Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tiểu luận Phân tích tình hình bồi thường và chi trả của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ tại công ty bảo hiểm DaiichiLife giai đoạn 20132015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (246.83 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Bảo hiểm là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với người lao động
nhằm góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động khi gặp rủi ro như: ốm đau, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sẩy, hết tuổi lao động, qua đời.
Bảo hiểm nhân thọ là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời đầu tiên nhằm
giúp cho con người khắc phục hỗ trỡ cũng như đề phòng nhưng rủi ro tai nạn mà con
người có thẻ gặp phải trong cuộc sống, làm đamr bảo an sinh xã hội, đi liền với đó là
công tác bồi thường chi trả tiền bảo hiểm là một trong những khâu quan trọng nhất trong
nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ.
Hiện nay nền kinh tế nước ta ngày càng mở của và hội nhập hơn với thế giới vì thế
BHNT ngày càng được mở rộng và phát triển hơn về quy mô và tầm ảnh hưởng . Do vậy
công tác bồi thường và chi trả dần trở thành mối quan tâm hàng đầu trong ngành bảo
hiểm nói chung và BHNT nói riêng.
Với vai trò là một sinh viên khoa Bảo hiểm, trường Đai học Lao động xã hội, với
những kiến thức đã được thầy cô giáo truyền thụ, em cũng muốn nghiên cứu và tìm hiểu
về vấn đề đang rất được quan tâm hiện nay, vấn đề công tác bòi thường chi trả bảo hiểm.
Do đó, em đã chọn đề tài " Phân tích tình hình bồi thường và chi trả của nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọi tại công ty bảo hiểm Daiichi-Life giai đoạn 2013-2015" cho bài viết tieur
luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu

-Nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ hơn vai trò của công tác bồi thường, chi trả tiền
bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
-Đánh giá thực trạng công tác bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm của công ty bảo
hiểm nhân thọ Daiichi-life Vietj nam giai đoạn 2013-2015


-Đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm hoàn thieenh công tác bồi thường, chi
trả trong nghiêp vụ bảo hiểm nhân thọ


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Các cơ sở lý luận về công tác bồi thường, chi trả và thực
trạng thực hiện công tác bồi thường chi trả tại công ty BHNT Daiichi-life Việt nam
-Phạm vi nghiên cứu: trong phạm vi bồi thường chi trả của công ty bảo hiểm nhân
thọ Daiichi-life việt nam giai đoạn nắm 2013-2015
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, phân tích thống kê số liệu
-Phương pháp tổng hợp sánh trên cơ sơ bao cáo tổng kết của tỉnh Tuyên Quang giai
đoạn năm 2013-2015
-Một số phương pháp khác…
5. Nội dung nghiên cứu
Bài viết chuyên đề ngoài phần mở đầu, kết luận thì phần nội dung bao gồm ba nội
dung chính
Chương 1: tổng quan vè nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ và công tác bồi thường chi trả
của nghiệp vụ
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý thu BHXH khối DNNQD tại tỉnh Tuyên
Quang giai đoạn 2012-2015
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối thu BHXH khối
DNNQD của tỉnh Tuyên Quang


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM NHÂN
THỌ VÀ CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG CHI TRẢ CỦA NGHIỆP VỤ.
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ
1.1.1Sự cần thiết của BHNT
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù
đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những
rủi ro bất ngờ xảy ra. Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác
nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả của rủi ro gây ra như: phòng tránh,
cứu trợ, tiết kiệm…nhưng một trong những biện pháp mà các nhà quản lý rủi ro cho là có

hiệu quả nhất, đó chính là Bảo hiểm
Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường (theo quy luật
thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm
vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc người
thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham gia bảo hiểm chuyển rủi ro cho người bảo hiểm
bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến
tổn thất thì người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm
vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia
đăng ký với người bảo hiểm. Đây được coi là định nghĩa mang tính chung nhất của bảo
hiểm.
Bảo Hiểm Nhân Thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia( hoặc người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy
ra( trong trường hợp người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất
định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, Bảo
Hiểm Nhân Thọ là quá trình bảo hiểm cho các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc
sống và tuổi thọ của con người. Cùng với các loại hình BH khác thì BHNT là một trong
nhưng loại hình ra đời sớm nhất. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ đã đóng
góp một phần không nhỏ vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham
gia bảo hiểm nhân thọ trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển
cũng như các nước đang phát triển
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý
nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dải, tạo ra được những cơ sở
vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước. Muốn thực hiện được thắng lợi mục
tiêu chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra thì nhân tố vốn đầu tư là rất quan trọng. Vốn đầu tư
chủ yếu được lấy từ quĩ tích luỹ của nền kinh tế quốc dân và nguồn vốn vay nước


ngoài. Một trong những mặt yếu kém của nền kinh tế nước ta thời gian qua là nguồn vốn

đầu tư phát triển bằng nguồn vốn trong nước tăng không đáng kể, mặc dù theo điều tra,
vốn trong dân không phải là nhỏ. Báo Đầu tư số ra gần đây cho biết: Nguồn vốn trong
dân ước tính trong các năm :
- Năm 1992: 9419 tỷ đồng chiếm 9,8% GDP.
- Năm 1994: 21.753 tỷ đồng chiếm 12,8% GDP.
- Năm 1995: 34.382 tỷ đồng chiếm 13,2% GDP.
Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước
cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho
đầu tư phát triển.
Bảo hiểm nhân thọ từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng
vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số
hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng lượng vốn mà công ty
bảo hiểm nhân thọ Việt Nam huy động được cũng là hết sức cần thiết trong điều kiện
kinh tế nước ta hiện nay.
1.1.2 Tác dụng của bảo hiểm nhân thọ
Bảo hiểm nhân thọ có rất nhiều tác dụng trong đời sống kinh tế xã hội. Chính những tác
dụng này đã giúp nó tồn tại và đạt được những thành công như ngày nay.

