Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Luận văn sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng bối khê (huyện phú xuyên) và vũ lăng (huyện thanh oai), thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.28 KB, 127 trang )

1

MỤC LỤC
Lời cam đoan.......................................................................................1
Mục lục.................................................................................................2
Danh mục các chữ viết tắt.................................................................3
Danh mục các bảng biểu trong luận án............................................4
MỞ ĐẦU...............................................................................................5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU
THỔ BẮC BỘ VÀ Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ, VŨ LĂNG
(THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
1.1. Nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ....................................................................27
1.2. Nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng...............................................40
Tiểu kết.................................................................................................................................62
Chương 2: NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ VÀ VŨ LĂNG
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA HIỆN NAY
2.1. Những tác nhân chủ yếu của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống.......................64
2.2. Những biểu hiện cụ thể của quá trình biến đổi của nghề sơn truyền thống .................68
2.3. Hệ quả của quá trình biến đổi nghề sơn truyền thống...................................................
Tiểu kết.................................................................................................................................99
Chương 3: VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CÁC LÀNG BỐI
KHÊ, VŨ LĂNG VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
3.1.Định

hướng

phát

triển

nghề



sơn

truyền

thống



hai

làng

Bối Khê và Vũ Lăng.......................................................................................101
3.2. Một vài biện luận về tính mới của luận án..................................................................126
Tiểu kết...............................................................................................................................130
KẾT LUẬN........................................................................................................................132
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ..................................................................136
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................137
PHỤ LỤC...........................................................................................................................148


2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

1. A.

:


Ảnh

2. HTX

:

Hợp tác xã

3. NCS

:

Nghiên

4. Nxb

:

sinh
Nhà xuất bản

5. PL

:

Phụ lục

6. STT

:


Số thứ tự

7. TLTK

:

Tài liệu tham khảo

8. Tp.

:

Thành phố

9. Tr.

:

Trang

10. TTCN

:

Tiểu

thủ

công


:

nghiệp
Ủy ban

nhân

11. UBND

dân

cứu


3

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Bảng 1: Tổng thu nhập từ các ngành nghề của làng
Bối

Khê

trong

5

năm

gần đây...................................................................61

Bảng 2: Tổng thu nhập từ các ngành nghề của làng


Lăng

trong

5

năm

gần đây...................................................................61
Bảng 3: Số lượng các cơ sở sản xuất ở làng nghề
Bối

Khê

trong

5

năm

gần đây...................................................................79
Bảng 4: Số lượng các cơ sở sản xuất ở làng nghề


Lăng

trong


5

năm

gần đây...................................................................79
Bảng 5: Số lượng lao động tại làng nghề Bối Khê
trong

5

năm

gần đây...................................................................81
Bảng 6: Số lượng lao động tại làng nghề Vũ Lăng trong 5 năm
gần đây.................................................................................................................................81
Bảng 7: Số lượng lao động từ nơi khác đến làm nghề sơn tại làng nghề Bối Khê
trong 5 năm gần đây............................................................................................................ 82
Bảng 8: Số lượng lao động từ nơi khác đến làm nghề sơn tại làng nghề Vũ Lăng
trong 5 năm gần đây.............................................................................................................82
Bảng 9: Số hộ nghèo của làng nghề Bối Khê...........................................................86
Bảng 10: Số hộ nghèo của làng nghề Vũ Lăng........................................................86


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ và quá trình toàn cầu hoá đang tác động mạnh
mẽ đến tất cả các quốc gia, dân tộc, hơn lúc nào hết, việc giữ gìn và phát huy giá trị của di

sản văn hóa dân tộc, trong đó có các nghề thủ công truyền thống đang được đặt ra một cách
bức thiết, bởi nó có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Nghề
thủ công truyền thống hiện được coi là một trong 7 lĩnh vực của di sản văn hóa phi vật thể
góp phần thể hiện bản sắc cũng như đặc trưng diện mạo nông thôn và nhiều đô thị ở Việt
Nam.
Sự nghiệp đổi mới đất nước đã bước sang giai đoạn mới: giai đoạn đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những nội dung trọng tâm của quá trình này là công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, trong đó việc khôi phục, phát triển
nghề và làng nghề thủ công truyền thống có vai trò hết sức quan trọng bởi nó thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn với việc tạo công ăn việc làm cho lao động,
tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân, góp phần phát triển các loại hình du lịch
và dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Nghề thủ công truyền thống Việt Nam với 11 nhóm nghề chính như nghề sơn mài,
ngành nghề gốm sứ thủy tinh, nghề thêu ren, nghề dệt, nghề mây tre đan, nghề cói, nghề
giấy thủ công, nghề tranh in khuôn gỗ, nghề chạm khắc đá, nghề gỗ, nghề kim khí đúc
đồng, chạm bạc…[114, tr.9] tạo nên hơn 2000 làng nghề thủ công (đã được công nhận)
phân bố suốt chiều dài đất nước đã và đang là một bộ phận quan trọng của kho tàng di sản
văn hóa dân tộc. Bằng đôi bàn tay khéo léo, đôi mắt thẩm mỹ và óc sáng tạo của mình,
nghệ nhân ở các ngành nghề thủ công truyền thống đã chế tác ra nhiều sản phẩm phục vụ
cho hoạt động sống của con người, đồng thời gìn giữ và trao truyền cho các thế hệ mai sau
những tinh hoa nghệ thuật, kỹ thuật dân gian cùng kinh nghiệm sản xuất của cộng đồng
làm nghề.
Nằm trong vùng châu thổ Bắc Bộ - vùng đất vốn được coi là cái nôi của nhiều
nghề, làng nghề thủ công, khu vực Hà Nội hiện đang là nơi hội tụ 47 nghề trong tổng số 52
nghề trên toàn quốc [117, tr.15] với 286 làng nghề truyền thống đã được công nhận [119].
Trong số các nhóm nghề thủ công truyền thống đang hiện diện trên mảnh đất Thủ đô phải
kể tới nghề sơn - một nghề cổ truyền xuất hiện từ rất sớm trên đất nước ta và đã để lại dấu


5


ấn bản sắc văn hóa Việt Nam đối với thế giới. Nghề sơn cùng với chất liệu và sản phẩm
của nó đã trở thành vốn quý của văn hóa dân tộc và nhân loại bởi bên cạnh việc góp tiếng
nói chung với các nước trên thế giới ở tính trang trí, tính ứng dụng, phục vụ đời sống sinh
hoạt và tín ngưỡng của con người thì ở Việt Nam, vào những năm 30 của thế kỷ XX, nghệ
thuật tranh sơn mài đã ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển nghề sơn cổ truyền. Có thể
nói, đó là giá trị mới mang tính nghệ thuật với đầy đủ bản sắc dân tộc và thời đại, truyền
thống và hiện đại, làm phong phú hơn ngôn ngữ biểu đạt của sơn ta. Đến thời điểm này, Hà
Nội là nơi tập trung nhiều làng có nghề sơn nhất cả nước với 8 làng nghề chuyên sâu đang
và đã từng hoạt động. Nếu tính cả những làng nghề có sử dụng sơn ta với ý nghĩa là một
chất liệu cần có trong quy trình chế tác sản phẩm thì Hà Nội hiện có tới gần 40 làng nghề.
Kể từ khi Hà Nội cùng đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh
tế - xã hội khá mạnh mẽ, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng ngày càng được
mở rộng. Song, quá trình phát triển nhanh chóng này đã tạo đà cho những biến đổi sâu sắc
ở tất cả các lĩnh vực trong đó có sự biến đổi của các ngành nghề truyền thống như nghề
sơn theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Hai làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và
Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Hà Nội đã có nghề sơn truyền thống từ lâu đời và sớm khẳng
định được vị trí riêng về chất lượng kỹ thuật và mỹ thuật của các sản phẩm làm ra trong hệ
thống các làng nghề sơn ở châu thổ Bắc Bộ. Nằm ở hai huyện được đánh giá là những khu
vực có sự phát triển kinh tế khá năng động với mật độ làng nghề đông đảo nhất Hà Nội, có
thể coi hoạt động nghề ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng là những trường hợp thể hiện khá rõ
nét xu thế biến đổi nhiều mặt của nghề sơn truyền thống dưới tác động của các điều kiện
chủ quan và khách quan, đã và đang diễn ra rất phổ biến tại các làng nghề trên địa bàn Thủ
đô hiện nay. Sự biến đổi này là tất yếu và cần có để nghề sơn truyền thống ở các làng Bối
Khê và Vũ Lăng có thể tiếp tục duy trì và phát triển trong bối cảnh hiện nay. Trước những
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, trong khi nhiều làng nghề sơn
truyền thống đã không thể tiếp tục duy trì nghề như Bình Vọng (Hà Nội), Đình Bảng (Bắc
Ninh)…, nghề sơn truyền thống tại hai làng Bối Khê và Vũ Lăng cho đến nay vẫn hoạt
động khá tốt nhờ có sự nhạy bén, chủ động thay đổi các mặt hàng sản phẩm phù hợp với
bối cảnh mới. Tuy nhiên, trong quá trình vận động biến đổi, ngành nghề sơn cổ truyền

cũng phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức mà nếu thiếu vai trò điều tiết của Nhà


