Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Luận văn Hoạt động chứng minh trong Tố tụng hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.61 KB, 73 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong hoạt động tố tụng nói chung, việc chứng minh đóng vai trò quyết định
làm sáng tỏ các quan hệ cần giải quyết, là cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình cũng như là căn cứ để Toà án đưa ra các phán quyết của
mình. Có thể nói mục đích của hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết
định của Toà án chính là kết quả cuối cùng của quá trình chứng minh đó. Đương sự
chỉ có thể chứng minh được quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi có chứng cứ, Tòa
án chỉ có thể giải quyết đúng đắn vụ việc khi có đầy đủ các chứng cứ làm rõ vấn đề.
Tùy theo từng hình thức tố tụng mà chủ thể có nghĩa vụ chứng minh là khác nhau.
VAHC thường chứa đựng nhiều mâu thuẫn, phức tạp, liên quan đến hoạt động quản
lý hành chính nhà nước trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Trong khi đó, Tòa án
với vai trò trung gian, không thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước
nhưng lại là chủ thể có quyền phán xét, đưa ra kết quả giải quyết tranh chấp hành
chính trên cơ sở áp dụng các quy định của pháp luật nội dung có liên quan. Vì vậy,
giải quyết VAHC khách quan, công bằng, phù hợp với quy định của pháp luật, tất
cả các vấn đề đương sự đưa ra cần phải được xác minh, làm rõ thông qua hoạt động
chứng minh, đầy đủ, chính xác, hợp pháp, có căn cứ.
Kế thừa có chọn lọc và khắc phục được những bất cập của PLTTGQVAHC
Ngày 24-11-2010, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XII đã thông qua Luật TTHC, có hiệu lực từ ngày 01-7-2011. Chế định
chứng minh và chứng cứ được quy định đầy đủ, chi tiết thành một chương riêng
trong Luật TTHC, gồm 20 điều (từ Điều 72 – Điều 91) tạo sự bình đẳng và cơ hội
trong việc thu thập và xuất trình chứng cứ, xác định sự thật của vụ án, Toà án chủ
động trong quá trình chứng minh VAHC, giải quyết VAHC nhanh chóng, hiệu quả,
đúng pháp luật, mang lại ý nghĩa thực tiễn quan trọng trong việc bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi bị các quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước xâm phạm.
Tuy nhiên, qua thực tiễn giải quyết các VAHC trong những năm qua cho


thấy các quy định của Luật TTHC đã bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý nói chung và
cách nhìn nhận về hoạt động chứng minh nói riêng. Một mặt không phản ánh được
đúng đắn bản chất của TTHC, không phát huy được vai trò chủ động và tích cực
của đương sự trong việc tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình, mặt khác đã tạo gánh
nặng cho cơ quan tiến hành tố tụng khi phải làm thay nhiều nhiệm vụ của đương sự


đã làm giảm hiệu quả giải quyết các VAHC của Toà án nhân dân thể hiện ở việc các
Toà án cấp trên huỷ, sửa bản án của các Toà cấp dưới với số lượng lớn.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả chọn đề tài “Hoạt động chứng
minh trong tố tụng hành chính” làm khóa luận tốt nghiệp với mong muốn làm sáng
tỏ thêm về những vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định quan trọng này.
2. Tình hình nghiên cứu

Tại trường đại học Luật TPHCM có luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Sơn
Lâm: “Chứng cứ trong vụ án hành chính” – năm 2013. Luận văn thạc sĩ của tác giả
Lê Thanh Hà: “Chứng minh trong tố tụng hành chính” – năm 2014. Những công
trình nói trên đã giải quyết nhiều vấn đề căn bản về chứng cứ và chứng minh, tuy
nhiên vẫn còn nhiều vấn đề cần phải làm sáng tỏ thêm, nhất là về khía cạnh lý luận
và thực tiễn, các tác giả mới chỉ nghiên cứu về chứng cứ, không nghiên cứu toàn bộ
chứng minh trong TTHC.
Những bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý chủ yếu về TTHC có thể kể
đến như: Những vấn đề cơ bản của Luật Tố tụng hành chính, Trần Đình Khánh, Tạp
chí Kiểm sát số 4/2011; Một số nội dung cơ bản của Luật Tố tụng hành chính, Trần
Huy Lộc, Tạp chí Toà án nhân dân số 24/2010; Một số quy định của Luật Tố tụng
hành chính, Vũ Thanh Tuấn, Tạp chí Toà án nhân dân số 14/2011; Luật Tố tụng
hành chính những sửa đổi, bổ sung, Đỗ Văn Chỉnh, Tạp chí Toà án nhân dân số
11/2011; Bước tiến quan trọng về quy định chứng cứ, chứng minh trong Luật Tố
tụng hành chính năm 2010, Nguyễn Thị Thu Hương, Tạp chí Nghề luật số 04/2011;
Những vấn đề cần chứng minh trong Tố tụng hành chính, Trần Thị Hạnh Dung, Tạp

chí Dân chủ và pháp luật số 09/2012; Hoạt động áp dụng pháp luật nội dung trong
giải quyết các khiếu kiện hành chính ở Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, Trần
Mạnh Hùng - TAND tối cao. Các bài viết này đề cập những quy định mới của Luật
TTHC so với PLTTGQVAHC, trong đó chỉ có một phần nhỏ đề cập đến phần
chứng minh, chứng cứ, chưa nghiên cứu sâu các khía cạnh của hoạt động chứng
minh. Như vậy, có thể nói đến nay vấn đề chứng minh trong TTHC hầu như chưa
có công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu.
3. Phạm vi nghiên cứu

Do khuôn khổ hạn chế của khóa văn tốt nghiệp, tác giả chỉ có điều kiện tập
trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh của các chủ thể
tiến hành và tham gia tố tụng trong VAHC, các quy định liên quan của pháp luật
TTHC và một số kết quả khảo sát thực tiễn về hoạt động chứng minh. Trên cơ sở


đó, tác giả đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động chứng minh và
đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định này để tìm ra được những điểm hạn chế,
bất cập. Từ đó, đưa ra một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện mang tính khoa
học, và mang tính thực tế về vấn đề này.
4. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể là những quy định của
Luật TTHC hiện hành về hoạt động chứng minh của các chủ thể tiến hành và tham
gia tố tụng.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Việc nghiên cứu đề tài có mục đích là trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận và pháp lý cũng như thực trạng thực hiện pháp luật về hoạt động chứng minh
trong TTHC để đề ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động chứng
minh trong TTHC.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
− Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh, trên cơ sở đó xây dựng

những khái niệm cơ bản về hoạt động chứng minh trong TTHC.
− Đánh giá những quy định pháp luật hiện hành và đánh giá thực tiễn việc thực hiện

pháp luật về hoạt động chứng minh trong VAHC thông qua các báo cáo của ngành
Tòa án, và thông qua các vụ án có thật trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
− Chỉ ra những bất cập và những tồn tại cần khắc phục của pháp luật về hoạt động

chứng minh.
− Từ kết quả nghiên cứu nói trên, đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện

pháp luật TTHC liên quan đến chế định chứng minh, góp phần nâng cao hiệu quả
giải quyết VAHC.
6. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp, kết hợp giữa


lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh
trong TTHC.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp: phân tích tổng
hợp, so sánh, lịch sử.
Phương pháp phân tích, tổng hợp vừa đảm bảo tính khái quát của vấn đề
được nghiên cứu vừa đảm bảo tính chuyên sâu ở mỗi nội dung liên quan đến xét xử
sơ thẩm VAHC.
Phương pháp so sánh, lịch sử được sử dụng kết hợp với nhau. Bởi vì khi đặt
vấn đề chứng minh trong hệ thống pháp luật Việt Nam từ trước tới nay, thì luận văn

mới có thể nghiên cứu triệt để.