1Đối v ới ng ườ i tham gia bảo hiểm:
Bảo hiểm nhân thọ đã góp phần ổn định cuộc sống của dân cư, bảo vệ cho các cá nhân và
gia đình họ chống lại sự bất ổn định về tài chính gây ra bởi các bất hạnh như: tử vong, thương tật,
đau ốm, mất giảm thu nhập hoặc người trụ cột trong gia đình qua đời để lại một gánh nặng nghĩa vụ
chưa kịp hoàn thành ( trách nhiệm nuôi dưỡng người thân, bảo đảm học hành cho con cái, các
khoản vay thế chấp...). Nói cách khác bảo hiểm nhân thọ là sự chia sẻ các tổn thất giữa những
người tham gia bảo hiểm nhằm thay thế sự bất ổn bằng sự ổn định về tài chính trong các trường
hợp có sự cố bảo hiểm xảy ra. Trường hợp rủi ro không xảy ra, người tham gia bảo hiểm vẫn được
hưởng các quyền lợi từ số phí đã đóng.
Bảo hiểm nhân thọ cũng góp phần nâng cao sức khoẻ cho nhân dân thông qua việc kiểm tra
sức khoẻ miễn phí tại các trung tâm y tế do công ty bảo hiểm chỉ định trước khi ký kết hợp đồng.

Mặt khác, khi người được bảo hiểm gặp rủi ro như ốm đau, phẫu thuật tàn tật... công ty bảo hiểm
cũng chi trả một số tiền để họ phục hồi sức khoẻ nhanh chóng.

1.1.2.2Đối v ới nền kinh tế xã hội:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời cũng là một nhân tố thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Nó có một số
tác dụng sau:
+ Bảo hiểm nhân thọ góp phần tăng tích luỹ, tiết kiệm cho ngân sách. Trong thời kỳ bao cấp,
hàng năm ngân sách phải chi ra một khối lượng vốn khá lớn để bồi thường cho các cá nhân, công
ty gặp rủi ro (trợ cấp thôi việc, trợ cấp ốm đau...) dưới hình thức trợ cấp. Đây là điều bất hợp lý gây
cho ngân sách luôn bị thiếu hụt (bội chi), làm hạn chế việc phát triển kinh tế và các mặt khác của đời


sống xã hội. Ngày nay, mỗi cá nhân mua bảo hiểm nhân thọ là một cách tự bảo vệ mình, chủ động
đối phó với rủi ro, đồng thời còn tạo ra một khoản tiết kiệm. Sự giúp đỡ của ngân sách hay của các
tổ chức sử dụng lao động chỉ còn mang ý nghĩa động viên chứ không có vai trò quyết định căn bản
như trước kia nữa. Các quỹ dự phòng cho các trường hợp rủi ro có thể sử dụng vào các mục đích
khác.
Bảo hiểm nhân thọ góp phần thu hút vốn để phát triển kinh tế. Việt Nam đang thực hiện quá
trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Một trong những yếu tố đảm bảo thắng lợi mục tiêu
chiến lược kinh tế xã hội đã đề ra là vấn đề tạo vốn đầu tư. Nghị quyết đại hội Đảng VII đã khẳng
định nguồn vốn trong nước là chủ yếu, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Nhưng không có gì tốt
hơn là tự lực, tự cường bởi lẽ khi đón nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì chúng ta phải trả lãi
suất và ít nhiều mất tự chủ về kinh tế. Chẳng hạn trong các công ty liên doanh, khi các ông chủ
nước ngoài góp trên 50% vốn, họ chi phối hầu như toàn bộ hoạt động của công ty, người Việt Nam
chỉ là hình thức bên ngoài, trên thực tế không có quyền hành gì.
Bảo hiểm nhân thọ là một giải pháp huy động nguồn vốn dài hạn để đầu tư cho giáo dục từ
việc tiết kiệm thường xuyên, có kỷ luật của mỗi gia đình. Đây cũng là giải pháp đúng đắn góp phần
xây dựng mục tiêu công bằng xã hội. Vì dự trù cho tương lai giáo dục đối với con em mình cũng nên
coi là trách nhiệm của mỗi gia đình. Xét trên giác độ vi mô tham gia bảo hiểm nhân thọ vẫn sẽ đảm
bảo được quỹ giáo dục cho con cái ngay cả khi người trụ cột gia đình không may qua đời.

Bảo hiểm nhân thọ còn góp phần rất lớn vào giải quyết việc làm cho xã hội. Bảo hiểm là ngành có
mạng lưới đại lý rộng khắp trong và ngoài nước. Bảo hiểm nhân thọ là ngành thu hút nhiều lao động
hơn cả vì nó cần có một mạng lưới nhân viên khai thác bảo hiểm, máy vi tính, tài chính, kế toán...
rất lớn. Vì vậy, việc phát triển bảo hiểm nhân thọ sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm cho thị trường lao
động.
Mặc dù điều kiện sống hiện nay ngày càng được nâng cao nhưng những rủi ro bất ngờ luôn
rình rập xung quanh chúng ta và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tham gia bảo hiểm nhân thọ là cách
tự bảo vệ của mỗi cá nhân, mỗi gia đình chống lại sự bất ổn về tài chính nếu rủi ro xảy ra. Như vậy,
bảo hiểm nhân thọ góp phần làm giảm người bần cùng, nghèo khổ cho những bất hạnh trong cuộc
sống đem lại. Hơn nữa chúng ta phải lo cho tương lai của mình sau khi về hưu.
Nói cách khác, bảo hiểm nhân thọ đã góp phần giải quyết gánh nặng trách nhiệm của xã hội
đối với người lao động về hưu, tuổi cao.

1.1.3 Tính chất của BHNT
Để tiến hành kinh doanh một sản phẩm, một ngành nghề, một lĩnh vực nào đó thì trước hết
chúng ta phải nắm được tính năng và tác dụng của nó. Khác với các sản phẩm khác, sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ có đặc thù riêng.
Thứ nhất, bảo hiểm là một loại sản phẩm đặc biệt. Sở dĩ như vậy là vì sản phẩm bảo hiểm
là một dịch vụ, không những thế nó là một dịch vụ đặc biệt. Điều này được thể hiện rõ qua các đặc
tính cụ thể sau:

- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm không định hình. Thực chất của hoạt động bảo
hiểm là hoạt động chuyển giao rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm với người bảo
hiểm. Vào thời điểm bán, sản phẩm chủ yếu mà các nhà bảo hiểm cung cấp ra thị trường
chỉ là lời hứa, lời cam kết bồi thường hay trả tiền bảo hiểm của nhà bảo hiểm khi xảy ra


sự cố thuộc phạm vi bảo hiểm. Đó là sản phẩm vô hình mà người bán không chỉ ra được
màu sắc, kích thước hay hình dạng cảu nó và người mua cũng không cảm nhận được
bằng các giác quan của mình như cầm, nắn, sờ, mó, ngửi hay nếm thử. Người mua buộc

phải tin vào người bán - nhà bảo hiểm.
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm có hiệu quả về xê dịch. Có nghĩa là lợi ích đối
với khách hàng từ việc chi trả, bồi thường cũng bấp bênh và xê dịch theo thời gian.
Người ta mua bảo hiểm nhân thọ nhưng không biết mình sẽ sử dụng khi nào. đối với loại
sản phẩm chỉ mang tính rủi ro thì khách hàng mua bảo hiểm không những mong muốn
mà không bao giờ có ý nghĩ sẽ gặp rủi ro để được bồi thường.
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm "của chu trình sản xuất kinh doanh đảo ngược".
Các doanh nghiệp bảo hiểm không phải bỏ vốn trước mà nhận phí bảo hiểm trước của
người tham gia bảo hiểm đóng góp và thực hiện nghĩa vụ sau với bên được bảo hiểm khi
xảy ra sự cố bảo hiểm. Do vậy không thể tính được chính xác hiệu quả của một sản phẩm
bảo hiểm vào thời điểm bán sản phẩm.
- Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm dễ bắt chước. Một hợp đồng bảo hiểm dù là bản
gốc cũng không được cấp bằng phát minh sáng chế và không được bảo hộ về bản quyền.
Về lý thuyết, mọi doanh nghiệp bảo hiểm đều có thể bán một cách hợp pháp những hợp
đồng là bản sao chép của đối thủ cạnh tranh ngoại trừ tên và cách thức tuyên truyền
quảng cáo.
1.1.4 Đặc trưng của bảo hiểm nhan thọ
a. Tính đa mục đích của bảo hiểm nhân thọ:
Đối với các loại bảo hiểm khác, người mua bảo hiểm chỉ có một mục đích là khi xảy ra
rủi ro được trả một số tiền đủ để thanh toán các chi phí phát sinh. Trong bảo hiểm nhân
thọ, người tham gia trông mong nhiều hơn và thực sự bảo hiểm nhân thọ mang tính đa
mục đích hơn, thể hiện ở:
Thứ nhất, bảo hiểm nhân thọ tạo ra một khoản tiền đáng kể giúp người được bảo hiểm
thực hiện được các ý định, công việc của mình.
Thứ hai, khi người được bảo hiểm đóng vai trò là người trụ cột trong gia đình không may
tử vong, số tiền bảo hiểm lúc này là khoản thu nhập quí giá giúp gia đình người được bảo
hiểm trang trải các chi phí cần thiết.
Thứ ba, trong một giới hạn nhất định, hợp đồng bảo hiểm trong thời hạn hiệu lực được
coi như một Tài sản thế chấp để người được bảo hiểm vay tiền của ngân hàng.
Thứ tư, bảo hiểm nhân thọ đảm bảo được cuộc sống cho chính người được bảo hiểm lúc

tuổi già hay không may bị tàn tật.
b. Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất cho phép bảo hiểm hai sự
kiện trái ngược nhau trong cùng một hợp đồng:
Đó là hai sự kiện sống và chết. Trong bất kỳ một loại hình bảo hiểm nào khác, sự kiện
được bảo hiểm chỉ là một rủi ro gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Nếu như không


có rủi ro xảy ra trong thời hạn bảo hiểm nhà bảo hiểm sẽ hết trách nhiệm với người được
bảo hiểm. Nhưng trong bảo hiểm nhân thọ cụ thể trong loại hình bảo hiểm nhân thọ hỗn
hợp, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả một số tiền nhất định nếu người được bảo hiểm bị chết
trước một thời điểm nào đó đã được ghi trong hợp đồng hoặc nếu người được bảo hiểm
còn sống đến hết thời hạn hợp đồng.
Như vậy, việc trả tiền của nhà bảo hiểm là chắc chắn, nó chỉ còn tuỳ thuộc vào thời gian
xảy ra rủi ro và thời hạn của hợp đồng bảo hiểm của người được bảo hiểm.
Đây là một đặc trưng rõ nét nhất của bảo hiểm nhân thọ mà không một loại hình bảo
hiểm nào khác có được.
c. Vấn đề duy trì sức mua của đồng tiền trong bảo hiểm nhân thọ:
Vì thời gian của hợp đồng trong bảo hiểm nhân thọ là dải nên người ta không thể không
tính đến sức mua của đồng tiền. Trong thực tế, ở Việt nam có thời kỳ đồng tiền bị mất giá
tới hơn 90% trong 10 năm.
Ngoài các đặc trưng trên, một đặc trưng nữa của bảo hiểm nhân thọ đó là bảo hiểm
nhân thọ chịu sự tác động giao thoa của hai nhân tố: Nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài
chính. Cả hai nhân tố tuổi thọ và nhân tố Tài chính đều tác động đến quá trình tính phí
bảo hiểm và việc đem đầu tư số phí thu được của công ty bảo hiểm nhân thọ.
1.1.5 Các loại hình bảo hiểm nhân thọ
1.1.5.1Bảo hiểm trong trường hợp tử vong
Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm:
Bảo hiểm tử kỳ: (còn gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng có thời hạn):
Được ký kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu
cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất

cứ khoản phí nào từ số phí bảo hiểm đã đóng. Điều đó, cũng có nghĩa là người bảo hiểm
không phải thanh toán số tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm. Ngược lại, nếu cái
chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì người bảo hiểm phải có trách
nhiệm thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ
định.
*Đặc điểm chung:
-Thời hạn Bảo hiểm luôn luôn xác định;
-Quyền lợi và trách nhiệm mang tính tạm thời;
-Mức phí Bảo hiểm thấp nhất vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được Bảo
hiểm.
*Mục đích :
-Bảo đảm các chi phí mai táng, chôn cất, hồi hương.
-Bảo đảm cuộc sống cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn.
-Giúp gia đình trả nợ và thanh toán các khoản tiền vay thế chấp.
Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hoá thành các loại hình sau:


-Bảo hiểm tử kỳ cố định: có mức phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm cố định, không thay
đổi trong suốt thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Mức phí thấp nhất và người bảo hiểm
không thanh toán khi hết hạn hợp đồng. Hợp đồng hết hiệu lực nếu sau ngày gia hạn hợp
đồng không nộp phí bảo hiểm. Loại này chủ yếu nhằm thanh toán cho các khoản nợ tồn
đọng trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong.
-Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục: loại này có thể được tái tục vào kết thúc hợp đồng và
không yêu cầu có thêm bằng chứng nào về sức khỏe của người được bảo hiểm, nhưng có
sự giới hạn về độ tuổi (thường độ tuổi tối đa là 65). Tại lúc tái tục, phí bảo hiểm tăng lên
vì độ tuổi của người được bảo hiểm lúc này tăng lên.
-Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi: Đây là loại hình bảo hiểm tử kỳ cố định nhưng cho
phép người được bảo hiểm có sự lựa chọn chuyển đổi một phần hay toàn bộ hợp đồng
thành một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn đời hay BHNT hỗn hợp tại một thời điểm
nào đó khi họp đồng đang còn hiệu lực. Phí bảo hiểm được tính dựa trên hợp đồng BHNT

trọn đời hay hỗn hợp mới theo độ tuổi của người có hợp đồng.
Loại hợp đồng này phát hành như một sự bảo chứng cho khoản tiền vay. Đồng thời nó
còn nhằm thực hiện yếu tố tiết kiệm trong tương lai của người được bảo hiểm.
-Bảo hiểm tử kỳ giảm dần: đây là loại hình bảo hiểm mà có một bộ phận của số tiền bảo
hiểm giảm hàng năm theo một mức quy định. Bộ phận này giảm tới 0 vào cuối kỳ hạn
hợp đồng. Loại hình này đáp ứng nhu cầu của người tham gia, khi họ phải nợ một khoản
tiền phải trả dần.
-Bảo hiểm tử kỳ tăng dần: Loại này được phát hành nhằm giúp người tham gia bảo hiểm
có thể ngăn chặn được yếu tố lạm phát của đồng tiền .
-Bảo hiểm thu nhập gia đình: Loại hình bảo hiểm này nhằm đảm bảo thu nhập cho 1 gia
đình khi không may người trụ cột trong gia đình bị chết .
-Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên: Loại hình bảo hiểm này cũng nhằm tránh yếu tố
lạm phát của đồng tiền. Đảm bảo các khoản thanh toán của công ty bảo hiểm cho gia đình
không may có người được bảo hiểm bị chết, tương ứng với số tiền bảo hiểm khi mới ký
hợp đồng .
-Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện: Điều kiện ở đây là việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực
hiện khi người được bảo hiểm bị chết, đồng thời người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm
được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống.
Bảo hiểm nhân thọ trọn đời : (Bảo hiểm trường sinh) Loại hình bảo hiểm này cam kết
bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm đến khi chết.
*Đặc điểm chung:
-Thời gian không xác định;
-Số tiền bảo hiểm trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết bất cứ lúc nào;
-Phí bảo hiểm của loại hình này thường cao hơn bảo hiểm tử kỳ vì người được bảo hiểm
chắc chắn sẽ chết;
-Loại hình bảo hiểm này thường đóng phí nhiều lần và số phí bảo hiểm đóng mỗi lần
không thay đổi .
*Mục đích :



-Đảm bảo cuộc sống của gia đình và người thân sau cái chết của người được bảo hiểm;
-Giữ gìn tài sản cho thế hệ sau;
-Mua sắm tài sản cho gia đình và người thân theo kế hoạch đã định trước;
-Là mục đích tiết kiệm.
Hiện nay loại hình bảo hiểm này thường có các loại hợp đồng sau:
-BHNT trọn đời phi lợi nhuận
-BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhuận: Loại này thường ứng với một số tiền bảo
hiểm nhất định nào đó.
-BHNT trọn đời đóng phí liên tục, mức đóng phí mỗi lần bằng nhau.
-BHTN trọn đời đóng phí một lần
-BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí bảo hiểm
Bảo hiểm trong trường hợp sống (còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ )
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi trả những khoản chi
đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia
bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không
được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào.
Loại hình bảo hiểm này trước đây được triển khai theo 2 hướng:
-Bảo hiểm sinh kỳ thuần tuý: nhưng lâu nay người ta bỏ vì nó giống với gửi tiền tiết
kiệm.
-Bảo hiểm trợ cấp định kỳ, còn gọi là bảo hiểm hưu trí tự nguyện (bảo hiểm niên kim
nhân thọ).
*Đặc điểm:
-Thời hạn bảo hiểm có thể xác định, có thể không xác định.
+Nếu không xác định gọi là niên kim nhân thọ trọn đời
+Nếu xác định gọi là niên kim nhân thọ tạm thời.
-Phí bảo hiểm chỉ nộp 1 lần.
-Số tiền bảo hiểm được trả nhiều lần (trợ cấp định kỳ).
*Mục đích:
-Đảm bảo cuộc sống khi về già;
-Giảm nhẹ gánh nặng phụ thuộc vào con cái và phúc lợi xã hội. Người tham gia bảo hiểm

thường là những người bước vào độ tuổi về hưu.
Loại hình bảo hiểm này phù hợp với những người khi về hưu hoặc những người không
được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với tuổi về hưu đăng ký
tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng. Vì vậy, tên “Bảo hiểm
trợ cấp hưu trí”, “Bảo hiểm tiền hưu”, “Niên kim nhân thọ”…được các công ty bảo hiểm
vận dụng hết sức linh hoạt.


BHNT hỗn hợp
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo
hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen vì vậy nó được áp dụng
rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới .
*Đặc điểm :
-Thời hạn bảo hiểm luôn luôn xác định
-Số tiền bảo hiểm được trả 1 lần khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra (chết, hết hạn hợp
đồng người được bảo hiểm vẫn còn sống).
-Phí bảo hiểm nộp định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn hợp đồng.
*Mục đích:
-Thực hành tiết kiệm từ ngân sách gia đình để tạo lập quỹ giáo dục con cái và mua sắm
tài sản…
-Dùng làm vật vay thế chấp, thậm chí vay ngay trên hợp đồng bảo hiểm.
-Bảo trợ cuộc sống của người thân.
Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro nên hầu hết các
loại hợp đồng, các loại bảo hiểm khác nhau đều được tham gia chia lãi. Khách hàng của
loại hình bảo hiểm này là đông nhất và có thể ở mọi lứa tuổi.
1.1.6 Phí bảo hiểm
Nguyên tắc tính phí được dựa trên biểu thức cân bằng giữa trách nhiệm của công
ty Bảo hiểm Nhân thọ và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm tính theo giá trị tại
thời điểm ký kết hợp đồng.
Phí bảo hiểm = phí thuần + phụ phí.

