣu là sông Gâm,
sông Chảy và sông Phó Đáy.
 Sông Thái Bình có diện tích lƣu vực 12.680 km2 gồm sông Cầu
(6.030)km2, sông Thƣơng (3.580 km2) và sông Lục Nam (3.070 km2).
Toàn bộ lƣu vực sông Thái Bình nằm trên lãnh thổ Việt Nam trên vùng
đồi núi thấp vùng Đông Bắc.
Mạng lƣới sông hạ du thuộc địa phận vùng nghiên cứu
 Sông Hồng phân nƣớc qua sông Thái Bình qua hai phân lƣu lớn là sông
Đuống (dài 64 km), sông Luộc (dài 72,4km). Sông Hồng còn phân nƣớc
sang sông Đáy qua sông Nam Định (dài 31,5 km) và chảy thẳng ra biển
(Vịnh Bắc Bộ) ở cửa Ba Lạt và hai phân lƣu nữa là sông Trà Lý (dài 64

km) và sông Ninh Cơ (dài 51,8 km). Ở đây dòng chính và các phân lƣu
đều có đê chống lũ, nên đồng ruộng ít đƣợc bồi đắp thêm, lƣợng phù sa
chủ yếu của sông Hồng đều đổ ra biển, đã bồi đắp và kéo dài vùng cửa
sông. Sông Hoá nối sông Luộc (ở Chanh Chử) với sông Thái Bình ở
Thu Tân gần biển.
 Sông Luộc: Bắt đầu từ Hạ Lão huyện Hƣng Hà tỉnh Thái Bình, đổ vào
sông Thái Bình ở làng Quý Cao, huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dƣơng (sông
Luộc dài 72,4 km). Trƣớc kia sông Luộc có tên là sông Phổ Đà, sông Đa
Lỗ. Sông Luộc chảy theo hƣớng Tây – Đông, hƣớng thấp dần của đồng
bằng Bắc Bộ. Cửa vào ở độ cao trung bình +4 ÷ +6m, xuống Quý Cao,
Vĩnh Bảo chỉ còn +1 ÷ 0m. Sông Luộc ít dốc và chảy quanh co, độ rộng
lòng sông trung bình từ 300 – 400 m. Thời gian gần đây ở cửa sông đã
bồi lắng tƣơng đối nghiêm trọng, lòng sông chỉ còn lại một lạch chính
không rộng và không sâu lắm, chảy quanh co giữa các bãi bồi, tàu bè đi

10


lại khó khăn trong mùa kiệt. Sông Luộc có nguy cơ bị bồi lấp dần nếu
không đƣợc cải tạo liên tục (sông Luộc là một sông ngang, sông Thái
Bình đang bị bồi lắng rất mạnh ở nhiều đoạn, đặc biệt đoạn Quý Cao).
Hƣớng nƣớc sông Thái Bình đang chuyển dần sang sông Văn Úc qua các
sông ngang: sông Gùa, sông Mía, sông Mới. Vì vậy, đoạn cửa sông Thái
Bình gần biển có nguy cơ bị lắng đọng và chết dần.
Từ khi có hệ thống đê hoàn chỉnh và sau đó là các cống dọc theo đê, một
số cửa sông chỉ còn đƣợc thông nƣớc khi mở cống lấy hoặc khi tiêu nƣớc.
 Sông Trà Lý: Sông Trà Lý là phân lƣu của dòng chính sông Hồng,
chuyển tải một lƣợng nƣớc khá lớn trong năm, tham gia quá trình ngọt
hoá vùng ven biển của tỉnh Thái Bình, tiêu thoát bớt một lƣợng lũ đáng
kể của sông Hồng ra biển, làm giảm sự căng thẳng cho đoạn đê cuối sông

Hồng. Sông Trà Lý có hƣớng chung là Tây – Đông. Bắt đầu từ xã Hồng
Minh, huyện Hƣng Hà tỉnh Thái Bình, chảy quanh co, uốc khúc qua
Quyết Chiến, Đồng Phú, Đồng Phú của huyện Đông Hƣng, TP. Thái
Bình, Đông Mỹ, Đông Huy rồi đến Thái Hà, Thái Phúc của huyện Thái
Thu đột ngột đổi hƣớng Bắc – Nam đến Thái Thành, Thái Thọ cuối
cùng tới Định Cƣ rồi đổ ra Vịnh Bắc Bộ tại cửa Trà Lý. Sông dài 64 km.
Sông Trà Lý vẫn là sông thiên nhiên, mới chỉ có tác động của con ngƣời
là đê đƣợc đắp hai bên bờ và ngăn các sông nhỏ bằng các cống.
Sông Trà Lý chảy qua vùng đất thấp, cốt đất đoạn cửa vào phổ biến là
khoảng (+1,0)m và đoạn cửa ra khoảng trên dƣới (+0,75m). Riêng vùng
Bắc Thái Bình có 24200 ha ruộng có cốt đất thấp dƣới (+1,00m) về vụ
mùa thƣờng hay bị ngập úng; có 15100 ha ruộng có cốt đất nhỏ hơn
(+0,75)m. Vùng Nam Thái Bình cũng ở tình trạng nhƣ vậy (hƣớng dốc ra
cửa Lân).
Ngày nay đê sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý, sông Hoá đã hình thành
khá hoàn chỉnh, căn bản ngăn đƣợc lũ hạ lƣu sông Hồng. Tuy còn một số đoạn đê
chất lƣợng nền móng kém, nhƣng thân đê ngày càng đƣợc kiên cố hơn.

