Tải bản đầy đủ (.pdf) (155 trang)

Luận văn tăng cường đoàn kết cămpuchia với việt nam và lào hiện nay theo tư tưởng hồ chí minh về đoàn kết quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.28 KB, 155 trang )

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TĂNG CƯỜNG ĐOÀN
KẾT CĂMPUCHIA VỚI VIỆT NAM VÀ LÀO THEO TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1.1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và thực chất tăng
cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết quốc tế
1.2.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và thực chất tăng
cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT CĂMPUCHIA VỚI VIỆT NAM
VÀ LÀO HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
2.1.
Thực trạng tăng cường đoàn kết Cămphuchia với Việt Nam và
Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
2.2.
Những bài học kinh nghiệm và dự báo những biến đổi của tình hình
liên quan đến tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT
CĂMPUCHIA VỚI VIỆT NAM VÀ LÀO HIỆN NAY
THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT


QUỐC TẾ
3.1.
Phát huy tính tích cực chủ động của Đảng cầm quyền và Nhà
nước Cămpuchia trong củng cố đoàn kết giữa các Đảng, các tổ
chức xã hội và nhân dân theo định hướng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết quốc tế
3.2.
Kết hợp giữa phát huy nội lực và mở rộng hợp tác toàn diện
với Việt Nam và Lào phát triển cơ sở vật chất, củng cố môi
trường đầu tư cho tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt
Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
3.3
Kết hợp với Việt Nam và Lào cùng tạo dựng môi trường hợp
tác và thúc đẩy các hoạt động có tính thống nhất, đồng bộ cho
tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế phù hợp với xu hướng
toàn cầu hóa hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
8
21
21
37

62
62

88

103

103

113

129
142
145
146


3
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về công trình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là nội dung quan trọng trong
tư tưởng của Người về con đường cách mạng Việt Nam. Trong quá trình đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Cămpuchia, Việt Nam và Lào
đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế nhằm xây
dựng tình hữu nghị, đoàn kết giữa ba nước. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế hiện nay, tăng cường đoàn kết giữa ba dân tộc trên tinh thần hữu
nghị và hợp tác theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế càng có ý
nghĩa quan trọng. Do vậy, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế nhằm tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào là
vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Để góp phần vào việc tăng cường đoàn kết giữa Cămpuchia với Việt
Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong tình hình
hiện nay, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề: “Tăng cường đoàn kết Cămpuchia

với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc
tế” làm đề tài luận án tiến sĩ. Đây là vấn đề được tác giả ấp ủ từ lâu trong suốt
quá trình thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt từ khi công tác tại Việt Nam. Kết cấu
của đề tài gồm: Phần mở đầu, tổng quan về vấn đề nghiên cứu, 3 chương (6
tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố có liên quan
đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Nội dung xuyên suốt của đề tài luận án là nghiên cứu về vấn đề tăng cường
đoàn kết giữa Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế. Trong đó, chương 1 của đề tài luận giải thực chất và
những vấn đề có tính quy luật tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và
Lào theo theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Chương 2, đánh giá
thực trạng và rút ra những bài học kinh nghiệm trong tăng cường đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế. Chương 3, đề xuất một số giải pháp tăng cường đoàn kết Cămpuchia với
Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.


4
2. Lý do lựa chọn đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là một nội dung quan trọng
trong hệ thống tư tưởng của Người, có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt
Nam nói chung và tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào nói
riêng. Lịch sử đã chứng minh, đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào là
vấn đề quan trọng, có ý nghĩa sống còn, đối với sự tồn tại, phát triển và thịnh
vượng của cả ba dân tộc. Tình đoàn kết, hữu nghị đó đã được củng cố, phát
triển qua các cuộc chống ngoại xâm giành và bảo vệ độc lập chủ quyền dân
tộc; đồng thời nó trở thành truyền thống quý báu được cả ba dân tộc trân
trọng, vun đắp không ngừng. Hiện nay, tăng cường đoàn kết giữa Cămpuchia
với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vẫn là
vấn đề cần được tiếp tục phát huy và nâng lên tầm cao mới.

Thời gian qua, các dân tộc Cămpuchia, Việt Nam và Lào thường xuyên
củng cố, tăng cường sự đoàn kết theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế,
tạo sức mạnh tổng hợp đưa cả ba dân tộc cùng tiến lên theo con đường độc lập
tự chủ, phát triển và thịnh vượng. Thành tựu đạt được của những năm gần đây đã
củng cố thêm tình đoàn kết gắn bó keo sơn cả về chiều sâu, phạm vi và tầm cao
mới. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới, tình đoàn kết giữa ba dân tộc vẫn chưa
ngang tầm nhiệm vụ ở một số lĩnh vực cụ thể. Tình hình đó có nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó nổi lên vấn đề tăng cường
đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế vẫn chưa nghiên cứu về mặt lý luận và triển khai trong thực tiễn
tương xứng với vị trí vai trò, tiềm năng vốn có của nó trong điều kiện, hoàn cảnh
mới. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch tìm mọi cách
xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, chia rẽ mối quan hệ đoàn
kết chiến lược giữa ba dân tộc, làm suy yếu sự phát triển của Cămpuchia,
Việt Nam và Lào. Hơn nữa, một số quần chúng nhân dân nhận thức về âm
mưu chống phá của kẻ thù chưa đầy đủ, đúng đắn, chưa nhận thức hết nội


5
dung, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, đoàn kết chiến lược
ba dân tộc. Do đó vẫn còn xuất hiện những thái độ, hành vi đi ngược lại lợi
ích của ba dân tộc. Thậm chí có cả những hành vi tiếp tay cho các tổ chức
phản động làm chia rẽ tình đoàn kết đã có truyền thống lâu đời, gây tổn hại
cho sự nghiệp xây dựng đất nước theo hướng tiến bộ, cách mạng, phồn vinh
và thịnh vượng. Điều đó càng đặt ra một cách cấp thiết đối với nghiên cứu
tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
Hơn nữa, thực tiễn hoạt động trong nhiều năm qua, tác giả đã có nhiều
tư liệu, có những hiểu biết về lĩnh vực này khá toàn diện và sâu sắc. Ở cương
vị của mình, tác giả liên tục phải giải quyết các vấn đề đối ngoại giữa ba dân

tộc trên bán đảo Đông Dương, đặc biệt giữa Cămpuchia với Việt Nam, cho
nên cũng có những kinh nghiệm, những bài học từ thực tiễn sâu sắc. Với các
căn cứ và khả năng của mình, tác giả lựa chọn đề “Tăng cường đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế” làm dề tài luận án tiến sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Góp phần phát triển lý luận và thực tiễn tăng cường đoàn kết Cămpuchia
với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Trên cơ sở đó
làm rõ khái niệm công cụ của đề tài, tập trung phân tích luận giải phạm trù
trung tâm của đề tài là: Tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào
theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế . Chỉ ra những vấn đề có tính
quy luật tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.