6

nước chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng hoạt động tự phát ở các làng nghề, nhiều giá trị có
nguy cơ bị mai một và mất đi trong một tương lai không xa.
Trước xu thế biến đổi nhiều mặt đã và đang diễn ra ngày càng sâu sắc của nghề thủ
công truyền thống ở khu vực Hà Nội, việc tìm hiểu, nắm bắt được sự vận động biến đổi
(bao gồm bản chất, tác nhân và hệ quả) của nghề sơn truyền thống ở các làng nghề Bối
Khê và Vũ Lăng, qua đó định hướng cho ngành nghề này phát triển dựa trên các cứ liệu
khoa học là một trong những yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với sự nghiệp
gìn giữ và phát huy di sản văn hóa dân tộc cũng như công cuộc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
- xã hội ở nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt, trong
bối cảnh này, việc đi tìm và tôn vinh những làng nghề truyền thống đang bị lu mờ dần
trong tâm trí của người Việt ở xã hội đương đại như các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng lại
càng trở nên có ý nghĩa hơn lúc nào hết.
Nghề sơn và làng nghề sơn vốn là đề tài khoa học có sức hấp dẫn với không ít nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm tìm hiểu dưới nhiều góc độ, phạm vi và ở nhiều
mức độ khác nhau. Trước tiên, có thể kể tới các bộ chính sử của nước ta có đề cập những
vấn đề liên quan đến nghề sơn như Đại Việt sử ký toàn thư [66, 67], Đại Nam nhất thống
chí [92], Khâm định Việt sử thông giám cương mục [93]… và các công trình nghiên cứu
của người nước ngoài như Những cây sơn ở Đông Dương của CH. Crevost [19], Sơn và
dầu sơn Bắc Bộ - Trung Quốc - Nhật Bản của G. Dumontier [39], Một chuyến du hành đến
Đàng Ngoài năm 1688 của William Dampier [125], Miêu tả vương quốc Đàng Ngoài của
Samuel Baron [95]. Đây có thể coi đó là nguồn sử liệu gốc cần phải tiếp cận đầu tiên khi
nghiên cứu về nghề sơn nói chung và biến đổi nghề sơn nói riêng.
Thứ hai là những công trình nghiên cứu có ít nhiều thông tin đề cập đến nghề và
làng nghề sơn với ý nghĩa là giới thiệu khái quát về lịch sử ngành nghề này trong tổng thể
nhiều nghề thủ công truyền thống khác như Truyện các ngành nghề (Tạ Phong Châu chủ

biên) [18]; Lược truyện thần tổ các ngành nghề của Vũ Ngọc Khánh [59], Nghề thủ công
truyền thống và các vị tổ nghề của Trần Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo [123]…
Tiếp đến là những công trình nghiên cứu chuyên sâu thiên về khảo tả chất liệu, kỹ
thuật của nghề sơn Việt Nam nói chung và nghề sơn ở các làng nghề truyền thống nói riêng
như Kỹ thuật sơn mài của Phạm Đức Cường [31]; Nghề sơn với nghệ thuật trang trí ứng
dụng ở Việt Nam của Trần Thị Tuyết Hạnh [40]; Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống


7

Việt Nam - Tập 6: Nghề chế tác đá, nghề sơn và một số nghề khác do Trương Minh Hằng
chủ biên [43]; Nghề sơn cổ truyền Việt Nam của Lê Huyên [52]; Làng nghề sơn quang Cát
Đằng của Nguyễn Lan Hương [54]; Sơn mài Bình Dương - chất liệu và nghệ thuật thể hiện
của Nguyễn Văn Minh [73]; Kỹ thuật, chất liệu của sơn mài Việt Nam và Nhật Bản thế kỷ
XX của Đặng Thị Thu Hiền [44]; Sơn ta và nghề sơn truyền thống Việt Nam của nhiều tác
giả [115] v.v...
Một số làng nghề làm sơn nổi tiếng ở khu vực Hà Nội đã thu hút được sự chú ý của
các nhà nghiên cứu với nội dung chủ yếu là khảo tả hoạt động của làng nghề trong quá
khứ và hiện tại như: Nghề sơn cổ truyền ở Bình Vọng và Hạ Thái của Trương Duy Bích và
Trương Minh Hằng [6]; Làng nghề Sơn Đồng của Trương Duy Bích và Nguyễn Thị Hương
Liên [7]; Nghề sơn truyền thống làng Hạ Thái - xã Duyên Thái - huyện Thường Tín - tỉnh
Hà Tây của Nguyễn Xuân Nghị [74]; Văn hóa làng Hạ Thái của Hoàng Thị Tố Quyên [94]
v.v...
Tìm hiểu nghề sơn và làng nghề sơn truyền thống ở Việt Nam dưới góc độ biến đổi
bước đầu là chủ đề quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Có thể kể đến ba công trình tiêu
biểu là những luận án tiến sĩ đã bảo vệ thành công, đều thuộc chuyên ngành Văn hóa dân
gian và chủ yếu sử dụng phương pháp tiếp cận của chuyên ngành này như tiếp cận không
gian văn hóa, tiếp cận thành tố văn hóa... Trước tiên là luận án Nghề sơn truyền thống tỉnh
Hà Tây của Nguyễn Xuân Nghị, được bảo vệ năm 2008, công trình sau đó cũng được xuất
bản thành sách có cùng tên [75]. Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền

thống ở Hà Tây cũ (nay là Hà Nội) với hệ thống các làng nghề sơn đang và đã từng hoạt
động trên địa bàn tỉnh, trong đó tập trung khảo sát chủ yếu ba làng nghề được đánh giá là
những làng nghề sơn truyền thống tiêu biểu của tỉnh Hà Tây cũ là Bình Vọng, Hạ Thái và
Sơn Đồng. Nhìn tổng thể, công trình này đã phác họa thành công diện mạo nghề sơn
truyền thống tỉnh Hà Tây thông qua việc miêu tả khá chi tiết nghề sơn ở một số làng nghề
tiêu biểu. Đặc biệt, đóng góp đáng kể nhất của luận án là đề cập đến những biến đổi đã và
đang diễn ra ở nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây thông qua trường hợp ba làng Bình
Vọng, Hạ Thái và Sơn Đồng. Tác giả nhận định rằng: xét trên bình diện rộng, nghề sơn ở
Hà Tây trong lịch trình thời gian luôn có sự biến động. Có những làng, nghề sơn được hình
thành từ rất sớm xong lại bị lụi tàn, có làng thì nghề sơn được tiếp nhận sau nhưng lại duy
trì được và phát triển nhân rộng ra các làng mới. Sự biến động của đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội qua nhiều thời kỳ cũng đồng hành với sự vận động, biến đổi của nghề sơn tỉnh


8

Hà Tây ở nhiều khía cạnh như biến đổi về hoạt động nghề, về kỹ thuật, về chất liệu, mẫu
mã sản phẩm, về tư duy hoạt động nghề, về kinh tế, xã hội, môi trường...
Tiếp theo sau công trình Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây của Nguyễn Xuân
Nghị là luận án Nghề sơn quang Cát Đằng (truyền thống và biến đổi) của Nguyễn Lan
Hương được bảo vệ năm 2009. Công trình này sau đó đã được xuất bản thành sách dưới
tên gọi Làng nghề sơn quang Cát Đằng xưa và nay [57]. Bằng cách áp dụng các lý thuyết
và phương pháp tiếp cận của chuyên ngành văn hóa dân gian, công trình đã tái hiện diện
mạo nghề và làng nghề sơn quang truyền thống Cát Đằng ( xã Yên Tiến, huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định) trong sự vận động không ngừng theo thời gian, qua đó đánh giá vị trí của làng
nghề này trong hệ thống các làng nghề ở châu thổ Bắc Bộ. Có thể coi đây là một trong
những công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về nghề sơn quang và
làng nghề sơn quang Cát Đằng. Đây cũng là một trong số ít công trình tiêu biểu mở đầu
cho hướng nghiên cứu chuyên sâu về sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở Việt Nam
cũng như ở châu thổ Bắc Bộ thông qua một trường hợp cụ thể là nghề sơn quang làng Cát

Đằng.
Gần đây nhất, năm 2013, tác giả Lê Thanh Hương đã bảo vệ thành công luận án
Những thay đổi về kỹ thuật, chất liệu trong nghệ thuật sơn mài Việt Nam hiện đại [58]. Với
đối tượng nghiên cứu là những chất liệu và kỹ thuật sử dụng trong chế tác sản phẩm thủ
công mỹ nghệ ở các làng nghề, cũng như trong sáng tác các tác phẩm sơn mài hội họa của
các họa sĩ chuyên nghiệp (đặc biệt tập trung nghiên cứu giai đoạn từ năm 1925 đến nay),
nhìn tổng thể, công trình này đã trình bày tương đối toàn diện và hệ thống những đặc điểm
cơ bản của nghệ thuật sơn mài Việt Nam cùng vai trò và vị trí của nó trong nền văn hóa
dân tộc. Ở góc độ cụ thể hơn, luận án đã hệ thống hóa khá rõ nét những thay đổi của chất
liệu và kỹ thuật của nghề sơn qua các giai đoạn khác nhau dưới tác động của các yếu tố
khách quan và chủ quan. Đồng thời, xác định rõ hai yếu tố này là những yếu tố căn bản tạo
nên sức sống, bản sắc của nghề sơn truyền thống cũng như có vai trò quan trọng trong việc
ứng dụng, sáng tạo của các nghệ nhân và nghệ sĩ sơn mài. Trên cơ sở đó, luận án đi đến
khẳng định rằng: sự vận động, biến đổi là quy luật khách quan, yếu tố tạo nên sự đa dạng
và phát triển, thể hiện sức sáng tạo phong phú của các thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân. Kết quả
nghiên cứu của luận án này đã góp phần bổ sung vào mảng chủ đề nghiên cứu về sự biến
đổi của nghề sơn trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt Nam.