7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Hiện nay, những khía cạnh lý luận và các quy định của pháp luật TTHC về
hoạt động chứng minh vẫn còn chưa được nghiên cứu đầy đủ, còn thiếu hệ thống và
toàn diện, vì vậy những kết quả cụ thể trong đề tài này có thể tham khảo trong quá
trình hoàn thiện pháp luật TTHC ở nước ta. Cũng từ đó mà góp phần đảm bảo cho
hoạt động TTHC được tiến hành theo đúng các nguyên tắc đã được nêu ngay trong
Luật TTHC, đảm bảo khách quan, vô tư, đúng pháp luật.
Khóa luận làm sáng tỏ hơn những khái niệm của khoa học Luật TTHC nên
có giá trị khoa học nhất định. Như vậy, kết quả nghiên cứu của khóa luận có đóng
góp nhất định về mặt khoa học pháp lý.
Các luận cứ và kiến nghị của đề tài có độ tin cậy và giá trị tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập, đồng thời giúp ích phần nào cho cán bộ làm
công tác thực tiễn trong việc tìm hiểu và áp dụng các quy định pháp luật về hoạt
động chứng minh.
8. Kết cấu của luận văn :

Ngoài lời nói đầu, mục lục, danh mục từ viết tắt và danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về chứng minh trong Tố tụng hành
chính.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện chế định chứng
minh trong Luật Tố tụng hành chính.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

1
2
3

TỪ VIẾT TẮT
TTHC
VAHC
PLTTGQVAHC

NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT
Tố tụng hành chính
Vụ án hành chính
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết vụ án hành chính


MỤC LỤC


1
1.1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa chứng minh trong tố tụng hành chính
1.1.1

Khái niệm chứng minh trong tố tụng hành chính

"Chứng minh” dùng để chỉ dạng hoạt động phổ biến của con người trong đời
thường (ví dụ như chứng minh khi tranh luận trong các cuộc hội thảo, chứng minh

khi phát biểu bảo vệ quan điểm trên các diễn đàn...) nhằm "làm cho thấy rõ là có
thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ hoặc dùng suy luận logic vạch rõ một
điều gì đó là đúng”1. Quá trình giải quyết giả thuyết bằng cách tư duy, logic các sự
kiện đó chính là chứng minh. Quá trình chứng minh diễn ra liên tục, trong mọi mặt
của đời sống xã hội và nó là động lực cho sự phát triển, khám phá tìm tòi.
Trong TTHC, chứng minh cũng là một dạng hoạt động, nhưng không phải là
hoạt động trong đời thường mà là hoạt động tố tụng mang tính chất pháp lý được
điều chỉnh bởi Luật TTHC và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi các chủ thể có
quyền, nghĩa vụ cụ thể thông qua hoạt động sử dụng chứng cứ với mục đích tái hiện
lại trước Tòa án VAHC đã xảy ra trong quá khứ một cách chính xác và tỉ mỉ nhất có
thể có, qua đó, Tòa án có thể khẳng định có hay không có các sự kiện, tình tiết
khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay phản đối của các bên đương sự trong VAHC
và kết quả của hoạt động này sẽ là một bản án, quyết định của Tòa án mang tính
chất bắt buộc áp dụng. Nó là công cụ để Tòa án nhận thức được chính xác sự việc
đã xảy ra trên thực tế làm cơ sở để đưa ra phán quyết giải quyết các tranh chấp phát
sinh một cách nhanh chóng, chính xác và khách quan. Tuy nhiên, hoạt động sử
dụng chứng cứ trong TTHC không thể được tiến hành một cách tùy tiện theo ý chí
chủ quan của Tòa án hay của các chủ thể tham gia tố tụng mà phải tuân thủ nghiêm
ngặt các quy định của Luật TTHC về sử dụng chứng cứ thông qua các hoạt động tố
tụng cụ thể, bao gồm hoạt động cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ, nghiên cứu
chứng cứ và đánh giá chứng cứ.
Hoạt động chứng minh trong TTHC là một quá trình gồm hoạt động của các
đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh
giá chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật TTHC làm cơ sở cho việc Tòa án
chấp nhận hay bác yêu cầu của các đương sự.
1.1.2

Đặc điểm của hoạt động chứng minh

Hoạt động chứng minh trong TTHC có ba đặc điểm cơ bản2:

1 Hoàng Phê (Chủ biên) (1988), Từ điển tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 212.
2 (truy cập ngày 26/04/2014).

8


Thứ nhất, hoạt động chứng minh trong TTHC là một quá trình nhận thức
diễn ra xuyên suốt VAHC, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho
đến khi Tòa án ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh của người khởi kiện cho
yêu cầu của mình thông qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của
người bị kiện bác yêu cầu của người khởi kiện, hoạt động chứng minh của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi Tòa án
chứng minh cho phán quyết của mình thông qua một bản án có giá trị bắt buộc thi
hành.
Thứ hai, bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ.
Hai yếu tố cấu thành VAHC là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách
quan (bao gồm đối tượng – mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ
quyền của các chủ thể trước Tòa án). Hoạt động chứng minh được xếp vào các yếu
tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã
vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng
đắn nhất. Hay nói cách khác, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử
dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án.
Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng
đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao
gồm bốn giai đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ.
Các giai đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Phải có hoạt động thu thập,
cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và
kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận thức
từ VAHC, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay không hoàn
toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy đủ và đúng hay không.

Có thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài xuyên suốt quá trình giải quyết
VAHC, nó chỉ kết thúc khi Tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể Tòa án cấp dưới đã
ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được giải quyết tiếp theo trình
tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng minh mới
độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.
Thứ ba, chủ thể của hoạt động chứng minh rất đa dạng.
Trong một vụ án cụ thể có rất nhiều ý kiến cần phải được chứng minh là
đúng, là có thật đồng nghĩa với việc chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh là đa
dạng. Người khởi kiện chứng minh cho yêu cầu của mình, người bị kiện chứng
minh để phản bác lại yêu cầu của người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan chứng minh cho yêu cầu độc lập, Tòa án chứng minh cho phán quyết của
mình, Viện kiểm sát chứng minh cho kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
9


thẩm của mình… Ngoài ra, khi đương sự không đủ khả năng tham gia tố tụng hoặc
không hiểu biết về pháp luật, không có kinh nghiệm tố tụng họ có thể nhờ người
khác thay mình tham gia tố tụng từ đó phát sinh ra các chủ thể khác tham gia tố
tụng như người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự…
Họ có quyền và nghĩa vụ không giống nhau xuất phát từ vị trí tố tụng cũng như thỏa
thuận giữa họ và đương sự nhưng đây cũng là những chủ thể của họat động chứng
minh.
1.1.3

