Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 – 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.61 KB, 100 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp 1 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Lời Mở Đầu
Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và là xu
thế tất yếu của các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Vì vậy thị trường bảo hiểm
Việt Nam cần phải có những bước chuyển mình nhằm đáp ứng những nhu cầu
của thách thức và hội nhập nếu không muốn gạt ra khỏi lề của sự phát triển. Đặc
biệt Việt Nam hiện nay đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương
mại thế giới WTO, do đó lĩnh vực dịch vụ tài chính, trong đó bảo hiểm là một
trong những lĩnh vực nhạy cảm được quan tâm nhiều. Những biến động trên thị
trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian gần đây, nhất là sau khi gia nhập WTO
đã chứng minh tính sôi động của nó với hàng loạt các công ty, tập đoàn bảo hiểm
nước ngoài ở Châu Âu, Châu Mỹ và cả trong khu vực cũng như những nước láng
giềng đã đang và sẽ ra nhập vào thị trường Việt Nam.
Trước bối cảnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã và đang
nỗ lực không ngừng để giữ vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trước
những đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường.
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex được thành lập từ năm 1995, là một
trong những công ty cổ phần đầu tiên được thành lập trong lĩnh vực bảo hiểm. Chỉ
với hơn 10 năm sau khi ra nhập thị trường công ty đã thổi một luồng gió mới vào
thị trường bảo hiểm Việt Nam với những thành tựu kinh doanh đáng kể, chiếm
được cảm tình và niềm tin của đông đảo khách hàng trong đó có rất nhiều khách
hàng lớn. Có thể nói vị thế của PJICO ngày càng được khẳng định và nâng cao
trên thị trường, là một địa chỉ đáng tin cậy cho nhiều tổ chức cá nhân tìm đến để
đảm bảo an toàn, bình yên cho việc kinh doanh và cuộc sống của họ. Tuy nhiên
trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, đặc biệt là năm
2008 này theo cam kết gia nhập WTO thì không còn rào cản phân biệt giữa doanh
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 2 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
nghiệp bảo hiểm Việt Nam và doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài.
Để có thể giữ vững và nâng cao hơn nữa vị thế của mình đòi hỏi công ty phải có


sự chuẩn bị về mọi mặt để chủ động cạnh tranh trên thị trường. Vì thế mà phân
tích hoạt động kinh doanh giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị
trường, nó có tác dụng giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu
để củng cố, phát huy hoặc khắc phục, cải tiến quản lý. Phát huy mọi tiềm năng
của thị trường, khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp, nhằm đạt đến hiệu
quả cao nhất trong kinh doanh. Xuất phát từ đòi hỏi thiết thực khách quan đó em
đã chọn đề tài: “Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh
doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 –
2007” để nghiên cứu tìm hiểu.
Bài viết của em được chia thành ba chương, ngoài mở đầu và kết luận nội
dung có:
 Chương I: Lý thuyết cơ bản về phân tích doanh thu và chi phí của
doanh nghiệp bảo hiểm
 Chương II: Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh
doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn
2003 – 2007.
 Chương III: Một số giải pháp góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận
cho công ty PJICO
Trong quá trình hoàn thành chuyên đề này, em đã nhận được sự hướng dẫn
tận tình, chu đáo của cô giáo Th.S Tôn Thị Thanh Huyền đồng thời em cũng nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ của các anh chị trong công ty PJICO đặc biệt là phòng
bảo hiểm khu vực VII đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Do thời gian và
trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý
của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 3 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Chương I: Lý thuyết cơ bản về phân tích doanh thu
và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm

1. Khái quát chung về doanh nghiệp bảo hiểm
1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp bảo hiểm
a. Khái niệm doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập cơ bản của nền kinh tế, có
tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích tối
đa hóa lợi nhuận và sự phát triển của xã hội. “Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh
nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật kinh doanh
bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo
hiểm”.
Doanh nghiệp bảo hiểm là một loại doanh nghiệp dịch vụ, hoạt động của nó
cũng nhằm mục đích sinh lời. Điểm khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp bảo
hiểm với các doanh nghiệp khác là ở chỗ: Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh
nghiệp chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm; nó có trách nhiệm trả tiền bảo
hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra
sự kiện bảo hiểm nếu người mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho doanh nghiệp.
Như vậy, muốn phân biệt phải dựa vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của
DNBH.
b. Phân loại doanh nghiệp bảo hiểm
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế đa dạng, phong phú các hoạt động
kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế đó có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Vì
vậy, các tổ chức kinh tế cũng phù hợp với thành phần kinh tế đó. Cụ thể trong thị
trường bảo hiểm thường bao gồm các hình thức tổ chức như sau:
b.1. Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 4 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước là doanh nghiệp do Nhà Nước thành
lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là người chủ sở hữu. Doanh nghiệp bảo
hiểm Nhà Nước là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng
trước pháp luật.

b.2. Công ty cổ phần bảo hiểm
Công ty cổ phần bảo hiểm là loại doanh nghiệp do các cổ đông tham gia
đóng góp vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu trái phiếu và có trách
nhiệm hữu hạn. Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, cùng chia lợi nhuận,
cùng chịu lỗ tương ứng với số vốn góp.
b.3. Công ty bảo hiểm tư nhân
Công ty bảo hiểm tư nhân là công ty bảo hiểm do cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty trước pháp luật. Công ty
được thành lập theo luật công ty.
b.4. Tổ chức bảo hiểm tương hỗ
Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập
để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên.
Thành viên tổ chức tương hỗ vừa là bên mua bảo hiểm. Về mặt pháp lý, họ vừa là
hội viên, vừa là những người được bảo hiểm.
b.5. Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh
Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh được thành lập trên cơ sở góp vốn của
các doanh nghiệp (trong nước và nước ngoài). Vị trí các bên trong doanh nghiệp
phụ thuộc vào mức vốn góp. Các thành viên trong doanh nghiệp hưởng lợi nhuận
cũng như chịu thua lỗ tương ứng mức vốn góp.
b.6. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài
Đây là doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư vốn, hoạt động tại nước sở tại,
theo pháp luật của nước sở tại, đồng thời chịu sự chỉ đạo của công ty mẹ ở chính
quốc.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 5 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
b.7. Tổ chức Lloyd’s
Lúc đầu Lloyd’s là một tổ chức bảo hiểm tương hỗ của các nhà bảo hiểm
hàng hải London, được thành lập năm 1720. Theo thời gian, Lloyd’s càng phát
triển và trở nên nổi tiếng nhờ bảo hiểm những rủi ro đặc biệt.