9

Có thể kết luận, mặc dù việc nghiên cứu nghề sơn truyền thống không phải là mảng
vấn đề mới song vẫn còn khoảng trống để các công trình tiếp theo nghiên cứu bổ sung. Bởi
lẽ, nghề sơn truyền thống ở một vài địa phương vẫn chưa được quan tâm tìm hiểu để tương
xứng với tiềm năng của ngành nghề cổ truyền này, trong đó nghề sơn ở các làng Bối Khê huyện Phú Xuyên và Vũ Lăng - huyện Thanh Oai là những trường hợp tương đối điển
hình. Hai làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng cho đến thời điểm hiện tại hầu như chưa được
nghiên cứu ngoại trừ việc được nhắc đến có tính chất liệt kê, điểm qua ở một số công trình
như Nghề sơn truyền thống tỉnh Hà Tây của Nguyễn Xuân Nghị [75], bài viết Hà Tây với
truyền thống sơn mài của Nguyễn Văn Chuốt [26] và một số bài trên Internet với nội dung
giới thiệu đôi nét về làng nghề trong hoạt động quảng bá du lịch.

Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn đã trình bày trên đây, tôi lựa chọn đề
tài Sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê (huyện Phú Xuyên) và Vũ
Lăng (huyện Thanh Oai), thành phố Hà Nội hiện nay làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn
hóa học. Hy vọng rằng, từ quan điểm tiếp cận liên ngành, việc tìm ra được bản chất,
nguyên nhân và cơ chế biến đổi của nghề sơn truyền thống ở trường hợp các làng nghề cụ
thể là Bối Khê và Vũ Lăng sẽ giúp định hướng cho ngành nghề cổ truyền này có thể tồn
tại, thích nghi và phát triển trong xu hướng biến đổi tất yếu của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở một xã hội đang chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp như
Việt Nam. Đề tài luận án là sự bổ sung cần thiết vào những khoảng trống nghiên cứu về
nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ nói chung và khu vực Hà Nội nói riêng theo
hướng nghiên cứu trường hợp cụ thể, chuyên sâu - là hướng nghiên cứu đang được ưu tiên
trong khoa học xã hội nhân văn hiện nay. Ở một mức độ nào đó, kết quả nghiên cứu của
luận án sẽ có giá trị gợi ý và làm cơ sở so sánh ở những nghiên cứu tương tự về nghề sơn
truyền thống tại các làng nghề khác. Sau cùng, luận án là sự tiếp nối các công trình nghiên
cứu về nghề sơn (ở Việt Nam và trên thế giới) của nghiên cứu sinh từ năm 2004 đến nay.
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Mục đích tổng quát
- Luận án chứng minh sự biến đổi là quy luật tất yếu khách quan để nghề sơn
truyền thống ở các làng nghề như Bối Khê và Vũ Lăng có thể duy trì và phát triển trong
bối cảnh đương đại.
- Luận án hướng đến xác lập những căn cứ khoa học và thực tiễn để tham khảo
định hướng cho nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề phát triển trong tương lai.


10

2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến nghề sơn truyền thống ở Việt Nam, khu
vực Hà Nội và các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng.
- Tìm hiểu diện mạo của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng, Hà

Nội trong diễn trình lịch sử bao gồm các yếu tố như nguồn gốc xuất hiện, kỹ thuật chế tác,
cơ cấu tổ chức nghề, tâm lý làm nghề…
- Xác định những giá trị tiêu biểu của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và
Vũ Lăng, Hà Nội; đối chiếu, so sánh với nghề sơn ở các làng nghề khác của Hà Nội nói
riêng và vùng châu thổ Bắc Bộ nói chung, qua đó làm rõ những nét riêng biệt và những
đóng góp của nghề sơn ở hai làng này cho di sản văn hóa dân tộc.
- Phân tích những biến đổi của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ
Lăng, Hà Nội dưới tác động của cơ chế thị trường và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa - mà thực chất đó là sự va chạm giữa truyền thống - hiện đại, thích nghi - biến đổi, bảo
tồn - phát triển.
- Xây dựng luận cứ khoa học trong việc định hướng để nghề sơn truyền thống ở các
làng Bối Khê, Vũ Lăng nói riêng cũng như các làng nghề khác ở khu vực Hà Nội và châu
thổ Bắc Bộ nói chung có thể duy trì và phát triển trong thời điểm hiện tại và tương lai theo
hướng: trên cơ sở gìn giữ, kế thừa các giá trị truyền thống vốn có, tiếp thu những thành tựu
hiện đại, tiên tiến để sáng tạo những giá trị mới phù hợp với thời đại mới, qua đó bổ sung
và làm đa dạng thêm bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất
nước trong thời kỳ Đổi mới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê
(huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội trong quá trình vận động,
biến đổi theo thời gian để thích nghi tồn tại. Đây vốn là hai làng nghề sơn có lịch sử khá
lâu đời và đã khẳng định được đặc trưng riêng ở các kỹ thuật cơ bản của nghề sơn truyền
thống là sơn mài, sơn thếp và sơn quang. Tuy nhiên, để làm rõ diện mạo và sự đóng góp
của nghề sơn ở các làng nghề trên, luận án sẽ mở rộng tìm hiểu nghề sơn truyền thống ở
một số làng khác trong khu vực Hà Nội cũng như vùng châu thổ Bắc Bộ dưới góc nhìn liên
hệ, so sánh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu



11

- Phạm vi không gian: Nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê (xã Chuyên Mỹ,
huyện Phú Xuyên) và Vũ Lăng (xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội trong bối cảnh
các làng nghề sơn vùng châu thổ Bắc Bộ.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu, tìm hiểu nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối
Khê và Vũ Lăng từ năm 1945 đến nay (2013) với các mốc thời gian cụ thể gắn với những
biến đổi trong nghề sơn truyền thống ở hai làng.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp tiếp cận
4.1. Cơ sở lý luận
4.1.1. Một số khái niệm thao tác
Nghề sơn truyền thống
Ở Việt Nam cho đến nay, đã có nhiều học giả đưa ra quan niệm về nghề truyền
thống như Mai Thế Hởn, Bùi Văn Vượng, Trần Minh Yến… Qua tổng hợp chúng tôi nhận
thấy hầu hết các ý kiến đều thống nhất với nhau ở những tiêu chí của một ngành nghề thủ
công truyền thống, đó là: Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta; Sản xuất
tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề, xã nghề; Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa
và đội ngũ thợ lành nghề; Có kỹ thuật và công nghệ truyền thống; Sử dụng nguyên liệu tại
chỗ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ yếu; Sản phẩm làm ra vừa có tính hàng hóa, vừa có
tính nghệ thuật, thậm chí trở thành các di sản văn hóa mang bản sắc văn hóa Việt Nam; Là
nghề nghiệp nuôi sống một bộ phận dân cư của cộng đồng, có đóng góp đáng kể vào ngân
sách Nhà nước [47, tr.16-17], [124, tr.11-12], [126, tr.11].
Trong số nhiều quan niệm về nghề truyền thống, chúng tôi đã lựa chọn và sử dụng
khái niệm nghề truyền thống được tổng hợp và nêu ra bởi tác giả Trần Minh Yến như là
một trong những cơ sở lý luận của luận án.
Nghề truyền thống bao gồm những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện từ lâu
trong lịch sử, được truyền từ đời này qua đời khác còn tồn tại đến ngày nay, kể
cả những nghề đã được cải tiến hoặc sử dụng những loại máy móc hiện đại để
hỗ trợ sản xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống, và đặc biệt sản
phẩm của nó vẫn thể hiện những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc [126, tr.12].

