Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

tiểu luận môn CTXH trong phòng chống bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.02 KB, 38 trang )

Mục lục

1


A.LÝ DO CHỌN CHỦ ĐỀ.
Bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, để lại nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ, nó làm hạn chế sự tham gia
của họ vào đời sống cộng đồng, không chỉ gây hậu quả về thể chất, tâm lý cho
bản thân phụ nữ mà còn với cả trẻ em, gia đình, toàn xã hội và vi phạm nghiêm
trọng các quyền con người. Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia
đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối
với các thành viên khác trong gia đình. Ảnh hưởng của bạo hành gia đình trải
rộng từ tâm lý cho đến thể chất của nạn nhân. Nhiều trường hợp hành vi bạo lực
dẫn đến thương tật suốt đời thậm chí tử vong. Bạo lực gia đình thường là nguyên
nhân khởi phát trầm cảm và rối loạn stress sau sang chấn sau này.
Hiện nay bạo lực gia đình ngày càng gia tăng với mức độ phức tạp, dưới
nhiều hình thức khác nhau, với nhiều đối tượng khác nhau. Bạo lực gia đình đã
kéo theo nhiều hệ lụy, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống đạo đức, đây cũng là một
thực tế đáng lo ngại cần có sự quan tâm sâu sắc của toàn xã hội, đặc biệt là
những người trợ giúp như nhân viên công tác xã hội.

2


B.NỘI DUNG.
1.Cơ sở lý luận công tác xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình.
1.1. Khái quát chung về bạo lực gia đình, đặc điểm của gia đình có bạo
lực.
1.1.1. Khái quát chung về bạo lực gia đình
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc


có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác
trong gia đình.

Những hành vi bị nghiêm cấm:
Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện hành vi
bạo lực gia đình;
Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động bạo lực
gia đình;

3


Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia đình, người
phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình;
Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia đình;
Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc thực
hiện hoạt động trái pháp luật;
Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp
luật đối với hành vi bạo lực gia đình.
Nguyên nhân của bạo lực gia đình: Các hành vi bạo lực gia đình có nhiều
nguyên nhân, nhưng có 2 nguyên nhân chính: từ phía cá nhân và từ phía xã hội
Bạo lực gia đình là do rượu và ma túy: Khi sử dụng các chất kích thích
như rươu, ma túy… nam giới thường có nguy cơ giải quyết những khó khăn
bằng hành vi bạo lực, chẳng hạn như nhiều người thường lấy cớ say rượu, thua
bạc để đánh đập, hành hạ vợ con, bắt vợ phải đưa tiền để đi uống rượu và chơi
cờ bạc.
Bạo lực gia đình thường xảy ra trong những gia đình có điều kiện kinh tế
khó khăn: Những cặp vợ chồng phải bươn chải vất vả để kiếm sống thường có sự
căng thẳng về thần kinh hơn và do đó dễ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến tranh cãi
trong gia đình và cuối cùng nam giới thường sử dụng quyền và sức mạnh của

mình để gây ra bạo lực với vợ.
Ảnh hưởng của nền văn hóa phong kiến với những quan niệm mang đậm
màu sắc định kiến giới, đó là những định kiến nằm ngay trong truyền thống văn
hóa, phong tục tâp quán, chuẩn mực đạo đức bấy lâu nay trong xã hội: tư tưởng

4


trọng nam, khinh nữ; chồng chúa, vợ tôi; tư tưởng gia trưởng; định kiến giới:
phụ nữ là người giữ gìn hạnh phúc gia đình “một điều nhịn là chín điều lành”…
Những quan niệm này đã khiến cho người nam giới cho rằng họ có vai trò trụ cột
trong gia đình, có quyền định đoạt mọi việc, họ luôn có tư tưởng mình là tiếng
nói trong gia đình nên có thể mắng chửi vợ một vài câu là điều bình thường,
thậm chí tát vợ một vài cái cũng không sao; hay do hiểu sai mục đích của biện
pháp nghiêm khắc trong giáo dục con cái theo quan niệm “yêu cho roi, cho vọt”
dẫn đến nhiều bậc cha mẹ tự cho mình quyền được đánh đập, hành hạ con cái
mình.
Nhận thức của chính bản thân của người phụ nữ bị bạo lực: Sự nhìn nhận,
đấu tranh của người phụ nữ trước bạo hành gia đình còn hạn chế, thiếu thẳng
thắn, còn cam chịu; họ mang tư tưởng: “xấu chàng hổ ai”, họ sợ: “vạch áo cho
người xem lưng”, hay sợ hàng xóm, bạn bè chê cười.
Cộng đồng, xã hội coi vấn đề bạo lực gia đình là chuyện thông thường,
chuyện riêng của mỗi gia đình: “Đèn nhà ai nhà nấy rạng”, sự can thiệp, lên án
của cộng đồng, làng xóm, chính quyền địa phương chỉ mang tính chất nhất thời,
mờ nhạt. Do đó, bạo lực gia đình vẫn có điều kiện tồn tại và phát triển.
Như vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến bạo lực trong gia đình đối với
phụ nữ song nguyên nhân sâu xa chính là do yếu tố nhận thức.Bạo lực gia đình
chính là một biểu hiện của sự bất bình đẳng giới, là sản phẩm của chế độ gia
trưởng.Các yếu tố khác như tệ nạn xã hội, kinh tế, mâu thuẫn gia đình, ngoại
tình… được xem là nguyên nhân trực tiếp của bạo lực, làm gia tăng nguy cơ của

bạo lực gia đình. Điều đáng tiếc là một bộ phận không nhỏ phụ nữ và nam giới
không cảm nhận được sự bất bình đẳng này cũng như sự cần thiết phải thay đổi
5


