Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội của tỉnh thái nguyên từ năm 1997 đến năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HOÀNG THỊ THU HƯƠNG

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2011

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

THÁI NGUYÊN - 2016


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

HOÀNG THỊ THU HƯƠNG

QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
AN SINH XÃ HỘI CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2011
Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Thị Thu Thủy

THÁI NGUYÊN - 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực.

Người thực hiện

Hoàng Thị Thu Hương

i


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong khoa
Lịch sử - trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, những người đã giảng dạy tôi trong
suốt hai năm học vừa qua, giúp tôi hoàn thành nghiên cứu và hoàn thiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. TS Hà Thị Thu Thủy - người đã trực
tiếp hướng dẫn, định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều
kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các cơ quan, ban ngành, đoàn thể tỉnh Thái Nguyên
đã cung cấp tài liệu, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn.
Luận văn này là kết quả bước đầu của quá trình nghiên cứu khoa học, song do
điều kiện năng lực và thời gian còn hạn chế, đề tài nghiên cứu không tránh khỏi
những sơ suất, thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp, bổ sung của các thầy cô và các
bạn để công trình thêm hoàn thiện.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2016
Tác giả

Hoàng Thị Thu Hương


ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... ii
MỤC LỤC ................................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................... v
DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ ............................................................................. vi
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 2
3. Mục đích, đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ........................................... 7
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .............................................................. 7
5. Đóng góp của đề tài .................................................................................................. 9
6. Cấu trúc của đề tài .................................................................................................... 9
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỊA BÀN
NGHIÊN CỨU.................................................................................................................... 10
1.1. Lí luận chung về an sinh xã hội ........................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm ASXH ......................................................................................... 10
1.1.2. Nội dung của ASXH ..................................................................................... 14
1.1.3. Vai trò hệ thống ASXH ................................................................................ 19
1.2. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu .............................................................................. 21
1.2.1. Vị trí địa lý, phạm vi lãnh thổ ...................................................................... 21
1.2.2. Đặc điểm môi trường tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ............................ 23
1.2.3. Đặc điểm dân cư và xã hội ........................................................................... 26
1.2.4. Tình hình kinh tế .......................................................................................... 28
1.2.5. Cơ sở hạ tầng ................................................................................................ 30
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................... 32


iii


Chương 2. CÁC TRỤ CỘT CỦA CHÍNH SÁCH AN SINH XÃ HỘI VÀ
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN Ở TỈNH THÁI NGUYÊN (1997 - 2011) ................. 34
2.1. Về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế ..................................................................... 34
2.2. Về trợ giúp xã hội ................................................................................................ 37
2.3. Về ưu đãi xã hội ................................................................................................... 43
2.4. Về xóa đói giảm nghèo ........................................................................................ 49
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................... 62
Chương 3. ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH AN SINH
XÃ HỘI CỦA TỈNH THÁI NGUYÊN TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2011....................63
3.1. Kết quả đạt được .................................................................................................. 63
3.1.1. ASXH góp phầ n nâng cao năng suấ t lao đô ̣ng của người lao đô ̣ng ............. 63
3.1.2. ASXH góp phầ n giải quyế t thấ t nghiê ̣p........................................................ 65
3.1.3. ASXH góp phầ n đảm bảo công bằ ng xã hô ̣i, giảm bấ t biǹ h đẳ ng ............... 68
3.1.4. ASXH góp phầ n ổ n đinh
̣ chính tri ̣- xã hô ̣i................................................... 71
3.2. Những tồn tại trong quá trình thực hiện chính sách ASXH ở tỉnh Thái Nguyên
giai đoạn 1997 - 2015 ................................................................................................. 75
3.2.1. Tính chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền trong việc xây
dựng chương trình, kế hoạch thực hiện chính sách ASXH còn hạn chế ................ 75
3.2.2. Nhận thức về ASXH chưa đầy đủ ................................................................ 75
3.2.3. Sự thiếu hoàn chỉnh, đồng bộ của hệ thống chính sách ............................... 77
3.2.4. Trình độ, năng lực quản lý, thực hiện của cán bộ làm công tác ASXH
còn hạn chế ............................................................................................................. 78
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................... 80
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 84

PHỤ LỤC

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASXH

:

An sinh xã hội

BHXH

:

Bảo hiểm xã hội

BHYT

:

Bảo hiểm y tế

ĐHSP

:

Đại học Sư phạm


GD

:

Giáo dục

Gs

:

Giáo sư

KHXH

:

Khoa học Xã hội

NXB

:

Nhà xuất bản

PGS

:

Phó giáo sư


Ths

:

Thạc sĩ

TP

:

Thành phố

Tr

:

Trang

TS

:

Tiến sĩ

iv


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1.


Diện tích, dân số, mật độ dân số tỉnh Thái Nguyên chia theo huyện,
thành phố, thị xã năm 2011 ..................................................................... 21

Bảng 1.2.

Cơ cấu sử dụng đất theo mục đích sử dụng tính đến năm 2011 ............. 24

Bảng 1.3.

Dân số và lao động tỉnh Thái Nguyên năm 2011 ................................... 27

Bảng 1.4.

Thu nhập bình quân tháng của người lao động phân theo khu vực
thành thị, nông thôn ................................................................................ 28

Bảng 1.5.

Giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Thái Nguyên theo giá so sánh
1994 phân theo huyện, thành phố, thị xã ................................................ 29

Bảng 2.1.