Ý nghĩa của hoạt động chứng minh

Ý nghĩa trực tiếp của chứng minh là tìm ra căn cứ để kết luận về các tình tiết
của vụ án, từ đó quyết định về yêu cầu của người khởi kiện. Không có hoạt động
chứng minh thì không thể có căn cứ để kết luận về các tình tiết, sự kiện và quan
điểm của đương sự. Từ nguyên tắc quy định tại Điều 8 Luật TTHC về nghĩa vụ

chứng minh thì rõ ràng hoạt động chứng minh liên quan trước hết đến các đương
sự.
Tuy nhiên, chứng minh còn có ý nghĩa đối với việc bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án khách quan, có căn cứ và hợp pháp, nhờ đó mà bảo đảm được pháp chế
trong hoạt động quản lí nhà nước của cơ quan hành chính. Ý nghĩa này còn thể hiện
rất rõ vì Luật TTHC còn quy định nhiệm vụ của Tòa án, Viện kiểm sát trong việc
xác minh, thu thập và đánh giá chứng cứ3.
1.1.4
Quy định của PLTTGQVAHC năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm
1998, 2006 về hoạt động chứng minh
Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá IX đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân, theo đó, kể từ ngày 01-7-1996 Toà án
nhân dân các cấp chính thức được giao thẩm quyền giải quyết các VAHC. Ngày 215-1996, PLTTGQVAHC được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua, có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01-7-1996 và được sửa đổi, bổ sung lần thứ nhất ngày 25-121998 và sửa đổi, bổ sung lần thứ hai ngày 05-4-2006.
Việc ban hành PLTTGQVAHC và các pháp lệnh sửa đổi, bổ sung đã tạo
điều kiện cho việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, góp phần bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.
Thứ nhất, quy định về chứng cứ, chứng minh trong PLTTGQVAHC là
những quy định chung có tính nguyên tắc, là cơ sở pháp lý giúp cho các bên
đương sự và Toà án tiến hành hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ, đảm bảo
3 Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính Việt Nam,
NXB Hồng Đức, Thành Phố Hồ Chí Minh, tr. 194.

10













nguyên tắc tranh tụng VAHC như:
Điều 5 quy định về nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh của đương sự; cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác và trách nhiệm của Toà án;
Điều 20 quy định về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong đó có quyền cung
cấp chứng cứ;
Điều 24 quy định quyền triệu tập người làm chứng của Viện kiểm sát;
Điều 25 quy định Viện kiểm sát có quyền trưng cầu giám định;
Điều 30 quy định về đơn kiện và thời điểm xuất trình tài liệu chứng cứ lần đầu
của người khởi kiện;
Điều 37 quy định về thông báo thụ lý và thời hạn xuất trình chứng cứ lần đầu
của người bị kiện;
Điều 38 quy định các biện pháp thu thập chứng cứ;
Điều 45 về hoãn phiên toà khi cần xác minh thu thập chứng cứ bổ sung;
Điều 59 quy định về xuất trình chứng cứ tại giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Qua hai lần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh, trong các điều trên chỉ có Điều 5
được sửa đổi về kỹ thuật câu, từ và quy định bổ sung thêm các tài liệu, trách
nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, tổ chức, cơ quan cũng như vai trò của Toà
án trong việc thu thập chứng cứ.
Thứ hai, vấn đề thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết VAHC.
PLTTGQVAHC chỉ có duy nhất Điều 38 quy định về vấn đề thu thập chứng cứ
trong quá trình giải quyết VAHC:
1- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu xét thấy cần thiết, Toà án có thể tự
mình hoặc uỷ thác cho Toà án khác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm

rõ các tình tiết của vụ án. Toà án được uỷ thác có nhiệm vụ thực hiện ngay việc uỷ
thác và thông báo kết quả cho Toà án đã uỷ thác.
2- Việc xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm:
a) Yêu cầu các đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ hoặc trình bày về
những vấn đề cần thiết;
b) Yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp bằng
chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án;
c) Yêu cầu người làm chứng trình bày về những vấn đề cần thiết;
d) Xác minh tại chỗ;
đ) Trưng cầu giám định và tiến hành một số biện pháp cần thiết khác.
Nhìn chung, các quy định về chứng cứ, chứng minh của Pháp lệnh còn chưa
cụ thể, thiếu tính minh bạch, rõ ràng và chính xác. Mặt khác trong nội dung của hai
Nghị quyết số 03/2003/NQ-HĐTP ngày 18/02/2003 và Nghị quyết số 04/2006/NQHĐTP ngày 04/8/2006 thi hành Pháp lệnh cũng không có hướng dẫn giải thích quy
định về chứng cứ, chứng minh. Nhiều vướng mắc về chứng cứ, chứng minh, về
11


trách nhiệm và điều kiện áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ trong xét xử
VAHC phải dựa vào hướng dẫn giải thích tại Nghị quyết 04/2005/NQ-HĐTP
ngày 17/9/2005, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Chứng cứ và chứng minh”.
Chính vì vậy đã làm cho nhận thức và áp dụng các quy định của Pháp lệnh để
giải quyết các VAHC trong thời gian qua còn tuỳ tiện, thiếu thống nhất. Không ít vụ
án người khởi kiện phát hiện chứng cứ nhưng không đủ điều kiện để thu thập được,
ngoại trừ việc “cầu viện” Toà án4. Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
nhưng cố tình không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ. Việc thu thập chứng cứ
của đương sự, Toà án từ phía các cơ quan, tổ chức gặp không ít khó khăn do việc
chậm trả lời, trả lời không chính xác, không đầy đủ hoặc không đúng. Do pháp luật
không quy định thời hạn giao nộp chứng cứ nên đương sự thường chọn giai đoạn
xét xử phúc thẩm VAHC để xuất trình chứng cứ. Số vụ việc phải phúc thẩm ngày

càng gia tăng, gánh nặng thu thập chứng cứ của VAHC luôn “đè nặng” lên vai
Toà án, mà chưa có biện pháp gì để khắc phục. Về phía Toà án chưa nhận thức đầy
đủ trách nhiệm chứng minh của mình, tuyệt đối hoá vai trò chứng minh của đương
sự hoặc dễ dàng thoả mãn với các tài liệu của đương sự xuất trình. Hệ quả là
nhiều vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử, thậm chí bị sửa, huỷ vì thiếu chứng
cứ hoặc đánh giá chứng cứ không chính xác, nên chất lượng và hiệu quả xét xử các
VAHC của Tòa án còn thấp: “Xây dựng hồ sơ vụ án không đầy đủ; đánh giá chứng
cứ thiếu khách quan, toàn diện dẫn đến quyết định gải quyết vụ án không đúng. Một
số trường hợp Thẩm phán chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc
xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật nên việc giải quyết vụ án
bị kéo dài hoặc không đúng pháp luật. Một số Thẩm phán cấp sơ thẩm khi giải
quyết vụ án còn e ngại, né tránh, ngại va chạm với cơ quan, người có quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện” 5. Thực trạng trên là một trong nhiều
nguyên nhân đặt ra yêu cầu cần phải hoàn thiện các quy định của
PLTTGQVAHC nói chung, trong đó có các quy định về chứng cứ, chứng minh.
Như vậy, PLTTGQVAHC không có quy định cụ thể chứng cứ là gì; nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết VAHC; những sự kiện,
tình tiết không phải chứng minh, xác định chứng cứ gồm những gì, việc giao nộp
như thế nào... Tất cả những nội dung đó đều mới được quy định lần đầu tại Luật
TTHC, từ Điều 72 đến Điều 91 tại chương VI (Chứng minh và chứng cứ) của Luật
TTHC. Với những quy định đó Luật TTHC đã tạo điều kiện cho việc xác định, đánh
4 Nguyễn Thị Thu Hương (2011), “Bước tiến quan trọng về quy định chứng cứ, chứng minh trong Luật
TTHC 2010”, Tạp chí Nghề luật, (04), tr. 18, 19.
5 Báo cáo tổng kết công tác năm 2006, 2007 của ngành Tòa án nhân dân.

