Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

Đề cương nhà nước và pháp luật đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.87 KB, 68 trang )

Đề cương ôn tập cuối kì
Bộ môn : Nhà nước và pháp luật đại cương.
Câu 1: Một số quan điểm khác nhau lý giải về nguồn gốc nhà nước? Học thuyết
Mác –Lê nin về nguồn gốc nhà nước? Liên hệ với sự ra đời nhà nước đầu tiên ở
Việt Nam?
Có 2 học thuyết về nguồn gốc ra đời của nhà nước bao gồm: học thuyết Mác Xít và
học thuyết phi Mác Xít
1.









2.

Các học thuyết phi Mác-xít về nguồn gốc của Nhà nước
Thuyết thần quyền: cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội,
thượng đế đã sáng tạo ra nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một
sản phẩm của thượngđế. Nhà nước tồn tại vĩnh cửu cùng với sự tồn tại vĩnh cửu
cuat thượng đế.
Thuyết gia trưởng: cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển
của gia đình và quyền gia trưởng, thực chất nhà nước chính là mô hình của một
gia tộc mở rộng và quyền lực nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng
cao lên – hình thức tổ chức tự nhiên của xã hội loàingười.
Thuyết bạo lực: cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh
xâm lược chiếm đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác
mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt – nhà


nước – để nô dịch kẻ chiếnbại.
Thuyết tâm lý: cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người
nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáosĩ,…
Thuyết “khế ước xã hội”: cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một
khế ước xã hội được ký kết trước hết giữa những con người sống trong trạng
thái tự nhiên không có nhà nước. Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trong
trường hợp nhà nước không giữ được vai trò của mình , các quyền tự nhiên bị
vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và
ký kế khế ướcmới.
Quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về nguồn gốc của nhànước

Quan điểm về nguồn gốc Nhà nước của chủ nghĩa Mác-LêNin được thể hiện rõ nét
trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước” của
Ăngghen. Đây là tác phẩm được phát triển từ tư tưởng “Quan niệm duy vật về lịch sử”
của Mác, tiếp thu và phát triển những thành tựu nghiên cứu “Xã hội cổ đại” của nhà
bác học Mỹ - Lewis H.Morgan (Móocgan).
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng:


Nhà nước xuất hiện một cách khách quan, nhưng không phải là hiện tượng xã
hội vĩnh cửu và bất biến. Nhà nước luôn vận động, phát triển và tiêu vong khi
những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của chúng không
cònnữa.
• Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài người đã phát triển đến một giai đoạn
nhất định. Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản
nguyên thủyvff. Nhànước chỉ xuất hiện ở nơi nào và thời gian nào khi đã xuất
hiện sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng.


 Liên hệ sự ra đời nhà nước đầu tiên ở Việt Nam


Nhà nước ra đời trên sự tan rã của công xã nguyên thủy. Nhà nước Việt Nam
nói riêng và nhà nước cổ đại phương Đông nói chung đều ra đời theo học
thuyết Mác Xít, tuy nhiên các nước phương Đông ra đời ngay cả khi chưa cần
tư hữu phát triển đến cao. Mâu thuẫn ra đời với mục đích trị thủy và chống giặc
ngoại xâm.
Đầu thiên niên kỷ 1 TCN, xã hội Việt cổ xuất hiện các tầng lớp dân cư nhưng
sự khác nhau về lợi ích không rõ rệt và có xảy ra mâu thuẫn giữa các tầng lớp
song các mâu thuẫn chưa thực sự gay gắt đến mức không thể điều hóa được.
Tuy nhiên do nhu cầu thường trực là xây dựng và quản lý các công trình trị
thủy, thủy nông, chống thiên tai, ngoại xâm đòi hỏi cả cộng đồng phải hợp lực
và thống nhất bộ máy quản lý để thực hiện các chức năng xã hội. Bộ máy quản
lý ấy đã tách khỏi xã hội và đóng vai trò là công cụ thống trị xã hội.
• Nhà nước ra đời khoảng thế kỷ 6 – 7 TCN. Nhà nước Việt Nam đầu tiên là
nhà nước Văn Lang, Âu Lạc. Được hình thành quanh lưu vực của các con sông
lớn, cơ sở kinh tế của Nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu của giai cấp địa
chủ phong kiến đối với tư liệ sản xuất (ruộng đất). Quyền lực nằm trong tay
nhà vua, vua được coi là địa chủ phong kiến cấp cao nhất. Ngoài ra còn có các
tầng lớp khác là thợ thủ công, thương nhân,…
Mâu thuân chủ yếugiữa các giai cấp là do sự phân chia ruộng đất, nhà cửa,…
không hợp lí, ruộng đất hầu hết thuộc quyền sở hữu của địa chủ phong kiến,
quan lại,…nhân dân bị bóc lột bởi tô thuế, cưỡng bức lao dịch,…


