Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.09 KB, 32 trang )

Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

LỜI NÓI ĐẦU
Xu hướng quốc tế hóa nền kinh tế đã mở ra cho nhân loại cánh cửa giao lưu đầy
triển vọng. Lịch sử đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể phát triển trong
sự tách biệt với thế giới bên ngoài, các nước đang xích lại gần nhau thông qua chiếc
cầu nối thương mại quốc tế. Vượt qua không gian và thời gian, những luồng chu
chuyển hàng hóa, dịch vụ và tiền tệ đã tạo ra sự gắn kết bền vững giữa cung và cầu ở
những nước có trình độ kinh tế khác nhau và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng
kéo theo sự phức tạp ngày càng lớn trong mắt xích cuối cùng của quá trình trao đổi,
thanh toán quốc tế. Được xem là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
thương mại quốc tế, hoạt động thanh toán quốc tế đã không ngừng được đổi mới và
hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu an toàn, thuận tiện và nhanh chóng của các giao dịch
thương mại.
Cùng với xu hướng hội nhập ngày càng tăng, các mối giao lưu thương mại cũng
ngày càng được mở rộng. Điều đó đặt ra cho các ngân hàng thương mại phải phát triển
các dịch vụ kinh tế đối ngoại một cách tương ứng, trong đó không thể không kể đến
hoạt động thanh toán quốc tế với nhiều phương thức thanh toán đa dạng và phong phú.
Trong các phương thức thanh toán này, tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán
được sử dụng phổ biến nhất do những ưu việt của nó. Song tín dụng chứng từ không
phải là nghiệp vụ đơn giản, trong thực tế công tác này đã gặp phải không ít những rủi
ro gây thiệt hại cả về tài chính lẫn uy tín cho các ngân hàng thương mại cũng như các
doanh nghiệp Việt Nam.
Thực trạng trên cho thấy việc phát hiện, phòng ngừa những rủi ro trong thanh
toán quốc tế đặc biệt là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ là một việc
làm cần thiết mà các Ngân hàng Thương mại cũng như các doanh nghiệp Việt Nam
phải quan tâm chú trọng.
Với mong muốn góp phần vào công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng chứng từ,
chúng tôi đã mạnh dạn tìm hiểu đề tài :" Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế
theo phương thức tín dụng chứng từ", qua đó đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của các bên, giảm thiểu rủi ro trong phương thức thanh toán này.



1


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

Phần I:
Khái quát về thanh toán quốc tế và
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
1. Thanh toán quốc tế và các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu
1.1. Khái niệm thanh toán quốc tế (TTQT)
Dưới giác độ kinh tế, TTQT là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện thanh toán
quốc tế trong quan hệ thanh toán giữa các nước. Trong quan hệ đó, các vấn đề có liên
quan đến quyền lợi và nghĩa vụ mà các bên phải đề ra để giải quyết và thực hiện được
quy định lại thành những điều kiện gọi là các điều kiện thanh toán quốc tế sau:
-

Điều kiện về tiền tệ

-

Điều kiện về địa điểm

-

Điều kiện về thời gian

-

Điều kiện về phương thức thanh toán


-

Điều kiện về đảm bảo hối đoái

Những điều kiện này được thể hiện trong các điều khoản thanh toán của hiệp định
trả tiền ký kết giữa các nước, các hiệp định thương mại, các hợp đồng mua bán ngoại
thương ký kết giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu.

1.2. Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế
Hoạt động thanh toán quốc tế (TTQT) ngày càng có vị trí quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang
tiến hành sự nghiệp xây dựng đất nước. Thông qua hoạt động TTQT, chúng ta có thể
tận dụng được vốn, công nghệ nước ngoài để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập với nền
kinh tế khu vực và trên thế giới.

2


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Hoạt động TTQT là khâu quan trọng trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá
dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau. Hoạt động TTQT của
các ngân hàng ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng, nó là công cụ, là cấu nối trong
quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ kinh tế và thương mại giữa các nước trên thế giới.
Hoạt động TTQT giúp cho doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện
hợp đồng xuất nhập khẩu. Do vị trí địa lý của các bạn hàng thường cách xa nhau làm
hạn chế việc tìm hiểu khả năng tài chính, khả năng của người mua, của bên nợ. Đồng
thời trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, tình trạng lừa đảo ngày càng
tăng nên rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu ngày càng nhiều. Tổ

chức tốt hoạt động TTQT sẽ giúp các nhà xuất khẩu hạn chế được rủi ro trong quá
trình kinh doanh quốc tế, nhờ đó sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu phát triển.
Đối với ngân hàng thương mại, việc mở rộng hoạt động TTQT có vị trí và vai trò
hết sức quan trọng. Đây không chỉ là một dịch vụ thuần tuý mà còn được coi là một
nghiệp vụ không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bổ sung và
hỗ trợ cho các hoạt động khác phát triển. Hoạt động TTQT giúp cho ngân hàng thu hút
thêm khách hàng có nhu cầu giao dịch kinh doanh quốc tế, trên cơ sở đó ngân hàng
phát triển được các nghiệp vụ như huy động vốn ngoại tệ, đẩy mạnh hoạt động tín
dụng tài trợ xuất nhập khẩu và các dịch vụ khác, nhờ đó quy mô hoạt động của ngân
hàng ngày càng lớn. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh đối ngoại giúp cho ngân hàng
nâng cao uy tín và ngày một tạo niềm tin vững chắc cho ngân hàng.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt và trong xu thế toàn cầu hoá
như hiện nay, hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò hết sức quan trọng trong việc
góp phần tăng thu nhập, uy tín và khả năng cạnh tranh cho ngân hàng.

1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu:
Phương thức TTQT là việc tổ chức quá trình trả tiền hàng trong giao dịch mua
bán ngoại thương giưã người xuất khẩu và người nhập khẩu Thực chất phương thức
thanh toán là cách thức người bán thu tiền còn người mua trả tiền.
Trong buôn bán Quốc tế có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác
nhau. Tuy vậy, việc lựa chọn các phương thức đều phải xuất phát từ nhu cầu của người

3


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
bán, thu tiền nhanh, đầy đủ và từ yêu cầu của người mua là nhập hàng đúng số lượng,
chất lượng và đúng thời hạn đã ghi trong hợp đồng.
Trong ngoại thương có 5 phương thức thanh toán sau thường được áp dụng bao
gồm:

-

Phương thức thanh toán bằng tiền mặt (Cash Payment)
+ CIA: cash in advance
+ CBD: Cash before delivery
+ COD: Cash on delivery
+ CAD: Cash against document

-

Phương thức chuyển tiền ( Remittance )

-

Phương thức ghi sổ ( Open account )

-

Phương thức nhờ thu ( Collection of payment )
+ Nhờ thu phiếu trơn ( clean collection )
+ Nhờ thu kèm chứng từ ( documentary collection )

-

Phương thức tín dụng chứng từ ( Documentary credit )

Hiện nay, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức được áp dụng phổ biến
nhất trong TTQT.

2. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:

2.1. Khái niệm
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận, trong đó một
Ngân hàng ( ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng ( Người yêu cầu
mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác ( người hưởng lợi số
tiền của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số
tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp
với những quy định của thư tín dụng.
Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
- Người yêu cầu mở thư tín dụng là Người nhập khẩu hoặc là người nhập khẩu ủy
thác cho một người khác
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng là Ngân hàng của người nhập khẩu, nó cấp
tín dụng cho người nhập khẩu

4


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
- Người hưởng lợi thư tín dụng là người xuất khẩu hay bất cứ người nào khác mà
Người hưởng lợi chỉ định
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng đại lý của ngân hàng phát hành
ở nước người hưởng lợi

2.2. Quy trình nghiệp vụ phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
(2)
Ngân hàng mở
L/C
(7)

(5)
(6)


(1)

Ngân hàng thông
báo L/C
(6) (5) (3)

(4)
Người xuất khẩu
Người nhập khẩu
(Người hưởng lợi
(Người xin mở
L/C)
L/C)
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu mở
một L/C cho người xuất khẩu hưởng
(2) Ngân hàng mở L/C căn cứ vào đơn xin mở L/C sẽ lập một L/C và thông qua ngân
hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu thông báo việc mở L/C
(3) Ngân hàng thông báo L/C cho người xuất khẩu toàn bộ nội dung L/C
(4) Nếu người xuất khẩu chấp nhận L/C sẽ giao hàng cho người nhập khẩu nếu không
thì yêu cầu sửa đổi bổ sung cho phù hợp
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C và xuất
trình tới ngân hàng thông báo để qua đó xin ngân hàng mở L/C thanh toán
(6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra toàn bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì sẽ trả
tiền cho người xuất khẩu, nếu không thấy phù hợp sẽ từ chối thanh toán và gửi lại
chứng từ cho người xuất khẩu.
(7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền người nhập khẩu và chuyển toàn bộ chứng từ cho
người nhập khẩu nếu người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.

2.3. Ý nghĩa của phương thức tín dụng chứng từ


5


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Trong giao dịch thương mại quốc tế hiện đại, các bên đối tác mua bán thường lựa
chọn Tín dụng chứng từ làm phương thức thanh toán. Sở dĩ tín dụng chứng từ được ưa
chuộng và sử dụng phổ biến như vậy là do nó có những đặc điểm nổi bật so với các
phương thức thanh toán khác. Nếu như phương thức chuyển tiền, nhờ thu gây bất lợi
cho một bên người mua hoặc một bên người bán, cũng có khi là cả hai bên thì phương
thức thanh toán Tín dụng chứng từ tỏ ra ưu việt hơn, nó không những mang lại một số
quyền lợi nhất định cho Ngân hàng mà nó còn đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên tham
gia xuất nhập khẩu: Người bán đảm bảo được thanh toán nếu xuất trình được bộ chứng
từ hoàn chỉnh, hợp lệ, còn người mua cũng đảm bảo nhận được hàng đúng thời hạn,
đúng như quy định trong hợp đồng. Cụ thể, sử dụng phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ có những ý nghĩa nhất định như sau:
* Đối với nhà xuất khẩu
Là người hưởng lợi của thư tín dụng, nhà xuất khẩu có được đảm bảo rằng khi
xuất trình bộ chứng từ phù hợp với các điều kiện và điều khoản của thư tín dụng (L/C)
cho ngân hàng, nhà xuất khẩu sẽ nhận được tiền thanh toán.
Tình trạng tài chính của người mua được thay thế bằng việc ngân hàng mở thư
tín dụng cam kết trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu trên cơ sở chứng từ được trao phù
hợp với các điều khoản của L/C.
* Đối với nhà nhập khẩu
Trước hết, nhà nhập khẩu sẽ nhận được hàng hoá như thể hiện trong các chứng từ
được ngân hàng mở L/C ghi rõ trong thư tín dụng. Anh ta cũng được bảo đảm rằng tài
khoản của mình sẽ chỉ bị ghi nợ số tiền của thư tín dụng khi tất cả các chỉ thị của thư
tín dụng được thực hiện đúng.
Trong trường hợp ngân hàng áp dụng mức miễn ký quỹ 100% hoặc một tỷ lệ
miễn ký quỹ nhất định nào đó, nhà nhập khẩu sẽ không bị đọng vốn vì không phải ứng

trước tiền. Hơn nữa, nhờ có sự bảo đảm về thanh toán, nhà nhập khẩu có thể tiến hành
thương lượng các điều kiện tốt hơn về hàng hóa như giá cả, chất lượng và trên hết là
có thêm cơ hội để nhập được hàng hoá mà mình cần.

6


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
* Đối với ngân hàng thương mại (NHTM)
Có thể nói, thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ là một loại hình dịch
vụ không thể thiếu của ngân hàng phục vụ cho người nhập khẩu nên khi hoạt động
thanh toán đạt hiệu quả cao sẽ đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng với một mức rủi
ro tương đối thấp.
Khi tiến hành nghiệp vụ thanh toán L/C, ngân hàng có được một nguồn thu ổn
định từ việc thu phí như phí mở, sửa đổi, điều chỉnh L/C, phí thông báo, thanh toán,
xác nhận L/C (các khoản phí trong nghiệp vụ thanh toán L/C nói chung khá cao, cao
hơn so với những phương thức thanh toán khác vì nghiệp vụ này tương đối phức tạp,
đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao). Ngoài ra khi quy định các khoản ký quỹ cho doanh
nghiệp mở L/C ngân hàng còn huy động thêm được một lượng vốn đáng kể phục vụ
cho hoạt động của các nghiệp vụ khác như cho vay xuất nhập khẩu, xác nhận, bảo
lãnh... Hơn nữa, với việc thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán L/C sẽ góp phần nâng cao
uy tín của ngân hàng trên nhiều phương diện khác nhau không chỉ ở trong nước mà
ngay cả trên trường quốc tế.

7


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

Phần II:

Các loại rủi ro trong phương thức thanh toán
tín dụng chứng từ
1. Khái niệm
Theo nghĩa chung, rủi ro là khả năng một sự kiện không mong muốn, không
thuận lợi có thể xảy ra dẫn đến sự mất mát hoặc hư hỏng.
Trong thanh toán L/C, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một hoặc các bên tham gia
bị vi phạm, rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được
thanh toán mà còn phải được hiểu theo nghĩa rộng của nó là bất kỳ một sự khúc mắc,
chậm trễ nào trong các khâu của quá trình thanh toán.
Rủi ro trong thanh toán bằng L/C có thể xảy ra đối với tất cả các bên: đối với
người bán, đối với người mua và đối với các ngân hàng.

2. Phân loại:
Trong thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức TDCT, có rất nhiều rủi ro có
thể xảy ra cho các bên tham gia vào quy trình này, tổng kết lại gồm 4 loại rủi ro chính:
Rủi ro kỹ thuật, rủi ro chính trị, rủi ro hối đoái và rủi ro đạo đức.

2.1. Rủi ro kỹ thuật
Rủi ro kỹ thuật là những rủi ro do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quy
trình thanh toán XNK, như sự sai khác giữa bộ chứng từ thanh toán với hợp đồng hoặc
L/C hay việc thực hiện sai một khâu trong quy trình nghiệp vụ thanh toán.
2.1.1. Rủi ro đối với người bán
Trong thanh toán xuất nhập khẩu người bán có trách nhiệm chuẩn bị hàng, giao
hàng và lập bộ chứng từ nhận hàng cho người mua. Khi ngân hàng là trung gian thanh
toán giữa người bán và người mua thì ngân hàng chỉ làm việc với bộ chứng từ mà
người bán lập ra.