Phí thuần là những khoản phí dùng để chi trả cho người được bảo hiểm. Có rất nhiều
yếu tố tác động lên phí nhưng cơ bản vẫn là:
·
Tuổi thọ của người được bảo hiểm, cụ thể là bảng tỉ lệ tử vong.
·
Lãi suất kỹ thuật: lãi suất tiền gửi tính trong cơ sở tính phí.
·
Ngoài ra, còn có các nhân tố khác tác động như thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm,
cách thức nộp phí, tỉ lệ huỷ bỏ hợp đồng trước thời hạn.
Lãi suất kỹ thuật: nhà bảo hiểm phải có trách nhiệm đầu tư các khoản phí để đưa ra một
phần lãi làm giảm mức phí đóng của người tham gia. Mức lãi này càng cao thì càng phải
kích thích được số lượng người tham gia. Do vậy nhà bảo hiểm phải đưa vào lãi suất tiền
gửi để tính phí.
Phụ phí gồm:
·
Chi phí khai thác chi cho tuyên truyền, quảng cáo, môi giới, chi cho đại lý...
·
Chi phí quản lý hợp đồng trong thời hạn hợp đồng đang thu phí, kể cả chi phí thu phí
BH ...
·
Chi phí quản lý liên quan đến các khoản chi trả bồi thường.


1.1.7 Hợp đồng bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là một văn bản ghi nhận sự cam kết giwuax cong ty bảo
hiểm và người tham gia bảo hiểm. trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền
bảo hiểm khi xảy ra những sự kiện quy định như: thương tật, chết, hết hạn HĐ… người
tham gia có trách nhiệm đóng phí đầy đủ và đúng hạn
Theo quy định của BHNT thì đối tượng của BHNT là tất cả những người trong độ tuổi
từ 1 đến 60 tuổi, khi tham gia BH thì người tham gia phải viết giấy yêu cầu BH kê khai

đầy đủ các thông tin sau:
+Tuổi của người tham gia bảo hiêm
+Giới tính
+nghề nghiệp
+tình trạng sức khỏe
Hợp đồng bảo hieemr có hiệu lưc được tính từ ngày nộp phí đầu tiên và phải được ghi
trong hợp đồng
Số tiền được bảo hiểm và phí bảo hiểm phải được ghi rõ ràng trong hợp đồng bảo
hiểm đồng thời phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố: độ tuổi, nghề nghiệp, tình trạng sức
khỏe, thời hạn của HĐ…
1.2 Công tác bồi thường chi trả tiền bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân
thọ
1.2.1 Khái niệm công tác bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm
Bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm là sự kết bù đắp của người bảo hiểm đối với những
thiệt hại của người tham gia bảo hiểm khi sự kiện được bảo hiểm xảy ra gây thiệt hại cho
người được bảo hiểm.

Thực hiện tốt công tác bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm sẽ bảo vệ lợi ích chính đáng
của khách hàng, nâng cao chất lượng phục vụ và là cách quảng cáo có hiệu quả nhất làm
tăng uy tín và ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh doanh của công ty bảo hiểm. Bởi vì
“Nếu giải quyết bồi thường hoặc chi trả nhanh chóng và chính xác, khách hàng cũng sẽ
nhanh chóng khắc phục được những tổn thất về mặt tài chính để từ đó ổn định cuộc sống,
ổn định sản xuất kinh doanh và nâng cao niềm tin với doanh nghiệp bảo hiểm. Từ đó,
doanh nghiệp bảo hiểm giữ được khách hàng truyền thống và mở ra triển vọng khai thác
được những khách hàng tiềm năng trong tương lai."( Jêrôme Yeafman- Trường quốc gia
Bảo hiểm Pari).
1.2.2 Nguyên tắc và yêu cầu của bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm
Nguyên tắc bồi thường là các quy định khi tiến hành bồi thường cho người được bảo
hiểm:



Công ty bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bồi thường dựa trên rủi ro tổn thất mà người tham
gia bảo hiểm phải gánh chịu thuộc phạm vi bảo hiểm được quy định trong hợp đồng bảo
hiểm.
Nếu người tham gia bảo hiểm gặp tai nạn rủi ro dẫn tới tử vong, mất khả năng hoạt
động và nhận thức.. thuộc phạm vi bảo hiểm công ty bảo hiểm chi trả toàn bộ số tiền bảo
hiểm trong hơpj đồng bảo hiểm ngay sau đó hợp đồng bảo hiểm sẽ chấm dứt diệu lực.
Việc giải quyết chi trả tiền bảo hiểm phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Nhanh chóng, kịp thời: Nhằm giúp khách hàng sớm ổn định đời sống, sức khoẻ.
- Chính xác: Công tác bồi thường phải tuân theo những điều kiện, điều khoản cuả hợp
đồng bảo hiểm và thiệt hại thực tế.
- Công bằng, nhân đạo : Phải dựa trên tình huống tai nạn, quan hệ hợp tác mà giải quyết
bồi thường linh hoạt, thoả mãn yêu cầu hợp lý của khách hàng.
1.2.3 Quy trình bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm
Quy trình chi trả tiền bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ gồm các bước
chính như sau:
- Mở hồ sơ khách hàng: Khi nhận được biên bản giám định tổn thất và các giấy tờ có liên
quan, bộ phận giải quyết bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm phải mở hồ sơ khách hàng và
ghi lại theo thứ tự số hồ sơ (số hợp đồng) và thời gian. Sau đó kiểm tra, đối chiếu với bản
hợp đồng gốc về các thông tin liên quan đến bản kê khai tổn thất. Tiếp theo phải thông
báo cho khách hàng là đã nhận được đầy đủ các giấy tờ có liên quan. Nếu thiếu loại giấy
tờ nào phải thông báo để nhanh chóng bổ sung hoàn thiện hồ sơ bồi thường. Việc kiểm
tra các chứng từ trong hồ sơ khiếu nại sẽ cho công ty bảo hiểm biết: sự kiện xảy ra có
thuộc phạm vi bảo hiểm hay không và theo quy tắc, giấy chứng nhận bảo hiểm thì phải
trả bao nhiêu tiền cho khiếu nại, mức khấu trừ áp dụng cho mỗi loại. Trong trường hợp
hồ sơ khiếu nại không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc hết thời hạn khiếu nại, công ty bảo
hiểm sẽ từ chối chi trả tiền bảo hiểm.
- Xác định số tiền chi trả
Sau khi hoàn tất hồ sơ bồi thường của khách hàng bị tổn thất hoặc cần phải chi trả, bộ
phận giải quyết bồi thường phải tính toán số tiền chi trả được xác định căn cứ vào:

+ Biên bản giám định tổn thất và bản kê khai tổn thất
+ Điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm
+ Bảng theo dõi số phí bảo hiểm đã nộp
+ Số tiền vay trên hợp đồng (nếu có)
- Thông báo chi trả tiền bảo hiểm
Xác định xong số tiền chi trả, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ thông báo chấp nhận bồi thường
và đề xuất các hình thức bồi thường cho khách hàng. ở loại hình bảo hiểm con người, các
công ty bảo hiểm thường chi trả bảo hiểm cho khách hàng bằng tiền mặt. Nếu số tiền chi


trả quá lớn, doanh nghiệp bảo hiểm có thể thoả thuận với khách hàng về kỳ hạn thanh
toán, thời gian, lãi suất trả chậm.
1.2.4 Hồ sơ bồi thường chi trả tiền bảo hiểm
Giấy Yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm (theo mẫu).
Bộ hợp đồng bảo hiểm(bảnchính).CMND của Bên mua bảo hiểm, Người yêu cầu
giải quyết quyền lợi bảo hiểm, Người nhận tiền (bản sao).
Giấy xác nhận hàng thừa kế thứ nhất & Giấy ủy quyền (trường hợp Bên mua bảo
hiểm cũng là Nguời được bảo hiểm bị tử vong, và không chỉ định Người thụ hưởng).
Giấy chứng tử (bản trích lục hoặc sao y có chứng thực).
Toàn bộ hồ sơ về quá trình khám chữa bệnh/ tai nạn (bản sao).
Thẻ bảo hiểm y tế (bản sao nếu có).
Hồ sơ tai nạn do Công an điều tra cấp (có chứng thực của cơ quan cảnh sát điều
tra) bao gồm: Sơ đồ vụ tai nạn, biên Bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám
nghiệm tử thi, Biên bản giải quyết vụ tai nạn, Biên bản giám định pháp y.

CHƯƠNG II: CÔNG TÁC BỒI THƯỜNG CHI TRẢ TIỀN BẢO
HIỂM TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM NHÂN THỌ DAIICHI-LIFE GIAI
ĐOẠN 2013-2015
2.1Giới thiệu về công ty BHNT Daiichi-life
2.1.1 Khái quát về công ty BHNT daiichi-life

Được thành lập vào năm 1902 dưới hình thức công ty bảo hiểm nhân thọ
(“BHNT”) tương hỗ đầu tiên tại Nhật Bản, The Dai-ichi Life Insurance Company,
Limited (“Dai-ichi Life”) là một trong những công ty BHNT hàng đầu tại Nhật Bản cũng
như trên thế giới với Tổng tài sản trị giá 414,8 tỷ đô la Mỹ và Tổng doanh thu phí bảo
hiểm đạt 45,2 tỷ đô la Mỹ (tính đến ngày 31/3/2015). Với hơn 110 năm kinh nghiệm
trong ngành BHNT và tiềm lực tài chính vững mạnh, Dai-ichi Life đã mở rộng mạng lưới
hoạt động ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Công ty TNHH Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi Việt Nam (“Dai-ichi Life Việt Nam”)
được thành lập ngày 18 tháng 01 năm 2007, là thành viên của The Dai-ichi Life


Insurance Company, Limited (“Dai-ichi Life”) – Nhật Bản, một trong những công ty bảo
hiểm nhân thọ hàng đầu tại Nhật Bản và trên thế giới.
Với kinh nghiệm hơn 110 năm hoạt động trong ngành bảo hiểm nhân thọ và giá trị nền
tảng “Khách hàng là trên hết”, Dai-ichi Life Việt Nam luôn nỗ lực cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ tài chính tốt nhất nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính đa dạng và sự tin
tưởng của khách hàng Việt Nam.
Với tiền thân là công ty BHNT Bảo minh CMG một trong những công ty BHNt lớn tại
Việt Nam. Chỉ sau 9 năm hoạt động, Dai-ichi Life Việt Nam đã lớn mạnh hơn gấp 9 lần
về tổng doanh thu phí bảo hiểm, giữ vững vị thế là công ty bảo hiểm nhân thọ lớn thứ 4
cả nước với tốc độ tăng trưởng tốt và bền vững, phục vụ hơn 3 triệu khách hàng thông
qua đội ngũ 750 nhân viên và 50.000 tư vấn tài chính chuyên nghiệp. Tiếp tục thực hiện
chiến lược mở rộng mạng lưới kinh doanh, Dai-ichi Life Việt Nam đã khai trương gần 40
văn phòng Tổng Đại lý trong năm qua, giữ vị trí thứ 3 về mạng lưới phục vụ khách hàng
với hệ thống hơn 170 văn phòng và tổng đại lý rộng khắp toàn quốc. (tính đến ngày
31/12/2015).
Với triết lý kinh doanh mang đậm tính nhân văn từ Nhật Bản “Tất cả vì con người”, bên
cạnh hoạt động kinh doanh hiệu quả, Dai-ichi Life Việt Nam tích cực khởi xướng, thực
hiện nhiều chương trình từ thiện, hoạt động xã hội có ý nghĩa và có những đóng góp thiết
thực nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng địa phương, thể hiện cam kết

"Gắn bó dài lâu" với đất nước và con người Việt Nam.
2.1.2 Bộ máy tổ chức

2.2 Công tác bồi thường chi trả tiền bảo
hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ
tại
công ty Daiichi-life
2.2.1 Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọ
Công ty bảo hiểm Daiichi-life tuy mới
thành lập được hơn 9 năm nhưng đã là môt trong những công ty đi đầu về số lượng khách
hàng tham gia bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam, trong nhưng năm qua công ty không
ngừng mở rộng phân khúc thị trường làm tăng nhanh lượng khách hàng tham gia các sản
phẩm bảo hiểm của công ty.
Bảng dưới đây thể hiện lượng khách hàng và phí thu được biến đổi qua các nắm từ
2013-2015
năm Số người tham gia Phí thu theo kế Phí thu thực tế
Tỷ lệ % hoàn
hoạch
thành