11


Hệ thống đê và các cống lấy nƣớc phía bờ hữu sông Luộc, tả sông Hồng, hữu
sông Hoá và hai bên tả, hữu sông Trà Lý đã ngăn cách nƣớc lũ sông ngoài bao
quanh vận hành chống lũ tiêu thoát nƣớc nội đồng và lấy nƣớc cấp cho nội đồng
phục vụ sản xuất, sinh hoạt, đẩy và rửa mặn, thau chua… khi đƣợc phép mở cống,
đặc biệt trong các tháng mùa kiệt. Các hệ thống thuỷ nông các sông nội đồng đã
đƣợc hình thành, tạo thành hai khu thuỷ lợi chính của tỉnh Thái Bình: khu Bắc Thái
Bình và khu Nam Thái Bình.
a. Trong khu Bắc Thái Bình có các trục dẫn nƣớc có hƣớng chung phù hợp
với thế đất và địa hình nội đồng là từ Tây Bắc chảy xuống Đông Nam ra Vịnh Bắc

Bộ.
* Sông Tiên Hƣng chảy từ Nhâm Lang, bờ hữu sông Luộc, thuộc huyện
Hƣng Hà chảy quanh co nhƣng hƣớng chung là Tây Bắc – Đông Nam, đến Cổ
Dũng rồi đổi hƣớng Tây – Đông gặp sông Diêm Hộ theo hƣớng Đông chảy ra Vịnh
Bắc Bộ.
Các hệ thống sông ngang, dọc trong khu Bắc Thái Bình đều có hƣớng từ Tây Bắc
và Bắc, chảy từ sông Luộc vào đồng rồi thoát ra sông Trà Lý, sông Diêm Hộ rồi đổ
ra biển.
- Các cống đầu: Lão Khê, Nhâm Lang, Hiệp, Đại Nẫm (sông Luộc).
- Các cống cuối: Sa Lung, Thiên Kiều (sông Trà Lý); cống Trà Linh I, Trà
Linh II (cuối sông Diêm Hộ)…
b. Các sông trục trong đồng khu Nam Thái Bình cũng chảy theo hƣớng dốc
địa hình, thế đất từ Tây Bắc xuống Đông Nam, sát biển đất đai lại bị nâng cao tạo
thành hình yên ngựa. Hai huyện Vũ Thƣ và Kiến Xƣơng có những dải đất chạy dọc
theo sông Kiến Giang tạo thành hình sống Trâu bất lợi cho cả tƣới và tiêu.
* Sông Kiến Giang chạy dọc khu Nam Thái Bình, chia khu này thành hai
phần đất tƣơng đối đều nhau. Các sông ngang đổ vào sông Kiến Giang tạo thành
một hệ thống thuỷ nông khá phức tạp nhƣng tƣơng đối hoàn chỉnh. Sông Kiến
Giang đƣợc liên hệ với sông Trà Lý, sông Hồng nhờ có các cống lấy nƣớc qua đê
hữu sông Trà Lý, để tả sông Hồng và các đoạn sông kênh ngang hình xƣơng cá.

12


Các cống lấy nƣớc tƣới ở dọc bờ đê hữu sông Trà Lý: Cự Lâm, Nang, Ô Mễ,
Tam Lạc, Vũ Đông, Ngữ, Dục Dƣơng. Các cống lấy nƣớc tƣới ở dọc bờ đê tả sông
Hồng: Tân Đệ, Ngô Xá, Thái Hạc, Cù Là, Nguyệt Lâm.
Các cống tiêu chính là Lãng Đông, Ngũ Thôn, Tam Đồng, Ngặt Kéo, Định
Cƣ (sông Trà Lý), Bồng He, Doãn Đông, Khổng, Sáu (sông Hồng), An Long, Nho
Lâm, Hoàng Môn, Cống Lân I, Lân II (Cửa Lân ra Vịnh Bắc Bộ).

c. Đặc điểm hình thái và diễn biến sông Trà Lý
Sông Trà lý dài khoảng 64 km, sông quanh co uốn khúc, nhiều đoạn sông có
bán kính cong khá nhỏ khoảng trên dƣới 500m, nhƣng cũng có đoạn bán kính cong
lớn khoảng một vài nghìn mét. Bề rộng của sông cũng biến thiên lớn, nhiều đoạn
sông có bề rộng chỉ khoảng hơn trăm mét, nhiều đoạn rộng đến vài trăm mét.
Bảng 1. Các thông số lòng dẫn sông Trà Lý
TT

Đoạn sông cong

1
2
3
4
5
6
7
8

K1+460 tả TL
K2+830 hữu TL
K14 tả TL
K22+160 tả TL
K36 hữu TL
K39+620 hữu TL
K4+30 đê biển 7
K13+130 đê biển 7

Bc
(m)

125
135
130
175
150
182
115
255

Rc
(m)
800
770
900
1060
4500
960
1000
1650

Sông Trà Lý có xu thế gia tăng lƣợng nƣớc về mùa lũ làm gia tăng nguy cơ
mất ổn định đê, đe dọa an toàn dân sinh, kinh tế xã hội.
Lòng sông Trà Lý nhìn chung không ổn định, dễ biến động. Kết quả tính
toán cho thấy chỉ số ổn định theo chiều ngang φ'h và φb dao động trong khoảng nhỏ
hơn 1.0
d. Khả năng thoát lũ của sông Trà Lý
Sông Trà Lý đóng vai trò quan trọng trong thoát lũ hệ thống sông Hồng. Nếu
lấy coi lƣợng lũ thoát qua Sơn Tây là 100% thì lƣợng lũ phân qua sông Trà Lý dao

13



động trong khoảng 8% -11% tùy theo trận lũ và tùy địa hình lòng dẫn của sông Trà
Lý tƣơng ứng với lòng dẫn của hệ thống sông Hồng.
-

Trong thời đoạn 1972 ÷ 1987 lƣu lƣợng đỉnh lũ bình quân ở Sơn Tây là
17.540m3/s (coi 100%) thì phân lƣu lƣợng lũ bình quân vào sông Trà Lý
1.380m3/s chiếm 8,6% lƣu lƣợng sông Hồng ở Sơn Tây.