8



Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
♦ Rủi ro trong việc lập chứng từ gửi hàng:
Tại các ngân hàng, hầu hết các bộ chứng từ gửi tới thanh toán hàng xuất khẩu đều
mắc phải những sai sót đơn giản (như sai chính tả, tên, địa chỉ, số lượng,..) đến những
sai sót lớn hơn như không thống nhất với nhau, hối phiếu ghi sai người ký phát, bộ
chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng: ví dụ : tại ngân hàng VCB, khi giao dịch
L/C số 018012396 ILC 0023, công ty may Hưng Yên là người hưởng lợi đáng lẽ phải
ký phát cho Keore Exchange Bank, Seoul thì lại ký phát cho người yêu cầu mở là
National Sundrives Import and Export Coporation. Hoặc thậm chí, người xuất khẩu
còn lập hoá đơn thương mại với số tiền vượt quá số tiền của thư tín dụng. Nếu đã vượt
ra ngoài dung sai cho phép thì ngân hàng mở sẽ từ chối trả tiền. Trong trường hợp này
phải lập hai bộ chứng từ thanh toán: một bộ hối phiếu đòi tiền ngân hàng mở thư tín
dụng, một bộ hối phiếu đòi tiền người mua với số tiền vượt quá số tiền của thư tín
dụng cùng với một uỷ thác nhờ thu ngân hàng thu hộ tiền. Trên tờ hối phiếu nhờ thu
này, người bán phải ghi câu: “Số tiền vượt quá chuyển sang nhờ thu”.
Như ta đã biết, nếu như bộ chứng từ không phù hợp thì việc thanh toán không thể
thực hiện được. Bộ chứng từ là cơ sở để người mua giảm giá, từ chối nhận hàng, kéo
dài thời gian thanh toán hay không thanh toán tiền hàng và đặc biệt khi bộ chứng từ
không phù hợp với L/C thì Ngân hàng sẽ từ chối thanh toán. Do vậy, thời gian thanh
toán luôn bị kéo dài do chứng từ phải sửa đi sửa lại. Thậm chí những lỗi không sửa
được phải đợi sự đồng ý của bên mua. Thường thì các đơn vị xuất khẩu của ta rất eo
hẹp về vốn và vì vậy họ thường chọn thanh toán L/C trả ngay. Nhưng nhiều khi do bộ
chứng từ có sai sót và phải chờ nhà nhập khẩu chấp nhận, đơn vị mới nhận được tiền.
Và như vậy, nhà xuất khẩu sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu tăng vòng quay của
vốn. Hơn nữa họ còn bị phạt vì sai sót chứng từ. Rủi ro này là một trở ngại lớn đối với
người bán.
♦ Các sai lầm khi tiến hành giao hàng: việc thực hiện không đúng, sai sót khi
giao hàng, hàng hoá giao không đúng quy định về chất lượng, chủng loại, thời hạn…
giao hàng, xuất trình chứng từ muộn, chọn sai cảng bốc dỡ, sai hãng vận tải…
Trong khi ký hợp đồng, người bán hàng nếu không có trình độ nghiệp vụ ngoại

thương thì dễ chấp nhận các điều kiện hợp đồng thương mại bất lợi để rồi sau đó
không thực hiện được làm cho đối tác có cơ sở để kéo dài thời gian thanh toán, giảm

9


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
giá hoặc từ chối thanh toán, khiến cho quá trình thanh toán gặp nhiều khó khăn. Đây là
rủi ro thường gặp nhất là ở các đơn vị mới tham gia vào hoạt động xuất khẩu.
♦Rủi ro do chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình thanh toán có
khúc mắc xảy ra thì người bán không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ mà chỉ biết khiếu
nại ngân hàng dẫn đến người bán bị kéo dài thời hạn thanh toán. Ví dụ như khiếu nại
về việc chậm thanh toán của người mua khi đã nhận chứng từ và nhận đủ hàng.
2.1.2. Rủi ro đối với người mua
♦ Thứ nhất là rủi ro trong việc làm đơn yêu cầu mở L/C không cụ thể và đầy đủ
dẫn đến việc người bán có thể lợi dụng các sơ hở trong L/C để cung cấp hàng hóa
không đúng như mong muốn của người mua.
♦ Thứ 2 là rủi ro trong việc chấp nhận chứng từ do người bán lập ra để thanh
toán: khi chứng từ xuất trình hoàn toàn không đúng với tình trạng của hàng hoá thì sau
khi thanh toán người mua sẽ nhận được số hàng không đúng yêu cầu có thể là cả về
chất lượng cũng như số lượng và làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh đặc biệt là
làm mất uy tín trong kinh doanh của người mua. Mặt khác chứng từ còn là cơ sở pháp
lý đầu tiên của hàng hoá, nếu người mua hàng không xem xét kỹ lưỡng từ lỗi câu chữ
đến số lượng các loại chứng từ cũng như người cấp giấy chứng nhận…thì sẽ khó khăn
trong việc khiếu kiện khi có rủi ro về hàng hoá.
♦ Thứ ba là rủi ro do chưa nắm bắt được các thủ tục tố tụng, khi quá trình giao
hàng có khúc mắc xảy ra thì người mua không khiếu nại kịp thời, đúng chỗ dẫn đến
người mua bị lỡ cơ hội kinh doanh hay bị đọng vốn. Ví dụ như người bán giao hàng
không đúng quy định, khiếu nại về việc giao hàng không đúng quy định của khách
hàng nước ngoài, khiếu nại việc mất mát tổn thất lớn với hãng vận tải và bảo hiểm…

Ba loại rủi ro nêu trên đều là rủi ro liên quan đến kinh nghiệm và trình độ nghiệp
vụ của các cán bộ trong đơn vị mua hàng: theo một số báo cáo thống kê, có hơn 40%
cán bộ thuộc các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia hoạt động xuất nhập khẩu nhưng
chưa qua đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương. Do sự yếu kém trong nghiệp vụ ngoại
thương của các đơn vị XNK, vì vậy họ đã sai sót trong việc lựa chọn đối tác; không
tìm hiểu kỹ, không nắm vững khả năng của bên bán dẫn đến khi không nhận được
hàng hoặc nhận được hàng không đúng theo hợp đồng..vv.. thì kế hoạch kinh doanh bị
phá vỡ.

10


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
2.1.3. Rủi ro đối với Ngân hàng
Rủi ro kỹ thuật xuất hiện ở các khâu trong quy trình thanh toán, xảy ra khi ngân
hàng tuân thủ không đúng theo quy định của luật pháp và các quy tắc được áp dụng.
Ngân hàng thường gặp phải một số rủi ro về kỹ thuật sau:
♦ Do công tác quản lý và kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng: Nghiệp vụ TTQT là
một nghiệp vụ không hề đơn giản, hơn nữa, sự xuất hiện của nhiều thủ đoạn lừa đảo
mới rất tinh vi trong TTQT đã làm cho nghiệp vụ này càng trở nên phức tạp, nhiều rủi
ro. Chính vì vậy, các cán bộ nghiệp vụ của ta ở một số chi nhánh do chưa có kinh
nghiệm, chưa được đào tạo sâu, chưa nắm bắt kịp thời kỹ thuật nghiệp vụ nên đã dẫn
đến không ít trường hợp sơ suất trong quá trình thực hiện thanh toán, gây ra thiệt hại
lớn cho khách hàng và ngân hàng.
♦ Do sai sót trong quan hệ với khách hàng trong nước: Việc thu nhập, phân tích
thông tin, đánh giá tình hình hoạt động trong kinh doanh của các doanh nghiệp còn
chưa được đầy đủ và chặt chẽ. Có khách hàng có hiện tượng vi phạm cam kết về tài
chính với ngân hàng nhưng vẫn được bảo lãnh, hay có những khách hàng làm ăn phạm
pháp song ngân hàng cũng không tìm hiểu kỹ và kết quả là khi doanh nghiệp rơi vào
vòng tố tụng thì ngân hàng phải chịu hết rủi ro. Trong trường hợp này, nếu ngân hàng

đứng ra trả tiền thay cho các doanh nghiệp đó thì rủi ro rất cao bởi vì khả năng thu hồi
tiền là rất mong manh. Nhưng theo quy định của L/C thì ngân hàng mở phải có trách
nhiệm trả tiền cho người bán khi người mua mất khả năng thanh toán. Điển hình là
trường hợp của VCB khi cấp L/C trả chậm cho các hợp đồng của vụ án Minh Phụng,
Tamexco...
Các quy định về an toàn trong ký quỹ L/C, đánh giá tài sản thế chấp, cầm cố, cam
kết của ngân hàng chưa được áp dụng chặt chẽ. Thậm chí đối với các L/C thế chấp
bằng chính lô hàng nhập cũng chưa có sự giám sát chặt chẽ của cán bộ ngân hàng đối
với hàng nhập về này nên khách hàng đã bán hàng và sử dụng tiền vào mục đích khác
mà ngân hàng không phát hiện ra.
Hậu quả lớn nhất chính là ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Mất mát về uy tín
là mất mát lớn nhất và sâu sắc nhất ảnh hưởng tới vị thế của ngân hàng trong lòng thị
trường.