12


giá và thu thập chứng cứ được nhanh chóng, chính xác, tạo điều kiện để giải quyết
VAHC đúng pháp luật.

1.2

Chủ thể chứng minh

Tham gia vào quá trình giải quyết VAHC, có rất nhiều chủ thể. Từ chủ thể
các cơ quan Nhà nước như Tòa án, Viện kiểm sát… đến các chủ thể như đương sự,
người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Mỗi chủ thể đều có tư cách tố
tụng riêng và có những quyền và nghĩa vụ tương ứng. Nhưng riêng trong hoạt động
chứng minh không phải tất cả các chủ thể trên đều là chủ thể của hoạt động chứng
minh mà tham gia vào hoạt động này chỉ có một số chủ thể theo quy định của pháp
luật xuất phát từ tư cách tố tụng của họ, đó là đương sự, Tòa án và Viện kiểm sát.
Nghĩa vụ chứng minh trước hết là nghĩa vụ pháp lý của những chủ thể nhất
định trong quá trình chứng minh, là nghĩa vụ phải làm rõ các tình tiết, sự kiện có ý
nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Đây là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc mà nếu không
thực hiện sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bắt buộc.
Trong khi đó, quyền chứng minh cũng là quyền pháp lý của những chủ thể
nhất định trong quá trình giải quyết vụ án đó, là khả năng của các chủ thể trong việc
cung cấp chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án cho Tòa án, đưa ra lý lẽ, lập luận
cho yêu cầu của mình và tham gia vào việc xác minh và kiểm tra chứng cứ của Tòa
án.
Vậy chủ thể chứng minh là những người tham gia vào hoạt động chứng minh
và mỗi chủ thể này có quyền và nghĩa vụ chứng minh nhất định.
1.2.1

Đương sự

Đương sự bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan (khoản 5, Điều 3 Luật TTHC) và theo quy định tại khoản 1, Điều 8
Luật TTHC thì đương sự là một chủ thể của hoạt động chứng minh và là chủ thể
đầu tiên, quan trọng nhất của hoạt động chứng minh, có tất cả các quyền và nghĩa

vụ chứng minh. Điều này được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Một là, quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự - một nguyên tắc
cơ bản của Luật TTHC.
Nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong Luật
TTHC được kế thừa quy định tại Điều 5 PLTTGQVAHC năm 1996 (sửa đổi, bổ
sung 1998, 2006). Điều 8 Luật TTHC quy định: “đương sự có quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và
hợp pháp”.

13


Nội dung nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự được thể hiện ở
hai mặt6:
Thứ nhất, theo nguyên tắc đương sự có nghĩa vụ chứng minh. Trong TTHC
cũng giống như trong Tố tụng dân sự, các đương sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
nên phải chứng minh yêu cầu của mình còn Tòa án chỉ là trọng tài ra phán quyết.
Theo đó, khi người khởi kiện đưa ra yêu cầu (bao gồm yêu cầu về sự công nhận là
đúng, là có lý và cả yêu cầu công nhận là không đúng, không có lý cuả quyết định
hành chính, hành vi hành chính) thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp, ngược lại khi người bị kiện bác bỏ lại yêu cầu của
người khởi kiện thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho việc bác bỏ đó là có căn cứ và
nghĩa vụ chứng minh cũng được đặt ra đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan khi đưa ra yêu cầu của mình. Nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về
quyền tự định đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do chính họ quyết
định. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp các đương sự đều phải thực hiện
hoạt động chứng minh.
Theo quy định tại khoản 3, Điều 23 Luật TTHC thì nếu quyết định hành
chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu họ không có người khởi kiện thì

Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú cử
người giám hộ đứng ra khởi kiện VAHC để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người đó.
Thứ hai, khi người khởi kiện đưa ra yêu cầu nhưng lại không chứng minh
cho yêu cầu của mình thì không được Tòa án công nhận các quyền và lợi ích hợp
pháp. Ngược lại, nếu người khởi kiện cung cấp được đầy đủ các chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật
thì dựa trên cơ sở đó Tòa án ra bản án, quyết định chấp nhận yêu cầu của người
khởi kiện.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự đã trở thành một nguyên tắc trong
TTHC. Sỡ dĩ, quy định đương sự có nghĩa vụ chứng minh là vì:

6 Quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự – một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự:
/>p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=17281783 (truy cập ngày 26/4/2014).

14


Thứ nhất, đương sự là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung nên họ biết
được tất cả các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ án, vì vậy họ biết được chứng cứ
nào là cần thiết cho yêu cầu của họ.
Thứ hai, đương sự là người có quyền và lợi ích liên quan trực tiếp đến vụ án
và để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ phải cung cấp chứng cứ
để chứng minh.
Như vậy, nghĩa vụ chứng minh được quy định cho cả người khởi kiện; người
bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây là quy định của Luật TTHC
nhằm đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công dân được quy định trong Hiến pháp
2013 nói chung7 và đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong TTHC nói riêng 8. Đồng
thời đảm bảo quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị người khác
xâm hại.

Nguyên tắc này khác hẳn so với quy định của một số nước:
Ở Pháp, người ta đưa ra một nguyên tắc sau: nếu Tòa án đã thông báo cho cơ
quan Nhà nước về việc mình bị kiện và yêu cầu trả lời trong một thời hạn nhất định,
mà quá thời hạn đó cơ quan Nhà nước vẫn im lặng thì Toà án sẽ coi những lời trình
bày của công dân là đúng sự thật.
Luật TTHC của Trung Quốc quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ
quan hành chính. Khác với vụ kiện dân sự, việc thu thập chứng cứ thuộc về nguyên
đơn; trong TTHC, cơ quan hành chính có nghĩa vụ chứng minh tính đúng đắn của
hành vi bị kiện của mình. Quy định này dựa trên căn cứ sau đây:
− Cơ quan hành chính có đầy đủ căn cứ về pháp luật và sự việc khi thực hiện hành vi
của mình.
− Người khiếu nại không thể nắm được toàn bộ căn cứ của quyết định hoặc hành vi
hành chính bị kiện nếu buộc họ phải có nghĩa vụ chứng minh thì khiếu nại có nguy
cơ bị bác do có khó khăn về chứng cứ.
Quy định này đã lưu ý cơ quan hành chính khi thực hiện chức trách của mình
tránh việc ra các văn bản tuỳ tiện không thuộc thẩm quyền của mình 9.
Một điểm cần lưu ý là trong cách quy định về quyền và nghĩa vụ cung cấp
chứng chứng minh của đương sự ở Điều 8 và Điều 72 Luật TTHC, gây ra hiểu lầm
rằng giữa hai điều luật này có sự mâu thuẫn. Theo đó, Điều 72 của Luật quy định
“nghĩa vụ” nhưng Điều 8 không nói đương sự có nghĩa vụ mà ghi là có “quyền và
7 Khoản 1 Điều 16 Hiến pháp 2013: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”.
8 Điều 10 Luật TTHC 2010.
9 (truy cập ngày 22/05/2014).