-

Lũ tháng VIII năm 1971 lớn nhất ở sông Hồng sau khi đã vỡ đoạn đê
Cống Thôn ở sông Đuống thì Qmax Hà Nội còn đạt 22.200m3/s và lƣu
lƣợng max qua sông Trà Lý 2.610m3/s.

-

Lũ tháng VIII năm 1969: Hà Nội 17.800m3/s, thì lƣu lƣợng qua Quyết
Chiến sông Trà Lý 2.440m3/s.

-

Lũ năm tháng VIII/1996 lƣu lƣợng Hà Nội là 14.800m3/s thì lƣu lƣợng
qua Quyết Chiến là 2180 m3/s.

Qua đó có thể thấy rằng sông Trà Lý là một phân lƣu quan trọng trong thoát lũ của
hệ thống sông Hồng và đồng bằng Bắc Bộ.
1.1.2 Đặc điểm khí tƣợng thủy văn
a. Đặc điểm khí hậu

Vùng nghiên cứu có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa, với chế độ gió mùa
thể hiện sự tƣơng phản rõ rệt giữa hai mùa. Mùa hè trùng với gió mùa Tây nam kéo
dài từ tháng V tới tháng IX có thời tiết nóng ẩm và mƣa nhiều. Mùa đông trùng với
gió mùa Đông bắc kéo dài từ tháng XI tới tháng III có thời tiết lạnh và ít mƣa.
Tháng IV và tháng X là những tháng giao thời ngắn giữa 2 mùa nhƣng mang tính
chất mùa hè nhiều hơn mùa Đông.
Mùa hè: Vào tháng V và tháng VI gió mùa tây nam hoạt động mạnh khi xâm
nhập vào Bắc bộ tràn xuống vùng đồng bằng mang thời tiết khô nóng. Nhiệt độ cao
nhất thƣờng xảy ra vào các tháng này với nhiệt độ trung bình tháng 27-280C, nhiệt
độ cao nhất tuyệt đối đạt 40-410C. Ban ngày trời nắng gắt, độ ẩm cao không khí oi
bức, chiều tối hay có giông. Lƣợng mƣa tháng trung bình đạt 160-240mm. Có năm

14


gió mùa tây nam hoạt động mạnh gây ra những đợt nắng hạn kéo dài có khi lấn sang
cả tháng VII và chỉ chấm dứt khi có bão và áp thấp ở biển đông lấn vào.
Vào tháng VII, VIII khi giải hội tụ nhiệt đới di chuyển từ nam lên bắc nằm
vắt ngang qua đồng bằng Bắc bộ. Những áp thấp và bão phát triển dọc theo dải hội
tụ này gây lên những đợt mƣa lớn có khi bao trùm toàn bộ vùng đồng bằng. Lƣợng
mƣa trong vùng nghiên cứu đạt từ 250-350mm những năm do ảnh hƣởng của bão
lƣợng mƣa tháng VIII, IX tại Thái Bình đạt tới 924.7mm (1975), 963.7mm (2003),
tại Thụy Anh đạt 863.5mm (1975), 834.7mm (1973)
Tuy vậy thời tiết của những tháng này biến động rất mạnh mẽ tùy theo tần số
xuất hiện hàng năm của những nhiễu động thời tiết gây mƣa lớn nhƣ bão và áp thấp
nhiệt đới. Năm ít mƣa thì nắng nóng kéo dài lƣợng mƣa chỉ đạt dƣới 100mm. Tại
Thái Bình lƣợng mƣa trung bình tháng nhỏ nhất đạt 43.8mm (VII/1968).
Sang tháng X gió mùa đông bắc từ lƣỡi áp cao Trung Quốc bắt đầu tràn về
từng đợt làm nhiệt độ giảm và gây ra mƣa rải rác ở các vùng. Lƣợng mƣa trung bình
tháng chỉ đạt 9 -10% lƣợng mƣa năm.

Mùa đông: bắt đầu từ tháng XI tới tháng III , gió mùa đông bắc đã ngự trị
hoàn toàn trong vùng nghiên cứu với trung bình từ 2 tới 4 đợt gió mùa Đông bắc
tràn về, nhiệt độ giảm xuống nhanh chóng và đạt thấp nhất vào tháng I. Nhiệt độ
trung bình tháng I đạt 16-16,80C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối đạt 4,5 tới 7,00C.
Lƣợng mƣa trung bình tháng XII, I chỉ bằng 1,2 -1,5% lƣợng mƣa năm.
Vào cuối mùa đông từ tháng II tới tháng IV áp cao Nam Trung Hoa dịch
chuyển sang phía đông gió mùa có hƣớng lệch sang đông bị biến tính khi thổi qua
biển Nam Hải nhiệt độ không khí cao hơn và độ ẩm tƣơng đối đạt 90-91% bầu trời
u ám mây thấp và mƣa phùn ẩm ƣớt, số ngày mƣa lên đến 15-20 ngày mỗi tháng,
lƣợng bốc hơi piche giảm chỉ còn 30-40mm/tháng.
* Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm vùng nghiên cứu đạt 23,30C tại Thái Bình. Nhiệt độ
trung bình tháng cao nhất vào tháng VII đạt 29,20C, thấp nhất vào tháng I đạt

15


16,30C. Nhiệt độ tối cao đạt 39,20C vào tháng 5/VII/1967, nhiệt độ tối thấp đã quan
trắc đƣợc 4,10C vào 2/I/1974.
Bảng 2. Đặc trƣng khí hậu tại trạm Thái Bình
Trạm

VI VI
XI Nă
IX X XI
I
II
I
m
16. 17. 19. 23. 26. 28. 29. 28. 27. 24. 21. 17. 23.