2013

204450

215.000

217500


101,2

2014

313500

255.000

274000

107,5

2015

394500

350.000

362500

103,6

Qua bảng số liệu trên ta có thẻ thấy nhìn chung số lượng người tham gia bảo hiểm
tăng đều qua các năm từ 2013-2015, năm 2013 lượng khachs hàng là 204450 người so
với năm 2014 là 313500 người gaaps1,53 lần(tăng 109050 người) và năm 2015 ;à 394500
gấp 1,92 lần ( tăng 190050 người).Nguyên nhân số lượng người tham gia tăng mạnh là do
bắt đầu từ cuối năm 2013 công ty Daiichi có nhưng bước đi tích cực hơn trong việc
marketing tăng thềm về quyền lợi các sản phẩm bảo hiểm khi các rủi ro về các bệnh như
tim mạch, thận… cũng được tham gia bảo hiểm điều này làm một bộ phận khách hàng
đang mắc bệnh về tim mạch, thân.. có cơ hội được tham gia bảo hiểm của công ty khiến

cho số người tham gia đến năm 2015 tăng lên một cách rất đáng kể, hạn chế vấn đề đáo
hạn hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng khi khách hàng đã tham gia bảo hiểm.
Ta thấy hầu như phí thu bảo hiểm cua 3 năm đều vượt mức dự kiến theo kế hoạch
cụ thể nắm 2013 tỷ lệ hoàn thành đạt mức 101,2% vượt mức 2500 triệu đồng, nắm 2014
là 107,5% vượt mức 19000 triêu đồng, nắm 2015 đạt mức 103,6% vượt mức 12500 triệu
đồng, trong đó năm 2014 vượt mức lớn nhất đều do năm 2014 lượng khác hàng tăng
mạnh khiến cho phí bảo hiểm thu được cũng tăng theo.
Nhìn chung qua bảng trên ta thấy được qua 3 năm lượng khách hàng và phí bảo
hiểm thu được đều tăng lên rất tích cực có được kết quả này là do: công ty thực hiện các
chính sách makerting môt cách hơp lý khi mở rộng phân khúc khách hàng của mình, các
dịch vụ chăm sóc khách hàng ngày cầng được hoàn thiện hơn tạo niềm tin và uy tín hơn,
các vân đề về hủy bỏ hơp đồng được hạn chế một cách tối đa.
2.2.2 tinh hình giải quyết hồ sơ yêu cầu bồi thường chi trả bảo hiểm
Trong nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ sau khi đã kiểm tra giám định các rủi ro tai
nạn khách hàng sẽ tiến hàng chuẩn bị cá hồ sơ thủ tục yêu cầu giải quyết chi trả tiền bảo
hiểm dựa trên mức độ thương tổn thuộc pham vi bảo hiểm được quy định trong hợp đồng
bảo hiểm tuy nhiên không phải tất cả cá hồ sơ yêu cầu giải quyết chi trả bảo hiểm đều
được đáp ứng giải quyết, có một bộ phận các hồ sơ yêu giải quyết chi trả bảo hiểm do
không hợp lệ nên bị công ty bảo hiểm daiichi-life từ chối, để được làm rõ hơn chung ta
có thể thông qua bảng số liệu qua 3 năm 2013, 2014 và 2015 thống kê về việc yêu cầu
giải quyết chi trả bảo hiểm như sau:
Chỉ tiêu

Đơn vi

Số vụ tai nạn rủi Vụ
ro thuộc phạm vi
BH

Năm 2013


Năm 2014

Năm 2015

2550

2680

2570


Số vụ yêu cầu giải Vụ
quyết chi trả
Tỉ lệ yêu cầu giả %
quyét chi trả

2300

2600

2450

90,2

97

95,3

Từ bảng số liệu trên ta ó thẻ thấy được số vụ tai nạn rủi ro và số vụ yêu cầu chi trả

không giống nhau, số vụ yêu cầu giải quyết chi trả luôn thấp hơn số vụ tại nạn rủi ro
thuộc phạm vi bảo hiểm đặc biêt năm 2014 số vụ tai nạn rủi ro là 2680 vụ ( hơn 130 vụ
so với năm 2013 và 110 vụ so với năm 2015) và số vụ yêu cầu giải quyết là 2600 ( hơn
300 vụ so với năm 2013 và 150 vụ so với năm 2015) cao nhất trong 3 năm, đồng thời tỉ lệ
yêu cầu giải quyết chi trả cũng cao nhất với 97%, nguyên nhân là do từ cuối năm 2013
công ty bảo hiểm daiichi mở rộng phân khúc thị trường với việc những người mắc bệnh
về tim mạch, thận… được tham gia bảo làm cho tỉ lệ trục lợi bảo hiểm và gian lận cũng
gia tăng theo hiểm khiến số vụ tai nạn rủi ro và yêu cầu giải quyết chi trả cũng tăng lên
một cách nhanh chóng. Qua bảng trên ta còn thấy rõ thực trạng số người tham gia bảo
hiểm tăng lên đồng thời số vụ yêu bảo hiểm và rủi ro tai nạn cũng tăng lên tương đối
nhanh cho thấy đươc công tác giảm thiểu rủi ro tai nạn của công ty còn chưa tốt, đôi ngũ
cán bộ vẫn chưa đáp ứng tốt được công tác nghiệp vụ bảo hiểm.
2.2.3Tinhf hình giải quyết yêu cầu khiếu nại của công ty bảo hiểm Daiichi-life
Sau khi nhận được hồ sơ yêu cầu giải quyết chi trả bảo hiểm từ phía khách hàng
công ty tiến hành kiểm tra thông qua bộ phạn kiểm duyệt hồ sơ của công ty, tiến hành
thông báo đối với các khách hàng được chấp nhận giải quyết hồ sơ đồng thơi công ty
cũng tiến hành thông báo đối với các khách hàng chưa đủ các giấy tờ tái liệu cần thiết để
khách hàng bổ sung cũng như thông báo các khách hàng có hồ sơ yêu cầu giải quyết bồi
thường không hợp lệ hoặc không được chấp nhận bồi thương.
Theo số liệu từ công ty bảo hiểm Daichi-life Việt nam tình hình giải quyết hồ sơ
ước tính từ nắm 2013 đến nắm 2015 như sau:
Chỉ tiêu
Dơn vị
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Số vụ yêu cầu chi vụ
2300
2600
2450