Chúng tôi xem đây là một trong những khái niệm hàm chứa khá đầy đủ và chi tiết
những tiêu chí cơ bản của một ngành nghề truyền thống. Ngoài ra, khái niệm này cũng đã
được nghiên cứu và mở rộng hơn, phù hợp với bối cảnh phát triển mạnh mẽ của khoa học
kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kéo theo việc can thiệp, hỗ trợ sản xuất sản phẩm thủ công


12

truyền thống của các quy trình công nghệ mới cũng như các loại nguyên vật liệu mới [126,
tr.12]. Từ trường hợp nghiên cứu của luận án, có thể thấy nghề sơn cũng là một trong số
hơn 2000 nghề thủ công truyền thống của đất nước. Trên cơ sở kế thừa những quan điểm
về nghề truyền thống của các nhà nghiên cứu đi trước, chúng tôi đưa ra định nghĩa về nghề
sơn truyền thống trong bối cảnh hiện nay và coi đó là khái niệm mang tính công cụ của
luận án.
Nghề sơn truyền thống là một trong những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện lâu
đời trên đất nước ta, được truyền từ đời này qua đời khác và tồn tại đến ngày nay, ở đó,
ngoài những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền thống được sáng tạo và lưu truyền bởi
các thế hệ nghệ nhân còn bao gồm cả những phương pháp chế tác được cải tiến hoặc
những loại máy móc hiện đại được sử dụng để hỗ trợ sản xuất, song về cơ bản vẫn tuân thủ
công nghệ truyền thống và sản phẩm vẫn thể hiện những nét văn hóa độc đáo của dân tộc.
Làng nghề sơn truyền thống
Tương tự như sự đa dạng trong quan niệm về nghề truyền thống, làng nghề trên
phương diện tổng thể cũng được nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm tùy theo chuyên
ngành và mục tiêu nghiên cứu, song đa số các ý kiến đều đi đến thống nhất nền tảng cơ bản
của làng nghề là:
Nghề phải nuôi sống dân cư hoặc một bộ phận dân cư của cộng đồng làng; Sản
xuất ra các sản phẩm thủ công; Có đội ngũ thợ thủ công chuyên nghiệp hoặc
bán chuyên nghiệp lành nghề; Có bí quyết và quy trình làm nghề nhất định;
Sản phẩm của làng nghề là sản phẩm tiêu biểu của vùng miền [114, tr.28].
Theo một cách hiểu, làng nghề truyền thống được khái quát dựa trên hai khái niệm

nghề truyền thống và làng nghề [126, tr.16]. Chúng tôi đã nêu ở trên khái niệm về nghề
truyền thống được lựa chọn sử dụng là một trong những cơ sở lý luận của luận án, từ đó
đưa ra khái niệm nghề sơn truyền thống. Về khái niệm làng nghề, chúng tôi nhận thấy quan
niệm về làng nghề của nhà nghiên cứu Trương Minh Hằng rất phù hợp với trường hợp
nghiên cứu của luận án là hai làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng. Theo đó, chúng tôi lựa chọn
khái niệm làng nghề dưới đây của tác giả làm một trong những cơ sở lý luận cần thiết tiếp
theo của luận án.
Làng nghề gắn liền với các vùng nông nghiệp và người nông dân làm nghề thủ
công để giải quyết hợp lý sức lao động dư thừa được cơ cấu theo đặc trưng
nông nghiệp là mùa vụ… Một làng có nghề, đời sống của người dân ổn định và


13

được nâng cao so với các làng thuần nông. Nghề thủ công từ vị trí chỉ là nghề
phụ được tổ chức và thực thi vào những khi nông nhàn, rồi về sau nhiều nghề
trở thành nguồn thu nhập chính của làng… Ở một góc độ nào đó, làng nghề
còn mang tính chất của một làng buôn [42, tr.9-10].
Trên cơ sở khái niệm nghề sơn truyền thống, khái niệm làng nghề đã được lựa chọn
sử dụng của tác giả Trương Minh Hằng cùng việc kế thừa quan điểm của một số nhà
nghiên cứu khác, chúng tôi đưa ra định nghĩa về làng nghề sơn truyền thống trong bối cảnh
hiện nay và coi đó là khái niệm mang tính công cụ tiếp theo trong luận án.
Làng nghề sơn truyền thống vốn là làng nông nghiệp, trong đó có duy trì thực hành
qua nhiều thế hệ nghề sơn truyền thống vốn đã tồn tại và phát triển lâu đời với ít nhất 50%
số hộ gia đình chuyên sống bằng nghề sơn, là nơi quy tụ đội ngũ nghệ nhân và thợ lành
nghề sử dụng kỹ thuật truyền thống với sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại ở mức độ nhất
định để chế tác và bán những sản phẩm độc đáo mang đậm dấu ấn văn hóa địa phương và
bản sắc dân tộc.
Biến đổi nghề sơn truyền thống
Chúng ta đều biết rằng, mọi sự vật hiện tượng (trong đó bao gồm cả các hiện tượng

văn hóa) đều nằm trong quá trình vận động và biến đổi không ngừng. Sự vận động, biến
đổi này có thể do tự thân nội tại sự vật hiện tượng, cũng có thể do các tác nhân bên
ngoài[114, tr.34]. Hiểu một cách đơn giản nhất, theo Từ điển Tiếng Việt, biến đổi là sự đổi
khác [98, tr.95] hay biến đổi là thay đổi thành khác trước [82, tr.61]. Trong khoa học xã hội
nhân văn - đặc biệt là xã hội học, thuật ngữ biến đổi thường được quan tâm dưới góc độ
biến đổi xã hội. Xoay quanh chủ đề biến đổi xã hội, có nhiều quan điểm lý thuyết về biến
đổi xã hội như thuyết tiến hóa, thuyết duy chức năng, thuyết duy xung đột… Trong đó,
những vấn đề mà các nhà xã hội học quan tâm thường là: quá trình biến đổi một hiện tượng
xã hội diễn ra như thế nào, xu hướng biến đổi, nguyên nhân của sự biến đổi… [114, tr.34].
Trong những năm gần đây, thuật ngữ biến đổi còn được biết đến phổ biến hơn trong các
công trình nghiên cứu về sự biến đổi văn hóa của các nhà khoa học Việt Nam và nước
ngoài như Lương Văn Hy [130], Nguyễn Duy Bắc [4], Nguyễn Thị Phương Châm [17],
Lương Hồng Quang [90], Louise S. Spindler [132], Ronald Inglehart, Wayne E. Baker
[131]… với rất nhiều quan điểm khác nhau về biến đổi văn hóa. Một trong số đó, tác giả
Nguyễn Duy Bắc trong một công trình nghiên cứu đã cho rằng: “… Một cách hiểu rộng
nhất, đó là một sự thay đổi so sánh với một tình trạng văn hóa hoặc một nền văn hóa có


14

trước dưới tác động của những nhân tố chính trị - kinh tế - xã hội” [4, tr.36]. Liên hệ với đề
tài luận án chúng tôi nhận thấy quan niệm này rất gần với vấn đề nghiên cứu sự biến đổi
nghề sơn truyền thống tại hai làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng, do vậy, chúng tôi chọn khái
niệm này như là cơ sở lý luận thứ ba của luận án.
Dựa trên cơ sở lý luận là các khái niệm về biến đổi nói chung và biến đổi văn hóa
nói riêng, theo chúng tôi, nghề sơn truyền thống với tư cách là một hiện tượng văn hóa, ở
góc độ nào đó có thể hiểu sự biến đổi nghề sơn truyền thống chính là sự biến đổi/thay đổi
các thành tố cơ bản cấu thành nghề sơn truyền thống như nguyên vật liệu, quy trình chế
tác, sản phẩm, thị trường tiêu thụ - khách hàng, hoạt động tổ chức sản xuất kinh doanh,
nguồn nhân lực, vấn đề truyền dạy nghề, đời sống sinh hoạt của thợ nghề… dưới sự tác

động của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội. Đây là khái niệm mang tính chất công cụ sau
cùng được chúng tôi quan tâm và sử dụng trong luận án này.
4.1.2. Một số luận điểm khoa học
Biến đổi nghề thủ công truyền thống cũng chính là một biểu hiện trong sự đa dạng
của biến đổi văn hóa. Hơn nữa, nghề truyền thống ở Việt Nam chủ yếu tồn tại và vận động
trong một không gian cụ thể, đó là làng (thực chất vốn là những làng nông nghiệp). Vì vậy,
tác giả luận án quan tâm tới các lý thuyết, luận điểm nghiên cứu về biến đổi văn hóa, đặc
biệt là biến đổi văn hóa ở làng quê của các học giả trong và ngoài nước. Luận án đi vào
nghiên cứu sự biến đổi nghề sơn truyền thống trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay nên tác giả đã chọn một số luận điểm khoa học làm điểm tựa lý thuyết định hướng
cho nghiên cứu của mình, đó là:
- Luận điểm về biến đổi văn hóa ở làng là một quá trình tất yếu trong bối cảnh
hiện nay được thể hiện trong một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học: Lương
Văn Hy [130], Tô Duy Hợp [48], Phan Đại Doãn [32], Lương Hồng Quang [90], Nguyễn
Thị Phương Châm [17] ...