6
- Nghiên cứu thực trạng và rút ra những bài học kinh nghiệm về tăng
cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
- Đề xuất một số giải pháp tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt
Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề thực chất, tính qui luật tăng cường đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế.
* Phạm vi nghiên cứu:

Luận án nghiên cứu những vấn đề liên quan đến tăng cường đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế trong từ năm 1979 đến nay (Chủ yếu tập trung Cămpuchia và Việt Nam).
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm của Đảng
nhân dân cách mạng Cămpuchia về vấn đề đoàn kết, đoàn kết quốc tế.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận án dựa vào thực trạng tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt
Nam và Lào từ 1979 đến nay thông qua các Nghị quyết, văn kiện, các hiệp
định,… và thực tế tiến triển trên thực tiễn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, sử dụng các phương pháp cụ thể như:
Phân tích và tổng hợp; lô gích và lịch sử; so sánh và đánh giá; điều tra xã hội
học; phân tích tài liệu; tổng kết thực tiễn; ý kiến các chuyên gia; khái quát hóa
và trừu tượng hóa,v.v..


7
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Nội dung về thực chất và tính quy luật tăng cường đoàn kết Cămpuchia
với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
- Kết quả đánh giá thực trạng, rút ra bài học kinh nghiệm tăng cường
đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết quốc tế.
- Nội dung các giải pháp được đề xuất tăng cường đoàn kết Cămpuchia
với Việt Nam và Lào hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

* Ý nghĩa lý luận của luận án:
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung một phần quan trọng
vào phát triển, hoàn thiện cơ sở lý luận khoa học cho các chủ thể Cămpuchia
trong thực hiện đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
* Ý nghĩa thực tiễn của luận án:
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu trong việc
hoàn thiện các quan điểm, chủ trương đối ngoại của Cămpuchia trong tình hình
hiện nay. Đồng thời, đề tài còn là cơ sở quan trọng định hướng cho thực hiện
tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay có chất lượng,
hiệu quả trên thực tiễn hoạt động xây dựng đất nước trong tình hình mới.
8. Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án gồm: Mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục các công trình khoa
học đã công bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo.


8
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về tăng cường
đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào
Cuốn sách “Quan hệ đối ngoại của các nước A SEAN” của tác giả
Nguyễn Xuân Sơn và Thái Văn Long [105]. Công trình này, hai tác giả đã
luận giải đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào trong bối cảnh chung của
đoàn kết giữa các nước ASEAN trong xu thế phát triển mới. Mặc dù công
trình tiếp cận có tính chuyên ngành ở phương diện đối ngoại, những cũng thể
hiện tinh thần đoàn kết của ba dân tộc trong quan hệ với các nước trong cộng
đồng A SEAN hiện nay.
Tác giả Đặng Quốc Tuấn với công trình: “Hợp tác giữa Việt Nam và

Cămpuchia về Biên giới, lãnh thổ” [118]. Trong công trình này, tác giả đã nghiên
cứu những nét đặc thù của quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Cămpuchia trên
Biên giới, lãnh thổ. Cùng với nó là những đánh giá, tổng kết tiến trình bước đầu
của triển vọng phát triển khi giải quyết vấn đề có tính cấp bách về cắm mốc Biên
giới trên bộ. Mặc dù công trình này chỉ bàn về vấn đề quan hệ, hợp tác về Biên
giới, lãnh thổ, nhưng cũng có thể khai thác được những nội dung, giá trị của tăng
cường đoàn kết Camphuchia với Việt Nam và Lào.
Tác giả Phạm Thị Hồng Xuân với công trình: “Một vài suy nghĩ về
quan hệ Việt Nam - Cămpuchia và vấn đề an ninh khu vực đến năm 2020”
[129]. Công trình này tác giả đã nghiên cứu những tiềm năng to lớn của quan
hệ Việt Nam - Cămpuchia trong giữ gìn an ninh khu vực với tầm nhìn đến
năm 2020. Tác giả đã tập trung và tiềm năng cả về truyền thống đoàn kết và
những tiềm năng về kinh tế, chính trị xã hội thể hiện vai trò, vị trí quan trọng
đối với giữ vững an ninh khu vực.
So với nghiên cứu, tìm hiểu chung thì số lượng và chất lượng nghiên
cứu này phong phú và có chiều sâu hơn. Đặc biệt, nhân kỷ niệm 45 năm ngày


9
thiết lập quan hệ Cămpuchia - Việt Nam (24 .7.1967 - 24.7.2012) càng có
nhiều công trình, bài viết về hợp tác, quan hệ, đoàn kết giữa các dân tộc trên
bán đảo Đông Dương. Đặc san của Báo Thế giới và Việt Nam dành riêng một
số đăng tổng hợp các bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các vị
ở các cương vị cấp bộ, đại sứ,….Các bài viết này được tiếp cận ở các góc độ
khác nhau và cùng có những đề cập đến tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí
Minh với các cấp độ khác nhau.
Cùng với các công trình trên, Đặc san của Hội hữu nghị Việt Nam Cămpuchia cho xuất bản tuyển tập những bài viết về đoàn kết giữa hai dân
tộc. Trong tuyển tập này có cả những hiệp định, các văn bản được ký kết hợp
tác, hữu nghị giữa hai dân tộc ở các lĩnh vực khác nhau như về Đảng, Nhà
nước, các lĩnh vực, các ngành…cụ thể.