trả
Số vụ được giải Vụ
2185
2440
2320
quyết
Số vụ phát hiện Vụ
70
85
72
thiếu
Số vụ phát hiện Vụ
45
75
58
gian lận
Tỷ lệ hồ sơ được %
95
93,8
94,7
giải quyết
Tỷ lệ phát hiện hồ %
3
3,3
2.9
sơ thiếu
Tỷ lệ phart hiện %
2
2,9
2,4

hồ sơ gian lận


Qua bảng số liệu trên ta thấy tỷ lệ giải quyết hố sơ dao động thấp sấp sỉ 95% chỉ
có nắm 2014 tỉ lệ giải quyết hồ sơ 93,8% trong khi nắm 2013 và năm 2015 tỉ lệ giải quyết
hồ sơ gần như tương đương nhau lần lượt là 95% và 94,7 % trong khi số vụ yêu cầu chi
trả năm 2014 là nhiều nhất là 2600 vụ
Có thẻ thấy rõ trong 3 năm thì năm 2014 tỷ lệ phát hiện hồ sơ thiếu(3,3% tương
đương với 85 vụ) và hồ sơ gian lận(2,9% tương đương với 75 vụ) là lớn nhất cho thấy xu
hướng gian lận của khách hàng tăng trong năm 2014 tuy nhiên đến năm 2015 đã giảm
còn 2,4% tương đương 58 vụ cho thấy sau khi công ty mở rộng phạm vi bảo hiểm từ cuối
năm 2013 đã không kiểm soát tốt lượng khách hàng tham gia bảo hiểm, tạo cơ hội cho
một bộ phận khách hàng có ý đò trục lợi bảo hiểm chứng minh nhân sự của công ty vẫn
chưa nắm vững được nghiệp vụ bảo hiểm một cách có hiệu quả do hầu hết các nhân viên
vẫn chưa được hưởng chế độ ưu đãi ( hưởng % hồ sơ đã phát hiện ra gian lận) trong khi
khối lượng công viêc tăng lên.
Đến năm 2015 hầu hết các tỷ lệ giả quyết hồ sơ gian lận và hồ sơ thiếu đã giảm đi
so với năm 2014 ( giảm 13 vụ phát hiện hồ sơ thiếu và giảm 17 vụ phát hiện hồ sơ gian
lận) đã chứng tỏ được công tác phòng chống gian lận trong năm 2015 đã được thực hiện
một cách có hiệu quả hơn đồng thời trình độ chuyên môn của nhân viên cũng đã nâng lên
giúp cho công tác kiểm tra, kiểm soát tốt hơn
2.2.4 tình hình chi trả tiền bảo hiểm của công ty giai đoạn 2013-2015
Số tiền chi trả bảo hiểm giai đoạn 2013-2015 được thể hienj qua bảng sau
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2013
Năm 2014
Năm 2015
Tổng số tiền từ Triệu
420

506
450
chối chi trả
Tổng số tiền Triệu
4200
4950
4450
bồi thường
Tỉ lệ từ chối %
10
10,2
10,1
chi trả so với
bồi thường
Từ bảng trên ta thấy được trong 3 năm thì năm 2014 số tiền từ chối chi trả( 506
triệu) và só tiền bồi thường (4950 triệu) là lớn nhất bởi năm 2014 khi công ty vẫn chư
kiểm soát tốt gian lận và lượng khách hàng trong năm tăng nhanh làm cho số tiền từ chối
chi trả cugnx tăng theo đồng thời cũng thể hiện tình trạng trực lợi bảo hiểm tăng lên rất rõ
ràng.
Từ năm 2013 đen năm 2015 tấn số biến thiên từ chối chi trả là 71 triệu
Từ năm 2013 đến năm 2015 tần số biến thiên só tiền bồi thường là 625 triệu.
Trong khi đó tỷ lệ từ chối chi trả so với sô tiền bồi thường biến động không đáng
kể bình quan 10,1% chúng tỏ gian lận và trục lợi bảo hiểm vẫn giữ ở một mức nhất định
tuy nhiên rất khó giảm.


Sau khi thống báo cho khách hàng về hồ sơ giải quyết yêu cầu chi trả tiền bảo
hiểm nhưng hồ sơ hợp lễ sẽ được công ty tiến hang chi theo các phương thức khác nhau
như: chi trả trực tiếp bằng tiền mặt, thông qua kênh ATM ngân hàng, thông qua bưu
điện…

Bảng
Tiền mặt
QuaATM ngân Qua bưu điện
Các hình thức
hàng
khác
Tỉ lệ
43
34
15
8
Từ bảng trên ta thấy được hình thức chi trả tiền bảo hiểm chủ yếu của công ty
daichi- life là trực tiếp bằng tiền mặt và thông qua ngân hàng bởi vì đây là 2 kênh chi trả
an toàn và tiện lợi nhất các hình thức chi trả khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ riêng kênh chi trả
qua bưu điện là đói với khách hàng ở xa không có tài khoản ngân hàng.
Trong quá trình bồi thường chi trả tiền bảo hiểm các hình thức trục lợi và gian lận
của khách hàng đã gây cho công ty bảo hiểm daiichi-life nhưng thiệt hại tài chính đáng
kể qua 3 năm 2013,2014,2015 số tiền từ việc phát hiện các gian lận trực lợi bảo hiểm đã
tiết kiệm cho công ty một khoản tiền bình quân 10,1% tổng số tiền bồi thường, tuy nhiên
đó chỉ là số liệu thống kệ tạm thời vẫn còn nhiều trường hợp trục lợi bảo hiểm thành công
mà công ty không có chứng cứ, hầu hết các vụ gian lận trục lợi bảo hiểm có nguyên nhân
trực tiếp do:
Khách hàng dung cá thủ đoạn trục lợi bảo hiểm: đổi lại nguyên nhân tai nạn làm
tăng mức hưởng, thay đổi hiện trường, khai tăng các tổn thất…
Công ty bảo hiểm mở rộng phân khúc thị trường nhưng chưa có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, chưa có sự chọn lọc cụ thẻ.
2.3 đánh giá chung về công tác bồi thường chi trả tiền bảo hiểm tại công ty bảo
hiểm daiichi-life
2.3.1 Những mặt đã đặt được
Công ty daiichi-life đã luôn xác định được bồi thường chi trả bảo hiểm là một

trong những nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu trong bảo hiểm nhân thọ



×