Câu 2. Bản chất và đặc trưng của nhà nước.
Để hiểu rõ về bản chất và đặc trưng của Nhà nước trước tiên phải hiểu “Nhà
nước” là gì?Nhà nước là hình thức tổ chức xã hội có giai cấp, là tổ chức quyền
lực chính trị công cộng đặc biệt, có chức năng quản lý xã hội để phục vụ lợi ích
trước hết cho giai cấp thống trị và thực hiện những hoạt động chung nảy sinh từ
bản chất xã hội (định nghĩa)

1

Những vấn đề cơ bản về bản chất nhà nước
Bản chất nhà nước là một thể thống nhất bao gồm hai phương diện: Giai cấp và


xã hội. Cách thức và mức độ thể hiện, thục hiện phương diện giai cấp và xã hội
ở các nhà nước khác nhau là khác nhau.


Tính giai cấp:Thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để
thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của
giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của
ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào? Trong
xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã hội tư sản) nhà
nước đều có bản chất chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền chuyên chính
của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế, chính trị và tư tưởng. Chính vì vậy mà
nhà nước tồn tại với hai tư cách:
Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác.Hai là
tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là
người bảo đảm các quyền của công dân được thực thi.



Tính xã hội:Tính xã hội hay còn gọi là vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước.
+ Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng
lớp giai cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà
nước còn là công cụ để bảo vệ lợi toàn xã hội.
Ví dụ: Nhà nước giải quyểt các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội như: đói
nghèo, bệnh tật, chiến tranh, các vấn đề về môi trường, phòng chống thiên tai,

địch hoạ, về dân tộc, tôn giáo và các chính sách xã hội khác.v.v…
+ Bảo đảm trật tự chung- bảo đảm các giá trị chung của xã hội để tồn tại
và phát triển
Như vậy, vai trò kinh tế - xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà
nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống
nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm vi hoạt động của nhà
nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà
nước, song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
+ Để hoạt động có hiệu quả, nhà nước phải chọn lĩnh vực hoạt động nào là
cơ bản, cần thiết để tác động. Bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước sẽ
mang lại hậu quả xấu cho xã hội.
Chẳng hạn:
- Ban hành pháp luật và có các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật.
- Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô,điều tiết, điều phối các chính sách kinh
tế, xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường.
- Đầu tư, cung cấp hàng hoá dịch vụ xã hội cơ bản (cấp phép, kiểm dịch, kiểm


định, giám sát,…)
- Giữ vai trò là người bảo vệ.
2.

Nhà nước có các đặc trưng cơ bản, thể hiện nét rõ sức mạnh, vị trí và vai trò
của nhà nước trong đời sống xã hội:


Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt với bộ máy
thực hiện cưỡng chế và quản lý đời sống xã hội. Khác với các tổ chức khác,
nhà nước là tổ chức quyền lực có các bộ máy cưỡng chế .
Quyền lực này không hòa nhập vào dân cư như trong xã hội công xã

nguyên thủy mà tách khỏi xã hội, chủ thể của quyền lực này là giai cấp nắm
quyền thống trị về kinh tế và tái chính trong xã hội. Để thực hiện quyền lực
và quản lý xã hội, cần có một lớp người chuyên làm nhiệm vụ quản lý, họ
được tổ chức thành các cơ quan và hình thành nên bộ máy cưỡng chế duy
trì sự thống trị giai cấp, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, buộc các giai
cấp và các tầng lớp dân cư trong xã hội phải phục tùng ý chí giai cấp thống
trị.