Trong thị trường bảo hiểm còn có các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bao gồm nhiều doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế như:
- Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Nhà Nước
- Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm
- Công ty trách nhiệm hữu hạn môi giới bảo hiểm
- Công ty hợp doanh môi giới bảo hiểm
- Doanh nghiệp tư nhân môi giới bảo hiểm
- Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh
- Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài
Các tổ chức như đại lý bảo hiểm, văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo
hiểm là các tổ chức phụ thuộc, không đủ tư cách để gọi là doanh nghiệp bảo hiểm.
1.2. Nội dung và đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
1.2.1. Nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
a. Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lời. Ở
đây DNBH chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm trên cơ sở người mua bảo
hiểm đóng phí bảo hiểm cho người bảo hiểm (DNBH), DNBH bồi thường (hoặc
trả tiền bảo hiểm) cho những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người thụ
hưởng.
Cũng giống như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, ngoài việc đáp ứng
cho các nhu cầu an toàn của con người thì lợi nhuận là mục tiêu của hoạt động
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 6 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
kinh doanh bảo hiểm. Bởi vậy, có một số nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành
hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
 Nguyên tắc 1: “Số đông bù số ít”. Đây là nguyên tắc xuyên suốt,
không thể thiếu được trong bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm thương mại nào. Theo đó
hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số

tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp phải rủi ro như vậy.
 Nguyên tắc 2: “Rủi ro có thể được bảo hiểm”. Mặc dù công ty
BH cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có nhu cầu
nhưng không phải trong mọi trường hợp công ty BH đều chấp nhận các yêu cầu
bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro
bất ngờ, không lường trước được, nhằm tránh cho công ty BH phải bồi thường
cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn
tới phá sản. Đồng thời nó cũng giúp các công ty BH có thể tính được các mức phí
chính xác, lập nên được một quỹ BH đầy đủ để đảm bảo cho công tác bồi thường.
Không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các công ty BH mà ngay chính những người
tham gia bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn khi nguyên tắc này được áp dụng.
 Nguyên tắc 3: “ Phân tán rủi ro”. Mặc dù quỹ BH là một quỹ tài
chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số đông
và như vậy với tư cách là người huy động và quản lý quỹ, các công ty BH có khả
năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào
công ty BH cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ
với những quỹ BH huy động được còn chưa nhiều trong khi đó giá trị bảo hiểm
lại rất lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn.
Một kinh nghiệm trong hoạt động của các DNBH là không nhận những rủi
ro quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên để tránh được điều
tối kỵ là phải từ chối bảo hiểm đông thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh
doanh, các DNBH áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai phương thức phân
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 7 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
tán rủi ro được sử dụng: Đồng bảo hiểm và Tái bảo hiểm. Đồng bảo hiểm là nhiều
nhà bảo hiểm cùng nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn. Còn kinh doanh tái bảo
hiểm là hoạt động của DNBH chuyển một phần (hoặc toàn bộ) rủi ro đã chấp
nhận cho DNBH khác, ngược lại, nhận bảo hiểm một phần hoặc toàn bộ rủi ro mà
doanh nghiệp khác đã chấp nhận. Thông qua hoạt động chuyển tái và nhận tái,

DNBH vừa ổn định kinh doanh vừa thu lợi nhuận, vừa phát triển mối quan hệ
kinh tế với các nước.
 Nguyên tắc 4: “Trung thực tuyệt đối”. Theo nguyên tắc này đòi
hỏi DNBH phải có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo
hợp đồng để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, từ đó góp phần tăng thêm tính
hữu hình của sản phẩm bảo hiểm – một sản phẩm dịch vụ. Chất lượng sản phẩm
bảo hiểm có đảm bảo hay không, giá cả có hợp lý hay không, quyền lợi của người
được bảo hiểm có đảm bảo đầy đủ công bằng hay không… đều chủ yếu dựa vào
sự trung thực của phía DNBH.
Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu đối với người tham gia bảo
hiểm, là phải trung thực trong việc khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm, để giúp
DNBH xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm vào đó các
hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai báo các thiệt hại để
đòi bồi thường sẽ được sử lý theo pháp luật
 Nguyên tắc 5: “Quyền lợi có thể được bảo hiểm”. Nguyên tắc
này yêu cầu người tham gia BH phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu đối tượng
được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, người tham gia BH phải có một số quan
hệ với đối tượng được BH và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu
hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và
nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Nguyên tắc
này nhằm loại bỏ khả năng BH cho tài sản của người khác hoặc cố tình gây thiệt
hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một đơn bảo hiểm.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 8 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình bảo hiểm sẽ có
thêm các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại: nguyên tắc bồi
thường, nguyên tắc khoán...
b. Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất
DNBH không chỉ có trách nhiệm bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo

hiểm do rủi ro tai nạn bất ngờ gây ra nhằm giúp người được BH ổn định kinh tế,
khôi phục sản suất và đời sống, mà còn tiến hành các biện pháp đề phòng rủi ro
và tổn thất trước khi tai nạn xảy ra.
Thông qua phân tích nguyên nhân của những rủi ro tai nạn bất ngờ, DNBH
rút ra được những biện pháp cần thiết để cùng khách hàng thực hiện nhằm đề
phòng tổn thất xảy ra.
c. Giám định tổn thất
Giám định tổn thất là nhiệm vụ, là một khâu quan trọng trong chu trình
hoạt động kinh doanh BH. Sau khi nhận được thông báo của người được bảo
hiểm về tai nạn rủi ro xảy ra, giấy yêu cầu giám định và các giấy tờ khác liên
quan, DNBH phải cử giám định viên đến hiện trường cùng các thành viên liên
quan để xác định tính chất, nguyên nhân mức độ thiệt hại… Điều quan trọng của
công tác giám định là xác định nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay
không? Tổn thất thực tế là bao nhiêu để làm căn cứ bồi thường.
d. Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba
bồi hoàn…
DNBH không chỉ phải giám định tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm của
mình mà còn có thể làm đại lý giám định tổn thất cho doanh nghiệp khác.
Căn cứ biên bản giám định, đối chiếu với hợp đồng BH, doanh nghiệp xem
xét giải quyết bồi thường theo các nguyên tắc quy định. Giải quyết bồi thường
phải nhanh chóng, kịp thời, đúng thủ tục nhằm giúp người bị hại nhanh chóng
khắc phục được hậu quả của rủi ro tai nạn bất ngờ. Nếu có sự tranh chấp giữa
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 9 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
người bảo hiểm và người được bảo hiểm về số tiền bảo hiểm, việc giải quyết sẽ
được chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền theo luật định.
e. Quản lý quỹ và đầu tư vốn
Mục đích kinh doanh bảo hiểm hay tái bảo hiểm là lợi nhuận. Do đó quản
lý quỹ bảo hiểm và đầu tư vốn (tức nguồn quỹ bảo hiểm thu được do người tham

gia đóng phí) là hết sức quan trọng. Quản lý quỹ tức quản lý thu chi đúng chế độ.
Thu phải thu đúng, thu đủ, triệt để khai thác các nguồn thu, chi đúng chế độ kịp
thời, tiết kiệm nhất là chi bồi thường, chi quản lý… Nguồn quỹ thu được chưa chi
đến phải đem đầu tư sinh lời. Là hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm
tìm thị trường đầu tư vừa sinh lời cao, vừa đảm bảo không mất vốn.
Trên đây là năm nội dung hoạt động quan trọng, chủ yếu của DNBH. Ngoài
ra doanh nghiệp có thể tham gia vào các hoạt động khác mà pháp luật cho phép.
Thông thường, các DNBH hoặc kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, hoặc kinh
doanh bảo hiểm phi nhân thọ chứ không cùng một lúc kinh doanh cả hai loại hình
bảo hiểm. Bởi vì, hai loại hình bảo hiểm đó có đặc trưng khác nhau, cần tập trung
trí tuệ chuyên sâu để đạt hiệu quả cao. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam cũng
không cho phép một doanh nghiệp kinh doanh cả hai loại hình bảo hiểm.
1.2.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm
Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH vì mục đích lợi nhuận. Vì
vậy mọi hoạt động đều mang đặc trưng kinh doanh, lấy lợi nhuận làm mục tiêu
phấn đấu. Chiến lược kinh doanh của DNBH đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng
đầu. Để đạt mục tiêu đó hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tính đến những đặc
điểm sau:
a) Đối tượng kinh doanh đa dạng
Bảo hiểm thương mại có đối tượng bảo hiểm là tài sản, trách nhiệm dân sự
và con người.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 10 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Mỗi đối tượng BH bao gồm rất nhiều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp vụ là
một hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp bán sản phẩm bảo hiểm
ra thị trường và thu về phí bảo hiểm (giá bảo hiểm). Phí đó được tính toán trên cơ
sở khoa học đảm bảo thu bù chi, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi cho
doanh nghiệp. Với đối tượng bảo hiểm đa dạng như vậy, quy luật số lớn trong
kinh doanh bảo hiểm càng phát huy tác dụng; do đó mục đích lợi nhuận sẽ đạt

được.
b) Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có vốn pháp định lớn
Ngoài nguồn vốn của DNBH bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm thu được,
lãi đầu tư,… Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo như mức vốn pháp định do pháp
luật quy định. Vốn pháp định lớn là do đặc thù của kinh doanh bảo hiểm – kinh
doanh rủi ro. Để nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm khi DNBH
làm ăn không hiệu quả, không có đủ tiền để trả cho khách hàng, Nhà Nước sẽ lấy
từ vốn điều lệ của doanh nghiệp để giải quyết cho họ.
c) Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm.
Do kinh doanh bảo hiểm có sự tích lũy rủi ro nên tất cả các khoản tiền được
trích ra từ phí bảo hiểm phục vụ cho mục đích bồi thường hay chi trả bảo hiểm
thực hiện các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm chính là các quỹ dự phòng nghiệp
vụ. Dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm,
được trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh toán các
trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được
ký kết. Việc thành lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ không chỉ là yêu cầu có tính
chất kỹ thuật bảo hiểm, mà còn là sự bắt buộc mang tính pháp lý đối với DNBH.
Sự bắt buộc này góp phần bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, nâng
cao ý thức trách nhiệm của DNBH, đồng thời tạo điều kiện để tập trung nguồn
vốn để đầu tư.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 11 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
d) Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn gắn kết với hoạt động đầu tư.
Hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, nó góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng quy mô doanh
nghiệp, tăng quỹ phúc lợi đồng thời tăng thu nhập cho người lao động và góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự

nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
e) Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh phải tuân thủ quy định
của luật kinh doanh bảo hiểm, các quy định khác của pháp luật có liên quan
và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
2. Doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm
2.1. Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm
2.1.1. Khái niệm
DNBH trong khuôn khổ những quy định pháp lý được phép thực hiện
nhiều hoạt động khác nhau: kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, đại lý
giám định xét giải quyết bồi thường, đầu tư vốn…
Như vậy, phạm vi hoạt động kinh doanh của DNBH không chỉ bó hẹp
trong khuôn khổ của hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà nó có thể được xếp thành
ba loại:
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm
- Hoạt động đầu tư tài chính
- Hoạt động khác
Theo đó, doanh thu bảo hiểm của DNBH là: doanh thu từ hoạt động bán
sản phẩm bảo hiểm và cung cấp dịch vụ, tiền lãi từ hoạt động đầu tư và các khoản
thu nhập khác ngoài các hoạt động bán sản phẩm bảo hiểm và đầu tư.
2.1.2. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 12 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Đây là nguồn thu cơ bản và đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của
DNBH. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm được tính bằng số tiền phải
thu sau khi đã trừ đi các khoản chi để giảm thu phát sinh trong kỳ từ các hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Doanh thu kinh doanh bảo hiểm bao gồm các khoản
thu sau đây:
 Tiền thu phí bảo hiểm gốc: là toàn bộ phí BH thu từ các hoạt động BH đã