Từ định hướng của luận điểm khoa học nêu trên, luận án sẽ
chứng minh tính tất yếu của quá trình biến đổi nghề sơn truyền
thống ở các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng được thể hiện xuyên
suốt trên trục thời gian tồn tại và phát triển của nghề truyền
thống này. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố biến đổi thì vẫn có


15

một số yếu tố gần như bất biến và nó có vai trò nhất định trong
quá trình tồn tại và phát triển của nghề sơn.
- Luận điểm về biến đổi nghề truyền thống và làng nghề
truyền thống trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá
trình đa dạng về các mô hình biến đổi và các cấp độ biến đổi

được thể hiện trong một số công trình nghiên cứu của các tác
giả: Mai Thế Hởn [47], Trần Minh Yến [126], Dương Bá Phượng
[86]... Liên hệ với đề tài luận án, chúng tôi cũng đã nhận thấy một
quá trình biến đổi có tính chất đa dạng về mô hình và cấp độ biến
đổi trong các khía cạnh của nghề sơn truyền thống ở các làng
nghề Bối Khê và Vũ Lăng trước sự chuyển biến sâu sắc trong đời
sống kinh tế - xã hội và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa
nông nghiệp, nông thôn.
4.2. Phương pháp tiếp cận
Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu của luận án là nghề sơn truyền thống trong quá
trình biến đổi đa dạng và phức tạp, chúng tôi lựa chọn phương pháp tiếp cận liên ngành
Văn hóa học với hy vọng đó là phương pháp tiếp cận hữu hiệu nhất cho đề tài luận án bởi
xét về mặt lý thuyết thì: “Văn hóa học - như là một khoa học độc lập mang tính tổng hợp
và liên ngành” [99, tr.226], theo đó “Văn hóa học xem xét văn hóa với tư cách là một hiện
tượng xã hội tổng thể, vì thế nó cần phải nghiên cứu cùng một lúc nhiều phương diện của
một hiện tượng và bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau” [99, tr.192]. Phương pháp tiếp cận
liên ngành có sự đóng góp khoa học của nhiều chuyên ngành khác nhau sẽ là một trong
những công cụ lý thuyết hỗ trợ để nhìn ra những yếu tố biến đổi của nghề sơn truyền thống
ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng từ cả hai góc độ hiện tượng và bản chất. Phương pháp tiếp
cận liên ngành Văn hóa học được triển khai áp dụng cụ thể trong nghiên cứu sự biến đổi
nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng như sau:
Với đối tượng nghiên cứu là nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng
trong quá trình vận động biến đổi tương đối đa dạng, chúng tôi coi trọng sự trải nghiệm cá
nhân trên thực địa với phương pháp điền dã dân tộc học. Bởi vì, phương pháp này sẽ giúp


16

thu thập được nguồn thông tin phong phú, đa dạng để giải quyết các vấn đề của luận án.
Hơn nữa, những kết quả nghiên cứu từ thực địa cũng đóng vai trò quan trọng để các vấn đề

nghiên cứu của luận án được trình bày, chứng minh chính xác hơn và đáng tin cậy hơn.
Thử lấy một ví dụ: nếu như không có những phương pháp nghiên cứu thực địa như quan
sát tham dự, phỏng vấn và quan sát cá nhân, phỏng vấn nhóm... tại hai làng Bối Khê và Vũ
Lăng thì khó có thể hiểu được ý nghĩa, bản chất của những biến đổi đang diễn ra ở nghề
sơn truyền thống hiện nay, thậm chí còn có thể xảy ra sự ngộ nhận, nhầm lẫn hay áp đặt
suy nghĩ chủ quan của nhà nghiên cứu thường có xu hướng bảo tồn những giá trị truyền
thống, theo đó dễ dẫn đến quan điểm hoài cổ, phê phán các yếu tố biến đổi và thậm chí là
phủ nhận sự biến đổi. Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thức được về vai trò của phương pháp
khái quát thực tế hay cụ thể hơn là phương pháp mô hình hóa những thông tin tư liệu thu
được từ quá trình điều tra thực địa để đề cập, liên hệ đến cái chung có ý nghĩa phổ quát chứ
không chỉ đơn thuần là những mô tả về từng trường hợp riêng lẻ như Bối Khê hay Vũ
Lăng. Kết quả nghiên cứu của luận án ở mức độ nào đó còn có giá trị liên hệ với các làng
nghề sơn truyền thống khác ở châu thổ Bắc Bộ.
Mô tả dân tộc học vẫn cần thiết song là chưa đủ khi một trong những mục đích của
đề tài luận án là chứng minh sự biến đổi của nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề Bối
Khê và Vũ Lăng là tất yếu và cần thiết trong bối cảnh đương đại. Nhằm đạt được điều này,
chúng tôi thực hiện thao tác phân tích - so sánh. Theo đó, các kết quả nghiên cứu sẽ được
đúc rút từ việc phân tích - so sánh các sự việc, hiện tượng ở một số vùng địa lý khác nhau,
qua đó để tìm ra cái khái quát và cả những cái đặc thù. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình
nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần phải tiến hành mô tả phân tích để vừa hiểu được các sắc
thái đa dạng của hiện tượng văn hóa đồng thời lại đưa ra được những đặc điểm chung.
Trong luận án sẽ có sự phân tích - so sánh nghề sơn truyền thống ở các cấp độ: nghề sơn ở
Việt Nam với nghề sơn ở một số quốc gia khác, nghề sơn ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng
trong quá trình tồn tại và phát triển của nó, nghề sơn ở hai làng với nghề sơn tại một số
làng nghề khác ở châu thổ Bắc Bộ... Bên cạnh đó, việc phân tích - so sánh còn được thực
hiện ở nguồn thông tin thu được từ các đối tượng được phỏng vấn là các nghệ nhân, các
nhà nghiên cứu với những nhà quản lý và thi hành chính sách. Có thể nói, thao tác phân
tích - so sánh sẽ được chúng tôi thực hiện xuyên suốt trong từng bước của quá trình nghiên
cứu từ phát triển khung nghiên cứu, tiến hành nghiên cứu tại thực địa, xử lý thông tin và
viết báo cáo.



17

Ngoài ra, chúng tôi còn lưu ý đến những bối cảnh (quá khứ và hiện tại) mà nghề
sơn truyền thống tồn tại với những sự kiện, những vấn đề ảnh hưởng tác động lên nó. Để
nghiên cứu bối cảnh của nghề sơn, chúng tôi chủ trương mở rộng trọng tâm của nghiên cứu
ra khỏi từng cá nhân đơn lẻ cũng như kiến thức và thực hành của họ. Thay vào đó, việc
nghiên cứu, tìm hiểu các động lực xã hội như sự khó khăn về kinh tế, các nhu cầu đòi hỏi
về mặt chính trị, xã hội, văn hóa... Đây chính là những yếu tố sẽ giúp giải thích các hành
động của chủ thể văn hóa, tránh được cái nhìn phiến diện, chủ quan khi nghiên cứu. Có thể
nói rằng nghiên cứu về bối cảnh chính là tìm câu trả lời cho câu hỏi “Ai đang nói (hoặc
làm) gì và tại sao?”.
Ở những đề tài có liên quan đến việc lý giải sự biến đổi của một trong những hiện
tượng, quá trình văn hóa như luận án thì sự kết hợp các phương pháp lịch đại và đồng đại
sẽ giúp cho nhà nghiên cứu có cái nhìn “tọa độ“ (tức cách nhìn đối chiếu những yếu tố của
hiện tượng trong không gian và thời gian xác định) trong các phân tích, tổng hợp và diễn
giải các sự kiện, hiện tượng văn hóa [99, tr.202-203]. Vận dụng vào trong luận án, chúng
tôi khảo cứu nghề sơn truyền thống tại hai làng Bối Khê và Vũ Lăng ở 3 tọa độ: nghề sơn
truyền thống thời kỳ trước năm 1954, nghề sơn truyền thống từ sau năm 1954 đến trước
năm 1986 và nghề sơn truyền thống từ năm 1986 đến nay. Ở mỗi tọa độ này, các thành tố
của nghề sơn truyền thống sẽ được đề cập trong từng bối cảnh xã hội cụ thể. Tổng hợp các
vấn đề nghiên cứu từ ba tọa độ này sẽ tìm ra được những kết luận chân thực về những yếu
tố bất biến và khả biến của nghề sơn truyền thống ở hai làng cũng như lý giải được những
tác nhân của quá trình biến đổi này. Như vậy, luận án với đối tượng nghiên cứu là nghề sơn
truyền thống dưới góc nhìn văn hóa học thì việc kết hợp hai hướng đồng đại và lịch đại
chính là cách để có thể hiểu và giải thích được các hiện tượng văn hóa một cách sâu sắc.
Xuất phát từ các vấn đề nghiên cứu đặt ra trong luận án, ngoài hai luận điểm khoa
học được sử dụng làm điểm tựa lý thuyết mang tính định hướng đã nêu ở trên, chúng tôi
cũng quan tâm đến một trong những mô hình lý thuyết có tầm quan trọng hàng đầu trong

phân tích xã hội và văn hóa là “thuyết xung đột” với quan điểm của các nhà tư tưởng như
M. Weber, R. Dahrendorf... Họ chỉ ra rằng các mâu thuẫn và xung đột không chỉ là đặc
trưng, mà còn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Đồng thời, họ đưa
ra những lý giải về sự kết nối không ngừng, các va chạm của những lực lượng xã hội khác
nhau để tạo ra sự hội nhập và biến đổi xã hội trên cơ sở của quyền lực, của sự ép buộc hay
sự theo đuổi những lợi ích kinh tế và chính trị trong hoạt động thực tiễn của con người.