Nhà nước có lãnh thổ, phân chia và quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính
lãnh thổ.
Sự phân chia này đảm bảo cho sự quản lý tập trung , thống nhất của
nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong số các thiết chế chính
trị -xã hội chỉ nhà nước mới xác lập lãnh thổ của mình, lãnh thổ được
chia thành những bộ phận cấu thành nhỏ hơn là tỉnh, huyện xã … Nhà
nước thực thi quyền lực trên toàn bộ lãnh thổ.



Nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Chủ quyền quốc gia ở NN được thể hiện ở quyền độc lập về đối nội
và tự quyết về đối ngoại không phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài.Chủ
quyền quốc gia là thuộc tính không thể tách rời nhà nước, trong các
thiết chế chính trị - xã hội, nhà nước là một tổ chức duy nhất có chủ
quyền quốc gia. Dấu hiệu chủ quyền quốc gia làm xuất hiện quan hệ
về quốc tịch tức là quan hệ về quyền và nghĩa vụ giữa cá nhân với
một nhà nước mà người đó có tư cách là công dân.




Nhà nước ban hành pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật.
Pháp luật có tính bắt buộc , được nhà nước đảm bảo thực hiện.Là đại
diện chính thức của xã hội, nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền
ban hành pháp luật. Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng gắn bó
hữu cơ với nhau, không thể có nhà nước mà không có pháp luật và


ngược lại không thể có pháp luật mà không có nhà nước. Nhà nước có
bộ máy cưỡng chế đảm bảo cho pháp luật được thực hiện trên thực tế
và thưc hiện sự quản lý bắt buộc với mọi thành viên trong xã hội.


Nhà nước ban hành các loại thuế và thực hiện việc thu thuế dưới hình thức bắt
buộc.
Thuế được sử dụng để thực hiện các hoạt động chung của xã hội. Nhà
nước có một bộ máy bao gồm một lớp người tách khỏi quá trình trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, chuyên làm chức năng
quản lý, vì vậy cần nuôi dưỡng nộ máy ấy và cần kinh phí đảm bảo
cho bộ máy hoạt động. Đặt ra các loại thuế và thu thuế dưới mọi hình
thức bắt buộc nhằm tạo ra nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu đó và đảm
bảo cho việc thực hiện vai trò xã hội của nhà nước. Thuế đã góp phần
xác lập quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và dân cư. Nội dung hình
thức của thuế ngày càng được nhà nước hoàn thiện phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế - xã hội.

Câu 3: Hình thức chính thể: Khái niệm, cách phân loại các hình thức
chính thể của nhà nước.
1: Khái niệm.
- Hình thức chính thể là cách tổ chức và trình tự để lập ra các cơ quan tối cao

của nhà nước và xác lập những mối liên hệ cơ bản giữa các cơ quan đó, cũng như thái
độ của các cơ quan ấy đối với nhân dân.