Những công trình trong nước nghiên cứu tăng cường đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào so với ở Việt Nam cũng không có nhiều.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây cũng thể hiện xu hướng ngày càng tăng
lên. Bộ ngoại giao và hợp tác Cămpuchia có công trình: “Thông tin cơ bản về
Vương quốc Cămpuchia” [10]. Trong công trình này, Bộ ngoại giao và hợp
tác đã khái quát những thông tin cơ bản về Cămpuchia suốt thời gian từ 2000
đến 2008 với những tiền đề và thành tựu, hạn chế ở từng mặt cụ thể. Các
thông tin này như một bản thông điệp cho các nước thể hiện lập trường quan
điểm của Cămpuchia trong công tác đối ngoại và hợp tác đầu tư. Ở đó cũng
chỉ ra những nét cơ bản về đoàn kết với Việt Nam và Lào. Mặc dù những nội
dung này mới ở góc độ của Bộ ngoại giao, nhưng cũng thể hiện những tinh
thần cơ bản về đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào.
Tác giả On Phnomonirith với: “Chiến lược của Cămpuchia khi tham
gia vào khu vực mậu dịch tự do A SEAN ( AFTA) và thực hiện CEPT” [99].
Trong công trình của mình, tác giả đã luận giải những khó khăn và thách thức


10
của Cămpuchia khi tham gia các hiệp hội này. Trong đó, tác giả cũng đặt ra
yêu cầu và nhiệm vụ trong quan hệ với Việt Nam và lào với tính cách là
những nước có truyền thống đoàn kết với nhau từ lâu đời.
Tác giả Kao Kim Huorn với công trình: “Xây dựng lòng tin ở
Cămpuchia - Trao đổi kinh nghiệm và rút ra bài học cho tương lai” [36]. Tác
giả của công trình này đã khái quát những nội dung từ thực tiễn có tính chất
của tổng kết và rút ra những bài học quý báu giúp cho người đọc hiểu được
tiềm năng cũng như củng cố cho tương lai phát triển về đoàn kết với các nước
trên thế và khu vực. Trong quá trình luận giải, tác giả của công trình cũng để
dành một phần quan trọng và đánh giá, tổng kết và khái quát những bài học
cho tăng cường đoàn kết Cămpuchia với hai nước trên bán đảo Đông Dương.
Tác giả Chheav Vanndeth với công trình: “Vai trò Cămpuchia trong

cộng đồng quốc tế” [119]. Công trình này đã xác định vị trí, vai trò
Cămpuchia trong cồng đồng quốc tế với những tiềm năng, và thực tiễn phát
triển. Trong quá trình luận giải, tác giả của công trình cũng xác định trách
nhiệm và tầm quan trọng của Cămpuchia đối với tăng cường đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào trên con đường cùng phát triển.
Tác giả Soc Hoch với công trình: “Phát triển kinh tế và chính sách cải
cách ở Cămpuchia - thách thức và triển vọng trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế” [31] đã luận giải những tiềm năng về nguồn nhân lực trong phát triển
kinh tế và cải cách ở Cămpuchia hiện nay. Theo đó, tác giả cũng đặt vấn đề
với các nước, trong đó có Việt Nam về giúp Cămpuchia về giáo dục và đào
tạo trong quan hệ hợp tác quốc tế.
Tác giả Kao Kim Huorn và Sẩmng Komsan với công trình: “Cămpuchia
trong thiên niên kỷ mới, học hỏi kinh nghiệm quá khứ và xây dựng tương lai”
[38]. Các tác giả của công trình này đã tiếp nối công trình “Xây dựng lòng tin ở
Cămpuchia - Trao đổi kinh nghiệm và rút ra bài học cho tương lai”, Nhà xuất
bản CICP, Phnôm pênh, 1999 lên một trình độ mới. Nội dung của công trình


11
thể hiện sự nghiên cứu tầm khái quát cao hơn và cũng đặt ra những vấn đề,
biện pháp cụ thể cho quan hệ hợp tác và đoàn kết với các nước có tính chiến
lược lâu dài. Mặc dù là công trình của cá nhân, nhưng cũng phản ánh xu thế
chung và cũng có giá trị như những luận điểm, quan điểm cơ bản cho chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Cămpuchia hiện nay. Quá trình luận giải,
tác giả cũng đề cập đến những đánh giá, những kết quả học hỏi các nước, đặc
biệt của Việt Nam trong quan hệ hợp tác quốc tế.
Công trình khoa học của tác giả Kong Sokea: “Chính sách đối ngoại
của Cămpuchia với A SEAN từ 1967 đến nay” đã có nhiều công phu hệ thống
hóa chính sách đối ngoại của Cămpuchia với các nước A SEAN từ 1967 đến
2005. Tác giả cũng đề cập đến quan hệ giữa Cămpuchia với Việt Nam và Lào

một cách thỏa đáng. Điểm đặc biệt là, tác giả đã có những nhận định về
những bước thăng trầm của lịch sử và chỉ ra những nguyên nhân khách quan
và chủ quan cụ thể. Trong công trình của mình, tác giả cũng xác định những
vấn đề đặt ra cho tương lai phát triển quan hệ giữa Cămpuchia với các nước
trong cộng đồng ASEAN và với Việt Nam và Lào.
Tác giả Hun Xen với cuốn: “Chiến lược của Chính phủ Cămpuchia
trong thiên niên kỷ mới” [34]. Với tư cách là người đứng đầu Chính phủ
Cămpuchia - Thủ tướng Chính phủ Hun Xen đã khẳng định lập trường, quan
điểm của Nhà nước Campuhcia trong thiên niên kỷ mới. Nội dung của công
trình này không chỉ là những tư tưởng, quan điểm chính trị, mà có tính pháp
quy cao, đồng thời như một thông điệp quan trọng đối với các nước vầ thái độ
Cămpuchia trong quan hệ với các nước trên thế giới nói chung và các nước
bán đảo Đông Dương nói riêng.
2. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Đoàn kết quốc tế là một nội dung lớn trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh về con đường cách mạng Việt Nam nói riêng và ba nước trên bán đảo
Đông Dương nói chung. Nó là tài sản vô cùng quý báu không chỉ của dân tộc


12
Việt Nam, mà còn có giá trị to lớn đối với giai cấp công nhân, nhân dân lao
động trên thế giới, đặc biệt đối với Cămpuchia và Lào. Lịch sử càng phát triển
thì tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế càng được khẳng định giá trị về
khoa học và ý nghĩa thực tiễn to lớn. Đặc biệt trong bối cảnh quốc tế hóa đời
sống kinh tế, hợp tác, giao lưu, hội nhập càng sâu rộng, cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh dân tộc càng có nhiều diễn biến phức tạp thì tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế càng nổi lên cho mọi thắng lợi của các nước chậm
phát triển trong lựa chọn phương thức quan hệ, hợp tác để thực hiện mục tiêu
hòa bình, độc lập, tự chủ và tiến bộ xã hội.