11


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Nói tóm lại, tất cả những sai sót về mặt kỹ thuật dù từ phía nào cũng đều làm cho
quá trình thanh toán bị gián đoạn, kéo dài, thậm chí gây thiệt hại rất lớn cho các bên.

2.2. Rủi ro chính trị
Rủi ro chính trị hay rủi ro quốc gia (Country Risk) quốc gia là những rủi ro về
sự thay đổi chính trị, kinh tế, chính sách của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu
không nhận được tiền hàng và nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá, qua đó có
ảnh hưởng không tốt tới ngân hàng.
Những biến động về chính trị như: chiến tranh, nổi loạn, đảo chính và các biến
cố chính trị xã hội khác đã gây cản trở cho việc giao nhận hàng và thanh toán qua
ngân hàng của các doanh nghiệp. Những biến động này thường khiến cho các bên
xuất nhập khẩu và ngân hàng không thực hiện được nghĩa vụ của mình, làm cho L/C

có thể bị huỷ bỏ gây thiệt hại cho các bên.
Bên cạnh đó, biến động về môi trường pháp lý cũng có những ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động của các bên tham gia phương thức thanh toán L/C và nó cũng để
lại những hậu quả đáng kể. Rủi ro này xảy ra khi có sự vận dụng không thống nhất
các nguồn luật điều chỉnh L/C ngoài UCP600. Nó thường xuất hiện khi có sự tranh
chấp hoặc khiếu kiện giữa các bên.
Ví dụ trường hợp một công ty nhập khẩu đến VCB xin mở một L/C cho người
hưởng lợi nước ngoài. Sau khi xem xét đơn yêu cầu mở L/C và giấy cam kết của khách
hàng, căn cứ vào tình hình tài chính, phân tích đánh giá nhu cầu thị trường, ngân hàng yêu
cầu doanh nghiệp ký quỹ 20%. Quy định mức tiền ký quỹ này là một biện pháp để ngân
hàng mở tự bảo vệ mình. Khi đồng ý mở L/C cho doanh nghiệp, VCB cũng vận dụng kết
hợp các thông lệ quốc tế không chỉ trong ngân hàng mà còn trong các lĩnh vực khác như
vận tải, bảo hiểm... và yêu cầu vận đơn phải được theo lệnh của ngân hàng phát hành.
Theo thông lệ quốc tế về vận tải, với vận đơn đó ngân hàng sẽ được quyền nhận hàng
hoặc bán hàng cho khách hàng khác nếu đơn vị mở L/C không có khả năng thanh toán
hoặc có nguy cơ bị phá sản. Song thực tế lại diễn ra không theo như ý muốn của các bên
tham gia. Sau khi hàng đã giao và bộ chứng từ thanh toán đã đến ngân hàng mở - VCB,
ngân hàng yêu cầu đơn vị nhập khẩu thanh toán để nhận chứng từ đi lấy hàng thì họ lại
không có khả năng thanh toán do có nhiều hợp đồng bị thua lỗ trước đó. Sau khi không
còn có hy vọng gì về việc người mua có thể thanh toán được tiền hàng, VCB đã phải cầm
chứng từ hàng hoá đi nhận hàng của người nhập khẩu nhưng đã bị hải quan từ chối với lý

12


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
do: “ngân hàng chỉ là người bảo lãnh chứ không phải người mua nên không được nhận
hàng”. Đây là mặt hàng phải có quota nhập khẩu nên ngân hàng không có đủ điều kiện để
nhận hàng hoặc bán lại cho bên thứ ba. Rõ ràng ngân hàng mở trong trường hợp này đã
tìm cách tự bảo vệ mình nhưng rủi ro vẫn xảy ra ngoài tầm kiểm soát. Hay chẳng hạn như

trường hợp của một doanh nghiệp cung ứng vật liệu xây dựng ký một hợp đồng xuất
khẩu gỗ cho một công ty của Đài Loan. Sau khi hợp đồng được ký kết, Nhà nước lại
ban hành quyết định tăng thuế, hạn chế xuất khẩu mặt hàng này. Do đó doanh nghiệp
đã không cung cấp được đủ số lượng cho bên nước ngoài theo đúng thời hạn. Bên Đài
Loan đã căn cứ vào đó để phạt thanh toán chậm 20 ngày, gây thiệt hại về tài chính cho
doanh nghiệp. Cùng với mất mát tài chính của đơn vị xuất khẩu, uy tín của VCB với tư
cách là ngân hàng thông báo cũng bị ảnh hưởng.

2.3. Rủi ro ngoại hối
Rủi ro ngoại hối là những rủi ro xảy ra khi việc thanh toán được ấn định bằng
đồng tiền nước ngoài. Do vậy nó phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là tỷ giá hối đoái và
trạng thái ngoại hối về loại ngoại tệ đó của ngân hàng.
♦ Thứ nhất là vấn đề tỷ giá hối đoái: đây là một yếu tố nhạy cảm và sự biến
động của nó là không thể lường trước được, nó có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết
định của doanh nghiệp. Khi kí hợp đồng mua hàng, nhà nhập khẩu không thể lường
trước được mức độ trượt giá đồng nội tệ so với ngoại tệ mạnh. Khi hàng nhập về, tỷ
giá trượt mạnh, đối với những mặt hàng giá bán cạnh tranh không thể tăng giá được,
nhà nhập khẩu có thể từ chối nhận hàng vì sợ bị lỗ và vì cũng không có đủ khả năng
thanh toán, khi đó thì rủi ro tất yếu sẽ xảy ra đối với ngân hàng thương mại.
Bản thân ngân hàng đã có những biện pháp để tự phòng ngừa những ảnh hưởng
của sự biến động tỷ giá hối đoái một cách có hiệu quả. Tuy nhiên trong một số trường
hợp, do sơ suất ngân hàng đã phải chịu một số thiệt hại do sự biến động của tỷ giá hối
đoái gây nên. Ví dụ: Trong thực tế ở nước ta, một số doanh nghiệp nhập khẩu thường
không sẵn có ngoại tệ hoặc nếu có thì số lượng không đáng. Do đó khi cần ngoại tệ, họ
sẽ chuyển nội tệ vào ngân hàng và yêu cầu ngân hàng bán ngoại tệ cho mình để thanh
toán. Khi có yêu cầu mở L/C thanh toán ngân hàng sẽ thu tiền ký quỹ đối với nhà nhập
khẩu. Do trong TTQT ngoại tệ mạnh thường được sử dụng nên ngân hàng mở sẽ phải
dùng số tiền đó để mua ngoại tệ. Số tiền ký quỹ mà doanh nghiệp nộp vào ngân hàng
đã được tính ra ngoại tệ theo tỷ giá hối đoái tại thời điểm đó. Nếu vì một lý do nào đó