- Phân loại hình thức chính thể:

Các hình thức chính thể
Chính thể quân chủ

Chính thể cộng hòa

Quân chủ

Quân chủ

Cộng hòa

Cộng hòa

tuyệt đối

hạn chế

quý tộc

dân chủ
CH
CH
CH
tổng lưỡng dân
thống tính

chủ


nhân
dân

2: Cách phân loại.
- Khi xác định chính thể, trước hết người ta thường dựa vào cách thức thành lập
nguyên thủ quốc gia và nhiệm vụ quyền hạn của nguyên thủ quốc gia. Sau đó xét đến
cách thức tổ chức và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước khác mà chủ yếu là các
cơ quan luật pháp và hành pháp.
- Chính thể quân chủ và chính thể cộng hòa được phân biệt dựa trên cách thức
thiết lập nguyên thủ quốc gia: nếu như ở chính thể quân chủ bầu ra nguyên thủ quốc
gia theo nguyên tắc thừa kế thì ở chính thể cộng hòa theo nguyên tắc bầu cử.
+Trong chính thể quân chủ có chính thể quân chủ tuyệt đối (chuyên chế) và
chính thể quân chủ hạn chế (lập hiến), hai chính thể này phân biệt dựa trên cách phân
bố quyền lực cho nguyên thủ quốc gia: ở chính thể quân chủ tuyệt đối, người đứng
đầu có quyền lực vô hạn (vd: nhà nước phong kiến Trung Quốc, nhà nước phong kiến
Việt Nam,…), còn ở chính thể quân chủ hạn chế, quyền lực chỉ tập trung một phần
vào tay người đứng đầu, bên cạnh đó còn có các cơ quan quyền lực khác (vd: tư sản
Anh, Nhật Bản,…).
+ Trong chính thể cộng hòa có hai hình thức chính thể là cộng hòa quý tộc và
cộng hòa dân chủ, hai hình thức này được phân biệt dựa trên quy định về quyền bầu
cử: đối với hình thức chính thể cộng hòa quý tộc, chỉ có tầng lớp quý tộc có quyền bầu
cử (vd: nhà nước cộng hòa quý tộc chủ nô Xpac), còn ở nhà nước chính thể cộng hòa
dân chủ, pháp luật quy định quyền bầu cử cho mọi công dân đủ điều kiện luật định.
Hình thức chính thể cộng hòa dân chủ được phân loại thành 3 hình thức: Chính thể
cộng hòa tổng thống (vd: Mĩ), chính thể cộng hòa lưỡng tính (vd: Nga, Pháp), chính
thể cộng hòa dân chủ nhân dân (vd: Việt Nam, Triều Tiên).
Câu 4:Hình thức cấu trúc nhà nước: khái niệm và phân loại.

Trả lời:
1: Khái niệm.
- Hình thức cấu trúc nhà nước: là sự cấu tạo (tổ chức) nhà nước thành các đơn
vị hành chính – lãnh thổ và xác lập những mối liên hệ qua lại giữa các cơ quan nhà
nước, giữa trung ương với địa phương.
2: Phân loại.
Có hai hình thức cấu trúc nhà nước chủ yếu:
+ Nhà nước đơn nhất.
+ Nhà nước liên bang.


Nhà nước đơn nhất
Nhà nước liên bang
* Là nhà nước có chủ quyền chung, chủ * Là nhà nước có 2 hay nhiều thành
quyền duy nhất.
viên hợp lại, vừa có chủ quyền nhà
nước liên bang, vừa có chủ quyền nhà
nước thành viên.
* Có một hệ thống cơ quan nhà nước * Có hai hệ thống cơ quan nhà nước, cơ
thống nhất.
quan nhà nước liên bang và cơ quan
bang.
* Có một hệ thống pháp luật thống nhất. * Có hai hệ thống pháp luật.
* Công dân có một quốc tịch duy nhất.
VD: Việt Nam, Lào, Nhật Bản,…
*Công dân mang hai quốc tịch.
VD: Mỹ, Đức, Ấn Độ, Malaixia,…

Câu 5: Chức năng nhà nước: khái niệm, phân loại, hình thức, phương pháp thực
hiện chức năng của nhà nước?