Với ý nghĩa, tầm vóc lớn lao của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế, nên đã có nhiều công trình, nhiều đề tài, bài viết bàn về vấn đề này.
Trong phạm vi luận án, tác giả tuyển chọn một số công trình tiêu biểu, liên
quan trực tiếp.
Trên thế giới, có nhiều tác giả nghiên cứu, đánh giá về tư tưởng đoàn
kết quốc tế Hồ Chí Minh, như: “Một buổi sáng mùa xuân năm 1924” của tác
giả Gécmanéttô, trong cuốn “Bác Hồ - Hồi ký” [28], “Hồ, Niu Oóc”, của tác
giả Đavít Hambớtxtam [29], “Đồng chí Hồ Chí Minh” của tác giả Épghênhi
Cabêlép [25]. Mỗi công trình có cách tiếp cận và luận giải khác nhau nhưng
đã khái quát những nét đặc sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế khá
sâu sắc. Tác giả Đavít Hambớtxtam người Mỹ trong bài viết: “Hồ, Niu Oóc”,
đã đánh giá cao những nội dung nghiên cứu chủ nghĩa thực dân của Hồ Chí
Minh và những vấn đề về đoàn kết quốc tế. Trong cuốn “Đồng chí Hồ Chí
Minh”, Épghênhi Cabêlép đã đánh giá công lao Hồ Chí Minh đối với phát
triển phong trào cộng sản thế giới và thể hiện trong đó nội dung khá sâu sắc
về tư tưởng đoàn kết quốc tế.
Ở Việt Nam có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế và khai thác giá trị của nó để hiện thực hóa trên


13
thực tế. Có thể thấy một số công trình, đề tài tiêu biểu liên quan đến đề tài
luận án như sau:
Đề tài: “Quốc tế Cộng sản với cách mạng Việt Nam” của tác giả Hồ Tố
Lương [54] đã thể hiện một sự nghiên cứu công phu, nghiêm túc về vai trò
của Quốc tế Cộng sản đối với cách mạng thế giới nói chung và đối với cách
mạng Việt Nam nói riêng. Công trình này đã tổng hợp được những sự kiện
lịch sử có giá trị để luận giải, đánh giá được vai trò của Quốc tế Cộng sản đối
với cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam, đặc biệt đối với hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc để thể hiện sự kiểm nghiệm, kiểm chứng

những tư tưởng của Người. Trong đó, thành công nhất là đã làm rõ những ý
kiến của Nguyễn Ái Quốc đối với hoàn thiện lý luận cách mạng của Quốc tế
Cộng sản. Điều đó, cho thấy phát triển, hoàn thiện những tư tưởng cách mạng
nói chung và tư tưởng về đoàn kết quốc tế của Nguyễn Ái Quốc nói riêng
phải trải qua những thử thách, khó khăn, phức tạp mới chứng minh được tính
khoa học, cách mạng.
Tuy nhiên, những cống hiến đó của công trình cũng chưa thật sự làm
nổi bật tính hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Điều này
cũng do mục đích nhiệm cụ của công trình không đặt ra vấn đề đó.
Cuốn sách “Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Duy
Niên [93] đã tiếp cận và luận giải tư tưởng Hồ Chí Minh ở phương diện Ngoại
giao có tính hệ thống khá cao. Với kết cấu gồm phần mở đầu, 4 chương và kết
luận cho thấy một sự nghiên cứu nghiêm túc có tích hệ thống và lịch sử - lô
gích. Nghiên cứu công trình này cho thấy, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh
thể hiện một sự thống nhất cao giữa nguyên tắc bất biến với tinh linh hoạt trong
vận dụng . Ở mỗi nội dung của các công trình đều thể hiện một tư tưởng chỉ
đạo “dĩ bất biến, ứng vạn biến” sâu sắc. Bằng các sự kiện lịch sử và xử lý,
phân tích các sự kiện khá tốt, tạo cho người đọc, dễ nghiên cứu dễ tiếp thu tư
tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Tư tưởng đoàn kết quốc tế này được thể


14
hiện bằng các quyết sách chính trị khá sắc bén của Hồ Chí Minh từ phạm vi thế
giới đến khu vực; đối với từng lực lượng đến từng tầng lớp và đặc biệt đối với
ba nước trên bán đảo Đông Dương.
Tuy nhiên, công trình này được trình bày có tính giáo trình, thể hiện
tính hệ thống đi từ lịch sử hình thành đến nội dung cơ bản, đến nghệ thuật,
phương pháp và sự vận dụng. Với tính hệ thống đó thì tiếp cận, khai thác và
vận dụng vào giảng dạy Bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị rất lớn.
Cuốn sách “Bí quyết thành công Hồ Chí Minh” của tác giả Phùng Hữu

Phú [101]. Trong cuốn sách, tác giả hình thành 3 chương đi từ cái bao trùm
cơ bản là: “Tư tưởng cách mạng và khoa học” đến nội dung quan trọng có
tính chất then chốt là “Giai cấp công nhân” và đến “Bí quyết thành công”.
Với cách tiếp cận và luận giải này, tác giả đã làm rõ được những vấn đề then
chốt nhất bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nội dung này cũng
có giá trị đối với thành công của các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc trên
thế giới. Nội dung có tính nổi bật nhất bảo đảm cho sự thành công của Hồ Chí
Minh cũng như của cách mạng là vấn đề đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nội dung này được tác giả luận giải trong chương 3. Bằng các dữ liệu lịch sử,
những luận điểm, quyết sách cụ thể thực hiện đại đoàn kết của Hồ Chí Minh,
tác giả đã cho người đọc, người nghiên cứu thấy rõ tầm vóc lớn lao của tư
tưởng đoàn kết Hồ Chí Minh. Tư tưởng ấy vừa thống nhất với tư tưởng các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa có sắc thái độc đáo của Người về
cách mạng Việt Nam.
Tuy nhiên, tư tưởng này chỉ là một nội dung cụ thể của toàn bộ công
trình. Hơn nữa, sự vận dụng vào thực hiện ở Việt Nam là chủ yếu, còn nội
dung tăng cường đoàn kết Cămpuchia - Việt Nam và Lào chưa thật nổi bật.
Đề tài: “Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách mạng
giải phóng dân tộc” do tác giả Lê Văn Yên làm chủ biên [132]. Qua nghiên
cứu, đây là một công trình có nhiều giá trị khoa học. Nhóm tác giả đã có cách