Tổng kinh phí cứu trợ đột xuất trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 1997 - 2011 .................................................................................... 40

Bảng 2.2.

Thống kê số trẻ em bị khuyết tật, tàn tật được chăm sóc tại các cơ
sở bảo trợ xã hội tỉnh Thái Nguyên ........................................................ 41


Bảng 2.3.

Tỷ lệ xã/ phường/ thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế phân theo
huyện/ thành phố/ thị xã ở tỉnh Thái Nguyên ......................................... 42

Bảng 2.4.

Số hộ nghèo và tỷ lệ hộ nghèo tính đến 31/12 hàng năm trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2005 - 2010 ......................................... 57

Bảng 2.5.

Số lao động được tạo việc làm trong năm trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên giai đoạn 1997 - 2011 ................................................................ 61

Bảng 3.1.

Năng suất lao động các lĩnh vực kinh tế trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên ...... 64

Bảng 3.2.

Mức độ hiểu biết về các chính sách ASXH của các đối tượng đang
thụ hưởng chính sách .............................................................................. 76

Bảng 3.3.

Trình độ chuyên môn của các cán bộ làm công tác ASXH .................... 79

v



DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ

Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Thái Nguyên .........................................................22
Hình 3.1. Nhận thức của người dân về chính sách ASXH .........................................76

vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội nguyên thủy, truyền thống tương trợ, san sẻ nhau xuất hiện khi
con người cùng nhau săn bắt, hái lượm để tồn tại, chiến đấu với thú dữ, thiên tai, …
Ngày nay, trước những biến cố, rủi ro của cuộc sống, tinh thần ấy vẫn được phát huy
mạnh mẽ và ngày càng có những hình thức đa dạng như bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã
hội, trợ cấp gia đình, các chương trình xoá đói giảm nghèo, các quỹ tiết kiệm xã hội,
… (gọi chung là ASXH).
Ở Việt Nam, việc bảo đảm ngày càng tốt hơn ASXH luôn là một chủ trương,
nhiệm vụ lớn của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ và có ý
nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của
đất nước. Qua 25 năm (1986 - 2011) đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường - hội
nhập định hướng XHCN đã đem lại cho đất nước những biến đổi sâu sắc: sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mới, thu nhập bình quân đầu người tăng… Việt Nam
đã thành công trong nỗ lực giảm tỷ lệ nghèo từ hơn 60% năm 1990 xuống còn 18,1%
năm 2004 (theo chuẩn cũ), năm 2008 còn 13% (theo chuẩn mới) và 8,1% năm 2011,
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, với mức tăng bình quân 6-8%/năm. Duy trì được đà
tăng trưởng kinh tế hiện nay là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Tăng trưởng phải đi liền
với bình đẳng và phải mang lại lợi ích cho tất cả các vùng và nhóm dân cư trong
nước. Phần đông người nghèo ở nước ta sống trong hoàn cảnh bị tách biệt về mặt địa

lý, dân tộc, ngôn ngữ, xã hội và kinh tế, tình trạng chênh lệch và bất bình đẳng xã hội
giữa các vùng, giới tính và nhóm dân cư ngày càng tăng. Trong khi các vùng đô thị
được hưởng lợi nhiều nhất từ các chính sách cải cách, tăng trưởng kinh tế và hệ thống
an sinh xã hội, thì tình trạng nghèo vẫn giai dẳng ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam
và ở mức độ cao. Cùng với việc nỗ lực trong việc hội nhập với nền kinh tế toàn cầu
sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho sự tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với
sự nghiệp giảm nghèo. Cùng với tăng trưởng kinh tế, điều hết sức quan trọng là phải
tạo ra các mạng lưới ASXH nhằm giúp các nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất khỏi
bị đẩy trở lại tình trạng nghèo đói do yếu sức khoẻ, tàn tật hay chi phí giáo dục gia
tăng cho con em họ.

1


Những năm qua, hệ thống ASXH của tỉnh Thái Nguyên cũng được hình thành
và phát triển. Được tái lập từ ngày 1-1-1997 trên cơ sở tách tỉnh Bắc Thái thành hai
tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn (theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX),
Thái Nguyên trên cơ sở vận dụng quan điểm, chủ trương của Đảng vào thực tiễn địa
phương đã lãnh đạo thực hiện chính sách ASXH đạt được nhiều thành tựu trên các
lĩnh vực: xoá đói giảm nghèo; lao động và việc làm; chính sách đối với người có
công với cách mạng; chính sách bảo hiểm, bảo trợ xã hội… Tuy nhiên, bên cạnh các
thành tựu, còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần phải khắc phục.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tác giả lựa chọn hướng nghiên cứu: “Quá
trình thực hiện chính sách an sinh xã hội của tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến
năm 2011” để thực hiện luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Những nghiên cứu trên thế giới
Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng UN thông qua ngày 10/12/1948 viết:
“Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng an sinh xã
hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần

cho nhân cách và sự tự do phát triển con người…”.
Ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO thông qua Công ước số 102 (Công
ước về ASXH) trên cơ sở tập hợp các chế độ về ASXH đã có trên toàn thế giới thành
9 bộ phận. Với công ước này, quan niệm của ILO về ASXH “… là sự bảo vệ của xã
hội với các thành viên của mình thông qua hàng loạt các biện pháp công cộng nhằm
chống lại tình cảnh khốn khổ về KT-XH gây ra bởi tình trạng bị ngừng hoặc giảm sút
đáng kể về thu nhâp do ốm đau, thai sản, thương tật lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi
già, tử vong, sự cung cấp về chăm sóc y tế và cả sự cung cấp các khoản tiền trợ cấp
cho các gia đình đông con”
Trong các công trình nghiên cứu về chính sách ASXH của một số nước trên thế
giới phải kể đến một số công trình tiêu biểu sau: Tác giả Nguyễn Duy Dũng trong cuốn
“Chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi xã hội ở Nhật Bản” (Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1998) đã khái quát sự hình thành và phát triển chế độ phúc lợi xã hội ở
Nhật Bản; các hình thức và biện pháp nhà nước đảm bảo phúc lợi xã hội ở Nhật Bản
(Chế độ chăm sóc sức khoẻ; phúc lợi đối với bà mẹ và trẻ em; phúc lợi xã hội đối với