ký kết trong kỳ.
 Tiền thu nhận tái bảo hiểm: là toàn bộ tiền phí nhận tái bảo hiểm thu từ các
hợp đồng tái bảo hiểm trong kỳ.
 Tiền thu nhượng tái bảo hiểm: là toàn bộ các khoản tiền thu về hoa hồng
nhượng tái bảo hiểm và khoản thu khác từ hoạt động tái bảo hiểm trong kỳ.
 Ngoài ra, khi doanh nghiệp đứng ra làm đại lý cho các DNBH khác trong
việc giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn,
xử lý hàng bồi thường 100%, số tiền phải thu từ các hoạt động này cũng được tính
vào doanh thu phát sinh trong kỳ của DNBH.
Cũng như các loại hình kinh doanh khác, DNBH có thể gặp phải trường hợp
hàng bán bị trả lại, hoặc DNBH áp dụng chính sách giảm giá hàng bán. Đây được
coi là các khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ, là các khoản thu phát sinh
trong kỳ nhưng phải trả lại, bao gồm:
 Hoàn phí bảo hiểm: khi hoạt động bảo hiểm bị giải ước, khách hàng có
thể được hoàn lại một phần phí bảo hiểm đã đóng với mức hoàn lại đã được quy
định trước trong hợp đồng.
 Giảm phí bảo hiểm đối với những khách hàng lớn, hoặc khách hàng ít bị
tổn thất nhằm cạnh tranh lôi kéo và giữ khách hàng.
Tương tự như vậy, đối với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng có
hoàn phí và giảm phí nhận tái bảo hiểm, hoàn và giảm hoa hồng nhượng tái bảo
hiểm.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 13 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Kinh doanh bảo hiểm phải dựa trên nguyên tắc số lớn và phân tán rủi ro.
Vì vậy để bảo vệ chính mình, các DNBH thực hiện tái bảo hiểm. Khi đó, DNBH
phải chuyển một phần phí bảo hiểm đã thu từ hoạt động bảo hiểm gốc cho công ty
nhận tái bảo hiểm gọi là phí nhượng tái bảo hiểm. Phí nhượng tái bảo hiểm cũng
được coi là một khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ (không phải là chi
phí).

2.1.3. Doanh thu hoạt động tài chính
DNBH không chỉ có nhiệm vụ quản lý thu chi quỹ tài chính bảo hiểm, mà
còn phải phát triển quỹ tài chính này. Do các DNBH luôn có trong tay một lượng
tiền nhàn rỗi tương đối lớn phải đem đầu tư cho nên nguồn thu từ hoạt động tài
chính là rất đáng kể. Đối với nhiều DNBH thì gần như toàn bộ chi phí hoạt động
và lợi nhuận là từ nguồn thu này. Các khoản thu từ hoạt động tài chính bao gồm:
 Thu từ lãi đầu tư chứng khoán, cho vay thế chấp, đầu tư bất động sản,
góp vốn liên doanh hoặc gửi tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng.
 Thu lãi trên số tiền ký quỹ. Để đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo
hiểm trong trường hợp công ty bảo hiểm bị phá sản Nhà Nước yêu cầu các doanh
nghiệp phải sử dụng một phần vốn điều lệ của mình để ký quỹ tại một ngân hàng
và DNBH được hưởng lãi trên số tiền ký quỹ đó.
 Hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoán. Do DNBH thường
đầu tư tiền nhàn rỗi vào chứng khoán với giá trị đầu tư lớn, để tránh sự mất giá
của chứng khoán dẫn đến giảm giá trị khoản đầu tư, ảnh hưởng đến khả năng
thanh toán bảo hiểm, các DNBH phải lập dự phòng giảm giá chứng khoán. Và
trong trường hợp không cần sử dụng đến hoặc sử dụng không hết thì sẽ được
hoàn nhập vào doanh thu.
 Cổ tức được chia, lãi được chia từ vốn góp liên doanh liên kết. Đây là
khoản thu nhập không chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, nên khi nhận được các
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 14 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
khoản thu này DNBH không phải tính vào doanh thu hoạt động tài chính để tính
thuế thu nhập trong kỳ.
 Thu nhập khác là các khoản thu về cho thuê bất động sản, thuê văn
phòng, tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn, chênh lệch ngoại tệ và các khoản thu
nhập khác.
2.1.4. Thu từ các hoạt động khác
Thu nhập khác trong DNBH là các khoản thu từ những hoạt động xảy ra

không thường xuyên ngoài các hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt động tài
chính, bao gồm: Thu về thanh lý tài sản cố định, nhượng bán tài sản cố định; Thu
về tiền phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng; Tiền bảo hiểm được bồi thường;
Thu được các khoản nợ phải thu đã xóa sổ tính vào chi phí của kỳ trước; Khoản
nợ phải trả nay mất chủ được tính tăng thu nhập; Thu về các khoản thuế được ghi
giảm, được hoàn lại.
2.2. Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm
2.2.1. Khái niệm
Với đặc thù của kinh doanh bảo hiểm một ngành dịch vụ kinh doanh rủi ro
thì chi phí của DNBH được định nghĩa là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải chi,
phải trích trong kỳ (thường là một năm) bao gồm: chí phí hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, chi phí hoạt động tài chính và chi phí cho các hoạt động khác.
2.2.2. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Chi phí kinh doanh bảo hiểm là toàn bộ các khoản chi tiền, khoản trích nảy
sinh trong quy trình hoạt động kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm và tái bảo
hiểm của DNBH trong kỳ. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là khoản chi
cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm:
a. Chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 15 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm là các khoản chi bằng tiền và các
khoản trích để trực tiếp thực hiện sản xuất dịch vụ bảo hiểm, tái bảo hiểm trong
kỳ kinh doanh của DNBH.
Theo mục đích và công dụng của chi phí, chi phí trực tiếp kinh doanh bảo
hiểm bao gồm:
 Chi bồi thường: là khoản tiền mà DNBH trả trực tiếp theo cam kết
trên hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng khi xảy ra rủi ro thuộc phạm vi trách
nhiệm của các hợp đồng bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm. Đây là khoản chi phí luôn
chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất trong tổng chi. Chi bồi thường bao