15
tiếp cận có tính lô gích và lịch sử. Trong giải quyết nội dung thể hiện sự hệ
thống hóa, khái quát hóa khá cao tạo cho người đọc dễ tiếp thu, đánh giá giá
trị tư tưởng. Nhóm tác giả hình thành kết cấu của công trình thành ba chương
(6 tiết), phần phụ lục và tài liệu tham khảo. Về nội dung, đề tài đã tập trung
giải quyết 4 vấn đề lớn.
Phần một, các tác giả đã khái lược có tính hệ thống quá trình hoạt động
của Hồ Chí Minh thống nhất với quá trình hành thành tư tưởng về đoàn kết

quốc tế. Thông qua các tư liệu lịch sử và phương pháp xử lý tư liệu có tính
khoa học, hợp lô gích, cho thấy nội dung này được giải quyết có sức thuyết
phục về khoa học.
Phần hai, các tác giả đã khái quát những quan điểm cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc, đồng
thời đã có những đánh giá giá trị nội dung này trong lịch sử, không chỉ đối với
cách mạng Việt Nam, mà còn đối với cách mạng thế giới. Phương pháp khái
quát, hệ thống hóa có tính khoa học và đánh giá có tính khách quan, thể hiện sự
nghiên cứu nghiêm túc, độc lập sáng tạo.
Phần ba, các tác giả đã luận giải trong cách mạng dân tộc nhân chủ
nhân dân của Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là một bộ
phận thuộc hệ tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động trong thực tế.
Phần bốn, các tác giả đã làm rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa Chủ tịch Hồ
Chí Minh với Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời đã luận giải tầm vóc lớn
lao tư tưởng của Người trong đường lối cách mạng. Với những thắng lợi của
cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc là bằng chứng chứng
minh tư tưởng này của Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin ở các nước thuộc địa làm cách mạng giải phóng dân tộc.
Một nội dung nổi bật của đề tài này là trong mỗi phần đều có sự chú ý
hướng đến các sự kiện, nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
trong tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào. Đây là nội dung


16
quan trọng liên quan nhiều đến luận án của nghiên cứu sinh. Tuy nhiên, sự đề
cập này có tính sự kiện lịch sử để bổ trợ cho nội dung chính của đề tài. Do
mục đích của đề tài, cho nên vấn đề không được luận giải có tính hệ thống.
Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân
tộc, nhà văn hóa lớn, tổ chức năm 1990 tại Hà Nội, nhân kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh [115]. Những bài viết trong Hội thảo

này đã làm rõ những cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh đối với phong trào
giải phóng dân tộc, phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội. Đồng
thời đánh giá cao thân thế sự nghiệp Hồ Chí Minh đối với phát triển văn hóa.
Trong đó, nhiều bài viết về tư tưởng đoàn kết quốc tế của Người ở các góc
nhìn khác nhau, nhưng thống nhất với nhau ở sự cống hiến, giá trị đối với
tương lai nhận loại. Tuy nhiên, công trình này mới là những bài viết khoa học
trong hội thảo cho nên còn có những góc độ khác nhau.
Ở trong nước, tác giả đã cố gắng sưu tầm, tìm hiểu các công trình về tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế ở Cămpuchia và cho thấy không
được nhiều như ở các nước khác và chiều sâu cũng còn hạn chế. Đáng chú ý
là công trình của Cheap So Phan về: “Vấn đề An ninh khu vực Đông Nam Á”
[95]. Công trình này được tác giả nghiên cứu, khái quát có tính hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Biểu hiện của tính hệ thống hóa
trong công trình này là tác giả đã chỉ ra mục đích, các nội dung, nguyên tắc
của đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Điểm đáng chú ý là tác giả
đã khái quát được những nguyên tắc cơ bản của đoàn kết quốc tế mang sắc
thái Hồ Chí Minh. Toàn bộ những nội dung đó, tác giả còn vượt lên chỉ ra cho
người đọc thấy được những giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế.
Tác giả Deap So Phan với bài viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn
kết quốc tế, một trong những di sản vô giá hiện nay” [97]. Trong bài viết, tác
giả tập trung vào làm sâu sắc tiến trình phát triển, hoàn thiện và đặc biệt hơn


17
là đánh giá những giá trị bền vững tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc
tế. Trong các nội dung đánh giá, tác giả còn cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết quốc tế đã thức tỉnh nhiều dân tộc trên thế giới có cơ sở lý luận
cho xác định mục tiêu, con đường, biện pháp thực hiện đoàn kết với các lực
lượng, các quốc gia một cách khoa học. Hơn nữa qua tư tưởng này, tác giả

còn cho rằng nó đã củng cố niềm tin cho các dân tộc chậm phát triển vào
tương lai của mình. Điểm đặc biệt là, công trình đã dành nhiều nội dung bàn
về đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào. Tác giả chỉ ra lời Hồ Chí
Minh: “Sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân ba nước Việt Nam,
Cămpuchia và Lào đoàn kết chặt chẽ nhất định sẽ giành thắng lợi cuối
cùng”; “Ý chí thống nhất của nhân dân ba nước chúng ta là kiên quyết đấu
tranh chống sự xâm lược của đế quốc Mỹ và ra sức bảo vệ hòa bình, độc lập
dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ”.
Từ những hiểu biết về tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, tác
giả đã đánh giá tầm vóc quốc tế nói chung, các dân tộc chậm phát triển nói
riêng và đặc biệt là giữa Cămpuchia với Việt Nam và Lào một cách có sức
thuyết phục. Mặc dù, các công trình còn ít, nhưng cho thấy những nghiên cứu
của các tác giả Cămpuchia về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và về đoàn
kết quốc tế nói tiêng cũng có những cống hiến nhất định. Tuy nhiên, các công
trình ở Cămpuchia còn khiêm tốn về số lượng, hạn chế về tính toàn diện và
chiều sâu khoa học.
3. Những công trình khoa học tiêu biểu nghiên cứu về tăng cường
đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và tăng cường
đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết quốc tế là một vấn đề lớn, có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực
tiễn. Vấn đề này cũng có nhiều công trình, đề tài, bài viết và có những bước