15


nghĩa vụ”. Về mặt câu chữ dường như giữa hai điều luật có sự mâu thuẫn nhưng xét
về bản chất và tinh thần luật TTHC thì Điều 72 chỉ nhằm bổ sung và cụ thể hóa hơn
cho Điều 8. Theo đó, Điều 8 là điều luật mang tính nguyên tắc chung và dựa trên

nguyên tắc chung ấy Điều 72 giải thích và làm rõ hơn quyền, nghĩa vụ của các
đương sự.
Bên cạnh đó, khi các đương sự đưa ra yêu cầu của mình thì các đương sự có
quyền cung cấp chứng cứ chứng minh nhằm đạt được những lợi ích mà các bên
hướng đến, bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình; ngược lại
khi đương sự không chứng minh được yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp
sẽ phải gánh chịu hậu quả là Tòa án bác bỏ yêu cầu và xử thua kiện. Sở dĩ luật
TTHC quy định như trên nhằm tạo ra sự chủ động, khuyến khích các đương sự
trong việc cung cấp chứng cứ (quyền), mặt khác tạo ra cơ chế ràng buộc trách
nhiệm của họ khi không chứng minh được yêu cầu của mình (nghĩa vụ).
Hai là, người khởi kiện vừa là người phát động, đồng thời là người giới
hạn hoạt động chứng minh.
Đơn khởi kiện chính là biểu hiện rõ nét nhất của quyền đi kiện (tố quyền)
của cá nhân, cơ quan tổ chức. Khi được thụ lý, đơn khởi kiện sẽ làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong Luật TTHC, buộc người khởi kiện
không thể tự xử để bảo vệ quyền lợi của mình và người bị kiện dù không muốn
cũng bị xét xử; mặt khác, đây cũng là cơ sở ràng buộc Tòa án có thẩm quyền phải
giải quyết yêu cầu của người khởi kiện. Trong quá trình chứng minh nói chung lại
diễn ra nhiều quá trình chứng minh nhỏ như chứng minh cho yêu cầu của người
khởi kiện, bác yêu cầu của người bị kiện, yêu cầu phản tố của người bị kiện, yêu
cầu của người thứ ba… nhưng có một điểm chung là tất cả các yêu cầu đó đều bắt
đầu phát sinh từ người khởi kiện hay người khởi kiện là người bắt đầu hoạt động
chứng minh.
Bản chất của quá trình tố tụng là giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng giữa
hai bên khởi kiện – bên bị kiện, lợi ích của một bên sẽ đồng thời là nghĩa vụ của bên
kia. Vì thế cần thiết phải có một bên thứ ba trung lập, khách quan đứng ra giải quyết
và điều hòa lợi ích giữa các bên – trọng trách này được giao cho nhà nước và thể
hiện cụ thể là Tòa án có thẩm quyền với quyền lực cưỡng chế cũng như tính trung
lập sẽ đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên, duy trì trật tự và ổn định của
xã hội. Tuy vậy, trách nhiệm của Tòa án cũng chỉ được thực hiện khi đương sự có

yêu cầu, điều này thể hiện rõ nét nhất quyền tự định đoạt của đương sự trong

16


TTHC. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, những kết luận, quyết định của Tòa
án cũng dựa trên hoạt động chứng minh của đương sự. Là người đưa ra yêu cầu,
phát động tranh chấp nên thông thường người khởi kiện là người bắt đầu hoạt động
chứng minh và cũng chính từ yêu cầu của người khởi kiện sẽ giới hạn hoạt động
chứng minh không chỉ của đương sự mà còn của Tòa án và những chủ thể khác của
hoạt động chứng minh.
Ví dụ khi người khởi kiện khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dung đất. Người khởi kiện phải chứng minh mình có căn cứ
chứng minh quyết định hành chính đó là sai. Nếu người bị kiện không đồng ý, họ sẽ
phải chứng minh điều ngược lại. Tòa án cũng chỉ cần kiểm tra Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất có hợp pháp hay không? Hoạt động chứng minh trong vụ án này
sẽ bắt đầu khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện và được Tòa án thụ lý. Trong đơn
khởi kiện, người khởi kiện sẽ thực hiện họat động chứng minh thông qua việc cung
cấp những chứng cứ như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết định thu hồi
đất,… Toàn bộ quá trình chứng minh sẽ xoay quanh các quyết định này.
Ba là, đương sự – chủ thể chứng minh chủ yếu.
Khi người khởi kiện sử dụng quyền đi kiện (hành xử tố quyền) của mình thì
cũng là lúc vụ án được phát động kéo theo đó là rất nhiều các chủ thể khác nhau bao
gồm hai loại chính là người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng. Mỗi người một chức năng, nhiệm vụ khác nhau và trong đó,
hầu hết đều liên quan đến hoạt động chứng minh nhưng hoạt động chứng minh của
đương sự là chủ yếu bởi một số điểm như sau:
Thứ nhất, đương sự là người thực hiện hầu hết công việc thu thập và cung
cấp chứng cứ.
Luật TTHC quy định nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ chủ yếu thuộc

về phía đương sự, Tòa án chỉ tham gia thu thập trong một số ít trường hợp như lấy
lời khai của người làm chứng khi xét thấy cần thiết (khoản 1 Điều 80), đối chất khi
thấy có sự mâu thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng (khoản 1
Điều 81), xem xét thẩm định tại chỗ (Điều 82),... Còn lại, các biện pháp thu thập
chứng cứ khác được quy định tại chương VI (Chứng minh và chứng cứ) đều thuộc
về đương sự như: đương sự có quyền được khai báo (Điều 79), yêu cầu lấy lời khai
của người làm chứng (Điều 80), yêu cầu đối chất (Điều 81), giám định, giám định