2


người già; phúc lợi xã hội đối với người tàn tật; phúc lợi xã hội đối với người có thu
nhập thấp); tổ chức quản lý và tài chính cho việc thực hiện chính sách phúc lợi xã hội
của Nhật Bản. Ngoài ra, trong cuốn sách “Bảo đảm xã hội trong nền KTTT Nhật Bản
hiện nay” (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2008), tác giả Trần Thị Nhung cũng đã
giới thiệu chi tiết hệ thống chính sách đảm bảo xã hội trong nền KTTT Nhật Bản hiện
nay. Tác giả đã nêu và phân tích được khái niệm và lịch sử phát triển của hệ thống đảm
bảo xã hội của Nhật Bản. Trên cơ sở đó, tác giả cung cấp thông tin một cách đầy đủ về
đặc điểm, các loại hình, vai trò, chức năng của nhà nước cũng như những khó khăn,
thách thức trong việc thực hiện các chế độ đảm bảo xã hội của nhà nước như: Chế độ
đảm bảo thu nhập, bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ và TGXH, …
Công trình “Hệ thống ASXH của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” do

Đinh Công Tuấn làm chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008) đã phân tích tổng
quan về hệ thống ASXH của châu Âu nói chung (khái niệm, quá trình hình thành và
phát triển; nhu cầu và thách thức trong việc cải cách hệ thống ASXH của châu Âu hiện
nay) và một số quốc gia điển hình như: Hệ thống ASXH theo mô hình “thị trường xã
hội” của Đức; hệ thống ASXH theo mô hình “xã hội dân chủ” của Thuỵ Điển; hệ thống
ASXH theo mô hình “thị trường tự do” của Anh. Ngoài ra, công trình còn chỉ ra những
thành công, hạn chế, xu thế cải cách hệ thống ASXH của một số nước châu Âu và đưa
ra nhiều bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hiện nay. Mặc dù còn một khoảng cách
không nhỏ giữa trình độ phát triển KT-XH của các nước châu Âu với nước ta, song
những kinh nghiệm trong đảm bảo ASXH hơn một thế kỷ qua vẫn là thực tiễn sinh
động, cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho Nhà nước xây dựng và thực hiện chính
sách ASXH phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Công trình “Mô hình phát
triển xã hội của một số nước phát triển châu Âu: Kinh nghiệm đối với Việt Nam” (Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011) do tác giả Nguyễn Quang Thuấn và Bùi Nhật Quang
biên soạn lại chỉ ra cách thức nhà nước cung cấp các dịch vụ ASXH cho người dân ở
một số quốc gia phát triển ở châu Âu.
Trong các đánh giá về chính sách ASXH của Việt Nam không thể không
đề cập đến các công trình nghiên cứu của các tổ chức như Ngân hàng Thế giới
(WB), Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB),... Chẳng hạn, trong khuôn khổ dự án
3


đối thoại chính sách, Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam đã công
bố các tài liệu liên quan như “Khuôn khổ hệ thống ASXH quốc gia hợp nhất ở
Việt Nam” (2005); “An sinh Việt Nam luỹ tiến đến mức nào?”; “Về bảo trợ và thúc
đẩy xã hội: Thiết kế và triển khai các mạng lưới an sinh hiệu quả” của nhóm tác
giả thuộc WB,...
2.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Nhiều công trình nghiên cứu về chính sách xã hội, hệ thống chính sách ASXH

nói chung đã trình bày một cách rõ nét những vấn đề cơ bản của chính sách ASXH
trong nền KTTT; thực trạng hệ thống chính sách ASXH ở nước ta hiện nay; phương
hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam.
Vấn đề ASXH có nội hàm rất rộng và có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH, hội nhập quốc tế sâu
rộng như hiện nay, cho nên nghiên cứu về ASXH vẫn luôn có ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn.
Tác giả Hoàng Chí Bảo với công trình “Một số vấn đề về chính sách xã hội ở
nước ta hiện nay” do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 1993 đã đề cập đến
các vấn đề lý luận chung về chính sách xã hội; cấu trúc chính sách xã hội, quan
hệ của chính sách xã hội với các chính sách khác; quan hệ của chính sách xã hội
với các tầng lớp, giai cấp xã hội; đổi mới chính sách xã hội trong tình hình hiện nay.
Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương, Mạc Văn Tiến trong công trình “Góp phần
đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay” (1996) do Nxb
Chính trị quốc gia ấn hành đã làm rõ một số nội dung của chính sách ASXH qua
việc phân tích cơ sở lý luận của bảo đảm xã hội, quy định của công ước quốc tế về
bảo đảm xã hội và kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc thực hiện chính sách
bảo đảm xã hội; lịch sử hình thành chính sách bảo đảm xã hội ở Việt Nam; vấn đề đổi
mới chính sách bảo đảm xã hội nói chung và chính sách ASXH nói riêng trên các lĩnh
vực như BHXH, cứu trợ xã hội, ƯĐXH. Mặc dù vẫn chưa phân định rõ ràng giữa bảo
đảm xã hội với ASXH song có thể nói, công trình đó đã đưa ra nhiều luận cứ quan
trọng cho việc đổi mới và hoàn thiện chính sách ASXH nói riêng và chính sách xã
hội nói chung ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua.
4