13


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
ngân hàng không thực hiện ngay việc trao đổi lấy ngoại tệ tại thời điểm đó mà lùi lại
một thời gian, giả sử khi đó đồng nội tệ giảm giá và ngân hàng không lường trước
được điều này, ngân hàng sẽ phải mất thêm một khoản tiền để bù vào mức giảm đó khi
mua ngoại tệ. Kết quả là ngân hàng sẽ bị mất một khoản tiền do sự biến động của tỷ
giá hối đoái.
♦ Bên cạnh đó, nếu trạng thái ngoại hối của ngân hàng không tốt, một mặt ngân
hàng sẽ không đáp ứng được nhu cầu mua ngoại tệ của khách hàng, mặt khác bản thân
ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn trong quá trình thanh toán cho ngân hàng. Thiệt hại
xảy ra có thể về mặt tài chính vì ngân hàng phải đi vay ngoại tệ của ngân hàng khác,
nhưng đồng thời cũng ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng trong hoạt động thanh toán
nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung.
Cụ thể là trường hợp xảy ra đối với Petrolimex Hà Nội. Trong quá trình thanh
toán, VCB đã cố gắng cung cấp ngoại tệ để thanh toán các L/C đến hạn. Tuy nhiên có
một vài trường hợp khi đến hạn thanh toán, ngân hàng đã không thể thanh toán được
như kế hoạch vì khi đó Petrolimex Hà Nội không kịp chuẩn bị tiền VND hoặc ngân
hàng chưa có đủ ngoại tệ để bán. Kết quả chúng ta đã bị ngân hàng nước ngoài phạt.
Petrolimex Hà Nội khi đó không những không quan tâm mà còn đổ lỗi cho ngân hàng
vì không chuẩn bị đủ ngoại tệ để bán cho họ. Như vậy, Vietcombank vừa bị mang
tiếng với ngân hàng nước ngoài vừa có trục trặc trong quan hệ với khách hàng.

2.4. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là những rủi ro xảy ra khi một bên tham gia phương thức L/C cố
tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, gây thiệt hại đến quyền lợi của một bên
hoặc các bên còn lại.
Trong phương thức thanh toán L/C, dù quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên tham
gia được quy định rõ ràng. Song không phải lúc nào những nguyên tắc đó cũng được

tôn trọng.
Rủi ro đạo đức có thể xảy ra khi:
♦ Người xuất khẩu có nghĩa vụ phải giao hàng đúng theo hợp đồng, theo đúng
L/C nhưng anh ta không giao hàng hoặc giao hàng không đúng, không đủ nhưng lại
xuất trình được bộ chứng từ hoàn hảo. Cũng có thể người bán không giao hàng vì
muốn tăng giá, dẫn đến làm chậm trễ việc giao hàng... Điều này có ảnh hưởng trực tiếp

14


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
đến người mua và đồng thời cũng có ảnh hưởng gián tiếp đến ngân hàng. Nếu người
mua gặp rủi ro thì khả năng anh ta thanh toán lại tiền cho ngân hàng là rất khó. Do đó
ngân hàng có thể sẽ bị chậm trễ trong việc thu hồi tiền từ người mua, thậm chí nghiêm
trọng hơn là sẽ không được người mua thanh toán.
Người nhập khẩu có nghĩa vụ trả tiền cho ngân hàng mở L/C nhưng anh ta có thể
cố tình trì hoãn hoặc từ chối thanh toán, từ chối nhận hàng bằng những thủ đoạn
nghiệp vụ bắt lỗi sai sót chứng từ hoặc phát hành thư tín dụng giả mạo bởi một ngân
hàng “ma”.
♦ Người bán giao hàng cho nhà chuyên chở, nhưng bị họ lừa đảo nhận hàng, lấy
tiền cước rồi biến mất, hoặc có tìm thấy tàu nhưng hàng thì không còn. Trong trường
hợp này, nếu nhà xuất khẩu vẫn xuất trình được bộ chứng từ hợp lệ thì ngân hàng phát
hành vẫn buộc phải thanh toán, nhưng thực tế thì nhà nhập khẩu lại không nhận được
hàng nên họ sẽ từ chối thanh toán, khi đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng thanh toán
(ngân hàng mở L/C) là điều chắc chắn.
♦ Trong nhiều trường hợp các ngân hàng phát hành có thể cũng vi phạm những
cam kết của mình như trì hoãn, hoặc từ chối thanh toán, đứng về phía người mua để
gây khó khăn cho quá trình thanh toán. Điều này sẽ gây rủi ro đối với người bán, ngân
hàng xác nhận và ngân hàng chiết khấu. Ngược lại, nếu ngân hàng chiết khấu không
trung thực, bộ chứng từ có sai sót mà vẫn đòi tiền bằng điện thì sẽ gây rủi ro cho nhà

nhập khẩu và ngân hàng phát hành.
Ví dụ: Có khách hàng yêu cầu VCB phát hành bảo lãnh nhận hàng và chấp nhận
thanh toán kể cả khi chứng từ có sai sót, nhưng khi có sai sót lại yêu cầu ngân hàng
không thanh toán. Có trường hợp khách hàng không chịu thanh toán phần còn lại của
lô hàng để răn đe nhà cung cấp mặc dù công trình đã được nghiệm thu, bất chấp thông
lệ quốc tế. Với những khách hàng như thế Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn để giữ uy
tín của mình.
Một số khách hàng nhập khẩu vì lợi ích riêng của doanh nghiệp đã bội ước với
ngân hàng, trây ỳ trong thanh toán. Hàng đã bán hết nhưng không trả tiền cho ngân
hàng mà mang tiền bán hàng sử dụng vào mục đích khác. Đến khi làm ăn thua lỗ lại
không thực hiện được cam kết với ngân hàng. Đó là trường hợp của công ty trách
nhiệm hữu hạn Đức Phương, công ty Hưng Thịnh Vũng Tàu...

15


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
2.5. Các rủi ro khác.
Ngoài những rủi ro kể trên, hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ cũng như các hoạt động khác của ngân hàng còn có thể gặp một số
loại rủi ro khác như bất khả kháng (như thiên tai, hoả hoạn, chiến tranh..) và các rủi
ro do 1 trong các bên phá sản mất khả năng thanh toán làm cho các bên tham gia gặp
phải thiệt hại với hậu quả khôn lường.
(1) Rủi ro xảy ra đối với người nhập khẩu còn có thể do nguyên nhân khi ngân
hàng phát hành đứng trước tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong trường
hợp này, mức độ thiệt hại của người mua phụ thuộc vào số tiền ký quỹ.
(2) Rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản: Đây là loại
rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở thư tín dụng, bởi vì ngân
hàng buộc phải thanh toán cho người bán trong khi không thể thu hồi được vốn
lại từ phía người mua.

(3) Rủi ro đối với ngân hàng chiết khấu hoặc ngân hàng xác nhận hoặc bên nhập
khẩu khi ngân hàng phát hành bị phá sản: rủi ro này ít khi xảy ra nhưng không
phải là không có, sự kiện sụp đổ của ngân hàng Bearing của Anh tháng 2 năm
1995 là minh chứng cho sự rủi ro loại này.
(4) Trong điều 36 UCP 600 quy định: “ Ngân hàng không có nghĩa vụ hoặc trách
nhiệm đối với các hậu quả phát sinh ra tự sự gián đoạn hoạt động kinh doanh
của mình do thiên tai, bạo động, dân biến, nổi dậy… hoặc bất cứ nguyên nhân
nào khác nằm ngoài sự kiểm soát của họ. Khi bắt đầu kinh doanh trở lại, ngân
hàng không phải thanh toán hoặc thương lượng thanh toán theo tín dụng mà tín
dụng này đã hết hạn trong lúc kinh doanh của ngân hàng bị gián đoạn”. Rõ ràng
khi có bất khả kháng xảy ra, nếu người Nhập khẩu hoặc ngân hàng chiếu khấu
chưa kịp được chấp nhận thanh toán thì chính họ sẽ là những người bị thiệt hại.