3
1
6
3
9
7
2
3
0
5
3
8
3
19 18 20 17 17 16 14 12 16
72 41 42 91
4
1
5
2
4
9
3
0 04
85 89 91 89 86 84 82 87 87 84 83 83 86
10 11
88
59 43 42 51 82
76 70 84 86 76
2
5

6
2.4 2.4 2.2 2.4 2.3 2.3 2.5 1.8 1.8 2.1 2.1 2.1 2.2
I

Nhiệt độ (oC)
Nắng (giờ)
Độ ẩm (%)
Bốc hơi Piche
(mm)
Tốc độ gió

II

III

IV

V

VI

* Nắng
Vùng nghiên cứu có số giờ nắng hàng năm khoảng 1600 giờ, tháng có số giờ
nắng nhiều nhất là từ tháng V đến tháng VII, tháng nhiều nhất là tháng VII trong
năm, đạt 205 giờ/tháng, 6,6giờ/ ngày. Tháng có số giờ nắng ít nhất là từ tháng I đến
tháng III có từ 40 ÷ 70 giờ/ tháng đạt bình quân 1 đến 2 giờ/ ngày. Nhìn chung số
giờ nắng các tháng trong năm thuận lợi cho phát triển của cây trồng, đặc biệt là các
tháng mùa hè.
* Bốc hơi
Độ ẩm tƣơng đối trung bình trong các tháng phổ biến đều vƣợt trên 80%. Độ

ẩm tháng này so với tháng khác biến đổi rất ít, giữa tháng ẩm nhất và tháng khô
nhất chỉ chênh nhau từ 5% đến 10%. Những ngày mùa đông khô hanh, độ ẩm có thể
giảm xuống dƣới 20%. Trong những ngày mƣa phùn, không khí có thể tăng lên đến
trên 90%.
*Gió, bão
Khí hậu miền Bắc Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu
trong năm hình thành hai mùa rõ rệt:
-Mùa hè nóng ẩm mƣa nhiều

16


-Mùa đông lạnh, khô, ít mƣa.
Sự tác động của hoàn lƣu khí quyển tới địa hình lƣu vực tạo nên chế độ khí
hậu riêng cho lƣu vực sông.
Về mùa hè, khi giải áp thấp xích đạo vƣợt qua chí tuyến Bắc thì toàn bộ áp
thấp này phát triển rộng ra bao trùm cả Ấn Độ Dƣơng, mặt khác nó tăng cƣờng cho
áp thấp xích đạo. Thời điểm nay áp cao Xiberi đã yếu và tan đi, nhƣng vùng cận
phía Nam bán cầu lại là vùng áp cao. Do vậy các khối khí đoàn ở đây bị hụt bởi áp
thấp và di chuyển sang Bắc bán cầu. Cơ chế gió mùa mùa hè đƣợc hình thành và
mang theo nhiều hơi ẩm từ biển vào lục địa, hệ quả cho mƣa lớn.
Gió Tây Nam hoạt động mạnh từ tháng 5 đến tháng 8 và phân làm hai luồng
đi tới Bắc Việt Nam:
- Một luồng vƣợt qua Vịnh Thái Lan theo hƣớng Tây Nam qua Lào sang Bắc
Bộ, đặc điểm thời tiết khô nóng.
- Một luồng theo bờ biển Việt Nam có hƣớng đông nam thổi vào đất liền, đặc
điểm thời tiết mát mẻ, độ ẩm cao. Tùy theo hình thế thời tiết mà hai luồng gió này
thay thế nhau ngự trị ở Bắc Bộ.
Tới tháng 9, áp cao Thái Bình Dƣơng xuất hiện và hoạt động đồng thời với
gió mùa Tây Nam. Đây là thời kỳ giao thời giữa hai mùa nóng lạnh.

Đến tháng 10, gió tây nam yếu và tan đi, áp cao phía Bắc hoạt động mạnh
dần lên và đi về phía đông, bắt đầu hình thành hoàn lƣu gió mùa mùa đông.
Gió mùa mùa đông cũng đƣợc chia làm hai thời kỳ khác nhau:
- Đầu mùa đông từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau là thời kỳ lạnh và khô.
Nguyên do áp cao Xiberi tràn qua lục địa Trung Quốc từ phía Bắc xuống Việt Nam.
- Giai đoạn cuối mùa đông từ tháng 1 đến tháng 4, không khí lạnh biến tính
qua biền tới Bắc Bộ cho thời tiết lạnh ẩm, có mƣa phùn kèm theo.
Vào mùa đông, luôn có sự tranh giành ảnh hƣởng của tín phong và gió mùa cực đới,
do đó thể hiện tính biến động mạnh mẽ: xen kẽ thời tiết lạnh khác thƣờng của gió
mùa cực đới và thời tiết ấm áp của tín phong. Mùa hạ cũng xảy ra sự tranh giành