Công trình “Tiến bộ xã hội: Một số vấn đề lý luận cấp bách” (Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2000) do tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên đã chỉ ra một số vấn đề có
liên quan đến chính sách xã hội nói chung như: Quy luật vận động, phát triển và tiến bộ
mang tính khách quan của xã hội; những quan niệm tiến bộ xã hội trước Mác và quan

điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh về tiến bộ xã hội; một số quan
điểm hiện đại về tiến bộ xã hội; những vấn đề đạo đức và văn hoá của tiến bộ xã hội,...
Để thực hiện chính sách ASXH, nhà nước cần phải thể chế hoá và hình thành
hệ thống pháp luật về ASXH. Điển hình cho cách tiếp cận này là giáo trình “Luật
ASXH” của Đại học Luật Hà Nội (Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2005). Công trình
này đã trình bày một cách toàn diện các vấn đề cơ bản như: Luật ASXH trong hệ
thống pháp luật Việt Nam; Quan hệ pháp luật ASXH và tranh chấp ASXH. Ngoài ra,
từ góc nhìn luật học, cuốn sách còn đề cập khá chi tiết đến các quy định của pháp
luật Việt Nam về các BHXH, ƯĐXH, cứu trợ xã hội.
Cuốn sách “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam hiện
nay” (Nxb Chính trị quốc gia, 2009) do tác giả Mai Ngọc Cường làm chủ biên trong
khuôn khổ đề tài “Cơ sở khoa học của việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách
ASXH ở nước ta giai đoạn 2006 - 2015” là công trình nghiên cứu có hệ thống về chính
sách ASXH ở Việt Nam hiện nay. Công trình này đã khái quát, phân tích và đánh giá
thực trạng chính sách ASXH ở Việt Nam trong những năm gần đây và đề xuất nhiều giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH, tiến tới xây dựng mô hình ASXH phù
hợp với điều kiện KTTT định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Tác giả Nguyễn Văn Nhường trong cuốn “Bàn về chính sách ASXH với người
nông dân sau khi thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp: Nghiên cứu tại Bắc
Ninh” (Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2011) cũng đã đưa ra những khuyến
nghị nhằm hoàn thiện chính sách đảm bảo ASXH đối với nông dân trong diện thu hồi
đất để phát triển các khu công nghiệp.
Cuốn “ASXH ở Việt Nam hướng tới 2020” (Nxb Chính trị quốc gia, 2012)
do tác giả Vũ Văn Phúc chủ biên là tập hợp các bài viết trình bày về:1) Những vấn
đề lý luận chung và kinh nghiệm thế giới về ASXH; 2) Những vấn đề về thực
tiễn ASXH ở nước ta.

5



Những công trình nghiên cứu trên ở các góc độ cách tiếp cận khác nhau nhưng
đều có chung mục đích là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về ASXH (ở
một địa bàn cụ thể). Đó là cơ sở quan trọng để tác giả phân tích, đánh giá hiệu quả
của việc thực hiện chính sách ASXH ở tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến năm 2011.
2.3. Những nghiên cứu ở Thái Nguyên
Tỉnh Thái Nguyên, là trung tâm chính trị, kinh tế của khu Việt Bắc nói riêng,
của vùng trung du miền núi đông bắc nói chung và là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội
giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Kể từ khi tái thành lập tỉnh
cho đến nay, đã có nhiều công trình, nghiên cứu tìm hiểu về tỉnh Thái Nguyên.
Điển hình là cuốn “Địa chí Thái Nguyên” (Nxb Chính trị quốc gia, 2009) do
nhiều tác giả biên soạn. Cuốn “Địa chí Thái Nguyên” gồm có 7 phần, đây là cuốn
sách quý, là nguồn tư liệu phong phú, chính xác về lịch sử phát triển tự nhiên, xã hội,
kinh tế - chính trị, nguồn lực tự nhiên và con người Thái Nguyên giúp các nhà nghiên
cứu, bạn đọc có cái nhìn tổng quan về tỉnh Thái Nguyên.
Tiếp đến là cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên” do Ban Chấp hành Đảng
bộ tỉnh Thái Nguyên xuất bản, tập I (năm 2003), tập II (2005). Cuốn sách đã dựng lại
một cách có hệ thống quá trình ra đời, xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ và quá
trình Đảng lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đối với các công trình nghiên cứu về chính sách ASXH tại tỉnh Thái Nguyên;
hiện nay, chưa có cuốn sách nào đi sâu một cách cụ thể; mới chỉ dừng lại ở bài viết lẻ
tẻ, và một số công trình luận văn.
Đề tài Luận văn Thạc sĩ: “Chính sách an sinh xã hội đối với người có hoàn
cảnh khó khăn ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay” của Tạ Thị Hồng (Chuyên ngành Khoa
học quản lý) bảo vệ năm 2014 tại trường Đại học Khoa học và Xã hội Nhân văn, đề
tài có đề cập đến chính sách ASXH nhưng chỉ dừng lại ở chính sách đối với người có
hoàn cảnh khó khăn, và trong gian đoạn ngắn từ năm 2010 đến năm 2014.
Như vậy, những cuốn sách và tư liệu đề cập đến vấn đề ASXH rất ít và chung
chung, chưa mang tính bao quát, đi vào từng trụ cột chính của ASXH một cách cụ
thể, chi tiết và đưa ra giải pháp. Vì vậy, nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách
ASXH của tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến năm 2011 là rất cần thiết.