nó. Vì vậy, để giải quyết được triệt để vấn đề bạo lực gia đình, chúng ta cần chú
ý giải quyết yếu tố nhận thức của nam giới, phụ nữ và của cả cộng đồng.
Hậu quả của bạo lực gia đình:
Hậu quả đối với nạn nhân về sức khỏe thể chất: Sức khỏe bị hủy hoại,
thương tích đau đớn, có thể bị khuyết tật suốt đời, thậm chí dẫn đến tử vong.
Về sức khỏe tinh thần: Luôn ám ảnh bị bạo lực; chán nản, buồn rầu, lo
lắng, sợ hãi, mất tự tin, hoang mang, trầm cảm; cảm thấy cuộc sống nặng nề,
căng thẳng và tuyệt vọng.
Về sức khỏe sinh sản: Mang thai ngoài ý muốn, thai nhi suy dinh dưỡng,
sẩy thai, đẻ non, lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV.
Hậu quả đối với người gây bạo lực gia đình: Phá hỏng mối quan hệ vợ chồng, cha mẹ - con cái, ông bà-cháu, cảm thấy cô đơn ngay trong gia đình. Phải
đóng tiền nộp phạt vi phạm hành chính khi gây ra bạo lực gia đình. Bị truy cứu
trách nhiệm hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng với nạn nhân.
Hậu quả với trẻ em: Với trẻ nhỏ dưới 5 tuổi: Khóc nhiều, suy dinh dưỡng,
chậm lớn, chậm phát triển trí tuệ, e ngại khi tiếp xúc với người lạ.
Với trẻ trong độ tuổi trước vị thành niên: thiếu tập trung và không có khả
năng chơi tích cực; vụng về, lóng ngóng và hay gây rối; tránh va chạm và dễ
chiều theo ý người khác; mất hứng thú với các hoạt động xã hội và giảm năng
lực xã hội; lẩn tránh các mối quan hệ với các bạn cùng lứa tuổi.

6


Với trẻ vị thành niên: học kém, bỏ học, phạm tội, uống rượu, hút thuốc lá
và nghiện ma túy; thiếu tin tưởng vào người lớn; bỏ đi khỏi nhà; có thể có các

hành vi bạo lực như người lớn; chán nản và có ý nghĩ tự tử; thậm chí tự tử.
Hậu quả đối với gia đình: Li thân, li hôn. Tốn tiền chữa trị và phục hồi sức
khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần cho nạn nhân và người chứng kiến bạo lực
gia đình.
Giảm thời gian và năng suất lao động từ đó giảm thu nhập gia đình.
Không có khả năng làm tròn bổn phận với gia đình nội, ngoại.
Hậu quả đối với xã hội: Giảm sự đóng góp của nạn nhân và người gây bạo
lực gia đình đối với xã hội tạo ra lực lượng lao động tương lai có sức khỏe thể
chất và tinh thần yếu, thiếu sáng tạo. Nếu không xử lý triệt để, xã hội sẽ chấp
nhận và dung túng cho bạo lực gia đình. Hạn chế hiệu quả công tác phòng chống
HIV/AIDS và kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh.
1.1.2. Đặc điểm của gia đình có bạo lực.
Gia đình có tình trạng bạo lực là gia đình trong đó có một hoặc nhiều
thành viên có hành vi bạo lực với một hoặc nhiều thành viên khác, có thể là cha
mẹ/con cái đánh đập, xúc phạm, kiểm soát tài chính với con cái/cha mẹ, hoặc
chồng/vợ đối với bạo hành thể xác, tinh thần, tình cảm và cả tình dục với
vợ/chồng.
Các hành vi bạo lực gia đình:
Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức
khoẻ, tính mạng;

7


Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả
nghiêm trọng;
Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông,
bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
Cưỡng ép quan hệ tình dục; Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn

hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;
Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài
sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành
viên gia đình;
Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá
khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình
trạng phụ thuộc về tài chính;
Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi bạo hành trong một gia đình.Đó
có thể là vì lý do thiếu thốn kinh tế, gây áp lực trong cuộc sống gia đình, cũng có
thể là những vấn đề liên quan đến nhận thức và khả năng kiểm soát của cá nhân,
có thể do đặc điểm tiểu sử tâm lý của người có hành vi bạo hành và cũng có thể
do khả năng giao tiếp hạn chế giữa các thành viên.Khi giúp đỡ các gia đình này
nhân viên xã hội cần thu thập thông tin, xác định yếu tố, những yếu tố chủ yếu
dẫn đến hành vi bạo lực gia đình để từ đó đưa ra những biện pháp tác động phù
hợp.

8


1.2. Các hoạt động công tác xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình.
1.2.1.Hoạt động CTXH trong phòng chống bạo lực gia đình tại Việt Nam
Với quan điểm “CTXH thúc đẩy sự phát triển xã hội, giải quyết các vấn đề
trong các mối quan hệ, tạo khả năng và giải phóng con người nhằm thúc đẩy
phúc lợi. Sử dụng các học thuyết về hành vi con người và các hệ thống xã hội,
công tác xã hội can thiệp vào những thời điểm khi con người tương tác với các
môi trường của mình. Nhân quyền và công lý trong xã hội là những nguyên tắc
nền tảng của công tác xã hội”. Đối với nạn nhân của bạo lực gia đình, đặc biệt là
phụ nữ, nhân viên CTXH có thể cung cấp một số dịch vụ xã hội để hỗ trợ nạn
nhân như: Lập kế hoạch trợ giúp, điều phối các dịch vụ hỗ trợ dựa trên nguyên