17


bổ sung (Điều 83), yêu cầu định giá tài sản, thẩm định giá tài sản (Điều 85), yêu cầu
cơ quan tổ chức, cá nhân đang nắm giữ giao chứng cứ (điểm b, khoản 2 Điều 87)…
Đương sự có thể thực hiện quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình thông qua
hai cách là tự mình thu thập hoặc nhờ Tòa án thu thập hộ khi đủ điều kiện quy định
tại khoản 2 Điều 78.
Trong giai đoạn cung cấp chứng cứ thì đương sự chính là người cung cấp
chứng cứ cho Tòa án. Đây chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ án,
chứng cứ nhiều hay ít sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ càng cụ
thể, xác đáng bao nhiêu thì việc tranh luận và trách nhiệm của Tòa án càng đơn giản
bấy nhiêu. Quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự được quy định
thành một nguyên tắc tố tụng áp dụng cho cả trường hợp người giám hộ được Ủy
ban nhân dân cấp xã cử để khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu họ không có người khởi
kiện. Người khởi kiện phải thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ ngay khi nộp đơn
khởi kiện tại Tòa án theo quy định tại Điều 105 Luật TTHC “Người khởi kiện phải
nộp kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi Tòa án thông báo về việc khởi kiện của
người khởi kiện “Trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày nhận được thông báo,

người được thông báo phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu
cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có” 10. Trong quá trình
giải quyết vụ án đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất kỳ giai đoạn nào, nếu
không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu những hậu quả về việc đó
“Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền và nghĩa vụ
giao nộp chứng cứ cho Tòa án; Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ
thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc không nộp đầy đủ đó…” 11. Tại phiên
tòa sơ thẩm đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có
quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp”. Đương sự còn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc thẩm “kèm theo đơn
kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ sung nếu có để chứng minh cho kháng cáo của
mình là có căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm đương sự, Kiểm sát viên
có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ (Điều 189 Luật TTHC). Trong giai đoạn
giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đương sự cũng có thể giao
10 Khoản 1 Điều 115 Luật TTHC 2010.
11 Khoản 1 Điều 84 Luật TTHC 2010.

18


nộp chứng cứ bổ sung tại Tòa án hoặc Viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của
mình.
Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung
cấp mở rộng tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đương sự có thể phát
huy hết khả năng của mình trong việc cung cấp chứng cứ. Quy định này tương tự
như pháp luật Đức, Toà án bảo đảm cho các bên có quyền đưa ra lập luận của mình
tại phiên xét xử. Trong khi đó, một số nước như Pháp, Thuỵ Điển đề ra nguyên tắc
tố tụng viết, nghĩa là mọi sự tranh luận giải trình giữa các bên đều thể hiện bằng văn
bản. Toàn bộ hồ sơ vụ, việc cũng như các căn cứ pháp luật cho việc giải quyết tranh
chấp được hoàn chỉnh trước khi mở phiên toà và vì thế phiên toà công khai ít nhiều

mang tính hình thức vì sự phát biểu của các bên rất hạn chế. Trước toà, họ không có
quyền đưa ra chứng cứ mới trừ những trường hợp rất hạn hữu 12.
Thứ hai, đương sự là người tham gia tích cực trong hoạt động nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ.
Hoạt động chứng minh của đương sự bao gồm các hoạt động cung cấp, thu
thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, do đó ngoài nghĩa vụ thu thập chứng cứ để
cung cấp cho Tòa án, đương sự còn có nghĩa vụ nghiên cứu chứng cứ mà mình thu
thập được trong vụ án, tiến hành xác minh những chứng cứ mình đưa ra có hợp
pháp hay không. Liên quan đến hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong
TTHC, đương sự có một số quyền như: Đương sự có quyền “được biết, ghi chép,
sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu
thập” (điểm d, khoản 2, Điều 49 Luật TTHC). Thông qua quyền “được biết” này,
đương sự sẽ có sự chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như
tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương. Tại phiên tòa
sơ thẩm hoặc phúc thẩm đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa (Điều
131,132 Luật TTHC), được nghe lời trình bày của các bên (Điều 149, 150, 151 Luật
TTHC), tranh luận giữa các đương sự. Đây là sự thể hiện rõ ràng nhất về vai trò của
đương sự trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như trong quá trình chứng
minh.
Thứ ba, vai trò chứng minh nổi bật của đương sự trong sự so sánh với các
chủ thể khác của hoạt động chứng minh.
Chủ thể của hoạt động chứng minh không chỉ có các đương sự mà còn nhiều
người khác như người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, Viện kiểm sát và Tòa án. Xuất phát từ vị trí, vai trò của những
12 (truy cập ngày 22/05/2014).

19


chủ thể này là khác nhau khi tham gia quan hệ tố tụng nên vai trò chứng minh và

phạm vi chứng minh của họ cũng khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng cụ
thể. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng dù trực tiếp hay gián tiếp thì vai trò chứng
minh của các chủ thể này cũng phái sinh từ vai trò chứng minh của đương sự.
1.2.2

Người đại diện của đương sự

Đại diện của đương sự được xác định là người tham gia tố tụng thay mặt
đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trước Tòa án. Như vậy, đại diện của đương sự có quyền thay
mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh. Đại diện đương sự có
quyền này là do: đối với đương sự là cá nhân vì có những đặc điểm đặc biệt về tinh
thần và thể chất, họ thua kém người bình thường, nếu để họ tự thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh thì họ không thể thực hiện được. Do đó, để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự này pháp luật đã cho phép đại diện của họ được thực
hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh thay họ. Còn đối với đương sự là cơ quan, tổ
chức xuất phát từ tính chất của cơ quan, tổ chức là một tập thể người mà quyền và
nghĩa vụ chứng minh phải do một chủ thể cụ thể thực hiện nên phải có người đứng
đầu đại diện cho cả tập thể tham gia vào hoạt động chứng minh để bảo vệ quyền lợi
cho cơ quan, tổ chức đó.
Đại diện trong Luật TTHC có hai loại được quy định tại Điều 54 Luật
TTHC, bao gồm người đại diện theo pháp luật13 và người đại diện theo ủy quyền14.
Nghĩa vụ chứng minh của người đại diện được hình thành trên cơ sở nghĩa
vụ chứng minh của đương sự. Do đó, quyền và nghĩa vụ chứng minh của người đại
diện cũng tương tự đối với đương sự. Tùy thuộc vào họ là loại đại diện nào mà
phạm vi quyền và nghĩa vụ của họ tương ứng với loại đại diện đó. Đối với đại diện
theo pháp luật, họ được thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự nhưng đối với đại diện theo ủy quyền thì họ chỉ được thực hiện quyền và
nghĩa vụ chứng minh trong phạm vi ủy quyền. Ngoài ra còn tùy thuộc người đại
diện thực hiện việc đại diện cho bên đương sự nào mà họ có quyền và nghĩa vụ

chứng minh tương ứng.
13 Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 thì người đại diện theo pháp luật bao gồm có cha mẹ đối với con
chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, người được Tòa án chỉ định đối với người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đứng đầu pháp nhân theo quy định của điều lệ hoặc theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chủ hộ gia đình đối với gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác
(Điều 142 Bộ luật Dân sự 2005).
14 Người đại diện theo ủy quyền cũng là người thay mặt cho đương sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố
tụng nhưng thông qua một giấy ủy quyền thể hiện ý chí của người đại diện và người được đại diện, phạm vi
đại diện được ghi nhận một cách cụ thể trong giấy ủy quyền đó, có thể đại diện một phần hay toàn bộ.