18

Nhìn chung, những lý giải nêu trên đều thống nhất với nhau ở một điểm: mâu thuẫn và
xung đột xã hội là hiện tượng có tính chất phổ biến trong các xã hội và các nền văn hóa
khác nhau. Vận dụng lý thuyết xung đột trong phân tích văn hóa, cụ thể là ở trường hợp
nghề sơn truyền thống trong đề tài luận án này có thể nhận thấy sự xung đột (hay tương tác
) diễn ra ở nhiều cấp độ, nhiều phương diện trong hệ thống các yếu tố của nghề sơn truyền
thống, mà ở góc độ phổ quát nhất chính là xung đột giữa truyền thống - hiện đại, giữa thích
nghi - biến đổi, giữa bảo tồn - phát triển, giữa kinh tế - văn hóa cùng với đó là những lý do
xã hội tiềm ẩn đằng sau những xung đột ấy.
Việc khai thác chức năng dự báo và chức năng quản lý các vấn đề xã hội của ngành
xã hội học cũng được chúng tôi quan tâm trong luận án, bởi đây sẽ là cơ sở giúp nhận thức
được những thuộc tính của nghề sơn truyền thống ở hai làng, từ đó có thể đưa ra xu hướng
tương lai và cung cấp cứ liệu khoa học có tính khả thi cho việc hoạch định chính sách quản
lý. Theo đó, xu hướng vận động của nghề sơn truyền thống ở hai làng trong thời gian tới
cũng được bàn đến dựa trên kết quả khảo sát thực trạng nghề sơn truyền thống và cơ sở lý
luận của đề tài luận án là một số cơ sở lý thuyết, luận điểm khoa học như chúng tôi đã đề
cập ở phần trên. Trên cơ sở quán triệt quan điểm coi trọng mối quan hệ hai chiều: lãnh đạo
các cấp và nhân dân làng nghề, đồng thời căn cứ vào những kết quả thực nghiệm có được
từ cách tiếp cận văn hóa học mang tính liên ngành, chúng tôi cũng nêu ra định hướng phát
triển cho nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng trong tương lai.
Ở đề tài luận án, xét dưới góc độ triết học văn hóa, nghề sơn truyền thống - một

hiện tượng văn hóa được chúng tôi tiếp cận với tư cách là một phương diện đời sống xã
hội. Quá trình mô tả văn hóa là tất yếu phải có, song cái đích cuối cùng mà luận án cần
phải đạt được chính là tìm ra được bản chất của quá trình biến đổi này là gì và lý giải nó
bằng tư duy logic được tổng hợp từ kiến thức liên ngành của văn hóa học. Với ý nghĩa là
một phương diện đời sống xã hội thì văn hóa vốn là cái biến đổi liên tục như cuộc sống
vốn có, nhưng ở mức độ nào đó, vẫn bảo lưu nhiều giá trị có sức sống trường tồn. Đó là
những giá trị tổng hòa chân - thiện - mỹ cộng hưởng trong một khách thể văn hóa qua thời
gian được giữ lại, trở thành khuôn mẫu và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
mà người ta gọi là bản sắc. Thực chất, sự biến đổi nghề sơn truyền thống ở hai làng nghề
chính là một biểu hiện trong đa dạng của biến đổi văn hóa mà ở đó bao gồm cả các yếu tố
khả biến (biến đổi) và các yếu tố bất biến (không hoặc ít biến đổi). Xét về mặt lý thuyết,
các yếu tố khả biến với danh nghĩa là cấu trúc bề mặt, là những biểu hiện bên ngoài và biến


19

đổi liên tục mà người ta gọi là những biến số, là yếu tố động của văn hóa. Thực tế, văn hóa
được bao chứa trong các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội và trên bình diện đó các sáng
tạo, hoạt động văn hóa bao giờ cũng mang tính xã hội và thường xuyên biến đổi. Liên hệ
với khách thể nghiên cứu của đề tài luận án là nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê
và Vũ Lăng, những yếu tố biến đổi chủ yếu là nhóm yếu tố dễ chịu sự ảnh hưởng, tác động
của các điều kiện kinh tế - xã hội như nguyên liệu, quy trình chế tác, sản phẩm, thị trường
tiêu thụ - khách hàng, hoạt động tổ chức sản xuất và kinh doanh, nguồn nhân lực, đời sống
sinh hoạt của nhân dân làng nghề, môi trường…
Các yếu tố bất biến với danh nghĩa là cấu trúc chiều sâu, là cấu trúc bên trong của
văn hóa và ít biến đổi mà người ta gọi là hằng số, là yếu tố tĩnh của văn hóa. Nó là cái gốc
điều chỉnh mọi sinh hoạt đời sống giữ cho xã hội tính liên tục, tính ổn định và nằm sâu
trong tâm thức, trong đức tin tâm linh của con người, khắc họa nên bản sắc văn hóa của tộc
người này khác với tộc người khác. Qua khảo sát tại các làng nghề Bối Khê và Vũ Lăng,
có thể nhận thấy các yếu tố không hoặc ít biển đổi trong quá trình vận động của nghề sơn

dường như không nổi trội bằng các yếu tố động. Điều này là dễ hiểu bởi nghề sơn truyền
thống như bất cứ một hiện tượng văn hóa nào khác đang chịu sự tác động mạnh mẽ của các
điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
và bối cảnh toàn cầu hóa. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng, sự tồn tại của những hằng số yếu tố tĩnh có vẻ phổ biến hơn ở các làng nghề sơn truyền thống chuyên về hàng đồ thờ
như Vũ Lăng. Lý do có lẽ bởi mặt hàng này gắn với đời sống tâm linh vốn khá tĩnh tại và
không dễ gì thay đổi cùng với quy định nghề nghiệp đòi hỏi tính chuẩn mực cao, có phần
khắt khe hơn so với các làng nghề làm đồ thủ công mỹ nghệ thiên về sự năng động do phải
phụ thuộc nhiều vào thị hiếu khách hàng. Trong khi các làng nghề như Bối Khê đã rất
thịnh hành việc dùng nhiều chất liệu mới hiện đại trong việc làm cốt/vóc như đã đề cập, thì
Vũ Lăng vẫn duy trì chất liệu gỗ truyền thống từ bao đời nay trong chế tác đồ thờ. Hoặc
như các loại hình sản phẩm vốn đã nằm trong một hệ thống chuẩn của các làng nghề chế
tác đồ thờ cũng gần như không có gì thay đổi so với trước. Trên bình diện cấu trúc chiều
sâu đó còn là những đức tin tâm linh ở nghề chế tác đồ thờ (quan niệm về tầm quan trọng
của chữ Tâm trong chế tác đồ thờ để mỗi sản phẩm (nhất là tượng thờ) có được cái hồn và
đảm bảo được tính thiêng vẫn được coi trọng) và những hệ thống giá trị của nghề sơn
truyền thống ở cả hai làng nghề. Nghề sơn truyền thống như bất kỳ một hiện tượng văn hóa
nào chứa đựng hệ giá trị phổ quát là chân - thiện - mỹ, trong đó cái Đẹp hướng con người