tắc ưu tiên và đáp ứng nhu cầu của họ, đảm bảo giải quyết tất cả những vấn đề
khó khăn mà thân chủ đang gặp phải. Đánh giá mức độ tổn thương tâm lý, xác
định phương pháp tham vấn và trị liệu, cung cấp dịch vụ trị liệu tâm lý để phục
hồi sang chấn cho nạn nhân. Những trường hợp có vấn đề về tâm lý quá lớn,
nhân viên xã hội không đủ khả năng giải quyết thì sẽ đựơc kết nối, chuyển giao
đến các cơ quan và tổ chức có khả năng, đủ thẩm quyền.
Cán bộ xã hội can thiệp để đảm bảo từng thành viên của gia đình, và toàn
thể gia đình có thể sống cùng nhau một cách an toàn và hòa thuận; giải quyết các
bất hòa và xử lý các vấn đề. Cán bộ xã hội làm việc trong những trung tâm, nhà
tạm lánh hỗ trợ các phụ nữ bị bạo hành. Các cán bộ xã hội cũng có thể hỗ trợ
những gia đình nghèo và thu nhập thấp tiếp cận các dịch vụ, thực hiện các quyền
về phúc lợi. Hiện nay, các Trung tâm CTXH đã thực hiện các hoạt động hỗ trợ
nạn nhân bạo lực gia đình như: Cung cấp các dịch vụ khẩn cấp, tham vấn, trị liệu
rối nhiễu tâm trí, khủng hoảng tâm lý và phục hồi thể chất cho đối tượng. Tư vấn
9


và trợ giúp đối tượng thụ hưởng các chính sách trợ giúp xã hội; phối hợp với các
cơ quan, tổ chức phù hợp khác để bảo vệ, trợ giúp đối tượng; tìm kiếm, sắp xếp
các hình thức chăm sóc. Bên cạnh đó, Trung tâm còn xây dựng kế hoạch can
thiệp và trợ giúp đối tượng, thực hiện các biện pháp phòng ngừa đối tượng rơi
vào hoàn cảnh khó khăn và bị xâm hại, bạo lực, ngược đãi, hỗ trợ hòa nhập cộng
đồng.
Nhân viên xã hội có các hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ nạn nhân của bạo lực
gia đình, đồng thời tìm ra những giải pháp hữu hiệu khắc phục và đi đến xóa bỏ
hiện tượng này. Đối với lĩnh vực công tác xã hội, trước hết cần đổi mới chức
năng, nhiệm vụ của các cơ sở bảo trợ xã hội, chuyển từ chăm sóc tập trung sang
cung cấp dịch vụ công tác xã hội; thực hiện chăm sóc khẩn cấp tại các cơ sở bảo
trợ xã hội, phát triển dịch vụ chăm sóc bán trú, xây dựng, hoàn chỉnh cơ chế, mô
hình trợ giúp đối tượng học nghề, tìm việc làm, tổ chức cung cấp dịch vụ công

tác xã hội, xây dựng cơ chế phối hợp, liên kết giữa cơ sở bảo trợ xã hội và hệ
thống các cơ sở cung cấp dịch vụ khác…
1.2.2.Các hoạt động CTXH trong phòng chống bạo lực gia đình trên thế
giới.
Trước thực trạng bạo lực trên thế giới ngày một gia tăng, để kêu gọi toàn
thế giới cùng đấu tranh xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ, năm 1999 Liên Hợp Quốc
đã lấy ngày 25/11 hằng năm là ngày “ Quốc tế xóa bỏ nạn bạo lực đối với phụ
nữ”.
Tuyên ngôn nhân quyền năm 1945; Công ước Gionever năm 1949; Công
ước về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế - xã hội và văn hóa năm 1966

10


Đặc biệt là công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(viết tắt là CEDAW) năm 1979. Công ước định nghĩa việc phân biệt đối xử với
phụ nữ như sau: Bất cứ sự phân biệt, sự loại trừ hoặc hạn chế nào được thực hiện
trên cơ sở giới tính mà có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm suy giảm hoặc vô
hiệu hoá sự công nhận, quyền thụ hưởng hoặc quyền sử dụng của phụ nữ, bất
chấp tình trạng hôn nhân của họ, trên cơ sở bình quyền nam nữ, nhân quyền và
các quyền tự do cơ bản khác trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá,
dân sự hoặc bất kỳ lãnh vực nào khác.
Pháp luật quốc tế đã coi mọi hình thức bạo lực đối với phụ nữ đều là sự vi
phạm nghiêm trọng đến quyền con người và quyền tự do cơ bản của công dân,
thể hiện sự phát triển đáng kể trong tiến trình xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử đối với phụ nữ, có những giá trị rằng buộc về mặt đạo đức và thể hiện sự
đồng thuận và quyết tâm của các quốc gia.
1.3.Một số phương pháp của công tác xã hội sử dụng trong lĩnh vực
phòng chống bạo lực gia đình.
Phương pháp công tác xã hội cá nhân và gia đình trong phòng chống bạo

lực gia đình:
Quản lý trường hợp hay còn gọi là quản lý ca.
Tham vấn cá nhân, gia đình.
Trang bị kỹ năng sống: kỹ năng tự vệ, kỹ năng giao tiếp trong gia đình.
Nâng cao nhận thức của cá nhân và gia đình về phòng chống bạo lực gia
đình.