16


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
3.Nguyên nhân
3.1. Đối với rủi ro kỹ thuật
Nguyên nhân của rủi ro kỹ thuật chủ yếu là do trình độ nghiệp vụ ngoại thương
và thanh toán xuất nhập khẩu của các bên tham gia còn yếu nên chưa nắm bắt được
các yêu cầu của L/C. Điều này dẫn đến những sai sót trong quá trình lập chứng từ và
thanh toán.
Một nguyên nhân không thể không nhắc đến là từ phía ngân hàng mở L/C. Việc
mở L/C quy định quá nhiều các điều kiện, khoản mục sẽ gây khó khăn cho người bán.
Để khắc phục nguyên nhân này, với người bán, phải nâng cao trình độ nghiệp vụ,
thận trọng trong việc giao hàng, lập chứng từ. Với các ngân hàng phải thận trọng trong
các nghiệp vụ của mình. Đặc biệt là các ngân hàng mở L/C, chỉ nên đưa những quy
định quan trọng liên quan đến chất lượng, số lượng, tiêu chuẩn hàng hoá, ngày giao
hàng…tránh việc đòi hỏi quá nhiều chứng từ và nhiều nội dung trong chứng từ.


3.2. Đối với rủi ro chính trị
Nguyên nhân sâu xa của loại rủi ro này là môi trường pháp lý và luật pháp của
các nước khác nhau. Nếu có sự khác biệt, thậm chí đối nghịch giữa UCP600 và luật
pháp quốc gia thì luật quốc gia sẽ vượt lên trên tất cả và phải được tuân thủ. Do đó
trong nhiều trường hợp, quyết định của toà án địa phương mới là quyết định cuối
cùng. Điều đáng nói ở đây là luật pháp ở một số nước cho phép toà án của họ áp
dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo sự an toàn trong thanh toán xuất nhập
khẩu, bất kể quy định đó trái ngược với UCP600. Chính vì vậy rủi ro về vấn đề pháp
lý đối với thanh toán tín dụng chứng từ thường rất khó lường.
Ngoài ra cũng cần quan tâm tới tình hình kinh tế của một quốc gia. Đó là những
vấn đề như: Nợ nước ngoài, dự trữ ngoại hối và cán cân thanh toán của một quốc gia,
sự cấm vận kinh tế, chính sách quản lý ngoại hối, chính sách thương mại và các quy
định về xuất nhập khẩu của mỗi quốc gia,…Nếu nợ nước ngoài của quốc gia quá lớn
thì một số biện pháp như tăng thuế, phá giá đồng nội tệ sẽ được áp dụng và như vậy
nó sẽ có ảnh hưởng đến khả năng chi trả của người mua; người mua có thể sẽ không
đủ khả năng chi trả và ngân hàng có nguy cơ gặp rủi ro do không đòi được tiền.

17


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Các biến động kinh tế - chính trị - xã hội dù trực tiếp hay gián tiếp, tức thì hay
lâu dài, đều gây ra những ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của ngân hàng và
khách hàng. Và vì vậy, rủi ro quốc gia luôn là mối đe doạ tới hoạt động thanh toán
quốc tế của ngân hàng, trong đó có hoạt động thanh toán L/C.

3.3. Đối với rủi ro ngoại hối
Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải đối mặt với rủi ro
ngoại hối trong trường hợp tỷ giá hối đoái biến động hay trạng thái ngoại hối của ngân

hàng không tốt. Những tình huống này nếu xảy ra không chỉ gây thiệt hại cho ngân
hàng về mặt tài chính mà còn ảnh hưởng tới uy tín của Ngân hàng trong hoạt động
thanh toán quốc tế nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung.

3.4. Đối với rủi ro đạo đức
Nguyên nhân sâu xa của vấn đề rủi ro đạo đức đó là vấn đề thông tin không đầy
đủ và thiếu chính xác. Đó là việc các bên tham gia không có đầy đủ những thông tin
cần thiết về khả năng tài chính, về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như về uy tín
và tính trung thực của đối tác, hoặc được cung cấp các thông tin không chính xác...Vì
vậy mà đưa ra những phán đoán và quyết định sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán.
Ngoài ra còn do việc thanh toán L/C chỉ dựa trên bề mặt của chứng từ, không căn cứ
vào thực trạng của hàng hoá, nên đã tạo khe hở cho một số cá nhân lừa đảo.
Để hạn chế rủi ro đạo đức, vấn đề cốt lõi là phải khắc phục tình trạng thông tin không
cân xứng. Đứng ở góc độ ngân hàng phải tiến hành điều tra thu thập các thông tin
chính xác về khách hàng của mình cũng như thông tin về các ngân hàng có liên quan
như tình hình tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng và mối quan hệ của họ
với các ngân hàng khác...từ đó mới có thể có được những khách hàng tốt nhằm hạn
chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra.

18


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ

Phần III:
Một số giải pháp kiến nghị nhằm phòng ngừa và
hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ
1. Một số kiến nghị đối với Nhà nước
Với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước ngày càng được khẳng

định. Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đem lại một cơ hội lớn cho sự phát
triển của mỗi quốc gia nhưng đồng thời cũng là một thách thức lớn đối với khả năng
tồn tại và phát triển của quốc gia đó. Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động
trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi tổ chức, cá nhân trong nước, đặc
biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, từ đó tác động mạnh mẽ đến hoạt động thanh
toán quốc tế của các ngân hàng. Xuất phát từ thực tế đó, thanh toán xuất nhập khẩu nói
chung, tín dụng chứng từ nói riêng rất cần đến những chính sách thích hợp, phù hợp
với mục tiêu của từng thời kỳ để hoạt động ngày càng được mở rộng và ngày càng
phát triển, đồng thời phòng tránh được những rủi ro có thể xảy ra cho các đơn vị kinh
doanh xuất nhập khẩu và ngân hàng.
Thứ nhất, cần tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thanh toán tín dụng
chứng từ của toàn Hệ thống NHTM
Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro pháp lý trong giao dịch tín dụng
chứng từ là sự thiếu vắng các văn bản pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các bên trong
quy trình thanh toán. Ở Việt Nam hiện nay, ngoài bộ tập quán quốc tế về tín dụng
chứng từ do ICC phát hành và một số thông lệ quốc tế khác, ta không có một luật hay
văn bản dưới luật nào điều chỉnh mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại
thương của người mua và người bán với giao dịch tín dụng chứng từ của ngân hàng.
Khi có tranh chấp thương mại quốc tế xảy ra, Trọng tài quốc tế có thể ra phán quyết
đối với quan hệ hai bên mua bán mà không đề cập đến quan hệ thanh toán giữa các
ngân hàng. Đối với các ngân hàng Việt Nam khi có phát sinh tranh chấp thì chỉ áp
dụng bộ tập quán là chưa đủ. Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều
chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng
chứng từ, nêu lên nghĩa vụ, quyền hạn của các bên tham gia vào quan hệ tín dụng