20


Vì đại diện thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh thay cho đương sự nên
nếu là đại diện cho người khởi kiện thì người đại diện phải có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ, tình tiết liên quan đến vụ việc trước, người đại diện cho người bị kiện nếu
phản đối lại yêu cầu của người khởi kiện thì phải đưa ra bằng chứng cho việc phản
đối đó, người đại diện cho người có quyền và nghĩa vụ liên quan cũng thực hiện
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích khi có
yêu cầu độc lập hoặc đứng về phía người khởi kiện hay người bị kiện. Bên cạnh đó,
người đại diện có quyền và nghĩa vụ chứng minh khác nhau.
Khi tham gia vào hoạt động chứng minh, người đại diện có toàn quyền trong
việc đề ra các yêu cầu, phản yêu cầu và chứng minh cho những ý kiến đó. Nhưng dù
là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của đương sự thì vai trò chứng
minh của họ cũng phát sinh sau khi phát sinh vai trò chứng minh của đương sự.
Đương sự không thể hoặc có hạn chế nhất định không thực hiện được quyền và
nghĩa vụ của mình thì theo quy định của pháp luật họ có thể nhờ đến sự giúp đỡ của
người đại diện hoặc Tòa án sẽ chỉ định người đại diện cho họ. Hoạt động chứng
minh của người đại diện là “thay mặt” đương sự, hành vi chứng minh của họ cũng
chính là hành vi của đương sự và hướng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đương

sự. Khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện của họ cũng chấm dứt.
Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp gặp nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh hạn chế hơn.
Còn đương sự là chủ thể của quan hệ tranh chấp, lợi ích của họ gắn với đó, họ là
người hiểu nhất về quyền và nghĩa vụ của mình, về nguyên nhân phát sinh tranh
chấp, về thực trạng quan hệ pháp luật của mình… nên hoạt động chứng minh sẽ dễ
dàng và hiệu quả hơn. Mặc dù chứng minh là một vấn đề rất quan trọng trong quá
trình giải quyết VAHC, việc quy định cụ thể chủ thể nào có nghĩa vụ chứng minh là
một vấn đề rất có ý nghĩa nhằm ràng buộc trách nhiệm của chủ thể chứng minh,
nhưng trong Luật TTHC 2010 không có một quy định cụ thể nào về quyền và nghĩa
vụ chứng minh của người đại diện.
1.2.3

Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự

Tất cả các đương sự khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHC, không phải
khi nào họ cũng có thể hiểu biết pháp luật một cách đầy đủ và đúng đắn, có những
đương sự tầm hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Do đó, khi tham gia tố tụng, để đảm
bảm cho việc thực hiện quyền và lợi ích của mình được hiệu quả, họ có thể nhờ một
chủ thể khác có khả năng, có hiểu biết pháp luật để giúp đỡ họ - đó là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Những người này có thể là luật sư hoặc
bất cứ chủ thể nào đủ điều kiện mà đương sự tin tưởng. Đây cũng là một chủ thể
21


của hoạt động chứng minh, họ có thể tham gia vào vụ án ở bất cứ giai đoạn nào,
được tham gia phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Tham gia
vào hoạt động chứng minh, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
có quyền và nghĩa vụ: xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà
án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ

vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; tham gia
phiên toà hoặc có văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự…15
Trong trường hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự chỉ dừng lại ở việc giúp đỡ đương sự khi được “nhờ”,
đương sự vẫn là người đề ra việc chứng minh, yêu cầu hoặc phản yêu cầu nhưng do
có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên họ phải cầu cứu đến
sự hỗ trợ, những người này chỉ có quyền chứ không có nghĩa vụ chứng minh, việc
chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ. Người
bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có thể không có mặt tại phiên tòa (Điều 131
Luật TTHC).
Theo quy định của pháp luật TTHC Việt Nam, vị trí pháp lý của người bảo
vệ quyền lợi của đương sự không có gì khác so với đương sự vì họ cùng thuộc
nhóm người tham gia tố tụng. Họ không có quyền thay mặt đương sự mà chỉ có thể
giúp đỡ đương sự. Suy cho cùng, trong hoạt động chứng minh đương sự vẫn tự
mình quyết định, tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Điều này cũng là một
minh chứng cụ thể cho vai trò nổi bật của đương sự.
Như đã trình bày ở trên, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự tham gia khi đương sự nhờ và giúp đương sự về mặt pháp lý. Do đó, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không tham gia chứng minh một mình
mà tham gia song song với đương sự. Nếu là người bảo vệ quyền lợi cho người khởi
kiện hay người bị kiện thì cùng người khởi kiện hay người bị kiện chứng minh yêu
cầu của họ, nếu là người bảo vệ cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì
cũng phải giúp người có quyền lợi và nghĩa vị liên quan chứng minh để bảo vệ
quyền lợi liên quan đó. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng
là một chủ thể chứng minh, tuy nhiên, cũng giống như người đại diện, nghĩa vụ
chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được
Luật TTHC quy định một cách rõ ràng, cụ thể.
15 Khoản 4 Điều 55 Luật TTHC 2010.

22



1.2.4

Tòa án nhân dân

Tuy Luật TTHC quy định nghĩa vụ chứng minh chủ yếu thuộc về đương sự,
nếu đương sự không chứng minh được thì thua kiện nhưng điều đó không có nghĩa
là Tòa án đứng ngoài cuộc của quá trình chứng minh 16. Khoản 2 Điều 8 Luật TTHC
quy định: “Toà án tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp
do Luật này quy định”. Điều 78 quy định vai trò của Tòa án tham gia chứng minh
bằng việc: 1) yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ nếu xét thấy chứng cứ
trong hồ sơ VAHC chưa đủ cơ sở giải quyết và 2) trường hợp đương sự không thể
tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu hoặc xét thấy cần thiết, Toà án có thể
tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết
của vụ án.
Trong hoạt động chứng minh thì đối tượng chứng minh không chỉ là các sự
kiện, tình tiết khách quan mà còn các căn cứ pháp lý của các yêu cầu của đương sự.
Tòa án tham gia vào hoạt động chứng minh nhằm thu thập chứng cứ và đánh giá
chứng cứ để làm sáng tỏ vụ án. Khi thụ lý vụ án, trước tiên là Tòa phải xác định
những tình tiết, sự kiện nào cần chứng minh cho yêu cầu của đương sự, yêu cầu
đương sự cung cấp chứng cứ cần thiết. Sau đó, Tòa án tiến hành xem xét, đánh giá
chứng cứ nhằm xác minh giá trị chứng minh của chứng cứ, làm sáng tỏ tất cả các
tình tiết, sự kiện cần chứng minh trong vụ án.
Để chứng minh, các chủ thể đều có quyền đánh giá chứng cứ nhưng vai trò
của Tòa án trong việc đánh giá chứng cứ là quan trong nhất.
Trước đây PLTTGQVAHC quy định chứng cứ và chứng minh rất sơ sài,
đồng thời chưa quy định nguyên tắc tranh tụng nên trong thực tế việc thừa nhận và
áp dụng những quy định này còn vướng mắc và thiếu thống nhất, dẫn đến việc đùn
đẩy trách nhiệm, đương sự chưa thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của

mình, việc thu thập chứng cứ và chứng minh các tình tiết của vụ án phó mặc cho
Tòa án thực hiện, dẫn đến phán quyết của Tòa án thiếu khách quan. Trong nhiều vụ
án Tòa án phải tiến hành tất cả các công việc từ thu thập chứng cứ đến kiểm tra, xác
minh, đánh giá chứng cứ và ra phán quyết, thậm chí có vụ án không giải quyết được
do đương sự giữ chứng cứ mà không cung cấp cho Tòa án, hoặc biết các tình tiết, sự
kiện liên quan đến vụ án mà không cung cấp, Tòa án không có cơ sở để ra phán
quyết trong khi đó đương sự là người đưa ra yêu cầu để Tòa án giải quyết.
Sở dĩ pháp luật Việt Nam quy định Tòa án có nghĩa vụ chứng minh là do
những nguyên nhân sau:
16 Trường Đại Học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh, tlđd số 03, tr. 3.