6


3. Mục đích, đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về ASXH, đặc điểm địa bàn tỉnh Thái Nguyên; đề
tài phân tích, tìm hiểu về quá trình thực hiện ASXH trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Từ
đó, đánh giá đúng thực trạng ASXH, đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả việc thực hiện hệ thống chính sách ASXH trên địa bàn tỉnh thời gian tới.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình thực hiện chính sách ASXH của tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến
năm 2011 với các trụ cột chính, đó là bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế
(BHYT), trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội và xóa đói giảm nghèo.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát cơ sở lý luận về ASXH và địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Phân tích quá trình triển khai chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên từ năm 1997 đến năm 2011 với bốn trụ cột chính.
- Đánh giá thành tựu, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách an sinh xã
hội của tỉnh Thái Nguyên từ năm 1997 đến năm 2011.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Tỉnh Thái Nguyên theo đơn vị hành chính từ năm 1997 đến nay.
- Về thời gian: Các số liệu thống kê, phân tích chủ yếu từ năm 1997 đến năm 2011.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu chung: Các công trình nghiên cứu về chính sách ASXH của
các nhà khoa học trong và ngoài nước đã công bố xuất bản.
- Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, Địa chí tỉnh
Thái Nguyên, Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1997 - 2011),
Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên các năm, Báo cáo tổng kết các giai đoạn phát

triển KT-XH trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên qua các thời kỳ.
- Nguồn tư liệu điền dã thông qua quá trình thực tế tại tỉnh Thái Nguyên, quan sát
địa hình, cảnh quan, tổ chức, hành chính, đời sống văn hóa, xã hội… của nhân dân địa
phương. Từ đó, thấy được tác động của chính sách ASXH đối với tỉnh Thái Nguyên.

7


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu. Trong đó, đề tài chú
trọng sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp lịch sử: Trong nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách ASXH
của Tỉnh Thái Nguyên, tác giả sử dụng phương pháp này nhằm phân tích, đánh giá
quá trình thực hiện chính sách ASXH của Tỉnh Thái Nguyên theo đúng trình tự thời
gian. Thông qua các nguồn tư liệu, đề tài luận chứng đầy đủ chủ trương của Đảng và
Nhà nước, tỉnh Thái Nguyên,… trong việc nâng cao chất lượng của hệ thống ASXH.
Tác giả tập trung phản ánh chi tiết, trung thực quá trình thực hiện, kết quả đạt được,
hạn chế cần khắc phục trong việc thực hiện chính sách ASXH của tỉnh.
Phương pháp logic: Trên cơ sở khái quát về tỉnh Thái Nguyên, lí luận chung
về ASXH, chủ trương của Đảng, của tỉnh Ủy Thái Nguyên về ASXH. Điều này giúp
cho tác giả có cái nhìn biện chứng về quá trình thực hiện, kết quả đạt được cùng với
những hạn chế từ đó đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng của
hệ thống ASXH ở tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
Phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp: Thông qua phương pháp
nghiên cứu này, tác giả đi từ cái chung, cái tổng hợp (khái niệm, trụ cột, hệ thống của
ASXH) để đi đến cái chi tiết của vấn đề nghiên cứu của đề tài. Sau đó, tác giả đi từ
cái riêng, những đặc tính riêng của các vấn đề nghiên cứu tạo thành một hệ thống
những nội dung mang tính chất hệ thống phù hợp với những yêu cầu, đòi hỏi của vấn
đề nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế - chính trị.
Phương pháp nghiên cứu thống kê - so sánh: Đây là phương pháp được sử

dụng phổ biến trong quá trình thực hiện. Đề tài sử dụng phương pháp thống kê để thu
thập số liệu các lĩnh vực và số liệu việc huy động các điều kiện cho việc thực hiện
ASXH. Tác giả tiến hành so sánh, đối chiếu giữa các lĩnh vực, điều kiện khác nhau để
rút ra sự khác nhau giữa những số liệu thống kê. Từ đó, rút ra được những kết luận
quan trọng, tìm ra nguyên nhân, đưa ra giải pháp cho vấn đề mà đề tài nghiên cứu.
Phương pháp điền dã: Trong nghiên cứu đề tài, tác giả vâ ̣n du ̣ng phương pháp
nà y để khảo sá t thư c̣ tế quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội trên địa bàn
tỉnh. Thực hiê ̣n đề tà i nà y, tá c giả đã tiế n hà nh quan sát, ghi chép, mô tả, chụp
ảnh, trao đổi với một số Sở, Ban, ngành, các lãnh đạo, các chuyên gia, ... về nhữ ng
8


vấn đề liên quan đến quy trình hoạt động và cách thức tổ chức, đánh giá hiệu quả
của chính sách an sinh xã hội.
5. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về ASXH và quá trình thực hiện ASXH
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Từ đó, khẳng định rõ bản chất, đặc điểm, mối quan hệ,
nội dung và những điều kiện quá trình thực hiện ASXH.
- Phân tích quá trình, đánh giá kết quả việc thực hiện ASXH trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.
- Chỉ ra những tồn tại trong hệ thống ASXH của tỉnh; từ đó, tìm ra giải pháp
góp phần phát triển bền vững KT-XH trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung chính của đề tài được chia làm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Các trụ cột của chính sách an sinh xã hội và quá trình thực hiện ở
tỉnh Thái Nguyên (1997 - 2011)
Chương 3: Đánh giá quá trình thực hiện chính sách an sinh xã hội của tỉnh
Thái Nguyên từ năm 1997 đến năm 2011