17


ảnh hƣởng của gió mùa mùa hạ và tín phong xảy ra ở dãy hội tụ- đó là nguyên nhân
gây mƣa mùa hạ.
Trong vùng không có sự phân hóa đáng kể từ nơi này qua nơi khác.
Bão là nhiễu động thời tiết mạnh mẽ nhất trong cơ chế gió. Bản chất của bão
là vùng áp thấp khá sâu phát triển trên rãnh nội chí tuyến vùng biển nhiệt đới phía
đông nƣớc ta. Bão gây mƣa lớn kéo dài vài ngày, lƣợng mƣa lớn từ 100-300 mm
(hoặc hơn) trên diện rộng 100-200 km2 xung quanh tâm bão.
Theo kết quả thống kê 403 trận bão đổ bộ vào Việt Nam trong vòng 100 năm
thì có 126 trận (tức 31%) đổ bộ vào vùng biển từ Quảng Ninh đến Ninh Bình.
Trong đó xảy ra vào tháng IX có 37 trận, tháng VII có 35 trận và tháng VIII có 26
trận (cũng là những tháng xảy ra lũ lớn).
Tốc độ gió mạnh làm dâng mực nƣớc biển. Trong 101 trận bão gây nƣớc
dâng thống kê đƣợc từ Cửa Ông đến Cửa Đáy, thì có 35 trận gây nƣớc dâng thấp
hơn 0,50 m, 38 trận gây nƣớc dâng từ 0,5÷1,0 m, 17 trận gây nƣớc dâng 1,00 ÷ 1,50
m, 8 trận gây nƣớc dâng từ 1,50-2,00 m, 3 trận gây nƣớc dâng 2,0-2,5 m và không
có trận gây nƣớc dâng cao hơn 2,5 m.

Thời gian nƣớc dâng từ 12-13 giờ, thời gian duy trì mực nƣớc cao nhất
khoảng 3 giờ. Nƣớc dâng gây ảnh hƣởng lớn tới việc tiêu thoát nƣớc ra biển và
vùng cửa sông, có khi gây ra tràn và vỡ đê biển làm đất vùng ven biển ngập nƣớc
mặn (Theo đánh giá trong Báo cáo thủy văn Dự án Quy hoạch sử dụng Tổng hợp
nguồn nƣớc lƣu vực sông Hồng – sông Thái Bình 2006).
* Chế độ mƣa
- Mƣa năm: Nếu coi thời gian mùa nhiều mƣa bao gồm những tháng có
lƣợng mƣa lớn hơn lƣợng mƣa bình quân tháng trong năm và đạt trên 50% tổng số
năm quan trắc thì mùa nhiều mƣa ở lƣu vực sông vùng nghiên cứu là từ tháng V đến
tháng X, mùa ít mƣa từ tháng XI đến tháng IV năm sau.
Thành phần lƣợng mƣa trong mùa nhiều mƣa chiếm 80 ÷ 85% lƣợng mƣa cả
năm, thành phần lƣợng mƣa trong mùa ít mƣa chỉ chiếm 15-20% lƣợng mƣa cả
năm. Tuy nhiên thời kỳ mƣa lớn nhất vùng nghiên cứu thƣờng tập trung vào 3 tháng

18


là từ tháng VII đến tháng IX, thành phần lƣợng mƣa trong các tháng này đều đạt từ
200÷300mm/tháng.
Thời kỳ ít mƣa nhất trong vùng nghiên cứu thƣờng tập trung vào 3 tháng, từ
tháng XII đến tháng II lƣợng mƣa trong các tháng này chỉ đạt từ 15-30mm/tháng .
Lƣợng mƣa trung bình nhiều năm vùng nghiên cứu từ 1500 -1700mm, tại
Thái Bình đạt 1683 mm.
- Mƣa tháng: Tháng có lƣợng mƣa nhỏ nhất là tháng 12 và tháng 1, chỉ đạt
khoảng 20 mm đến 30 mm. Lƣợng mƣa ngày lớn nhất (xem Bảng 3. ) trong thế kỷ
trƣớc (thế kỷ 20) và mấy năm đầu thế kỷ 21 đã xuất hiện lƣợng mƣa 1 ngày lớn nhất
đạt tới trên 400 mm ở trong vùng nghiên cứu của dự án và ngoài vùng nghiên cứu
thuộc Đồng Bằng Bắc Bộ. Tháng 7 năm 2004 cũng xuất hiện một đợt mƣa diện
rộng toàn tỉnh Thái Bình, nhiều nơi đã xuất hiện lƣợng mƣa 1 ngày lớn nhất năm
đạt vài trăm mm.

Bảng 3. Lƣợng mƣa 1 ngày max và 3 ngày max vùng nghiên cứu
Tên Trạm
TP. Thái Bình
Tiền Hải
Kiến Xƣơng
Tiên Hƣng
Thái Thu
Thuyền Quan
Phủ Dực
Bến Hiệp

Tên
trạm
Thái
Bình
Tiền
Hải

Mƣa 1 ngày max
300,0 mm (1990)
353,5 mm (1990)
313,3 mm (1982)
428,0 mm (1975)
408,5 mm (1963)
317,3 mm (1966)
379,2 mm (1978)
357,5 mm (1978)

Mƣa 3 ngày max
454,0 mm (1990)

555,6 mm (1966)
460,7 mm (1968)
462,7 mm (1975)
436,0 mm (1963)
472,8 mm (1978)
427,7 mm (1978)
426,6 mm (1978)

Bảng 4. Tổng lƣợng mƣa trung bình tháng và năm vùng nghiên cứu
Đơn vị: mm
Đặc
VII
XI Nă
trƣn I II III IV V VI VII
IX X XI
I
I
m
g
X(m 25. 26. 45. 75. 167 188 224 299 331 202 70. 25. 168
m)
5
7
0
8
.8
.1
.6
.7
.1

.9
5
5
3.1
1.5 1.5 2.6 4.5 9.9 11. 13. 17. 19. 12. 4.1 1.5
K%
100
1
8
8
1
7
18 34 80 67 05 9
2
X(m 22. 28. 40. 61. 151 154 200 320 353 221 66. 16. 163
m)
4
7
4
3
.0
.8
.7
.8
.2
.7
9
6
8.6


19


Tên
trạm

Đặc
trƣn
g
K%

Kiến
Xƣơn
g
Tiên
Hƣng

Thái
Thụy
Thuyề
n
Quan
Bến
Hiệp
Phụ
Dực

X(m
m)
K%

X(m
m)
K%
X(m
m)
K%
X(m
m)
K%
X(m
m)
K%
X(m
m)
K%

I

II

III IV

1.3
7
20.
7
1.3
1
21.
8

1.4
1
24.
6
1.5
0
23.
8
1.4
4
23.
3
1.4
8
25.
7
1.6
5

1.7
5
25.
7
1.6
3
25.
1
1.6
2
24.