18
phát triển cả bề rộng, chiều sâu, tầm vóc. Trước mắt, tác giả cũng tổng quan
một số công trình có tính điển hình và liên quan nhiều đến đề tài luận án.
Quá trình triển khai, mỗi tác giả cũng dựa vào những luận điểm của Hồ
Chí Minh là cơ sở và xác định những yêu cầu, nội dung về văn hóa cho phát

triển ba dân tộc. Mặc dù có những khai thác khác nhau, nhưng tinh thần
chung vẫn thể hiện nội dung đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào.
Nội dung các công trình này có nhiều cống hiến về khoa học, nhưng ở
góc độ tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vẫn chưa có tính chuyên sâu, điển hình.
Cuốn sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận dụng
trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay” của tác giả Đặng Văn Thái [109]
đã tiếp cận và luận giải khá rõ hai phần khác nhau. Phần 1, làm sâu sắc các
vấn đề lý luận; phần 2, tập trung vào nội dung vận dụng vào tình hình mới.
Điểm đáng chú ý là, những nội dung, nguyên tắc, xác định đối tác hợp tác…
được nhóm tác giải nghiên cứu có chiều sâu. Các luận điểm trong đó đã hàm
chứa tinh thần đoàn kết quốc tế khá sâu sắc. Phần vận dụng, nhóm tác giả đã
có nhiều cống hiến trong luận giải nội dung vận dụng vào đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào.
Tuy nhiên, sự vận dụng này có tính chất chung cho toàn bộ hợp tác, trong
đó đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào chỉ là một nội dung cụ thể. Hơn
nữa, công trình này chưa phải là chuyên sâu vào nghiên cứu đoàn kết Cămpuchia
với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế.
Tác giả Keo Sam Nas với công trình: “Đỉnh cao của các người lãnh đạo
trên thế giới” [89]. Trong công trình này, tác giả dành một phần viết về Hồ
Chí Minh với các nội dung khác nhau, trong đó nổi lên tinh thần cốt lõi về
đoàn kết quốc tế nói chung và đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào nói
riêng. Tác giả đã khá công phu lược thảo lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết quốc tế gắn với tiến trình hình thành tư tưởng về con đường
cách mang Việt Nam trên đường tìm đường cứu nước.


19
Khi về nước, Hồ Chí Minh đã thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và huấn
luyện cho những học trò của mình thấu hiểu tinh thần của chủ nghĩa Mác Lênin, đồng thời tích cực thực hiện tư tưởng về đoàn kết quốc tế vào thực tiễn

cách mạng ở các nước trên bán đảo Đông Dương. Những thắng lợi của cách
mạng Việt Nam cũng như của các nước Cămpuchia và Lào cùng có nguyên nhân
của vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế ở các dân tộc này.
Công trình khoa học: “Thế giới thế kỷ XX Châu Á và Trung Đông
chính trị - kinh tế - xã hội và quan hệ đối ngoại” của Deap So Phan [96]. Nội
dung công trình đã bàn về vị trí của Hồ Chí Minh trong hàng loạt các lãnh tụ
chính trị trên thế giới đối với tình hình thế giới. Tác giả đã khái quát những
cống hiến của Hồ Chí Minh đối với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trong
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong quá trình luận giải, tác giả đã so sánh
với các nhân vật chính trị khác trên thế giới ở lĩnh vực tiếp cận của mình để
thấy tầm vóc của Hồ Chí Minh ảnh hưởng đến các nước chậm phát triển trên
con đường đấu tranh giành quyền độc lập dân tộc và tiến bộ, hòa bình.
Trong quá trình luận giải đó, tác giả của công trình cũng dành một
phần quan trọng bàn đến vai trò của Hồ Chí Minh trong tiến trình đoàn kết
giữa Cămpuchia với Việt Nam và Lào. Mặc dù nọi dung này không được
tập trung lớn, nhưng cũng đề cập ảnh hưởng tư tưởng của Hồ Chí Minh đến
lĩnh vực này.
4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố và những vấn đề luận án tập trung giải quyết
4.1. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
công bố
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu các công trình khoa học có liên
quan đến luận án, tác giả nhận thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc
tế nói chung và vận dụng vào tăng cường đoàn kết giữa Camphuchia với Việt
Nam và Lào là một nội dung có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Vì
vậy, vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu dưới


20
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng

Hồ Chí Minh nói chung và về đoàn kết quốc tế nói riêng cho nhận thấy, tư
tưởng của Người còn rất nhiều nội dung, giá trị chưa được đề cập mọt cách
sâu sắc như: Tăng cường đoàn kết giữa ba quân đội Hoàng gia Cămpuchia với
Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế; tăng cường
sức mạnh quân sự Quốc gia của Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế; tăng cường đoàn kết giữa
Cămpuchia với Việt Nam và Lào với các nước trong cộng đồng ASEAN theo
tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế, v.v.. Đăc biệt, vấn đề đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế càng có nhiều nội dung, giá trị cần tìm hiểu và vận dụng, nhưng chưa
được nhiên cứu một cách cơ bản, hệ thống.
4.2. Những vấn đề luận án tập trung giải quyết
Quá trình khảo cứu các công trình khoa học nghiên cứu đã công bố liên
quan đến đề tài, nhìn tổng thể về hướng nghiên cứu, nội dung triển khai thì
phần lớn các công trình nghiên cứu chưa đi sâu làm rõ có tính chất cơ bản, hệ
thống dưới góc độ triết học vấn đề lý luận và thực tiễn cũng như đề xuất hệ
thống giải pháp tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế. Do đó, những vấn đề luận án
tập trung giải quyết:
Một là, vấn đề tiếp cận góc độ triết học đối với tăng cường đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế.
Hai là, các nội dung cụ thể thuộc bản thể luận tăng cường đoàn kết
Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
quốc tế.
Ba là, nội dung thuộc nhận thức luận và thái độ, hành động của các chủ
thể đối với hiện thực hóa lý luận về tăng cường đoàn kết Cămpuchia với Việt
Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế hiện nay.