Trả lời
1. Khái niệm chức năng nhà nước

Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà
nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.
Chức năng của nhà nước do bản chất, cơ sở kinh tế - xã hội, nhiệm vụ chiến

-

lược và mục tiêu lâu dài của nhà nước quyết định.
2. Phân loại chức năng nhà nước
Có thể chia chức năng nhà nước thành 2 loại:
- Chức năng kinh tế
- Chức năng xã hội
a) Chức năng kinh tế
Định nghĩa: Chức năng kinh tế là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước
trong tổ chức, điều tiết và quản lý nền kinh tế nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu vật chất

-

của người dân, nhà nước và toàn xã hội.
Nội dung chức năng kinh tế: Nhà nước Việt Nam xây dựng và quản lý theo nền kinh

-

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp thực hiện: Xây dựng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ
kinh tế, tổ chức thực hiện và có cơ chế giám sát. Ví dụ như nhà nước ban hành luật
Thuế để quản lý nguồn thuế, hay bình ổn giá cả ở những thời điểm nhất định.
b) Chức năng xã hội



-

Định nghĩa: Chức năng xã hội của Nhà Nước là chức năng nhà nước

thực hiện sự quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số
nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý củaNhà Nước.
- Nội dung: Nhà nước quản lý xã hội trên mọi lĩnh vực: Văn hóa, giáo dục,
khoa học công nghệ và các lĩnh vực khác như môi trường, trật tự xã hội, vệ sinh an
toàn thực phẩm....
- Phương pháp thực hiện: Xây dựng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh
các quan hệ trong đời sống xã hội, tổ chức thực hiện và có cơ chế giám sát.Cụ thể như
không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân.Nâng cao chất lượng hoạt động của các
cơ quan dân cử (Quốc hội, Hội đồng nhân dân) để các cơ quan này thực sự là cơ quan
đại diện của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước trong việc xem xét và quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước và của từng địa phương. Đẩy mạnh cải
cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống
nhân dân. Xác định rõ trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Nghiên cứu thực hiện từng bước chế độ dân chủ
trực tiếp, trướ chết ở cấp cơ sở.
3. Hình thức thực hiện chức năng nhà nước

Chức năng nhà nước được thực hiện chủ yếu dưới ba hình thức pháp lý cơ bản
là: Xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Xây dựng
pháp luật như ban hành hiến pháp, luật pháp giúp nhà nước quản lý xã hội. Tổ chức
thực hiện pháp luật là một trong những hình thức thực hiện chức năng nhà nước để
nhà nước để đưa những pháp luật mà nhà nước đề ra đi vào cuộc sống, ví dụ như nhà
nước đưa ra các thông tư, nghị định hướng dẫn thực hiện các quy định trong luật. Bảo
vệ pháp luật là hình thức nhà nước thông qua các ban ngành, cơ quan để giám sát việc

thực hiện pháp luật.
Ba hình thức này có quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau, là tiền đề, điều kiện
của nhau và nhằm phục vụ quyền lợi của giai cấp cầm quyền. Trong nhà nước
CHXHCN Việt Nam là để phục vụ quyền lợi cho toàn thể nhân dân lao động.


4. Phương pháp thực hiện chức năng nhà nước

Các phương thức thực hiện chức năng nhà nước rất đa dạng và phụ thuộc vào bản chất
giai cấp, nhiệm vụ của nhà nước, nhưng nhìn chung mọi nhà nước đều đều sử dụng
hai phương pháp chung là thuyết phục và cưỡng chế. Đối với nhà nước bóc lột thì
cưỡng chế là phương pháp chủ yếu thể hiện bản chất giai cấp nó đàn áp, bóc lột nhân
dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa coi giáo dục, thuyết phục là phương pháp cơ
bản trong hoạt động của mình nhằm động viên, khích lệ tổ chức và quần chúng tham
gia ngày càng đông đảo vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Cưỡng chế chỉ áp
dụng khi giáo dục không hiệu quả và cũng chỉ nhằm giáo dục, dựa trên cơ sở giáo dục
chứ không nhằm mục đích đàn áp và gây nên những đau đớn về thể xác và tinh thần.
Câu 6. Chức năng kinh tế của NN CHXHCN Việt Nam?
Trả lời
a.Bản chất và đặc điểm chức năng kinh tế
Chức năng kinh tế là một trong những chức năng quan trọng nhất của nhà nước
và được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong tổ chức,
điều tiết và quản lý nền kinh tế nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu vật chất của người
dân, nhà nước và của toàn xã hội. Các chính sách và thực hiện hiệu quả các chính sách
kinh tế luôn là thước đo tín nhiệm của nhà nước đối với xã hội, đồng thời cũng là
những đảm bảo quan trọng cho việc xây dựng và thực thi các chức năng khác của nhà
nước.
Về cơ bản, chức năng kinh tế của nhà nước có những đặc điểm chủ yếu đây:
Thứ nhất, là phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước thể hiện qua các
hoạt động của nhà nước trong tổ chức, quản lý và điều tiết nền kinh tế.