3
1.4
8
28.
9
1.7
5
24.
8
1.5
8
27.
9
1.7
9

2.4
7
44.
3
2.8
1
49.
5
3.2
0
42.
1
2.5
6

44.
3
2.6
8
47.
9
3.0
5
53.
1
3.4
1

3.7
4
73.
5
4.6
6
75.
7
4.8
9
66.
1
4.0
2
72.
1
4.3

6
81.
1
5.1
6
69.
7
4.4
7

V

VI

VII

VII
I

IX

X

XI

XI
I

9.2
1

149
.4
9.4
9
156
.8
10.
13
163
.4
9.9
4
161
.6
9.7
7
160
.5
10.
21
150
.3
9.6
4

9.4
5
162
.1
10.

29
184
.7
11.
93
190
.5
11.
58
190
.6
11.
52
186
.5
11.
86
193
.3
12.
40

12.
25
191
.7
12.
17
200
.7

12.
96
227
.9
13.
86
211
.7
12.
80
228
.0
14.
51
220
.4
14.
14

19.
58
294
.2
18.
68
302
.5
19.
54
326

.9
19.
87
315
.5
19.
07
294
.5
18.
74
293
.5
18.
83

21.
56
356
.2
22.
61
282
.1
18.
22
319
.8
19.
44

319
.8
19.
33
276
.5
17.
59
283
.1
18.
16

13.
53
177
.3
11.
26
162
.0
10.
46
176
.0
10.
70
193
.6
11.

70
166
.6
10.
60
159
.1
10.
21

4.0
8
62.
9
3.9
9
62.
1
4.0
1
62.
0
3.7
7
69.
1
4.1
8
58.
7

3.7
4
59.
6
3.8
2

1.0
2
17.
2
1.0
9
25.
3
1.6
4
21.
2
1.2
9
23.
3
1.4
1
23.
5
1.5
0
22.

8
1.4
7


m
100
157
5.2
100
154
8.1
100
164
4.8
100
165
4.1
100
157
1.8
100
155
8.6
100

* Các nhiễu động thời tiết gây mƣa lớn
Các tác nhân gây mƣa lớn là các nhiễu động trong cơ chế gió mùa gồm các
nhiễu động kiểu front, kiểu hội tụ, rãnh, xoáy hoặc dông nhiệt. Nhiễu động có
cƣờng độ biến đổi càng lớn thì tác động gây mƣa càng lớn. Nhiễu động có tác động

lớn đến mùa lũ ở sông Hồng là hội tụ nhiệt đới - tức hội tụ nội chí tuyến.
Từ cuối tháng 4, trục của rãnh hội tụ nội chí tuyến hƣớng theo gần vĩ tuyến và
chuyển theo chuyển động biến kiến của mặt trời và vƣợt qua xích đạo. Đồng thời áp
thấp lục địa Châu

cũng phát triển nhanh chóng về phía Nam và Đông Nam còn làn

20


gió Tây Nam thì tràn qua Đông Dƣơng đâỷ lùi áp cao Thái Bình Dƣơng về phía Bắc và
phía Đông. Vì vậy rãnh của nội chí tuyến trong khi tiến lên vĩ độ cao thì quang dần
sang hƣớng Tây Bắc - Đông Nam thậm chí hƣớng Bắc Nam.
Tuỳ thuộc vào sự tƣơng quan giữa 3 khối không khí mà vị trí và tốc độ di
chuyển của trục đó có vị trí khác nhau trong từng năm. Thông thƣờng trong các
tháng này, ít khi rãnh nội chí tuyến kéo dài về phía tây đến lục địa Đông Nam

,

toàn bộ lãnh thổ Việt Nam nằm trong lòng khối không khí gió mùa hoặc là Bắc Ấn
Độ Dƣơng hoặc là Thái Bình Dƣơng.
Từ tháng 8 gió mùa Tây Nam bắt đầu suy yếu, lƣới áp cao Thái Bình Dƣơng phát
triển về phía lục địa tạo ra sự quay hƣớng nhanh chóng của rãnh nội chí tuyến. Rãnh
hẹp lại và lùi về vĩ độ thấp đồng thời kéo dài đến lục địa Đông Nam

. Vì vậy thƣờng

từ tháng 8 mới thấy có hoạt động nội chí tuyến trên lãnh thổ Việt Nam. Trong tháng
này vị trí của nó thƣờng vắt ngang eo biển Basy tới Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam
với hƣớng Tây - Tây - Bắc, Đông - Đông - Nam.

Tới đầu tháng 9 trục của rãnh hƣớng dần theo vĩ tuyến và có vị trí trung bình ở
khoảng Trung Bộ.
Sang tháng 10 vị trí trung bình của trục rãnh ở các vĩ độ thấp và nhanh chóng
lùi về phía Nam bán cầu.
Hội tụ nội chí tuyến hoạt động rõ nét nhất trong tháng 8 đặc biệt ở lƣu vực
sông Thái Bình, sông Lô, Trung hạ lƣu sông Thao và hạ lƣu sông Đà.
Tuy nhiên có những năm gió mùa Tây Nam mạnh nhƣ năm 1964, 1990, 1991
thì ngay trong tháng 8 hội tụ nội chí tuyến cũng không thâm nhập đƣợc vào Bắc Bộ.
ngƣợc lại năm 1992 gió mùa Tây Nam yếu nên ngay trong tháng 7 giải hội tụ nhiệt
đới đã xâm nhập nhiều lần vào lãnh thổ của các lƣu vực sông Thái Bình, sông Lô,
và Thao.
Bão là nhiễu động thời tiết mạnh mẽ nhất trong cơ chế gió mùa. Bản chất của
bão là vùng áp thấp khá sâu phát triển trên rãnh nội chí tuyến vùng biển nhiệt đới
phía đông nƣớc ta trên Thái Bình Dƣơng.