21
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT
CĂMPUCHIA VỚI VIỆT NAM VÀ LÀO THEO TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế và thực chất tăng
cường đoàn kết Cămpuchia với Việt Nam và Lào theo tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết quốc tế
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại hệ thống tư tưởng sâu sắc về những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống tư tưởng đó, tư tưởng về
đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh đã thể hiện những quan điểm độc đáo, tính
nhân văn sâu sắc trong quá trình hoạt động cách mạng của người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế là sản phẩm kết hợp, kế thừa,
phát triển tinh hoa tư tưởng tiến bộ trên thế giới với truyền thống dân tộc về đại
đoàn kết toàn dân tộc trong lịch sử đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc
Việt Nam, cốt lõi là tinh thần đoàn kết giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức
tạo dựng sức mạnh tổng hợp thực hiện mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng nhân loại khỏi áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, đưa các
dân tộc phát triển phồn vinh, thịnh vượng, bình đẳng, tiến bộ.
Với lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quyết tâm sắt đá giải phóng dân tộc,
truyền thống đoàn kết toàn dân tộc trong lịch sử dựng nước gắn liền với giữ
nước của dân tộc Việt Nam, người thanh niên Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí
Minh đã ra đi tìm đường cứu nước. Trên đường đi tìm đường cứu nước, Hồ
Chí Minh đã có nhiều ý tưởng về tinh thần đoàn kết quốc tế ở từng phương
diện. Tiếp xúc với các nền văn hóa, văn minh trên thế giới, Hồ Chí Minh đã
phát hiện ra, trên đời này chỉ có hai hạng người, không phân biệt màu da đó là
thống trị và bị trị, người bị trị ở đâu cũng là bạn và người thống trị ở đâu cũng
là thù. Với luận điểm này, Hồ Chí Minh cũng bắt đầu hình thành quan điểm



22
về đoàn kết giữa những người lao động trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh
chống kẻ thù chung là giai cấp thống trị ở các nước đế quốc - thực dân.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt tiếp cận với tư tưởng của
V.I.Lênin trong “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa”, Hồ Chí Minh
đã kế thừa và có bước phát triển mới về đoàn kết quốc tế trong sự nghiệp giải
phóng con người lao động, giải phóng dân tộc. Người phải thốt lên:
Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong
buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi
đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta” [84, tr.127].
Với nội dung này, Hồ Chí Minh đã nâng tầm tri thức có tính chất cảm
tính của một người Việt Nam yêu nước lên trình độ mới, với chất mới là đoàn
kết quốc tế vô sản của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, đoàn kết
theo tinh thần Quốc tế Cộng sản. Người chỉ rõ: “ …dù màu da có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị
bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô
sản” [59, tr. 266]. Sự kế thừa và hội tụ này vừa thống nhất được với cái
chung, vừa thể hiện được sắc thái độc đáo Hồ Chí Minh.
Sau khi V.I.Lênin từ trần, đoàn kết quốc tế trên tinh thần chủ nghĩa
quốc tế vô sản được Quốc tế Cộng sản tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên, tinh
thần đó được hiểu và vận dụng có dấu hiệu thiếu tính sáng tạo ở một số vấn
đề cụ thể ở các nước thuộc địa. Một số đại biểu của Quốc tế Cộng sản không
phát triển tư tưởng của V.I.Lênin vào điều kiện hoàn cảnh mới, mà có biểu
hiện xem nhẹ vai trò của các dân tộc bị áp bức trong đoàn kết quốc tế. Sự
xem nhẹ đó được Hồ Chí Minh chỉ rõ: “… một số đông chiến sĩ vẫn còn
tưởng rằng, một thuộc địa chẳng qua chỉ là một xứ dưới đầy cát và trên là
mặt trời, vài cây dừa xanh với mấy người khác màu da, thế thôi. Và họ hoàn

toàn không để ý gì đến” [60, tr.63]; “ …người bản xứ là hạng người thấp


23
kém, không đáng kể, không có khả năng để hiểu biết được và càng không
thể có khả năng hoạt động” 60, tr.64].
Dựa chắc vào cơ sở các luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin,
Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa vào tình hình nhiệm vụ mới. Người chỉ rõ:
Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp tư sản trong nước các bạn đã
lừa dối các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm lược đất nước chúng tôi,
Ngày nay, vẫn dùng cái chính sách quỷ quyệt ấy, giai cấp tư sản nước các
bạn lại định dùng chúng tôi để đàn áp mọi sự cố gắng tự giải phóng của
các bạn. Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi của
chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của Các Mác: “Vô sản
tất cả các nước, đoàn kết lại!” [63, tr.128].
Từ nhận thức về chủ nghĩa thực dân đế quốc được ví như con đỉa hai
vòi, một vòi bám vào chính quốc và một vòi bám vào các dân tộc thuộc địa cho
thấy, Người đã nhìn thấy về sự đoàn kết giữa những người lao động chính quốc
và các dân tộc bị áp bức để tạo sức mạnh chặt cả hai vòi con đỉa đó thì mới
thắng lợi. Hồ Chí Minh đã phát triển và cụ thể hóa tư tưởng đoàn kết quốc tế
của mình. Người chỉ rõ:
…trước hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu
chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các nước đế
quốc để thắng kẻ thù chung. Cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân
các nước tư bản trực tiếp giúp cho các dân tộc bị áp bức tự giải phóng
mình. Trong khi đó, cuộc đấu tranh cách mạng của của các dân tộc thuộc
địa và nửa thuộc địa trực tiếp giúp đỡ giai cấp vô sản các nước tư bản
trong cuộc đấu tranh chống giai cấp thống trị để tự giải phóng khỏi ách
nô lệ của chủ nghĩa tư bản [83, tr. 567].
Tinh thần của luận điểm đó cho phép Hồ Chí Minh phát hiện ra quan hệ

giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa được ví như hai cánh của
một con chim.