gồm:
 Chi bồi thường bảo hiểm gốc: là những khoản tiền mà DNBH chi trả
trực tiếp cho người được bảo hiểm, người thụ hưởng bảo hiểm khi xảy ra những
sự kiện bảo hiểm thuộc phạm vi trách nhiệm của các hợp đồng bảo hiểm gốc.
 Chi bồi thường nhận tái bảo hiểm: là khoản chi mà DNBH phải trả
cho công ty nhượng tái bảo hiểm theo hợp đồng tái bảo hiểm khi xảy ra tổn thất
rơi vào trách nhiệm nhận tái bảo hiểm.
 Chi hoa hồng: là khoản chi mà DNBH trả cho các trung gian bảo
hiểm hoặc công ty nhượng tái bảo hiểm khi nhận được các dịch vụ bảo hiểm, tái
bảo hiểm. Chi hoa hồng bao gồm:
 Chi hoa hồng bảo hiểm gốc: là khoản tiền DNBH trả cho các đại lý,
môi giới hoặc cộng tác viên khi các trung gian này mang lại các hợp đồng bảo
hiểm cho DNBH. Hoa hồng bảo hiểm gốc phụ thuộc vào tổng phí bảo hiểm và tỷ
lệ hoa hồng được ấn định bởi các quy định pháp luật hoặc của DNBH.
 Hoa hồng nhận tái bảo hiểm: là khoản tiền DNBH trả cho công ty
nhượng tái bảo hiểm khi công ty này chuyển nhượng dịch vụ cho doanh nghiệp.
Hoa hồng nhận tái bảo hiểm được xác định trên cơ sở phí nhận tái và tỷ lệ hoa
hồng được thỏa thuận giữa DNBH và công ty nhượng tái bảo hiểm.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 16 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Do hoạt động kinh doanh bảo hiểm có “sự đảo ngược chu kỳ kinh
doanh” nên trong cơ cấu chi phí của DNBH có một khoản chi đặc thù đó là chi
trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.
 Chi trích lập dự phòng nghiệp vụ: là khoản chi theo quy định của chế
độ pháp lý tài chính, DNBH phải trích vào cuối niên độ nhằm để đảm bảo thanh
toán cho người được bảo hiểm về những rủi ro và tổn thất trong tương lai. Mặc dù
tiền này vẫn nằm trong tay DNBH nhưng không thuộc về doanh nghiệp, đây là
khoản nợ DNBH sẽ phải trả trong tương lai.
Trong kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, các khoản chi dự

phòng nghiệp vụ chủ yếu gồm: Dự phòng phí bảo hiểm, Dự phòng bồi thường,
Dự phòng dao động lớn. Còn trong các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ các khoản
dự phòng kỹ thuật chủ yếu mà doanh nghiệp phải trích là: Dự phòng toán học,
Dự phòng phí bảo hiểm chưa được hưởng, Dự phòng đảm bảo cân đối, Dự phòng
cam kết chia lãi.
 Chi giám định tổn thất: là khoản tiền DNBH phải chi ra để thực hiện
việc giám định các tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
 Chi đánh giá rủi ro của đối tượng bảo hiểm bảo hiểm: là các khoản
chi cho công việc thu thập thông tin, điều tra, và thẩm định về đồi tượng bảo hiểm
trước khi doanh nghiệp ký kết hợp đồng bảo hiểm hoặc trong quá trình thực hiện
hợp đồng bảo hiểm với khách hàng.
 Chi đề phòng hạn chế tổn thất: là khoản chi cho việc tổ chức các biện
pháp phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất đối với những đối tượng bảo hiểm
được DNBH bảo đảm theo các hợp đồng.
 Chi đòi người thứ ba: là khoản tiền DNBH bỏ ra để khiếu nại những
người gây ra thiệt hại cho người được bảo hiểm mà theo luật, DNBH được thế
quyền người được bảo hiểm để đòi bồi thường.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 17 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
 Chi xử lý bồi thường 100%: là khoản chi DNBH bỏ ra để bán thanh
lý những đối tượng bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ (chủ yếu là tổn thất toàn bộ ước
tính) đã được bồi thường và DNBH được quyền thu hồi.
 Chi quản lý đại lý: là khoản chi cho công việc tìm kiếm, tuyển dụng
lựa chọn, đào tạo, huấn luyện và giám sát quá trình hành nghề của đại lý bảo
hiểm.
e. Chi phí bán hàng trong bảo hiểm.
Chi phí bán hàng là khoản chi ra trong quá trình bán các sản phẩm bảo
hiểm.
Trong thực tế, các DNBH thường gộp khoản chi phí này vào khoản chi phí

quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên về bản chất đây là khoản chi chỉ nảy sinh trong
khâu bán hàng trực tiếp của DNBH, do vậy đối với những doanh nghiệp bảo hiểm
mà thực hiện trực tiếp việc phân phối các sản phẩm bảo hiểm với quy mô lớn thì
đây là khoản chi quan trọng và cần thiết phải có sự quản lý theo dõi riêng. Chi phí
bán hàng trong bảo hiểm bao gồm:
 Chi phí nhân viên: là khoản chi phí tiền lương và các khoản trích
theo lương, tiền thưởng và các khoản phụ cấp khác cho các nhân viên trực tiếp
bán sản phẩm bảo hiểm.
 Chi phí dụng cụ, đồ dùng: là trị giá của các công cụ, dụng cụ đồ
dùng, phục vụ cho quá trình bán sản phẩm bảo hiểm.
 Chi phí ấn chỉ: là chi phí cho việc mua và quản lý các ấn chỉ trong
khai thác quản lý các hoạt động bảo hiểm.
 Chi khấu hao tài sản cố định : là các khoản tiền để trả cho các đơn
vị cá nhân bên ngoài do cung cấp dịch vụ, lao vụ cho quá trình bán sản phẩm bảo
hiểm.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 18 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
 Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi khác trong quá trình bán
sản phẩm bảo hiểm, bao gồm: chi quảng cáo thương mại hóa sản phẩm bảo hiểm,
chi tiếp khách, tổ chức hội nghị, tuyên truyền…
e. Chi phí quản lý doanh nghiệp
Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí cho việc quản lý điều
hành, quản lý kinh doanh chung, quản lý hành chính và phục vụ chung khác liên
quan hoạt động của DNBH.
Cũng như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm các
khoản chủ yếu là: Chi phí nhân viên quản lý; Chi phí vật tư quản lý; Chi phí đồ
dùng văn phòng, Chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý, Chi trích
dự phòng giảm giá hàng hóa tồn kho, nợ phải thu khó đòi; Chi phí dịch vụ mua
ngoài; Chi phí bằng tiền khác; Thuế và các khoản phí, lệ phí, lãi vay.