21


b. Đặc điểm thủy văn
*Dòng chảy năm
Nguồn nƣớc trong vùng nghiên cứu bao gồm nguồn nƣớc sinh tại chỗ và
nguồn nƣớc ngoại lai chảy vào vùng từ các sông suối của hệ thông sông Hồng –
Thái bình ở phần hạ lƣu.
Nƣớc do mƣa trong vùng: Với tổng lƣợng mƣa năm trung bình nhiều năm
trong vùng là 1610mm, nhƣng vì Thái Bình là vùng đồng bằng ven biển không có
điều kiện xây dựng các hồ chứa nên lƣợng nƣớc này phần lớn chảy ra biển chỉ tích
lại một phần nhỏ trong các lòng sông, ao hồ vùng trũng.
Lƣợng nƣớc ngoại lai chảy vào vùng nghiên cứu: Nguồn nƣớc chảy vào
vùng nghiên cứu là nguồn nƣớc từ các phân lƣu ở châu thổ sông Hồng –Thái Bình
gồm

Nguồn nƣớc từ sông Hồng phân qua sông Luộc; nguồn nƣớc sông Hồng
phân qua sông Trà Lý và nguồn nƣớc hạ lƣu sông Hồng.
Kết quả nghiên cứu về lƣợng nƣớc phân lƣu của các nhánh sông ở hạ du
châu thổ sông Hồng và Thái Bình cho thấy nhƣ sau:
- Do tác động của thủy triều nên ở vùng châu thổ các sông đều phân nhiều
nhánh rất phức tạp.
- Chế độ dòng chảy ở các vùng sông chịu ảnh hƣởng của thủy triều thƣờng
rất phức tạp và do chế độ triều chi phối.
- Sự dao động của thủy triều có tác động tích cực đối với các cống lấy nƣớc
ở đỉnh triều và tiêu nƣớc ở chân triều, cũng nhờ dao động triều mà lƣợng nƣớc
ngọt trong các vùng cửa sông đƣợc giữ lại.
Tác động tiêu cực của thủy triều làm cho nƣớc biển có độ mặn cao lấn sâu
vào vùng châu thổ. Trong phần này chỉ xem xét sự phân phối dòng chảy ở các
nhánh sông vùng châu thổ sông Hồng - sông Thái Bình.
•Sông Hồng (ở Sơn Tây): 100%
- Phân sang sông Đuống 28 ÷ 30% vào mùa lũ và 25 ÷ 25,2% vào mùa cạn
(tỷ lệ này đã tăng lên từ năm 1985).

22


- Phân sang sông Luộc: 10 ÷ 14% (mùa lũ); 7 ÷ 8% (mùa kiệt).
- Phân sang sông Trà Lý: 12 ÷ 17% (mùa lũ); 9 ÷ 11% (mùa kiệt).
- Phân sang sông Đào Nam Định: 29÷31% (mùa lũ); 27÷35% (mùa kiệt).
- Phân sang sông Ninh Cơ: 6 ÷ 9% (mùa lũ); 7 ÷ 10% (mùa kiệt).
- Đổ ra cửa Ba Lạt: 25 ÷ 30%.
•Phân phối ở hạ lƣu sông Thái Bình: Tại Phả Lại 100%
- Phân qua sông Kinh Thày: 51%.
- Phân qua sông Gùa: 39%; còn 10% tiếp tục theo sông Thái Bình.
- Sau khi nhận thêm nƣớc từ sông Luộc tiếp tục phân qua Văn Úc 43%.

- Phân qua sông Rạng ở Quảng Đạt: 9,6% sau đó phân sang sông Lạch Tray
5,6%.
•Phân phối dòng chảy dọc sông Kinh Thày
- Phân sang Kinh Môn ở An Phụ: 22%.
Từ 1988 tới nay do có sự vận hành của hồ chứa lớn Hòa bình và từ năm 2006
có thêm sự vận hành của hồ Tuyên Quang nên tỷ lệ phân dòng chảy mùa lũ và mùa
cạn từ sông Hồng sang sông Đuống tăng lên đạt trung bình là 29% về mùa cạn và
30% về mùa lũ và lƣợng nƣớc sông Hồng qua mặt cắt Hà Nội cũng giảm về mùa lũ
và mùa cạn chỉ còn 76% về mùa cạn và 72% về mùa lũ. Do sự thay đổi tỷ lệ trên
nên lƣợng nƣớc qua sông Kinh Thày, Văn Úc có tăng lên khi nhận lƣợng nƣớc của
sông thái Bình và sông Hồng qua sông Đuống và lƣợng nƣớc sông Văn Úc nhận từ
sông Luộc qua sông Mới và lƣợng nƣớc của sông Luộc qua sông Hóa sẽ giảm đi do
sự giảm tỷ lƣu của dòng chính sông Hồng.
Bảng 5. Phân phối lƣu lƣợng mùa lũ, mùa cạn trƣớc và sau khi có hồ chứa lớn Hòa
Bình.
Tháng

Thời kỳ (1956-1987)
%Q
Sơn

Thƣợn
Sơn
Tây
Nội
g Cát
Tây
(m3/s (m3/s
(%) (m3/s)
)

)

%Q
Sơn
Tây
(%)