11


Hỗ trợ gia đình tiếp cận các nguồn lực
CTXH cá nhân giúp cá nhân và gia đình hoạt động có hiệu quả hơn trong
các mối quan hệ tâm lý xã hội. Ở đây mọi nhu cầu cơ bản của thân chủ đều phải
được chấp nhận cho dù họ là ai. Nhân viên xã hội phải tôn trọng giá trị của thân
chủ và không thể mong đợi đối tượng đối xử với chúng ta theo cách ta mong
muốn.Khi giúp đỡ những gia đình có bạo lực nhân viên xã hội cần thu thập
thông tin, xác định yếu tố chủ yếu dẫn đến hành vi bạo lực gia đình để từ đó đưa
ra các biện pháp tác động phù hợp.
Phương pháp công tác xã hội nhóm:
Trong CTXH nhóm, nhân viên XH lấy tiến trình sinh hoạt làm công cụ để
giúp đỡ đối tượng là nhóm bạo lực. Công cụ giúp đỡ là các hoạt động nhóm, mối
quan hệ tương tác giữa các cá nhân trong nhóm. Nhân viên XH cần xác định rõ
vấn đề để giải quyết tâm lý cho nhóm bạo lực và từ đó đưa ra các cách can thiệp
cho nhóm.
Phát triển cộng đồng:
Nhận diện, xác định những nhu cầu và vấn đề cần giải quyết của gia đình
bạo lực. Sau đó phân tích những nhu cầu và vấn đề của họ. Xác định những tiềm
năng hoặc nguồn hỗ trợ từ bên trong và ngoài cộng đồng để có thể giải quyết vấn
đề cho gia đình bạo lực.Tiến hành những hoạt động phát triển theo kế hoạch để
trợ giúp.

2.Cơ sở thực tiễn

12


2.1.Thực trạng tình hình bạo lực gia đình ở Việt Nam.
Bạo lực gia đình đã và đang trở thành một vấn đề xã hội nhức nhối gây ra
nhiều hậu quả nghiêm trọng mà trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh
dự, nhân phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em. Bạo lực
gia đình làm xói mòn các giá trị truyền thống tốt đẹp, tác động xấu đến môi
trường giáo dục thế hệ trẻ, ảnh hưởng đến sự an toàn lành mạnh của cộng đồng
và trật tự xã hội.
Tại một số vùng ở Việt Nam, cứ mười phụ nữ thì có bốn người nhận thấy
gia đình không phải là nơi an toàn đối với họ. Ví dụ, ở vùng Đông Nam Bộ, 42%
phụ nữ cho biết họ đã từng bị chồng mình bạo hành thể xác hoặc tình dục. Tuy
nhiên, mặc dù có sự khác biệt giữa các vùng miền, khu vực, nhưng sự khác biệt
lớn nhất có thể nhận thấy là giữa các dân tộc, trong đó tỷ lệ phụ nữ cho biết họ
đang hoặc đã từng là nạn nhân của bạo lực gia đình dao động từ 8% (người
H’Mong) đến 36% (người Kinh).
Theo số liệu thống kê, trong các năm 2011-2015 có 157.859 vụ bạo lực
gia đình, trong đó trường hợp nạn nhân là nữ chiếm 74,24%, trẻ em chiếm
11,4%, người cao tuổi chiếm 8,91% và ở nam giới là 3%. Trong số 492.520 vụ li
hôn đã giải quyết thì nguyên nhân từ bạo lực gia đình chiếm 83,78%. Mỗi năm
có hơn 8.000 vụ li hôn mà nguyên nhân từ bạo lực gia đình. Mức độ tổn hại kinh
tế do bạo lực gia đình gây ra chiếm 1,4%GDP/năm.
2.1.1.Bạo lực giữa vợ, chồng với nhau
Bạo lực giữa người chồng đối với người vợ trong gia đình có thể thấy là
dạng bạo lực phổ biến nhất trong gia đình. Hành vi người chồng gây ra chủ yếu

13



và lớn nhất là bạo lực về thể chất, đây là dạng dễ nhận thấy và bị lên án mạnh mẽ
nhất. Sỡ dĩ đa phần người đàn ông sử dụng “nắm đấm” để dạy vợ là do họ không
nhận thức được rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không
phải tất cả hành vi bạo lực của người chồng đều là bạo lực về thể chất mà có
những lúc, họ dùng tới nhiều cách khác để gây ra những tổn thương về tâm lý
cho người vợ: mắng mỏ, chửi bới, xúc phạm danh dự…; hoặc có những hành vi
cưỡng bức về tình dục, kiểm soát về kinh tế…có 32% phụ nữ từng kết hôn cho
biết họ đã phải chịu bạo lực thể xác trong đời và 6% đã từng trải qua bạo lực thể
xác trong vòng 12 tháng trở lại đây. Kết quả nghiên cứu cho thấy bạo lực thể xác
– được đo lường bởi tỷ lệ bạo lực hiện tại – bắt đầu sớm trong mối quan hệ và
giảm dần theo độ tuổi. Có sự khác biệt giữa các khu vực và trình độ học vấn và
với phụ nữ có trình độ học vấn thấp hơn thì tỷ lệ bị bạo lực thể xác cao hơn so
với phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn và trong số những phụ nữ bị bạo lực cao
hơn thì mức độ nghiêm trọng của những hành vi bạo lực cũng cao hơn. Trong số
những phụ nữ đã từng mang thai, tỷ lệ bị bạo lực thể xác trong ít nhất một lần
mang thai là 5% và tỷ lệ bị bạo lực khi đang mang thai cao nhất ở những phụ nữ
chưa từng đến trường.