20

tới lý tưởng, tới sự hoàn thiện, hoàn mỹ và cái thiêng. Cái Đẹp luôn được xem là hệ giá trị
cao nhất, là chuẩn mực bao quát nhất, vì vậy, cho dù nguyên liệu, công nghệ chế tác có
thay đổi thì thành quả cuối cùng của nghệ nhân vẫn là những sản phẩm mà ở đó tiêu chí
Đẹp luôn được coi trọng hàng đầu. Hiện tượng nhiều sản phẩm sơn truyền thống hiện nay
có chất lượng không cao lắm song vẫn có hình thức bên ngoài bắt mắt hấp dẫn được khách
hàng là ví dụ khá rõ về vấn đề này. Một khía cạnh nữa cũng cần phải nói tới đó là: mặc dù
ở các làng nghề như Bối Khê, Vũ Lăng đang thịnh hành lối sản xuất mới hiện đại, song bí
quyết nghề nghiệp với những ngón nghề vẫn đang được cất giữ, bảo lưu trong tâm thức của
mỗi nghệ nhân. Chính vì vậy, khi được chúng tôi phỏng vấn, phần lớn các nghệ nhân làng

nghề đều cho biết: hiện nay họ đang chế tác đồ sơn theo công nghệ mới nhưng nếu được
yêu cầu chế tác sản phẩm bằng chất liệu sơn ta hoàn toàn theo lối truyền thống thì họ vẫn
có thể thực hành được một cách thuần thục.
Từ những yếu tố bất biến và khả biến của nghề sơn truyền thống ở các làng Bối
Khê và Vũ Lăng đã chỉ ra ở trên, có thể nhận thấy mối quan hệ tương tác giữa hai hệ thống
có vẻ như đối nghịch này được thực hiện theo nguyên tắc: các yếu tố động dù thường
xuyên biến đổi vẫn theo một trật tự nhất định nào đó. Cụ thể, đó là quá trình biến đổi
xuyên suốt lịch sử tồn tại và phát triển của nghề sơn truyền thống - quá trình ấy dường như
đã trở thành quy luật, luôn đi tìm câu trả lời cho câu hỏi mang tính sống còn của nghề sơn
truyền thống là “sản xuất cho ai?”. Đôi khi, cái quy định sự biến đổi vừa trực tiếp vừa gián
tiếp của nghề sơn truyền thống chính lại là hệ giá trị nằm sâu bên dưới, mà sâu xa nhất
chính là tâm thức “sinh nghề tử nghiệp”, bằng mọi giá để giữ và duy trì được nghề truyền
thống của các nghệ nhân làng nghề.
Có thể kết luận, ở nghề sơn truyền thống của hai làng Bối Khê và Vũ Lăng, bên
cạnh những yếu tố biến đổi khá đa dạng, một số giá trị có vẻ mang tính chất tĩnh tại song
thực chất vẫn bị biến đổi dù rất chậm chạp. Hiện tượng tâm thức nghề nghiệp là một trong
những ví dụ điển hình. Và như thế, nghề sơn truyền thống với ý nghĩa là một hiện tượng
văn hóa mà văn hóa với ý nghĩa là phương diện đời sống xã hội sẽ không phải là cái gì
nhất thành bất biến, mà cũng như mọi sự vật hiện tượng khác, đều biến đổi. Khác với
những biến đổi chính trị, kinh tế… thường là sự biến đổi mang tính đột phá, cách mạng,
nhiều khi là bột phát, biến đổi văn hóa như hiện tượng biến đổi của nghề sơn truyền thống
ở hai làng nghề mang tính tiệm tiến bởi vì văn hóa là sự kế thừa và phải thỏa mãn những
nhu cầu cơ bản của con người - nhu cầu thẩm mỹ (làm đẹp) và nhu cầu thực dụng (sử


21

dụng). Đó chính là mối quan hệ giữa tính liên tục và sự đứt đoạn, giữa truyền thống và
cách tân. Sau cùng, chính sự tương tác giữa những yếu tố bất biến với những yếu tố khả
biến của nghề sơn truyền thống ở hai làng Bối Khê và Vũ Lăng đã góp phần đưa đến một

số hệ quả văn hóa - xã hội sẽ được đề cập ở dưới đây.

4.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp tiếp cận Văn hóa học mang tính liên ngành, với sự
kết hợp và hỗ trợ của nhiều ngành khoa học khác nhau nhằm tìm hiểu và khai thác các khía
cạnh nhiều mặt của đối tượng nghiên cứu. Trong đó, bao gồm các thao tác nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Khảo sát điền dã tại địa bàn các làng nghề sơn truyền thống Bối Khê (huyện Phú
Xuyên) và Vũ Lăng (huyện Thanh Oai), Tp. Hà Nội với các phương pháp quan sát tham
dự, phỏng vấn nhóm, phỏng vấn sâu...
- Tìm hiểu nghề sơn truyền thống của các làng Bối Khê và Vũ Lăng qua các thời
kỳ, các giai đoạn lịch sử thông qua việc tiếp cận với các nguồn sử liệu, điều tra hồi cố...
- Sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh... trong
việc thu thập những cứ liệu cụ thể nhằm làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của luận án.
- Lưu ý đến mối quan hệ, ảnh hưởng tác động qua lại giữa các yếu tố văn hóa và
kinh tế dưới góc độ tiếp cận kinh tế học văn hóa. Đây là hướng tiếp cận cần thiết khi
nghiên cứu về các nguồn lợi kinh tế, nguồn thu của thợ nghề và những đóng góp của nghề
và làng nghề truyền thống trong bối cảnh hiện nay.
- Thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài luận án ở nhiều hình thức khác nhau:
các tài liệu đã xuất bản thành sách, các bài đăng trên báo, tạp chí, các tài liệu còn ở dạng
bản thảo đánh máy, tư liệu thư tịch gồm chính sử, hương ước, sắc phong... đang được lưu
giữ tại địa phương, các viện nghiên cứu và thư viện. Sử dụng những tiện ích của Internet (ở
những mức độ phù hợp) trong việc thu thập tài liệu cũng là một phương pháp được sử
dụng trong quá trình thực hiện đề tài này.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần bổ sung vào
quá trình nghiên cứu về biến đổi nghề và làng nghề ở châu thổ
Bắc Bộ trong bối cảnh kinh tế thị trường và công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước - vốn là chủ đề nghiên cứu đã và đang



22

được coi là mới và “nóng” hiện nay. Đặc biệt, đề tài luận án
nghiêng theo hướng nghiên cứu trường hợp là hướng nghiên
cứu đang được chú trọng và ưu tiên trong khoa học xã hội nhân
văn.
- Nghiên cứu nghề sơn truyền thống ở các làng nghề Bối
Khê và Vũ Lăng góp phần bổ sung những thông tin tư liệu về
nghề sơn ở khu vực Hà Nội, qua đó góp phần vào việc nghiên
cứu sắc thái đa dạng của nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc
Bộ.
- Nghiên cứu thực trạng biến đổi của nghề sơn truyền thống
ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng, Tp. Hà Nội hiện nay góp phần
cung cấp cho chính quyền và các nhà quản lý văn hóa các cấp
những cứ liệu khoa học trong việc xây dựng các chính sách và
giải pháp tháo gỡ có tính khả thi, giúp cho nghề sơn truyền thống
ở hai làng nghề nói riêng và các làng nghề sơn khác ở châu thổ
Bắc Bộ nói chung tồn tại và phát triển, góp phần thực hiện mục
tiêu “dân giàu, làng xã mạnh” trong công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (22 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (11 trang) và
Phụ lục (28 trang), nội dung của luận án được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Khái quát về nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ và ở các làng
Bối Khê, Vũ Lăng (Thành phố Hà Nội) (37 trang).
Chương 2. Nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê và Vũ Lăng trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay (37 trang).
Chương 3. Vấn đề phát triển nghề sơn truyền thống ở các làng Bối Khê, Vũ Lăng

và những đóng góp mới của luận án (31 trang).


23

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ SƠN TRUYỀN THỐNG Ở CHÂU THỔ BẮC BỘ VÀ
Ở CÁC LÀNG BỐI KHÊ, VŨ LĂNG (THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
1.1. Nghề sơn truyền thống ở châu thổ Bắc Bộ
1.1.1. Vài nét về lịch sử nghề sơn
Nghề sơn là một trong những nghề thủ công có lịch sử lâu đời trên thế giới. Khu
vực Đông Á vốn được coi là cái nôi của ngành nghề này song cụ thể nghề sơn bắt nguồn từ
đâu thì cho đến giờ vẫn còn là câu hỏi gây nhiều tranh luận giữa hai trung tâm sơn mài lớn
nhất là Nhật Bản và Trung Quốc. Nhiều ý kiến thừa nhận Nhật Bản là nước biết làm sơn
sớm nhất thế giới khi người Nhật công bố các hiện vật đã khai quật được tại Hokkaido vào
mùa hè năm 2000. Đó là một số hiện vật trang trí phủ sơn đỏ được dùng làm đồ tùy táng
cho những người có địa vị cao trong xã hội cũ khi họ qua đời. Bộ di vật này được coi là
những hiện vật phủ sơn lâu đời nhất trên thế giới đã tìm thấy cho tới thời điểm hiện tại chúng có niên đại cách ngày nay khoảng 9000 năm (Thông tin tham khảo từ website thuộc
bản quyền của Nghệ nhân sơn mài Nhật Bản Mariko Nishide - www.urushi-kobo.com).
Một số ý kiến khác lại cho rằng, người Trung Quốc biết sử dụng nhựa sơn tự nhiên
sớm nhất trên thế giới với bằng chứng là vào đầu những năm 1970, chiếc bát gỗ phủ sơn
đỏ có niên đại 7000 năm đã được các nhà khảo cổ học tìm thấy trong một hố khai quật
thuộc di chỉ Hemudu (một trong những di chỉ khảo cổ thuộc thời kỳ đồ đá mới quan trọng
nhất ở Trung Quốc) ở Dư Diêu, tỉnh Chiết Giang. Chiếc bát phủ sơn này cũng được xem là
một trong những hiện vật sơn mài lâu đời nhất trên thế giới còn tồn tại cho đến ngày nay
(Thông tin tham khảo từ website thuộc bản quyền của Trung tâm nghiên cứu văn hóa đồ
gỗ cổ Trung Hoa (Chinese Antique Furniture Culture Research Center) www.antique-chinese-furnitures.com ᄃ).
Ở Việt Nam, qua sử sách và di vật tìm thấy trong các cuộc khai quật khảo cổ học,
chúng ta có thể khẳng định nghề sơn là một trong những nghề thủ công truyền thống lâu
đời trên đất nước ta. Khai quật ngôi mộ cổ có niên đại thế kỷ IV - V trước Công nguyên ở