Do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, DNBH có các khoản phải
thu nhưng lại không được coi là doanh thu mà là khoản để giảm chi phát sinh
trong kỳ, bao gồm:
 Thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm: khi có tổn thất xảy ra thuộc
phạm vi bảo hiểm, DNBH phải có trách nhiệm bồi thường tổn thất cho bên tham
gia bảo hiểm. Nhưng nếu hợp đồng bảo hiểm này đã được tái bảo hiểm, DNBH sẽ
được công ty nhận tái bảo hiểm trả cho một phần số tiền đã bồi thường theo cam
kết trong hợp đồng tái bảo hiểm. Đây được coi là thu bồi thường nhượng tái bảo
hiểm, làm giảm chi bồi thường bảo hiểm gốc.
 Thu đòi người thứ ba bồi hoàn: theo nguyên tắc “ thế quyền” trong
bảo hiểm, nếu tổn thất xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của bên thứ ba, bảo
hiểm vẫn bồi thường tổn thất đó nhưng sẽ thế quyền người được bảo hiểm đòi bên
thứ ba.
 Thu hàng đã xử lý, bồi thường 100% : trong kinh doanh bảo hiểm,
nếu có tổn thất toàn bộ (bao gồm tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 19 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
tính) thuộc phạm vi bảo hiểm, DNBH bồi thường 100% giá trị thiệt hại. Tuy
nhiên giá trị còn lại của đối tượng bảo hiểm hay giá trị của hàng đã xử lý bồi
thường 100% là thuộc về DNBH và đây cũng được coi là khoản thu làm giảm chi
bồi thường bảo hiểm gốc của DNBH.
2.2.3. Chi phí hoạt động tài chính
Chi phí hoạt động tài chính là toàn bộ các khoản chi phí cho các hoạt động
về tài chính của DNBH trong kỳ. Chi phí hoạt động tài chính bao gồm:
 Chi phí hoạt động đầu tư vốn
Khoản chi này bao gồm các khoản: chi phí mua giới, chi thủ tục phí ngân
hàng, chi thù lao cho các tổ chức đầu tư tín thác, chi giao dịch khác, trích dự
phòng giảm giá tài sản đầu tư.
Những hoạt động đầu tư chủ yếu mà DNBH tiến hành là: Hoạt động mua,

bán và nắm giữ chứng khoán các loại; Hoạt động tham gia góp vốn liên doanh
liên kết; Hoạt động kinh doanh bất động sản; Hoạt động cho vay, gửi tiền tại các
tổ chức tín dụng; Các hoạt động tài chính khác.
 Lãi trả cho các chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ: là khoản tiền doanh
nghiệp bảo hiểm cam kết chắc chắn trả cho chủ hợp đồng theo hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ đã ký kết.
Cần phân biệt lãi trả theo cam kết với khoản lãi chia thêm cho chủ hợp
đồng. Lãi chia thêm là khoản tiền doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chia thêm cho
khác hàng từ lợi nhuận của doanh nghiệp, đây là khoản lãi được chia không có sự
đảm bảo chắc chắn của doanh nghiệp.
 Chi phí cho thuê tài sản: là các khoản chi bằng tiền phát sinh trong
việc DNBH cho thuê tài sản các tổ chức cá nhân bên ngoài.
2.2..4. Chi phí khác
Chi phí hoạt động khác là những khoản chi cho những hoạt động xảy ra
không thường xuyên của DNBH trong kỳ. Chi phí hoạt động khác gồm: chi về
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 20 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
nhượng bán thanh lý tài sản cố định, chi phí cho việc thu hồi khoản nợ thu khó
đòi đã xóa nay thu hồi được, chi tiền phạt do vi phạm hợp đồng, chi phí do kế
toán ghi nhầm hoặc bỏ xót khi ghi sổ kế toán, giá trị còn lại của tài sản cố định
khi mang đi thanh lý nhượng bán…
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo
hiểm
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng doanh thu
Doanh thu là một chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Chỉ tiêu này đặc biệt có ý nghĩa đối với hoạt động của các DNBH vì cơ sở
hoạt động kinh doanh bảo hiểm là quy luật số lớn, lấy “số đông bù số ít”. Doanh
thu của DNBH chịu tác động của nhiều nhân tố trong đó có các nhân tố cơ bản
sau:

a. Mức phí bảo hiểm: Đây là nguồn thu đầu tiên và có vai trò quyết định
đối với hoạt động của DNBH. Việc định phí của các DNBH được dựa trên các
nhân tố:
+ Xác suất rủi ro: Đây là cơ sở khoa học không thể thiếu khi DNBH
định phí bảo hiểm. Xác suất rủi ro cao thì mức phí cũng phải cao và ngược lại.
+ Điều kiện bảo hiểm: Điều kiện bảo hiểm thể hiện phạm vi trách
nhiệm đối với các rủi ro được DNBH nhận bảo hiểm. Điều kiện bảo hiểm càng
nhiều, phạm vi bảo hiểm càng mở rộng, phí bảo hiểm càng cao do khả năng chi
trả bồi thường của DNBH càng lớn.
+ Thời hạn bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm luôn được giới hạn về mặt
thời gian. Khi thời hạn bảo hiểm dài có nghĩa là khả năng gặp rủi ro lớn hơn và
tất nhiên mức phí cũng phải tăng lên. Trong bảo hiểm nhân thọ, việc tính phí bảo
hiểm chịu ảnh hưởng lớn của thời hạn bảo hiểm. Bảo hiểm nhân thọ không chỉ
mang tính rủi ro mà còn mang tính tiết kiệm, khi định phí còn phải tính đến giá
trị thời gian của đồng tiền.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 21 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
+ Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và hạn mức trách nhiệm của
DNBH. Đây cũng là nhân tố rất cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến mức phí bảo
hiểm. Đối với phần lớn các nghiệp vụ, các sản phẩm bảo hiểm, mức phí bảo
hiểm được tính toán trên cơ sở những nhân tố này và tỷ lệ phí bảo hiểm.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: vì chi phí quản lý, điều hành doanh
nghiệp là một bộ phần cấu thành phí bảo hiểm toàn phần.
+ Ngoài ra, khi định phí bảo hiểm, DNBH không thể bỏ qua một số
nhân tố quan trọng khác như tình hình cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường,
lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, quy định của pháp luật về mức
phí sàn, phí trần…
b. Số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm: đối với DNBH đây là nhân
tố rất quan trọng ảnh hưởng tới doanh thu. Để cạnh tranh, DNBH có thể giảm phí

bảo hiểm nhưng tổng doanh thu của doanh nghiệp vẫn không bị giảm và thậm chí
còn tăng vì lượng khách hàng mua bảo hiểm tại doanh nghiệp cũng tăng lên khi
phí giảm. Khi số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm lớn còn làm cho việc định
phí của DNBH đảm bảo được quy luật số đông.
c. Quy định của pháp luật: hoạt động của DNBH không nằm ngoài
khuôn khổ pháp luật và chịu sự tác động của pháp luật. Doanh thu của DNBH sẽ
bị ảnh hưởng khi Nhà Nước quy định mức phí trần, mức phí sàn. Thị phần của
DNBH có thể tăng, giảm dẫn tới doanh thu bị ảnh hưởng khi Nhà Nước thực hiện
chính sách đóng cửa hay mở cửa thị trường bảo hiểm. Một số quy định của pháp
luật làm tăng lượng khách hàng tham gia bảo hiểm, ví dụ: quy định bắt buộc mua
bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm trách
nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động, bảo hiểm cháy… điều đó
rất có lợi cho các DNBH vì khách hàng tham gia tăng sẽ làm cho doanh thu phí
tăng.
d. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 22 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
Bên cạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bản thân hoạt động đầu tư cũng
tạo ra doanh thu cho DNBH. Ngoài ra, hoạt động đầu tư còn ảnh hưởng đến việc
định phí sản phẩm bảo hiểm. Những sản phẩm bảo hiểm nhân thọ được thiết kế
có tỷ lệ lãi kỹ thuật cao mà hoạt động đầu tư không đáp ứng được sẽ rất khó cho
các DNBH nhân thọ tung những sản phẩm đó ra thị trường.
3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí
Đối với DNBH, chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là khoản chi phí cơ
bản và luôn chiếm tỷ trọng lớn, do đó khi nói đến các nhân tố ảnh hưởng đến chi
phí của DNBH, trước hết phải kể đến một số nhân tố cơ bản sau:
 Giá trị thiệt hại thực tế thuộc phạm vi bảo hiểm của đối tượng
bảo hiểm: giá trị thiệt hại thực tế này sẽ quyết định số tiền bồi thường của
DNBH, là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi của doanh nghiệp. Nó

được xác định dựa trên:
- Mức độ thiệt hại thực tế: khi định phí bảo hiểm, phải dựa vào xác
suất rủi ro tính theo số liệu thống kê quá khứ, còn số tiền bồi thường phát sinh lại
phụ thuộc vào mức độ thiệt hại thực tế xảy ra trong năm nghiệp vụ. Mức độ thiệt
hại thực tế có thể cao hơn mức dự đoán do có nhiều yếu tố khách quan không
lường trước được tác động, làm cho mức độ rủi ro tăng lên xét cả về số vụ và mức
độ thiệt hại bình quân một vụ, dẫn đến số tiền bồi thường cũng tăng cao hơn so
với dự kiến. Ngược lại, mức độ thiệt hại thực tế cũng có thể thấp hơn mức dự
đoán của DNBH, từ đó làm giảm chi phí bồi thường. Khi quản lý chi phí, DNBH
phải đặc biệt chú ý tới nhân tố này.
- Phạm vi bảo hiểm: phạm vi bảo hiểm thể hiện giới hạn trách
nhiệm của DNBH về phạm vi rủi ro bảo hiểm, phạm vi không gian và thời gian,
phạm vi số tiền bảo hiểm. Chính vì vậy phạm vi bảo hiểm ảnh hưởng trực tiếp
đến số tiền bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm càng rộng,
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 23 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
mức độ thiệt hại thực tế của đối tượng bảo hiểm thuộc phạm vi trách nhiệm của
bảo hiểm càng lớn và ngược lại.
 Công tác quản lý rủi ro: đây là nhân tố có tính chủ quan, ảnh
hưởng lớn đến số tiền chi trả, bồi thường của DNBH. Nếu DNBH làm tốt công
tác này, mức độ thiệt hại thực tế thuộc phạm vi bảo hiểm sẽ giảm, kéo theo số tiền
bồi thường hay chi trả bảo hiểm cũng giảm. Số tiền bồi thường hay chi trả bảo
hiểm giảm có thể lớn hơn nhiều so với chi phí DNBH bỏ ra để thực hiện công tác
quản lý rủi ro. Nếu công tác quản lý rủi ro làm không tốt thì hậu quả là ngược lại.
 Tình hình trục lợi bảo hiểm: trục lợi bảo hiểm là hành vi của
người tham gia bảo hiểm cố tình gian dối, lừa đảo, có ý định ngay từ khi tham gia
bảo hiểm hoặc sau khi rủi ro xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt
số tiền bồi thường của bảo hiểm mà lẽ ra họ không được hưởng. Có nhiều hình
thức trục lợi bảo hiểm như: hợp lý hóa ngày và hiệu lực bảo hiểm khi rủi ro xảy ra