14


Bạo lực tình dục do chồng gây ra: Phụ nữ gặp khó khăn hơn khi tiết lộ
những trải nghiệm bạo lực tình dục so với những trải nghiệm bạo lực thể xác.
Tương tự như vậy, việc nói về bạo lực tình dục trong hôn nhân được xem như
một chủ đề không phù hợp. Tuy nhiên, trong các buổi phỏng vấn có 10% phụ nữ
từng kết hôn cho biết họ đã từng bị bạo lực tình dục trong đời và 4% trong 12
tháng qua. Đáng chú ý là bạo lực tình dục hiện tại không thay đổi nhiều ở những
nhóm tuổi khác nhau (tới 50 tuổi) và trình độ học vấn của phụ nữ.


Bạo lực tinh thần và kinh tế do chồng gây ra. Bạo lực tinh thần và kinh tế
cũng không kém phần quan trọng so với bạo lực tình dục và thể xác và thường
ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn bạo lực tình dục và thể xác. Kết quả chỉ ra rằng
tỷ lệ bị bạo lực tinh thần rất cao: 54% phụ nữ cho biết đã phải chịu bạo lực tinh
thần trong đời và 25% cho biết đã bị bạo lực tinh thần trong 12 tháng qua. Tỷ lệ
bị bạo lực về kinh tế trong đời là 9%.
2.1.2. Cha mẹ, ông bà bạo lực với con cháu.
Với tâm lý, truyền thống, thói quen của người Việt, thì vấn đề bạo lực
giữa cha mẹ, ông bà với con cháu thì được xã hội chấp nhận và khá phổ biến. Có
thể dễ dàng nhận thấy đó là những hành động dạy bảo con cái xuất phát từ cái

15


quan niệm gọi là “Yêu cho roi cho vọt – Ghét cho ngọt cho ngào” và giáo dục thì
cần phải nghiêm khắc. Rất nhiều ông bố bà mẹ coi việc đánh đập, chửi mắng con
cái khi chúng mắc lỗi là cần thiết để chúng nhận ra sai lầm và sửa chữa; hay coi
việc mạt sát, trách móc là động lực để chúng phấn đấu. Trên thực tế chúng ta đều
có thể nhận thấy, cách làm này phần nào phù hợp với tâm lý của người Việt và
đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, khi những
chuẩn mực tiến bộ về quyền con người đã và đang phổ biến trên thế giới thì
những tư tưởng, cách làm này cần được sớm loại bỏ đặc biệt là những trường
hợp bạo lực với con cái vượt ra ngoài phạm vi giáo dục.
Có khoảng ¼ phụ nữ có con dưới 15 tuổi cho biết con của mình đã từng bị
bạo lực về thể xác do chồng gây ra. Hình thức bạo lực thể xác trẻ em phổ biến
thường là tát, xô, đẩy trẻ. Khảo sát cũng cho thấy bạo lực đối với trẻ em có mối
liên hệ chặt chẽ với bạo lực đối với phụ nữ do cùng một đối tượng gây ra. Phụ
nữ có chồng bạo hành có nguy cơ trả lời rằng con của mình cũng bị đánh đập cao
gấp hai lần và thậm chí là cao hơn nếu người chồng bạo hành vợ nghiêm trọng.

Hơn nữa, số phụ nữ bị chồng gây bạo lực thể xác cũng cho biết con cái họ đã
từng chứng kiến ít nhất một lần cảnh bạo lực này. Phụ nữ từng bị bạo lực do
chồng gây ra có nguy cơ mẹ mình cũng từng bị cha đánh đập cao gấp hai lần so
với những phụ nữ khác. Nguy cơ này tăng gấp ba lần nếu họ có mẹ chồng bị bố
chồng đánh hoặc bản thân chồng cũng bị đánh đập khi còn nhỏ. Trải nghiệm thơ
ấu của người chồng là một yếu tố nguy cơ quan trọng dẫn tới việc anh ta trở
thành người gây bạo lực trong đời sống sau này.
2.1.3. Con cái bạo lực cha mẹ, ông bà.

16


Bên cạnh những hành vi từ phía cha mẹ, ông bà đối với con cháu, thì bạo
lực gia đình xuất phát từ người con đối với cha mẹ, ông bà mình cũng đang ngày
càng gia tăng. Một số trường hợp người trẻ tuổi gây ra những tổn thương về cả
vật chất, tinh thần cho cha mẹ, ông bà do sự thiếu kiềm chế, do đua đòi hư hỏng
hoặc một vài lý do khác. Tuy nhiên, không thể bào chữa, biện hộ cho những
người con đã khôn lớn trưởng thành dưới bàn tay yêu thương, nuôi dạy của cha
mẹ, ông bà nhưng lại bỏ bê, không chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, ông bà, thậm
chí hơn là đánh đập, chửi mắng, xỉ nhục những người đã có công sinh thành,
nuôi dưỡng mình. Chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy nguyên nhân đơn giản dẫn
đến hành vi trên là do: những người già thì sức khỏe yếu, không còn sức lao
động nên cần có người chăm sóc; trong khi những đứa con không đủ yêu thương
nên không muốn tốn kém tiền của, thời gian, công sức của mình cho cha mẹ,
đúng như câu ca dao xưa mà người đời hay đọc “Cha mẹ nuôi con bằng trời bể Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày”. Điều này chứng tỏ một sự xuống cấp đạo
đức nghiêm trọng của một bộ phận giới trẻ hiện nay, nó hoàn toàn đi ngược lại
với truyền thống đề cao chữ “hiếu” của dân tộc Việt Nam.
2.2.Luật pháp, chính sách trong phòng chống bạo lực gia đình.
Luật Phòng, chống bạo lực trong gia đình hay còn gọi là Luật phòng,
chống bạo hành là đạo luật được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa

Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 2 thông qua vào ngày 21 tháng 11 năm 2007 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2008. Luật quy định về phòng và
chống bạo hành gia đình ở Việt Nam, các vấn đề phòng ngừa bạo lực gia đình,
bảo vệ hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ

17


quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình.
Chính sách của Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình:
+Hằng năm, Nhà nước bố trí ngân sách cho công tác phòng, chống bạo lực gia
đình.
+Khuyến khích cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, tài trợ cho hoạt động phòng,
chống bạo lực gia đình; phát triển các mô hình phòng ngừa bạo lực gia đình và
hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
+Khuyến khích việc nghiên cứu, sáng tác văn học, nghệ thuật về phòng, chống
bạo lực gia đình.
+Tổ chức, hỗ trợ việc bồi dưỡng cán bộ làm công tác phòng, chống bạo lực gia
đình.
+Người trực tiếp tham gia phòng, chống bạo lực gia đình mà có thành tích thì
được khen thưởng, nếu bị thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản thì được
hưởng chế độ theo quy định của pháp luật.
2.3.Các mô hình, dịch vụ đang có ở Việt Nam trong phòng chống bạo lực
gia đình.
Nhiều địa phương đã đẩy mạnh thực hiện Luật Phòng chống bạo lực gia
đình bằng các hình thức sinh động như : Dự án Ngôi nhà Bình yên hỗ trợ nạn
nhân bị bạo lực gia đình. Đưa luật phòng chống bạo lực gia đình vào trường học
thông qua tổ chức các hội thi tìm hiểu pháp luật hay mô hình phòng chống Bạo


18


lực gia đình tại cộng đồng bằng tuyên truyền và thành lập câu lạc bộ phòng
chống bạo lực gia đình.
Mô hình câu lạc bộ Công tác gia đình là nơi thu hút các gia đình gần nhau
để giao lưu chia sẻ kinh nghiệm xây dựng gia đình hạnh phúc, cung cấp kiến
thức kỹ năng về nhận diện thế nào là bạo lực gia đình và ngăn ngừa, ứng xử, giải
quyết mâu thuẫn đến phát huy giá trị tốt đẹp trong gia đình Việt Nam. Mỗi Câu
lạc bộ có từ 20-25 thành viên tham gia, các Câu lạc bộ sinh hoạt định kỳ hàng
tháng, với các nội dung như xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh
phúc; nét đẹp, cách ứng xử trong gia đình; lên án, phê phán các hành vi bạo lực
gia đình và các biện pháp phòng chống bạo lực gia đình, kiến thức chăn nuôi,
phát triển kinh tế…thực hiện nội quy, quy ước thôn. Nội dung sinh hoạt được
thay đổi, hình thức đa dạng phong phú, tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề,
lồng ghép với công tác hoà giải và tuyên truyền phổ biến.
“Nhà tạm lánh” là một trong những mô hình hỗ trợ nạn nhân bị bạo hành.
Mô hình này đã trở thành địa chỉ đáng tin cậy cho các nạn nhân bị bạo hành
trong thời gian gần đây. Tại đây, các nạn nhân được cung cấp chỗ ăn, nghỉ miễn
phí, được tham vấn tâm lý và hướng dẫn một số kỹ năng sống cơ bản như: Kỹ
năng giải quyết mâu thuấn, kỹ năng ứng phó với các tình hướng căng thẳng, kỹ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ... Một số được hỗ trợ khám chữa bệnh và điều trị, tạo
điều kiện học một số ngành nghề do Trung tâm dạy nghề hướng dẫn.Các nạn
nhân tại đây được hỗ trợ tham vấn để bình ổn tâm lý, cảm thấy có chỗ dựa về
tinh thần, giảm bớt sự bế tắc, bi quan, chán nản.Có thể nói, “Nhà tạm lánh” đã
giúp rất nhiều nạn nhân bị bạo hành lấy lại được tinh thần sau những tổn thương
mà họ phải chịu đựng, giúp họ có cơ hội được tiếp cận với các quy định của

19



pháp luật.Từ đó, nâng cao nhận thức, tự xác định được quyền của phụ nữ và tự
bảo về quyền của mình, góp phần giảm đi tình trạng bạo lực gia đình như hiện
nay.
Mô hình Truyền thông phòng, chống bạo lực gia đình là một quá trình liên
tục chia sẻ thông tin, kiến thức, thái độ, tình cảm và kỹ năng giữa người truyền
và đối tượng tiếp nhận nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và chuyển đổi
hành vi về bạo lực gia đình. Thông qua hệ thống loa truyền thanh cơ sở phổ biến
khoảng 3.500 chương trình tuyên truyền vận động nhân dân tích cực thực hiện
Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ; nêu gương điển hình
xây dựng gia đình văn hóa; hoạt động văn hóa văn nghệ, hội thi về phòng chống
bạo lực gia đình.... Ở nước ta hiện nay, bên cạnh hệ thống báo chí, phát thanh,
truyền hình đang tham gia tích cực vào công tác phòng, chống bạo lực gia đình,
chúng ta đang có các nhóm mô hình truyền thông về phòng, chống bạo lực gia
đình ở cộng đồng như sau: Mô hình truyền thông theo chủ đề của từng chiến dịch
truyền thông, Mô hình lồng ghép truyền thông phòng, chống bạo lực gia đình với
các cuộc vận động do Mặt trận tổ quốc các cấp và các bộ, ban, ngành chủ trì
triển khai, Mô hình kết hợp truyền thông phòng, chống bạo lực gia đình với hoạt
động thường xuyên, cụ thể của các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội
nhằm ngăn chặn bạo lực gia đình ngay tại cộng đồng, Mô hình lồng ghép truyền
thông phòng, chống bạo lực gia đình vào sinh hoạt các câu lạc bộ, sinh hoạt văn
hóa văn nghệ, thể dục thể thao, thi sáng tác văn học, thơ ca, vẽ tranh, diễn kịch
với sự tham gia của chính người dân tại cộng đồng, Mô hình giáo dục phòng,
chống bạo lực gia đình trong nhà trường, giáo dục kỹ năng làm vợ làm chồng
cho các gia đình trẻ, giáo dục tiền hôn nhân cho thanh niên.