24
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế với nội dung cơ bản là sự
bình đẳng giữa các dân tộc, giữa các giai cấp bị áp bức trên toàn thế giới trên
con đường tiến đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng loài
người. Theo Hồ Chí Minh, sự bình đẳng này còn có cơ sở khách quan là cùng
chung sứ mệnh lịch sử, cùng có vai trò ngang nhau trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giai cấp và nhân loại. Điều đó cũng có thể hiểu là cùng chung
một kẻ thù là chủ nghĩa thực dân, đế quốc, các thế lực áp bức bóc lột và như
vậy là cùng chung một chiến hào chiến đấu. Tư tưởng này khác với những
quan điểm hạ thấp vai trò của các dân tộc thuộc địa của một số đại biểu của
Quốc tế Cộng sản hoặc của những biểu hiện của tư tưởng kỳ thị dân tộc.
Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã tích cực đấu tranh, phê phán một số nhận
thức chưa thật khoa học về sức mạnh, vai trò của cách mạng thuộc địa, của
các dân tộc bị áp bức của một số đại biểu, một số nhân vật trong Quốc tế
Cộng sản là: “Tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc đối với các
thuộc địa” [60, tr. 63].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế với mục đích tạo thế và lực
của các lực lượng cùng chung địa vị, lợi ích, tương đồng về quan điểm cùng
chống lại áp bức bóc lột dân tộc, giai cấp. Tiếp đến là thực hiện giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại, đừa các dân tộc tiến tới phát triển,
phồn vinh, thịnh vượng, tiến bộ. Trong quan hệ với các giai cấp áp bức bóc lột
thì sức mạnh của giai cấp, dân tộc bị áp bức, bị bóc lột phải là tinh thần đoàn kết
quốc tế. Trong khi tiềm năng sức mạnh rất lớn và tiềm năng đó chỉ có thể chuyển
hóa thành hiện thực khi có đoàn kết quốc tế. Theo cách tiếp cận của Hồ Chí
Minh thì đoàn kết quốc tế là khách quan của lịch sử, vấn đề là các lực lượng
cách mạng, tiến bộ có phát hiện ra hay không phát hiện ra, thực hiện một cách

khoa học hay không khoa học. Trong thời đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, các
ông cũng xuất phát từ địa vị, lợi ích của giai cấp vô sản trên toàn thế giới để luận
chứng cho luận điểm về đoàn kết quốc tế. Khẩu hiệu: Vô sản tất cả các nước


25
đoàn kết lại là kết quả của nghiên cứu, xuất phát từ địa vị, lợi ích của giai cấp vô
sản trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự
do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc, vấn đề dân tộc thuộc địa, giải phóng dân
tộc thuộc địa cũng xuất hiện. Đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản không bị giới
hạn trong khuôn khổ ở các nước tư bản, mà mở rộng ra các dân tộc bị áp bức.
Trong điều kiện mới, V.I.Lênin cũng xuất phát từ địa vị và lợi ích chung của giai
cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức khái quát luận điểm về đoàn kết quốc tế và
bổ sung là: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại.
Từ cơ sở về địa vị và lợi ích trên, các lực lượng trong đoàn kết quốc tế
theo tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn bộ giai cấp vô sản, các dân tộc bị áp bức,
các lực lượng yêu chuộng hòa bình, công lý, tiến bộ xã hội. Đối với phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế thì tư tưởng nổi bật là: “bốn phương vô
sản đều là anh em” trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc. Đối với phong trào giải phóng dân tộc, tư tưởng Hồ Chí Minh xác định
là cùng bị chủ nghĩa đế quốc bóc lột, thống trị. Vấn đề tạo cho các dân tộc
thuộc địa hiểu được âm mưu chia rẽ của chủ nghĩa đế quốc và làm cho các
dân tộc đoàn kết với nhau có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Hồ Chí Minh đã kiến
nghị với Ban Phương Đông Quốc tế cộng sản những biện pháp:
…làm cho các dân tộc thuộc địa - từ trước đến nay rời rạc với nhau hiểu nhau hơn, và đoàn kết với nhau, do đó đặt cơ sở cho một khối liên
hiệp tương lai giữa các nước phương Đông, khối liên hợp đó là một
trong những cái cánh của cách mạng vô sản [61, tr. 302].
Cùng với nó là, yêu cầu đội tiên phong của các dân tộc thuộc địa
thường xuyên liên hệ với giai cấp vô sản phương Tây, đoàn kết với các lực
lượng đấu tranh vì hòa bình dân chủ và tiến bộ xã hội thì tranh thủ tập hợp lực

lượng trong một trận tuyến cùng chống kẻ thù chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế còn được cụ thể hóa vào các
dân tộc bị áp bức ở Châu Á và các nước trên bán đảo Đông Dương. Với nhãn


26
quan khoa học và thấu hiểu truyền thống cũng như sức mạnh của các dân tộc
Châu Á, Đông Dương trong sự nghiệp cách mạng chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa thực dân, đế quốc. Người chỉ rõ:
Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh
để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ
hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong
những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, họ có
thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ
giải phóng hoàn toàn [58, tr. 36].
Với luận điểm trên cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế
không phải là sự ỷ lại sự giúp đỡ từ bên ngoài, mà thể hiện tinh thần độc lập tự
chủ rất cao. Hơn nữa, trong khi đề cao tính tự chủ lại không tuyệt đối hóa một
cách tuyệt đối, mà vẫn trong tính tổng thể của đoàn kết quốc tế theo quan niệm
của Người. Nội dung này đã vượt lên trên quan điểm của Quốc tế Cộng sản,
nhưng lại thể hiện trung thành với quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin một cách sáng tạo. Bởi vì theo quan điểm của Quốc tế Cộng sản
khi đó, thì cách mạng thuộc địa chỉ có thể giành thắng lợi khi cách mạng chính
quốc giành thắng lợi.
Với cách tiếp cận, nội dung khoa học của tư tưởng về đoàn kết quốc tế,
Hồ Chí Minh đã có niềm tin tất thắng vào tư tưởng của mình, đồng thời tích cực
hoạt động vận động, thành lập các tổ chức cách mạng ở châu Á đưa lý luận vào
phong trào quần chúng. Người đứng ra thành lập: Hội liên hiệp các dân tộc bị áp
bức vào 1925. Trong Tuyên ngôn của Hội, Hồ Chí Minh khẳng định:
…muốn xua tan những đau khổ đó cần phải đoàn kết các dân tộc bị áp

bức và toàn thể công nhân trên thế giới lại làm cách mạng. Bọn đế quốc
ở tất cả các nước đã liên minh lại áp bức chúng ta. Còn chúng ta, những
người dân thuộc địa và toàn thể công nhân trên thế giới, chúng ta phải
hợp lực lại để chống lại chúng [64, tr. 437].


×