23


Thứ nhất, khả năng tự bảo vệ của các đương sự là rất yếu, sự hiểu biết pháp
luật của họ còn hạn hẹp. Hơn nữa, Việt Nam chưa có chế định tham gia bắt buộc
của luật sư và cũng chưa có điều kiện để thực hiện tốt chế định này. Nếu quy định
đương sự có nghĩa vụ chứng minh toàn bộ thì có thể dẫn tới các đương sự không có
khả năng chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và hậu quả là
quyền và lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ.
Thứ hai, do ở nước ta việc phổ cập các loại giấy tờ, tài liệu còn hạn chế, có
những văn bản hiện đang do một số cơ quan quản lý, thêm vào đó là việc quản lý
hành chính còn cồng kềnh, quan liêu, điều kiện máy móc, trang thiết bị chưa cho
phép phổ cập tất cả thông tin này đến tất cả mọi người. Vì vậy, việc thu thập chứng
cứ đối với đương sự trong những trường hợp này là rất khó khăn, đôi khi không
thực hiện được. Để đảm bảo quyền lợi cho đương sự thì trong trường hợp này phải
có sự can thiệp của Tòa án.
Thứ ba, xuất phát từ chức năng của Tòa án phải tiến hành các hoạt động xác
minh, thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, làm rõ các căn cứ thực tế và căn cứ
pháp lý của vụ án “một người hành nghề pháp luật phải có khả năng đánh giá về

mặt thực tế và pháp lý đối với những gì mình viết ra trong bản kết luận của mình,
đây là một điều hết sức sơ đẳng”17.
Như vậy, từ ba nguyên nhân trên, việc quy định Tòa án có nghĩa vụ chứng
minh trong điều kiện, hoàn cảnh ở nước Tòa án hiện này là rất phù hợp và cần thiết.
Để chứng minh, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ, hoạt động này mang
tính bổ trợ, bổ sung cho việc thu thập chứng cứ của đương sự. Nghĩa vụ thu thập
chứng cứ trong trường hợp này thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết vụ
án, bởi vì trong quá trình thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Tòa án
đương sự gặp phải khó khăn, có các chứng cứ do cơ quan, tổ chức nắm giữ nhưng
khi đương sự yêu cầu thì họ không cung cấp cho đương sự, họ cho rằng họ không
có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ cho đương sự. Do đó, khi đương sự yêu cầu,
Thẩm phán buộc phải dùng quyền lực của mình yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
đang nắm giữ chứng cứ phải giao nộp cho Tòa án để Tòa án giải quyết vụ án.
Để xác minh, thu thập chứng cứ thì Thẩm phán có thể thực hiện một trong
các biện pháp được quy định tại Điều 78 Luật TTHC, có thể lấy lời khai của đương
sự, người làm chứng; trưng cầu giám định; quyết định định giá tài sản; xem xét,
thẩm định tại chỗ; có thể là ủy thác thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật liên
quan đến việc giải quyết VAHC.
17 Ủy ban Tư pháp, “Kỷ yếu hội thảo pháp luật Tố tụng dân sự Việt – Nhật”, tháng 8 năm 1999, Hà Nội.

24


Hoạt động chứng minh của Tòa án là quá trình tư duy logic, trên cơ sở các
chứng cứ đã thu thập được, tại phiên tòa Thẩm phán cùng Hội thẩm nhân dân tổng
hợp các chứng cứ đó, lắng nghe các bên đương sự tranh luận và tiến hành xác minh,
đánh giá chứng cứ để chứng minh những căn cứ làm cơ sở cho việc ra phán quyết.
Khác với đương sự, trong một số trường hợp đương sự không phải thực hiện nghĩa
vụ chứng minh, ví dụ khi có sự thừa nhận của một bên đương sự thì bên đương sự

còn lại được giải phóng khỏi nghĩa vụ chứng minh. Còn đối với Tòa án, trách nhiệm
giải quyết đối với vụ án là rất quan trọng nên trong các trường hợp mặc dù đương
sự được giải phóng khỏi nghĩa vụ chứng minh nhưng không đồng thời giải phóng
nghĩa vụ chứng minh của Tòa án. Tòa án vẫn phải xác minh lời thừa nhận đó của
đương sự để làm căn cứ ra phán quyết đúng đắn.
Với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng nên sự đánh giá chứng cứ của Tòa
án có ý nghĩa quyết định việc sử dụng những chứng cứ, từ đó xác định rõ những
tình tiết, sự kiện làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự. Tuy nhiên điều này không có
nghĩa là Tòa án có nghĩa vụ chứng minh các tình tiết của vụ án. Tòa án có trách
nhiệm xem xét các tình tiết của vụ án, xác định có cơ sở chấp nhận yêu cầu của
đương sự hoặc không, áp dụng các quy định của pháp luật phù hợp để đưa ra kết
luận chính xác về vụ án. Vì vậy, Tòa án có nghĩa vụ phải chứng minh tính có căn cứ
và tính hợp pháp về những kết luận thể hiện trong quyết định, bản án của mình,
khác với nghĩa vụ chứng minh của đương sự, họ phải chứng minh sự tồn tại các tình
tiết, sự kiện mà họ dựa vào đó làm cơ sở cho những yêu cầu hoặc phản bác yêu cầu
của mình.
Như vậy Tòa án có nhiệm vụ rất lớn trong hoạt động chứng minh, nhưng
không phải chứng minh thiên vị cho yêu cầu của một bên đương sự mà chủ yếu để
làm rõ cơ sở cho quyết định của mình, bảo đảm khách quan, đúng pháp Luật.
1.2.5

Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát tham gia tố tụng là để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của các chủ thể tham gia tố tụng (Điều 23 Luật TTHC).
Đối với việc tham gia của Viện kiểm sát vào hoạt động chứng minh, Luật
TTHC không quy định trực tiếp về nghĩa vụ chứng minh nhưng khoản 3, Điều 78
Luật TTHC quy định: “Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập
chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản án, quyết
định của Toà án, Viện kiểm sát có thể tự mình thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng

trong quá trình giải quyết vụ án”.
Theo quy định trên, khi Viện kiểm sát xét thấy cần xác minh, thu thập thêm
chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án có căn cứ và đúng pháp Luật thì
25


×