20


3. Đánh giá thực trạng tình hình triển khai các hoạt động hỗ trợ gia

đình có bạo lực gia đình của Việt Nam.
3.1.Đánh giá tình hình triển khai luật pháp, chính sách, mô hình dịch vụ
của Việt Nam.
Bạo lực gia đình là vấn nạn của xã hội, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại
nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con người, nhất là đối với phụ nữ, trẻ em.Ở Việt
Nam, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới
việc phòng, chống bạo lực gia đình và đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và
gián tiếp như: Hiến pháp, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự,..và đặc biệt Luật phòng, chống bạo lực gia đình
2007. Những văn bản này đã tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong đời sống xã
hội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Nhưng đánh giá một cách
khách quan thì các quy phạm pháp luật này chưa thực sự đi vào cuộc sống, sự
quan tâm và hiểu biết về lĩnh vực này chưa đi vào chiều sâu, tình trạng bạo lực
trong gia đình chưa có nhiều thay đổi, chuyển biến tích cực và thế nữa nó dần trở
thành như một hiện tượng của xã hội.
3.1.1. Đánh giá tình hình triển khai luật pháp chính sách của Việt Nam.
Số liệu từ nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình và phụ nữ ở Việt Nam
cho thấy, gần 60% phụ nữ Việt Nam từng chịu ít nhất một hình thức bạo lực
trong đời. Trung bình mỗi năm xảy ra 1.000 vụ xâm hại tình dục trẻ em, 8.000
vụ ly hôn và 27% phụ nữ bị ngược đãi nhập viện, hơn 10% điều trị y khoa
nghiêm trọng mà nguyên nhân là do bạo lực giới. Thế nhưng, một con số đáng
buồn là có tới 87% người bị bạo lực đã không tìm đến sự giúp đỡ từ các dịch vụ
công cộng; 54% người bị bạo lực giới nghĩ rằng các biện pháp xử lý của công an

21


chưa nghiêm, chỉ có 8% người bị bạo lực giới đã được cán bộ tư pháp để tìm
kiếm trợ giúp pháp lý, 66% người bị bạo lực giới không hài lòng với việc hòa
giải tại cộng đồng… Nghiên cứu về chất lượng dịch vụ tư pháp hình sự hiện nay

dành cho nạn nhân bạo lực gia đình ở Việt Nam được công bố gần đây với sự
tham gia của 900 phụ nữ bị ảnh hưởng cho thấy thực trạng tương tự: 77% vụ
việc được hòa giải không đạt kết quả mong đợi và bạo lực vẫn tiếp diễn. 66%
không hài lòng với việc hòa giải tại cộng đồng. 90% phụ nữ bị bạo lực cho biết
họ bị trầm cảm, sợ hãi, hoảng loạn và mất ngủ do bạo lực gia đình.
Thực tế các chương trình can thiệp hiện nay tại Việt Nam trong thời gian
qua chưa quan tâm đến vai trò và sự tham gia của nam giới trong việc xóa bỏ bạo
lực gia đình.Trong khi đó, các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng nam giới đóng vai trò
vô cùng quan trọng trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, vì họ chủ yếu là
người gây ra bạo lực gia đình và bạo lực với phụ nữ. Nam giới là nguyên nhân
chủ yếu của bạo lực gia đình thì họ phải là một phần quan trọng của giải pháp.
Nếu nam giới không vào cuộc, không được nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi
thì vấn đề bạo lực gia đình tại Việt Nam vẫn còn là một vấn đề nhức nhối và
thách thức lớn.Như vậy, phải khẳng định rằng, nam giới là nguyên nhân chủ yếu
gây nên bạo lực gia đình, muốn ngăn chặn, phòng, chống bạo lực gia đình phải
bắt đầu từ nam giới nhưng cho đến nay, chưa có một chương trình, dự án, đề án
nào của quốc gia hoặc quốc tế để đưa ra được giải pháp giải quyết triệt để vấn đề
này. Đây chính là một khoảng trống về chính sách, pháp luật của nước ta.Hiện
nay, theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm
2007 chỉ đưa ra định nghĩa “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia
đình gây tổn hại hoặc có khả nang gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối
với thành viên khác trong gia đình” và liệt kê các hành vi được coi là bạo lực gia
22


đình tại Khoản 1 Điều 2. Tức là pháp luật đã thừa nhận 3 nhóm hành vi bạo lực:
Bạo lực về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo lực về kinh tế nhưng lại không đưa
ra sự phân loại hành vi của từng nhóm.Ngoài ra, những hành vi được quy định
cũng khá chung chung, trong khi trình độ nhận thức của đại đa số người dân còn
hạn chế nên cần có sự hướng dẫn cụ thể.