9


Chương 1

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ
ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Lí luận chung về an sinh xã hội
1.1.1. Khái niệm ASXH
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở… Để thoả mãn
nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Của
cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, nghĩa là việc thoả mãn nhu
cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Tuy nhiên, trong suốt cuộc đời,
không phải khi nào con người cũng có thể lao động tạo ra được thu nhập. Trái lại, có
rất nhiều trường hợp khó khăn, bất hạnh, rủi ro xảy ra làm cho con người bị giảm,
mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác, chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau, tai
nạn, mất người nuôi dưỡng, tuổi già, tử vong… Hơn nữa, cuộc sống của con người
trên trái đất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên và môi trường sống. Những
điều kiện thiên nhiên và xã hội không thuận lợi đã làm cho một bộ phận dân cư cần
phải có sự giúp đỡ nhất định để bảo đảm cuộc sống bình thường. Do đó, để tồn tại và
phát triển, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau để khắc phục khó khăn.
Từ xa xưa, trước những khó khăn, rủi ro trong cuộc sống, con người đã tự
khắc phục, như câu phương ngôn “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn”; đồng thời,
còn được sự san sẻ, đùm bọc, cưu mang của cộng đồng. Sự tương trợ dần dần được
mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng
thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới
các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc
cách mạng công nghiệp, hệ thống ASXH đã có những cơ sở để hình thành và phát
triển. Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên,

cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự
hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc
làm hoặc khi về già…, đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của
những người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải
đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn
10


lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ
tương tế, các hội đoàn…); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp
bảo đảm cuộc sống cho họ.
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều Bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu
cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Từ đó,
xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các
hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn
tật. Đến cuối những năm 1880, ASXH (lúc này là BHXH) đã mở ra hướng mới. Sự
tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước
cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ
lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người, không phân biệt già - trẻ, nam - nữ, người
khoẻ - người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latinh,
rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, ASXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi
và vùng Caribê. Ngoài BHXH, các hình thức truyền thống về tương tế, cứu trợ xã hội
cũng tiếp tục phát triển để giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn như những
người già cô đơn, người tàn tật, trẻ em mồ côi, người goá bụa và những người không
may gặp rủi ro vì thiên tai, hoả hoạn… Các dịch vụ xã hội như dịch vụ y tế, dự phòng
tai nạn, dự phòng y tế tái thích ứng; dịch vụ đặc biệt cho người tàn tật, người già, bảo
vệ trẻ em… được từng bước mở rộng ở các nước theo những điều kiện tổ chức, chính
trị, kinh tế - xã hội, tài chính và quản lý khác nhau. Hệ thống ASXH được hình thành

và phát triển rất đa dạng dưới nhiều hình thức khác nhau ở từng quốc gia, trong từng
giai đoạn lịch sử, trong đó BHXH là trụ cột chính. Đạo luật đầu tiên về ASXH (Social
Security) trên thế giới là Đạo luật năm 1935 ở Mỹ.
Đạo luật này quy định thực hiện chế độ bảo vệ tuổi già, chế độ tử tuất, tàn tật
và trợ cấp thất nghiệp. Thuật ngữ ASXH được chính thức sử dụng. Đến năm 1941,
trong Hiến chương Đại Tây Dương và sau đó Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) chính
thức dùng thuật ngữ này trong các công ước quốc tế. ASXH đã được tất cả các nước
thừa nhận là một trong những quyền con người. Nội dung của ASXH đã được ghi
nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày
11


10/12/1948. Trong bản Tuyên ngôn có viết: “Tất cả mọi người với tư cách là thành
viên của xã hội có quyền hưởng ASXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các
quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con
người…” [60, tr. 9]. Ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công
ước số 102, được gọi là Công ước về ASXH (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp
các chế độ về ASXH đã có trên toàn thế giới thành 9 bộ phận.
Tuy nhiên, cho đến nay, do tính chất phức tạp và đa dạng của ASXH nên vẫn
còn nhiều nhận thức khác nhau về vấn đề này. Khái niệm về ASXH cũng còn khá
khác biệt giữa các quốc gia.
Trong tiếng Anh, ASXH là Social Security và khi dịch ra tiếng Việt, ngoài
ASXH thì thuật ngữ này còn được dịch là bảo đảm xã hội, bảo trợ xã hội, an ninh xã
hội, an toàn xã hội… với những ý nghĩa không hoàn toàn tương đồng nhau. Theo nghĩa
chung nhất, Social Security là sự đảm bảo thực hiện các quyền của con người được
sống trong hòa bình, được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong
khuôn khổ luật pháp; được bảo vệ và bình đẳng trước pháp luật; được học tập, được có
việc làm, có nhà ở; được đảm bảo thu nhập để thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết
yếu khi bị rủi ro, tai nạn, tuổi già… Theo nghĩa này thì tầm “ bao” của Social Security
rất lớn và vì vậy khi dịch sang tiếng Việt có nhiều nghĩa như trên cũng là điều dễ hiểu.