19


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
chứng từ: nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các ngân hàng trung gian. Trước hết nên đề

cập đến một số vấn đề sau:
 Quyền được miễn thanh toán của ngân hàng mở khi quan hệ giao nhận bị
trọng tài tuyên án huỷ bỏ.
 Quyền được nhận hàng của ngân hàng mở khi người thế chấp lô hàng bị mất
khả năng thanh toán.
 Quyền được bảo lưu số tiền chiết khấu của ngân hàng trong quan hệ mua bán
đứt đoạn. Cần phải có quy chế chiết khấu hối phiếu lập theo thư tín dụng cụ thể hoá
luật quốc tế làm cơ sở giải quyết tranh chấp giữa ngân hàng chiết khấu và doanh
nghiệp xuất khẩu.
 Cần tạo hành lang pháp lý cho giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong
quan hệ tín dụng chứng từ. Cho đến nay, hầu hết các khách hàng đến ngân hàng yêu
cầu mở L/C đều không có văn bản pháp lý có tính chất hợp đồng được thoả thuận bằng
văn bản. Ngay như ở Ngân hàng Ngoại thương chỉ có các loại giấy tờ như: đơn yêu
cầu mở L/C, giấy cam kết thanh toán, đơn xin bảo lãnh nhận hàng và ký hậu vận đơn,
thông báo thư tín dụng, đơn xin chiết khấu chứng từ... Các chứng từ này chỉ đơn giản
là các giao dịch ngân hàng, không thể hiện được tính pháp lý và ràng buộc giữa hai
bên nên gây khó khăn cho toà án khi xét xử tranh chấp.
Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu.
Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước cần tăng cường hiệu lực các
văn bản và thủ tục xuất nhập khẩu. Cần có quy chế bắt buộc đối với các doanh nghiệp
phải có đủ điều kiện về tài chính, trình độ quản lý, phương hướng phát triển kinh
doanh... thì mới cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp (trở thành các bên tham gia
vào quan hệ tín dụng chứng từ). Thực tế cho thấy, thực lực tài chính của các doanh
nghiệp nước ta hiện nay vẫn còn yếu, hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay
ngân hàng. Nếu kinh doanh thua lỗ sẽ trực tiếp có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng,
uy tín thanh toán đối với ngân hàng. Theo thống kê gần đây, cả nước hiện có khoảng
34.000 doanh nghiệp với mức vốn bình quân của mỗi doanh nghiệp khoảng 2,7 tỷ
đồng. Riêng khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn bình quân càng thấp, khoảng
165 triệu đồng. Do vậy, trước mắt Chính phủ cần rà soát lại các đơn vị, tổ chức kinh tế
không đủ điều kiện tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp thì chuyển sang uỷ

thác xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra.

20


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Bên cạnh đó, các thể chế, thủ tục xuất nhập khẩu cần phải tạo nên sự cân bằng
giữa khuyến khích và kiểm soát xuất nhập khẩu. Hiện nay một số chủ trương khuyến
khích xuất khẩu của Nhà nước đang tạo lợi thế cho doanh nghiệp này nhưng lại bất lợi
đối với doanh nghiệp khác làm mất cân đối giữa cung và cầu gây nên tồn đọng một số
loại vật tư gây lãng phí và kém hiệu quả. Tình trạng nhập khẩu tràn lan làm cho sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá bị đình trệ, hàng hoá trong nước sản xuất ra không tiêu thụ
được. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của nền kinh tế nói chung, hoạt
động thanh toán xuất nhập khẩu nói riêng.
Thứ ba, cần tăng cường chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng
Ngân hàng Nhà nước (CIC).
Việc thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài
chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài là vô cùng quan trọng. Để công tác thông tin phòng ngừa rủi
ro đạt hiệu quả cao, cần tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho
trung tâm. Đồng thời cũng nên có cơ chế khuyến khích và bắt buộc đối với các tổ chức
tín dụng về việc cung cấp thường xuyên các thông tin về tình hình dư nợ của doanh
nghiệp tại tổ chức tín dụng...

2. Một số kiến nghị đối với các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu:
Rủi ro trong thanh toán quốc tế một phần là do những nguyên nhân chủ quan từ
phía các đơn vị kinh doanh XNK. Chính những yếu kém về nghiệp vụ đã khiến họ là
người phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề nhất. Vì vậy, những biện pháp hữu hiệu
nhằm ngăn ngừa rủi ro và đẩy mạnh hoạt động thanh toán XNK không thể không xuất
phát từ phía 2 bên xuất khẩu và nhập khẩu. Hiện nay có rất nhiều các đơn vị tham gia

hoạt động XNK nhưng có không ít các giám đốc của các đơn vị này lại chưa sử dụng
thành thạo ngoại ngữ do vậy khi đàm phán ký kết hợp đồng với bạn hàng phải qua
phiên dịch. Bên cạnh đó trình độ của cán bộ cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của
thương mại quốc tế. Như vậy, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và
nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong các đơn vị kinh doanh XNK hiện nay mang tính
cấp thiết. Cụ thể phải chú trọng những vấn đề sau:
(1) Các đơn vị khi tham gia XNK phải có cán bộ chuyên trách về XNK. Các cán bộ
này phải qua đào tạo nghiệp vụ ngoại thương, am hiểu luật pháp trong thương mại

21


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
quốc tế và thanh toán quốc tế, có năng lực trong công tác và đặc biệt phải có phẩm
chất trung thực trong kinh doanh.
(2) Kiên quyết bài trừ tư tưởng làm ăn kiểu chụp giựt, lừa đảo. Trong kinh doanh,
trung thực là yếu tố quan trọng hàng đầu đảm bảo duy trì quan hệ làm ăn lâu dài
với các bạn hàng và do đó nó cũng chính là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp.
(3) Trong quan hệ thanh toán với Ngân hàng, các doanh nghiệp cần giữ vững chữ tín,
thực hiện cam kết với Ngân hàng. Phải luôn giữ quan hệ chặt chẽ với Ngân hàng,
thực hiện đúng các chỉ dẫn của về các điều khoản của L/C. Khi có tranh chấp,
doanh nghiệp cần thông báo ngay cho Ngân hàng và phối hợp với Ngân hàng để
tìm ra nguyên nhân, giải pháp khắc phục chứ không nên quy trách nhiệm cho ngân
hàng.
(4) Đối với các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, khi lập bộ chứng từ thanh toán cần
phải chú ý đến những đặc điểm của từng loại chứng từ, nhất là những chi tiết dễ bị
sai sót và xuất trình bộ chứng từ theo đúng thoả thuận. Đối với doanh nghiệp nhập
khẩu, khi chấp nhận bộ chứng từ để thanh toán tiền hàng cần kiểm tra hàng
và/hoặc bộ chứng từ cẩn thận để tránh xảy ra tranh chấp về hàng hoá sau này đặc

biệt là trong trường hợp do nhu cầu cấp thiết về hàng hoá nên đã chấp nhận mọi
điều kiện của chứng từ để ngân hàng bảo lãnh cho nhận hàng trước khi chứng từ
tới.
(5) Các doanh nghiệp khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế phải lường
trước được những bất lợi khi có tranh chấp xảy ra và bị khởi kiện ở nước ngoài.
Trong trường hợp bị khởi kiện ở nước ngoài, do khả năng về tài chính và nghiệp
vụ có hạn nên phía Việt Nam ít thành công trong các phiên toà quốc tế. Do vậy,
khi được quyền chọn toà xử án khi có tranh chấp nên chọn Trọng tài xét xử trong
nước (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam) để tránh những rủi ro trên.
Như vậy, chỉ khi các doanh nghiệp tham gia thương mại quốc tế thực hiện đúng
các điều kiện trên thì công tác thanh toán qua Ngân hàng mới nhanh chóng thuận tiện
và hoạt động XNK của đơn vị mới có hiệu quả.