Luật lại không giải thích khái niệm “thành viên gia đình” nên gây khó hiểu
trong quá trình áp dụng luật.Hiện nay, đa số người dân vẫn dựa vào khái niện gia
đình theo Luật Hôn nhân và gia đình “Gia đình là tập hợp những người gắn bó
với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật
này”; từ đó cho rằng: thành viên gia đình là những người gắn bó với nhau do hôn
nhân, do quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng. Sự suy luận này
tưởng như rất logic nhưng suy cho cùng thì chẳng có căn cứ gì, bởi Luật Hôn
nhân và gia đình và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình là hai đạo luật hoàn toàn
độc lập nhau, có vị trí ngang bằng nhau trong hệ thống pháp luật, nên không thể
tùy tiện áp dụng khái niệm của Luật này để giải thích quy định của Luật khác.
Như vậy, hiện nay đối tượng điều chỉnh của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình
chưa được quy định một cách rõ ràng, có thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau,
và do đó việc áp dụng các quy định này để bảo vệ nạn nhân trở nên khó khăn
hơn.Vì vậy, cần phải quy định rõ ràng hơn những hành vi bị coi là “bạo lực gia
đình” và có sự tổng hợp các quy định tại những văn bản pháp luật khác nhau về
các hành vi để đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả của các quy phạm pháp luật.
Một số quy định của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn chưa được
hoàn thiện như:

23


Biện pháp cấm tiếp xúc: Việc quy định việc cấm tiếp xúc trong một thời
gian giữa người có hành vi bạo lực và nạn nhân là cần thiết để đảm bảo sự an
toàn cho nạn nhân, để hai bên có thời gian cân nhắc về hành động và cũng là để
giáo dục người có hành vi bạo lực về tội lỗi của họ. Tuy nhiên, biện pháp này
yêu cầu có sự đồng ý của nạn nhân hoặc người giám hộ, điều này có phần chưa
khả thi. Bởi vì, bản chất của những mối quan hệ trong gia đình là gắn bó thân
thiết và bền chặt, nếu một người có ý từ bỏ, sống ra ngoài thì mối liên hệ giữa

các thành viên thường bị cho rằng sẽ trở nên lỏng lẻo và khó chấp nhận, Hơn
nữa, với những nạn nhân của bạo lực gia đình là phụ nữ và trẻ em, do họ phụ
thuộc nhiều vào người chồng, người cha, đặc biệt phụ nữ lại rất gắn bó với con
cái, nên dù bị đối xử tàn nhẫn nên họ vẫn có thể nín nhịn, tiếp tục sống chung
với người có hành vi bạo lực. Do đó, việc quy định áp dụng biện pháp cấm tiếp
xúc phải có sự đồng ý của nạn nhân mặc dù rất thỏa đáng khi để nạn nhân tự cân
nhắc, quyết định theo tình cảm và ý thức của họ, nhưng mặt khác cũng là chưa
thể bảo vệ họ tránh những hành vi bạo lực nguy hiểm có thể xảy ra tiếp theo.
Bên cạnh đó, quy định về một trong những điều kiện áp dụng biện pháp cấm tiếp
xúc chưa thật hợp lý: Người có hành vi bạo lực gia đình và nạn nhân bạo lực gia
đình có nơi ở khác nhau trong thời gian cấm tiếp xúc, nơi ở này bao gồm nhà của
người thân, bạn bè, địa chỉ tin cậy hoặc nơi ở khác mà nạn nhân bạo lực gia đình
tự nguyện chuyển đến ở.Rõ ràng như vậy, nạn nhân của bạo lực gia đình tiếp tục
bị thiệt thòi: họ bị tổn thương, và để tránh những tổn thương này họ bị buộc phải
rời khỏi nhà của mình. Như vậy, những người khác nhìn vào có thể cho rằng đó
là “hình phạt”cho những người không biết cam chịu mà lên tiếng đòi công bằng
cho mình. Trong khi đó, kẻ có hành vi bạo hành lại đương nhiên được ở nhà của
mình, và việc nạn nhân không ở đó, thậm chí có khi là mong muốn của kẻ có
24


hành vi bạo hành, nên họ có thể hoàn toàn không quan tâm. Quy định này vừa
nhìn vào thì có thể thấy có lẽ dựa trên quy định về tự do cư trú của cá nhân, mà
quên rằng nạn nhân cũng bắt buộc phải chọn nơi ở khác do những hành vi trái
pháp luật của người có hành vi bạo lực; và những người thực hiện hành vi này
hoàn toàn có thể bị tước bỏ quyền tự do lựa chọn nơi cư trú vì bản thân họ đã vi
phạm pháp luật. Do đó, khi áp dụng biện pháp này, trong một số trường hợp
không cần đến sự yêu cầu hay cho phép của nạn nhân (trường hợp hành vi bạo
lực gây tổn hại hết sức nghiêm trọng tới sức khỏe, danh dự của nạn nhân; hành
vi lặp lại nhiều lần; người có hành vi đã được giáo dục mà tiếp tục vi phạm…).

Đồng thời, nếu thực hiện cấm tiếp xúc thì người thực hiện hành vi có thể phải rời
khỏi nơi cư trú (nếu nạn nhân không tìm được nơi ở khác thích hợp) và đảm bảo
quyền trông nom, chăm sóc gia đình, con cái của nạn nhân.Trường hợp nạn nhân
hoàn toàn bị lệ thuộc vào kinh tế thì khi cách li có thể xem xét việc yêu cầu cấp
dưỡng cho nạn nhân.
Quy định về hình thức phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình:Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày
12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa
cháy; phòng, chống bạo lực gia đình – đã đưa ra những chế tài cần thiết đối với
người thực hiện hành vi bạo lực gia đình. Tuy nhiên, quy định về hình thức phạt
tiền của Nghị định này còn chưa được hợp lý, bởi mức hình phạt nhìn chung còn
thấp, trong một số trường hợp là rất bất hợp lý như hành vi xúc phạm danh dự,
nhân phẩm người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia đình, người giúp đỡ
nạn nhân bạo lực gia đình hoặc hành vi ép người khác kết hôn, ly hôn, tảo hôn
bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác thì
25


×