vào thời điểm đã hết hiệu lực hợp đồng; lập hồ sơ đòi bồi thường nhiều lần không
tuân theo nguyên tắc “ đóng góp” trong bảo hiểm tài sản; khai tăng mức độ thiệt
hại… ngoài ra, các hành vi trục lợi của khách hàng bảo hiểm còn có sự tiếp tay
của nhân viên bảo hiểm, của các cơ quan chức năng có liên quan. Các hành vi này
ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh, làm tăng chi phí của DNBH. Đồng
thời, hành vi trục lợi bảo hiểm còn ảnh hưởng xấu đến đạo đức xã hội, kỷ cương
pháp luật, làm nhiễu thông tin và mất uy tín của DNBH.
 Trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ: Các quỹ dự phòng nghiệp vụ
được tính là một khoản chi và chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các DNBH.
DNBH phải trích lập dự phòng nghiệp vụ theo quy định của pháp luật, đây là một
khoản chi rất đặc thù và nhạy cảm đối với DNBH. Mặc dù dự phòng nghiệp vụ là
một khoản chi, nhưng thực chất DNBH vẫn nắm giữ lượng tiền này. Và chỉ cần
một thay đổi nhỏ trong việc trích lập dự phòng nghiệp vụ cũng làm ảnh hưởng
đến tổng chi từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của DNBH.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 24 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
 Quy định của pháp luật: quy định của pháp luật không chỉ ảnh
hưởng đến doanh thu mà còn ảnh hưởng đến chi phí của DNBH. Ví dụ: Nhà
Nước quy định về lập dự phòng nghiệp vụ, hay Nhà Nước khống chế mức trả hoa
hồng của DNBH cho các đại lý và môi giới bảo hiểm.
 Tổ chức bộ máy hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm: đây là
nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí quản lý của doanh nghiệp. Để đảm bảo
nguyên tắc dàn trải và phân chia rủi ro, để phân phối sản phẩm đến tận tay khách
hàng, các DNBH thường phải hoạt động trên phạm vi địa lý rộng. Điều đó yêu
cầu doanh nghiệp phải có một bộ máy tổ chức vừa tập trung, vừa phân tán, với
những trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại hỗ trợ cho công tác quản
lý. Vì vậy, một mô hình tổ chức bộ máy hoạt động hợp lý, bao gồm cả tổ chức
mạng lưới đại lý, môi giới hay cộng tác viên bảo hiểm, sẽ giúp DNBH tiết kiệm
được các chi phí quản lý của mình.

4. Phương pháp và các chỉ tiêu phân tích tình hình doanh thu, chi phí hoạt
động kinh doanh bảo hiểm.
4.1. Sự cần thiết khách quan của phân tích doanh thu và chi phí
Doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một trong những chỉ
tiêu được sử dụng để phân tích hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Phân tích hoạt
động kinh doanh đi vào các kết quả đạt được, những hoạt động hiện hành và dựa
trên kết quả phân tích đó để ra các quyết định quản trị kịp thời trước mắt – ngắn
hạn hoặc xây dựng kế hoạch chiến lược – dài hạn.
Phân tích hoạt động kinh doanh chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường vấn đề đặt lên hàng đầu
đối với mọi doanh nghiệp là hiệu quả kinh doanh, từ đó mới có thể đứng vững
trên thị trường, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác lại vừa có điều kiện
tích lũy và mở rộng sản xuất kinh doanh. Hoạt động phân tích vì vậy mang tính ý
thức, nó có tác dụng giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu để
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Chuyên đề tốt nghiệp 25 GVHD:Th.S Tôn Thị Thanh Huyền
củng cố, phát huy hoặc khắc phục, cải tiến quản lý. Phát huy mọi tiềm năng của
thị trường, khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp, nhằm đạt đến hiệu quả
cao nhất trong kinh doanh. Phân tích kinh doanh giúp dự báo, đề phòng những
hạn chế rủi ro bất định trong kinh doanh.
4.2. Các phương pháp phân tích
Khi phân tích tình hình doanh thu và chi phí DNBH có thể sử dụng kết hợp
các phương pháp thống kê và toán kinh tế, trong đó có cả các phương pháp truyền
thống và các phương pháp hiện đại. Việc lựa chọn phương pháp phân tích phụ
thuộc chủ yếu vào mục đích, yêu cầu; vào hệ thống chỉ tiêu và mối liên hệ giữa
các hiện tượng, các yếu tố phân tích; vào thời gian, không gian và nguồn tài liệu
phân tích…
Các phương pháp phân tích cụ thể bao gồm rất nhiều loại, song có thể tổng
hợp lại thành 4 loại sau đây:

a. Phương pháp chi tiết
Mọi kết quả kinh doanh trong DNBH đều cần thiết và có thể chi tiết theo
những hướng khác nhau. Thông thường trong phân tích, phương pháp phân tích
được thực hiện theo các hướng:
- Chi tiết theo bộ phận cấu thành chỉ tiêu để biểu hiện về mặt lượng
và xác định cơ cấu của từng bộ phận trong tổng thể. Qua đó đánh giá mức độ đạt
được và vai trò của từng bộ phận cấu thành chỉ tiêu phân tích. Ví dụ, doanh thu
phí bảo hiểm có thể chi tiết theo nghiệp vụ, theo đối tượng, theo loại hình kinh
doanh và tính chất của rủi ro được bảo hiểm…
- Chi tiết theo thời gian để kiểm tra, đánh giá mức độ đạt được về
một chỉ tiêu nào đó theo tiến độ thời gian đã đặt ra, từ đó giúp DNBH tìm ra các
biện pháp hữu hiệu trong chỉ đạo hoạt động kinh doanh của mình nhằm hoàn
thành kế hoạch đặt ra.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Bích Thư Bảo Hiểm 46b-ĐH Kinh Tế Quốc Dân

×