xã Vinh Quang, huyện Hoài Đức, Hà Nội, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy một đoạn gỗ
dài khoảng 2m được sơn, vẽ đỏ sẫm ở hai đầu [54, tr.36]. Đặc biệt, các nhà khoa học đã
khai quật mộ cổ Việt Khê có niên đại khoảng thế kỷ III - IV trước Công nguyên ở huyện
Thuỷ Nguyên, Hải Phòng và phát hiện các di vật được làm bằng nhiều chất liệu được phủ
sơn như: chiếc mái chèo dài 88cm được phủ hai lớp sơn đen và vàng; tráp gỗ được sơn hai


24

lớp sơn đen và trang trí dải hoa văn màu sơn cánh gián; một số hiện vật bằng đồng có cán
gỗ và phần cán gỗ cũng được phủ sơn; một số mảnh da động vật được phủ sơn [52, tr.2324]. Ngoài ra, trong ngôi mộ cổ này người ta còn tìm thấy các dụng cụ đồ nghề như bát
dùng đánh sơn chín, mỏ vầy quấy sơn và một số mảnh ván gỗ nếu đem lắp ráp theo khuôn
mộng còn lại thì tựa như cái bàn vặn sơn hiện nay [31, tr.10]. Các cứ liệu khảo cổ học trên
là bằng chứng khách quan cho phép chúng ta nhận biết rằng: Đồ sơn đã xuất hiện ở châu
thổ Bắc Bộ khoảng thế kỷ IV trước Công nguyên [52, tr.28].
Bước vào thời kỳ phong kiến, dưới các triều đại mà đạo Phật đang độ hưng thịnh
(thời Lý, Trần) thì việc xây chùa, đắp tượng rất phổ biến và đó chính là mảnh đất tốt để cho
nghề sơn được trọng vọng và phát triển. Hiện nay, nhiều di tích còn giữ được những tác
phẩm nghệ thuật điêu khắc cổ có tô sơn như các tượng Phật bằng gỗ chạm nổi, bằng đất
đắp được sơn son thếp vàng, các đồ thờ, cửa võng, ngai thờ… Đó là còn chưa kể đến các
đồ dùng phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của nhân dân như hoành phi, câu đối,
tráp quả, hòm sắc, ống quyển, đèn nến, thẻ bài, bát bửu v.v…
Vào thế kỷ XV - XVI, nghề sơn đã phát triển huy hoàng và hình thành nhiều làng
chuyên sống bằng làm nghề sơn ta với kỹ thuật độc đáo và bí quyết nhà nghề riêng như
Đình Bảng (Bắc Ninh), Cát Đằng (Nam Định). Đặc biệt là làng nghề Bình Vọng (Hà Tây
cũ) được nhiều làng nghề nhìn nhận là đất tổ của nghề sơn bởi hầu hết người làm nghề đều
tôn cụ Trần Lư, hiệu là Trần Thượng Công (đời Lê Nhân Tông) là bậc thầy đầu tiên về
ngành nghề này [31, tr.9]. Tuy nhiên, như tư liệu khảo cổ học đã chứng minh, nếu nghề sơn
ở Việt Nam xuất hiện cách đây từ hơn 2000 năm, thì có lẽ, cụ Trần Thượng Công cũng chỉ
là người góp phần cải tiến kỹ thuật sơn chứ không phải là người sáng tạo ra nghề này.

Trải qua những bước thăng trầm trong lịch sử, nghề sơn cổ truyền đã và đang có
những đóng góp không nhỏ trong đời sống xã hội và đặc biệt là góp phần làm nên bản sắc
văn hóa Việt Nam.
Vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, nghề sơn cổ truyền lại có một bước
ngoặt quan trọng khi chất liệu sơn ta độc đáo vừa bền vừa đẹp đã thu hút các họa sĩ của
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương say mê nghiên cứu tìm tòi, thể nghiệm để áp dụng
vào bộ môn nghệ thuật tạo hình. Có thể nói, bước ngoặt này đã mở đầu cho ngành nghề
sơn cổ truyền chuyển sang một kỷ nguyên mới, tạo dựng nên nền nghệ thuật sơn mài của
Việt Nam. Nghệ nhân và các họa sĩ có công đầu trong việc nghiên cứu dùng sơn ta trong


25

hội họa Việt Nam đã mở đường và đặt nền móng cho cho sự phát triển rực rỡ sau này phải
kể tới: nghệ nhân Đinh Văn Thành, các họa sĩ: Trần Quang Trân, Phạm Hậu, Trần Văn
Cẩn, Nguyễn Khang, Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân... [3, tr.55]. Kể từ những năm 1980
cho đến nay, nghệ thuật sơn mài đã có sự vận động và chuyển hướng. Trên cơ sở chất liệu
sơn truyền thống, nhiều họa sĩ với cách nhìn hiện đại đã khám phá phương pháp diễn đạt
mới, áp dụng đường nét công nghiệp khỏe mạnh, dứt khoát trong tạo hình. Màu cổ truyền
cũng được bổ sung thêm các sắc độ sáng và trung gian qua đó tiếp tục hoàn thiện hơn ngôn
ngữ biểu đạt của sơn mài [3, tr.59]. Như vậy, từ chất liệu sơn ta truyền thống, các họa sĩ
Việt Nam đã phát hiện một nguồn lực màu sắc phong phú cho nghệ thuật tạo hình - chất
liệu sơn mài trở thành tiếng nói độc đáo của hội họa Việt Nam. Với rất nhiều tác phẩm tiêu
biểu cho từng giai đoạn sáng tạo của lớp lớp họa sĩ, nghệ thuật hội họa sơn mài đã và đang
góp phần xác lập nên diện mạo một nền nghệ thuật dân tộc và hiện đại.
1.1.2. Các loại hình kỹ thuật chế tác sản phẩm cơ bản của nghề sơn truyền thống
Qua thời gian, với sự sáng tạo không ngừng của các thế hệ nghệ nhân và họa sĩ,
nghề sơn truyền thống Việt Nam đã tạo dựng được sắc thái đa dạng bao gồm nhiều loại
hình kỹ thuật chế tác. Trong đó, mỗi làng nghề sơn truyền thống thường chuyên về một
loại hình kỹ thuật chế tác nào đó với sản phẩm đặc thù gắn liền với tên tuổi của làng nghề

như sơn quang Cát Đằng, sơn mài Hạ Thái, sơn khảm Bối Khê, sơn thếp Vũ Lăng, Sơn
Đồng... Cũng không ít trường hợp nhiều làng cùng sử dụng một loại hình kỹ thuật chế tác,
theo đó mỗi làng nghề sẽ có cách riêng của họ ở khâu này hay khâu khác song về cơ bản
đều tuân thủ quy trình truyền thống đã được định hình. Vậy nên chúng tôi xin được xem
phần trình bày dưới đây là mang tính đại diện chung nhất cho các loại hình kỹ thuật chế tác
của nghề sơn truyền thống Việt Nam chứ không áp dụng riêng cho bất cứ làng nghề cụ thể
nào.
1.1.2.1. Sơn quang
Kỹ thuật sơn quang đơn giản là việc người ta tận dụng những tính năng ưu việt của
nhựa sơn như có độ rắn đặc biệt, không thấm nước, chịu được axít, chịu nhiệt, độ kết dính
cao nên có độ bền tốt cùng với độ bóng rất bắt mắt để phủ một hai nước sơn lên bề mặt các
đồ dùng vật dụng bằng gỗ, tre, nứa… như thuyền, thúng mủng, bàn ghế, bình phong… Với
những đặc tính này thì sơn ta cũng được ứng dụng rộng rãi trong các công trình kiến trúc
phục vụ cho tôn giáo tín ngưỡng là đình chùa đền miếu từ xưa tới nay. Ở kỹ thuật sơn


×