Theo nghĩa hẹp, Social Sec urity được hiểu là sự bảo đảm thu nhập và một số điều kiện
sinh sống thiết yếu khác cho người lao động và gia đình họ khi bị giảm hoặc mất thu
nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm; cho những người già
cả, cô đơn, trẻ em mồ côi, người tàn tật, những người nghèo đói và những người bị
thiên tai, dịch hoạ… Theo chúng tôi, ASXH mà chúng ta đang nói tới, nên được hiểu
theo nghĩa hẹp của khái niệm Social Security này. Bên cạnh khái niệm này, từ những
cách tiếp cận khác nhau, một số nhà khoa học đưa ra những khái niệm rộng - hẹp khác
nhau về ASXH, chẳng hạn: Theo H. Beveridge, nhà kinh tế học và xã hội học người
Anh (1879 -1963), ASXH là sự bảo đảm về việc làm khi người ta còn sức làm việc và
bảo đảm một lợi tức khi người ta không còn sức làm việc nữa.
Trong Đạo luật về ASXH của Mỹ, ASXH được hiểu khái quát hơn, đó là sự bảo
đảm của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho
con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ.
12


Theo khái niệm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đang sử dụng:
“ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông
qua một loạt các biện pháp công cộng để chống lại tình cảnh khốn khổ về kinh tế
và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngưng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm
đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và tử vong;
sự cung cấp về chăm sóc y tế và các khoản tiền trợ cấp giúp cho các gia đình
đông con” [65, tr. 11].
Đảm bảo ASXH là một yêu cầu của sự phát triển bền vững, là mục tiêu hướng
tới của nhiều quốc gia trên thế giới, cũng là một đòi hỏi cấp thiết đối với nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã có nhận thức rất sớm về
chính sách ASXH và tiếp cận nó từ góc độ quyền con người.
Hiến pháp năm 1946 đã xác định: “Người lao động được bảo đảm quyền việc
làm, nghỉ ngơi, BHXH, cứu tế; phụ nữ được nghỉ trước khi đẻ…”. Hiến pháp năm
1992 đã nêu rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo xã hội cho mọi người.

Trong đó nhấn mạnh, Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với người công chức
nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH
khác đối với người lao động.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên trong nghị quyết tại Đại hội IX của Đảng đã sử dụng
thuật ngữ ASXH và chủ trương: “Mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã
hội” [57, tr. 34].
Đến Đại hội XI, thuật ngữ ASXH được nhắc đến nhiều lần trong Văn kiện,
được xác định là một hệ thống chính sách xã hội trọng yếu, nội dung cơ bản trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Điểm mới đáng lưu ý trong kỳ đại hội
này ASXH được khẳng định là sự cam kết, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước thực
hiện những cơ chế, chính sách, biện pháp trợ giúp, bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên
trong xã hội, nhất là các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương: “...Thực hiện chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội,
phúc lợi xã hội” [58, tr. 35]; “Bảo đảm an sinh xã hội; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ
thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội đa dạng,
linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là những đối
tượng yếu thế, dễ bị tổn thương” [58, tr. 43].

13


Từ những quan điểm nêu trên có thể định nghĩa: An sinh xã hội là mạng lưới
các chương trình, hệ thống chính sách cụ thể từ nhà nước hoặc các tổ chức xã hội
nhằm trợ giúp, hỗ trợ, bảo vệ cá nhân và toàn xã hội, đặc biệt là các cá nhân gặp
phải rủi ro hay khó khăn trong cuộc sống, bảo đảm mức sống tối thiểu và góp phần
nâng cao đời sống của họ, từ đó, thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội.
1.1.2. Nội dung của ASXH
ASXH gồm bốn trụ cột cơ bản:
Thứ nhất là Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế

Thứ hai là Trợ giúp xã hội
Thứ ba là Ưu đãi xã hội
Thứ tư là Chính sách xóa đói giảm nghèo
BHXH, Bảo hiểm y tế
Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã mang lại
bộ mặt tươi sáng cho sự phát triển toàn diện của đất nước. Cùng với sự phát triển kinh tế là
sự lớn mạnh không ngừng của hệ thống ASXH, đặc biệt là chính sách BHXH (BHXH),
bảo hiểm y tế (BHYT) đóng vai trò trụ cột trong hệ thống ASXH, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đây là bộ phận lớn nhất trong hệ thống ASXH. Có thể nói, không có BHXH
thì không thể có một nền ASXH vững mạnh. BHXH ra đời và phát triển từ khi cuộc
cách mạng công nghiệp xuất hiện ở châu Âu. BHXH nhằm bảo đảm cuộc sống cho
những người công nhân công nghiệp và gia đình họ trước những rủi ro xã hội như ốm
đau, tai nạn, mất việc làm…, làm giảm hoặc mất thu nhập. Tuy nhiên, cũng do tính
lịch sử và phức tạp của vấn đề, khái niệm BHXH đến nay cũng chưa được hiểu hoàn
toàn thống nhất và gần đây có xu hướng hòa nhập giữa BHXH với ASXH. Khi đề cập
đến vấn đề chung nhất, người ta dùng khái niệm SOCIAL SECURITY và vẫn dịch là
BHXH, nhưng khi đi vào cụ thể từng chế độ thì BHXH được hiểu theo nghĩa của từ
SOCIAL INSURANCE. Tuy nhiên, sự hòa nhập này không có nghĩa là hai thuật ngữ
này là một. Theo nghĩa hẹp, cụ thể, có thể hiểu BHXH là “sự bảo đảm thay thế hoặc
bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp rủi ro hoặc sự kiện bảo
hiểm làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử
dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia
đình họ góp phần đảm bảo ASXH”. [65, tr. 19].
14