23

Thời kỳ 1988-2007
%Q
Sơn

Thƣợn
Sơn
Tây
Nội
g Cát
Tây
(m3/s (m3/s
(%) (m3/s)
)
)

%Q
Sơn
Tây
(%)



Tháng
Sơn
Tây
(m3/s
)
11

2762

12

1679

1

1283

2

1072

3

905

4

1072

5


1899

6

4619

7

7658

8

9004

9

6604

10

4125

Năm
Mùa cạn
Mùa lũ
3 tháng
kiệt
(II,III,IV
)


3557
1525
6402
1016

Thời kỳ (1956-1987)
%Q

Thƣợn
Sơn
Nội
g Cát
Tây
(m3/s
(%) (m3/s)
)
79,
2187
688
2
81,
1371
368
6
81,
1043
237
3
82,

887
186
7
84,
763
154
3
84,
906
197
5
78,
1490
397
5
75,
3464
1138
0
72,
5577
1978
8
73,
6603
2368
3
75,
4968
1786

2
75,
3130
1077
9
2699 79
881
1235 82
318
4748 74
1669
852

84

24,
9
21,
9
18,
5
17,
3
17,
0
18,
4
20,
9
24,

6
25,
8
26,
3
27,
0
26,
1
22
20
26

Thời kỳ 1988-2007
%Q
Sơn

Thƣợn
Sơn
Tây
Nội
g Cát
Tây
(m3/s (m3/s
(%) (m3/s)
)
)
75,
2206 1669
664

7
76,
1432 1090
435
1
74,
1296 967
368
6
75,
1217 924
339
9
75,
1302 988
367
9
77,
1467 1135
419
3
74,
2258 1680
654
4
69,
4699 3263
1362
4
72,

8627 6257
2679
5
72,
7457 5433
2289
9
73,
4475 3309
1350
9
73,
3432 2505
1001
0
3322 2435 74
994
1597 1208 76
464
5738 4153 72
1736

18

1329

%Q
Sơn
Tây
(%)


179

1016

76

375

%Q
Sơn
Tây
(%)
30,
1
30,
4
28,
4
27,
8
28,
2
28,
6
29,
0
29,
0
31,

1
30,
7
30,
2
29,
2
29
29
30
28

*Chế độ thủy văn mùa lũ và phân tích dòng chảy lũ
Đặc điểm nƣớc lũ ở hạ du sông Hồng
- Hạ du sông Hồng có 5 phân lƣu nhƣ đã trình bày ở mục mạng lƣới sông

24


ngòi: Lƣợng lũ phân vào sông Đuống, sông Luộc là 37% tổng lƣợng lũ của
Sơn Tây qua sông Thái Bình, gấp 5 lần tổng lƣợng lũ sông Thái Bình tại Phả
Lại, nên lƣợng lũ đó đã quyết định chế độ lũ ở hạ du sông Thái Bình.
- Lƣợng lũ phân qua sông Nam Định đến 22% lƣợng lũ Sơn Tây làm thay
đổi hẳn chế độ lũ sông Đáy nói chung và hạ du sông Đáy nói riêng.
- Lƣợng lũ phân thẳng ra biển qua 2 sông: Trà Lý khoảng 8% và sông Ninh
Cơ khoảng 6%. Nhƣ vậy lƣợng lũ sông Hồng ở Phú Hào dƣới cửa sông Nam
Định còn khoảng 32,5%, đến cửa Ba Lạt còn khoảng 25%.
- Từ 1988 ÷ 2008 là giai đoạn nƣớc vừa, chịu ảnh hƣởng của vận hành hồ
Hoà Bình và từ 2007 tới 2008 có sự vận hành của hồ chứa lớn Tuyên Quang
trên sông Lô. Có trận lũ 1996 cũng xảy ra vào tháng VIII khá lớn.

- Trong thời đoạn 1972 ÷ 1987 lƣu lƣợng đỉnh lũ bình quân ở Sơn Tây là
17.540m3/s (coi 100%) thì phân lƣu lƣợng lũ bình quân vào sông Đuống ở
Thƣợng Cát là 4.580m3/s chiếm 29,1%, vào sông Luộc 1360m3/s chiếm 8,6%
vào sông Nam Định 3570m3/s chiếm 23%, vào sông Trà Lý 1.380m3/s chiếm
8,6% vào sông Ninh Cơ 5,7%, ở Phú Hào còn 29% lƣu lƣợng sông Hồng ở
Sơn Tây.
- Lũ tháng VIII năm 1971 lớn nhất ở sông Hồng sau khi đã vỡ đoạn đê Cống
Thôn ở sông Đuống thì Qmax Hà Nội còn đạt 22.200m3/s Thƣợng Cát lên tới
9.000m3/s, Triều Dƣơng (sông Luộc) đạt 2.450m3/s, sông Nam Định
6.700m3/s, sông Trà Lý 2.610m3/s, sông Ninh Cơ và sông Hồng còn khoảng
11.000m3/s.
- Lũ tháng VIII năm 1969: Hà Nội 17.800m3/s, Thƣợng Cát 7.860m3/s, Nam
Định 5.970m3/s, Triều Dƣơng (sông Luộc 2.200m3/s, Quyết Chiến (sông Trà
Lý) 2.440m3/s, Trực Phƣơng (sông Ninh Cơ) 1.736m3/s; Trên sông Hồng:
Sơn Tây 19.900m3/s thực đo (hoàn nguyên là 27.400m3/s), Hà Nội
14.800m3/s thực đo, Thƣợng Cát 5.740m3/s thực đo.
Bảng 6. Mực nƣớc lũ lớn nhất của các trận lũ lớn đã xẩy ra trên các sông Hồng và
các phân lƣu ở hạ du
TT
Tram thuỷ
Sông
Năm 1969
Năm 1971
Năm 1996

25


×