3. Một số kiến nghị đối với các ngân hàng TM:
22


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
3.1. Chú trọng nâng cao chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng
Biện pháp quan trọng mang lại hiệu quả cao nhất để phòng ngừa rủi ro trong
nghiệp vụ thanh toán L/C là các Ngân hàng thương mại nên chú trọng nâng cao chất
lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng. Có thể thấy rằng trong thực tế những
năm gần đây, rủi ro gây thiệt hại nặng nề về tài chính cũng như uy tín của các Ngân
hàng thương mại chủ yếu xuất phát từ phía khách hàng. Và cũng chủ yếu là do khách
hàng không có đủ khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh toán. Chính vì vậy,
chất lượng công tác thẩm định đánh giá khách hàng có một ý nghĩa vô cùng to lớn
trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong thanh toán L/C tại các ngân hàng
thương mại.
Trong công tác thẩm định, đánh giá khách hàng, ngân hàng cần tiến hành phân
tích một cách kỹ lưỡng năng lực tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của

khách hàng đến giao dịch với ngân hàng. Song việc đánh giá khách hàng cũng không
chỉ dừng ở lần đầu tiên khách hàng đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng mà còn cần
được tiến hành một cách thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình ngân hàng quan
hệ với khách hàng.
Bên cạnh đó, ngân hàng không chỉ quan tâm phân tích đánh giá năng lực tài
chính, phương án kinh doanh, mặt hàng nhập của khách hàng, mà còn phải đặc biệt
quan tâm đến tư cách của khách hàng mở L/C cũng như đối tác nước ngoài của khách
hàng nữa. Trên cơ sở đó có quyết định đúng đắn cho mở L/C với những điều kiện cụ
thể phù hợp với từng ngân hàng, vừa đảm bảo an toàn trong thanh toán, vừa đảm bảo
được chính sách khách hàng.
Tuy nhiên để có thể tiến hành công tác thẩm định, đánh giá khách hàng một cách
có hiệu quả thì cần phối hợp đồng bộ với việc xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ
chuyên môn cao, tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt. Vì cán bộ ngân hàng mới chính là
những người trực tiếp thẩm định đánh giá khách hàng và cũng là người có quyền quyết
định cuối cùng trong việc đồng ý hay không đồng ý mở L/C cho khách hàng.

3. 2. Xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp
Con người luôn là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực, đặc biệt
là trong quá trình đổi mới đầy khó khăn của ngân hàng. Yêu cầu của giao dịch thương

23


Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
mại quốc tế đòi hỏi cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ trực tiếp làm công tác thanh toán
L/C không chỉ có trình độ ngoại ngữ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có
phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm cao, có kinh nghiệm trong thanh toán
quốc tế, họ phải có kỹ năng phân tích, am hiểu tường tận bộ tập quán quốc tế về tín
dụng chứng từ ( UCP 600; ISBP 681, eUCP 1.1, URR 525) và các văn bản luật liên
quan. Đồng thời họ phải am hiểu luật pháp, tập quán và thực tiễn hoạt động ngân hàng

của từng nước, từng vùng, từng khu vực để vừa có khả năng tư vấn cho khách hàng,
đồng thời tránh được rủi ro cho ngân hàng. Để đạt được điều này, các ngân hàng
thương mại cần xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ
cao, am hiểu nghề nghiệp và có tư cách đạo đức nghề nghiệp tốt.
Trước hết là việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn ngành từ đội ngũ cán bộ lãnh
đạo đến các nhân viên, từ trung ương đến các chi nhánh và công ty trực thuộc. Đoàn
kết để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với các cán bộ
làm công tác thanh toán mà cho bất kỳ một bộ phận nào trong ngân hàng. Những cán
bộ còn hạn chế về mặt này hay mặt khác sẽ nhận được sự giúp đỡ từ đồng nghiệp của
mình để tiến bộ hơn, và điều quan trọng là cùng nhau tiến bộ. Những chi nhánh hoạt
động hiệu quả chưa cao sẽ nhận được sự hỗ trợ của các chi nhánh khác. Mọi người
cùng làm việc và cùng tin tưởng lẫn nhau, khách hàng tin tưởng vào họ, niềm tin ấy
tạo nên một sức mạnh lớn lao, góp phần hạn chế được những rủi ro có thể xảy ra.
Thứ hai là nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, ngoại ngữ, áp dụng công
nghệ thông tin của thanh toán viên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phát triển
kinh tế và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Để có được một đội
ngũ cán bộ đủ mạnh, các ngân hàng thương mại cần có một chiến lược đào tạo phù
hợp. Nội dung đào tạo cần được chú trọng cả về kiến thức kinh tế, nghiệp vụ chuyên
môn, đồng thời đặc biệt coi trọng công tác quản lý giáo dục lý tưởng đạo đức nghề
nghiệp cho thanh toán viên.

3.3. Thành lập bộ phận quản lý và phòng ngừa rủi ro
Ngân hàng nên thành lập một bộ phận quản lý rủi ro thanh toán chuyên trách lưu
giữ, khai thác, cung cấp thông tin về những vụ lừa đảo tranh chấp trên thế giới cũng
như ở Việt Nam liên quan đến lĩnh vực thanh toán quốc tế nhằm trước hết là phục vụ
cho hoạt động nội bộ ngân hàng, sau đó là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập

24



Các loại rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
khẩu muốn sử dụng dịch vụ này. Khi cung cấp dịch vụ này cho các doanh nghiệp,
ngân hàng đã giúp doanh nghiệp trong việc lựa chọn bạn hàng, tránh được những rủi
ro do bạn hàng làm ăn không uy tín, là những công ty ma hay những đối tượng lừa
đảo... Để có được lượng thông tin đầy đủ, chính xác, bộ phận này cần có sự phối hợp
chặt chẽ với: mạng lưới các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam, các ngân hàng thương mại Việt Nam, Bộ thương mại và các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu... bằng con đường giao dịch xin hoặc mua thông tin trực tiếp,
hoặc thông qua trung tâm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng Nhà nước (CIC)...
Khi có thông tin phong phú, chính xác, bộ phận này có thể thực hiện nghiệp vụ
hướng dẫn, tư vấn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Việc cung cấp thông tin, tư vấn
trong nội bộ cũng như cho doanh nghiệp, cho các ngân hàng với nhau ngoài việc giúp
hạn chế rủi ro trong thanh toán còn đem lại cho các ngân hàng thương mại một nguồn
thu dịch vụ mới, góp phần đa dạng hoá các loại hình dịch vụ ngân hàng, thu hút khách
hàng cũng như khẳng định thêm vị thế của ngân hàng trên thương trường.

3.4. Đẩy mạnh công tác tư vấn cho khách hàng
Trước thực trạng kinh tế như hiện nay, thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian giữa
người xuất khẩu và người nhập khẩu và là một chủ thể tham gia trực tiếp vào hoạt
động kinh doanh ngân hàng cần tư vấn cho khách hàng một cách có hiệu quả nhất, cụ
thể:
* Ngân hàng thông qua việc hướng dẫn các quy định, quy chế, thủ tục, hồ sơ cho
khách hàng sẽ giúp khách hàng nắm bắt nhanh và cụ thể hơn những yêu cầu về mặt
thủ tục và pháp lý trong thanh toán L/C, tiết kiệm được cả thời gian, công sức và chi
phí.

* Ngân hàng với nguồn thông tin đa dạng và chuyên môn nghiệp vụ của mình có
thể tư vấn cho khách hàng trong việc xem xét tính hiệu quả của dự án so sánh với các
chỉ tiêu kinh tế của các dự án cùng loại (đặc biệt đối với các dự án có giá trị lớn), có

tính đến các yếu tố thị trường trong và ngoài nước. Lợi ích của ngân hàng gắn liền với
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có
hiệu quả thì mới đảm bảo khả năng thanh toán cho người bán khi đến hạn.

25


×