BHXH có những điểm cơ bản là: BHXH dựa trên nguyên tắc cùng chia sẻ rủi
ro giữa những người tham gia; đòi hỏi tất cả mọi người tham gia phải đóng góp tạo
nên một quỹ chung; các thành viên được hưởng chế độ khi họ gặp các “sự cố” và đủ

điều kiện để hưởng; chi phí cho các chế độ được chi trả bởi quỹ BHXH; nguồn quỹ
được hình thành từ sự đóng góp của những người tham gia, thường là sự chia sẻ giữa
chủ sử dụng lao động và người lao động, với một phần tham gia của Nhà nước; đòi
hỏi tham gia bắt buộc, trừ những trường hợp ngoại lệ; phần tạm thời chưa sử dụng
của Quỹ được đầu tư tăng trưởng, nâng cao mức hưởng cho người thụ hưởng chế độ
BHXH; các chế độ được bảo đảm trên cơ sở các đóng góp BHXH, không liên quan
đến tài sản của người hưởng BHXH; các mức đóng góp và mức hưởng tỷ lệ với thu
nhập trước khi hưởng BHXH…
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm mang tính cộng đồng cao chia sẻ sâu sắc
được áp dụng trong lĩnh vực khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho mọi người,
không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có
trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế (Luật này đã được Quốc
hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/11/2008 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 /7/2009).
Trợ giúp xã hội
Đó là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh
sống thiết yếu khác đối với mọi thành viên của xã hội trong những trường hợp bất
hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo được cuộc sống tối thiểu của bản
thân và gia đình.
Trợ giúp xã hội là sự giúp đỡ thêm của cộng đồng và xã hội bằng tiền hoặc
bằng các điều kiện và phương tiện thích hợp để đối tượng được giúp đỡ có thể phát
huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình và gia đình, sớm hòa nhập trở lại với
cuộc sống của cộng đồng.
Hoạt động trợ giúp xã hội có thể biểu hiện ở nhiều chính sách xã hội có liên
quan như: cứu tế xã hội, trợ cấp xã hội, trợ cấp gia đình. Những mảng chính sách này
có thể do Chính phủ thống nhất ban hành và cũng có thể do chính quyền địa phương
quyết định. Các chính sách liên quan đến trợ giúp xã hội thường được coi là lưới che
chắn thứ hai hoặc thứ ba cho mọi thành viên trong cộng đồng và cũng không nằm
ngoài mục đích chung của ASXH.


15


Đặc điểm của trợ giúp xã hội là: Tính pháp lí luôn bị hạn chế do đối tượng rộng,
nên phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi nước; chính sách trợ giúp
xã hội có liên quan tới tất cả cộng đồng xã hội không phân biệt vùng miền, tôn giáo, tín
ngưỡng, dân tộc hay địa vị xã hội… Hoạt động để thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
rất phong phú đa dạng. Hoạt động này không chỉ được thực hiện bởi Nhà nước, mà còn
được thực hiện bởi các tổ chức kinh tế - xã hội, các đoàn thể và từng cá nhân trong
cộng đồng. Đồng thời hoạt động trợ giúp xã hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc
gia mà nó còn được thực hiện trên phạm vi quốc tế; Nhà nước thực hiện chính sách trợ
giúp xã hội chủ yếu thông qua chính sách thuế để huy động sự đóng góp của các cá
nhân, các tổ chức vào ngân sách này để trợ giúp cho những người có hoàn cảnh khó
khăn, không may gặp thiên tai, địch họa hoặc lâm vào hoàn cảnh yếu thế không tự lo
liệu được cuộc sống của mình.
Ưu đãi xã hội
Đất nước ta trải qua thời kỳ đấu tranh giữ nước chống giặc ngoại xâm kéo dài
vì thế khi thống nhất đất nước, ưu đãi người có công là một vấn đề chính trị, xã hội,
kinh tế văn hóa đặc biệt. Đến năm 2010, cả nước còn 1,5 triệu người hưởng ưu đãi
thường xuyên. Ngân sách nhà nước chi trả trợ cấp ưu đãi hàng tháng gần 20 tỷ
đồng/năm. Ưu đãi người có công trong hệ thống ASXH ở Việt Nam luôn là mối quan
tâm lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Là chính sách đặc thù dành cho những người hoặc thân nhân những người đã
cống hiến, hi sinh cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế. Chính sách ưu đãi xã hội về bản chất là ghi nhận, trân
trọng tôn vinh, đền ơn đáp nghĩa với người có công, chăm lo, bù đắp bằng vật chất,
tinh thần đối với những cống hiến, đóng góp, hi sinh của người có công cho sự
nghiệp cách mạng.
Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội là một việc làm tất yếu bởi vì bất kì chính
sách nào xây dựng cũng dựa trên nền tảng được xã hội công nhận. Đối với chính sách

ưu đãi xã hội, cơ sở nền tảng để xây dựng và thực hiện chính sách là đạo đức xã hội
và nguyên tắc công bằng xã hội.
Dưới góc độ về đạo đức xã hội, chính sách ưu đãi xã hội thể hiện truyền thống
“ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc Việt Nam. Để có được cuộc sống hòa bình, ổn
16


×