Thứ hai, chức năng kinh tế của nhà nước phản ánh bản chất, trình độ phát triển
của nhà nước.
Thứ ba, chức năng kinh tế của nhà nước là phương diện hoạt động đòi hỏi phải
được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục trong mối liên hệ chặt chẽ với các
hoạt động khác của nhà nước.
Thứ tư, chức năng kinh tế của nhà nước được thực hiện bằng các hình thức,
phương thức và biện pháp khác nhau có mục tiêu tạo của cải vật chất cho xã hội.


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ, xây dựng và phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy ngoài những đặc điểm chung trong việc
thực hiện chức năng kinh tế còn có những điểm khác biệt cơ bản như sau:
Thứ nhất, chức năng tổ chức, điều hành và quản lý kinh tế của nhà nước được
thực hiện dưới sự lãnh đạo thống nhất về tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng
cộng sản Việt Nam.
Thứ hai, nhà nước phát triển nền kinh tế thị trường nhưng định hướng xã hội
chủ nghĩa. Điều này trước hết thể hiện ở chỗ, ở Việt Nam các quy luật, nhân tố của
nền kinh tế thị trường vẫn được tôn trọng và đảm bảo. Nhà nước vẫn sử dụng các
công cụ của nền kinh tế thị trường để tổ chức và điều tiết nền kinh tế. Tuy nhiên, với
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhà nước cần hướng các hoạt động kinh tế phục
vụ mục tiêu phát triển xã hội, phân phối lợi ích kinh tế một cách hài hòa đảm bảo sự
bình đẳng, công bằng, ổn định và an sinh xã hội tạo động lực cho sự phát triển chung
của xã hội. Mục đích của các hoạt động kinh tế không nhằm tối đa hóa lợi nhuận hay
phục vụ lợi ích của nhóm người, các tổ chức độc quyền, mà lợi ích của toàn xã hội.
Thứ ba, mọi chính sách kinh tế phải xuất phát từ lợi ích dân tộc, lợi ích đa số
trong xã hội, lấy sự phát triển con người làm mục tiêu phát triển kinh tế.
Thứ tư, nhà nước không chỉ quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô mà còn trực tiếp tham
gia phát triển kinh tế với tư cách là tổ chức kinh tế độc lập (kinh tế nhà nước) có vai
trò như là thương nhân nhưng không xác định lợi nhuận là mục tiêu chủ yếu, mà xác
định vai trò tiên phong, chủ đạo trong một số lĩnh vực theo chốt tạo tiền đề cơ sở vật

chất, hạ tầng cho nền kinh tế, bảo đảm an ninh quốc gia, lợi ích cơ bản của xã hội.
Như vậy, có thể thấy chức năng kinh tế của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là: các phương diện hoạt động chính của Nhà nước trong tổ chức,
điều tiết và quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện bản
chất dân chủ phù hợp định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm tạo sự ổn định, thịnh vượng,
công bằng, bình đẳng và phát triển toàn diện của xã hội.

b.Chức năng kinh tế của nhà nước trong lịch sử
Ở Việt Nam, từ khi hình thành đến nay thực hiện chức năng kinh tế luôn là một
trong các hoạt động cơ bản của nhà nước. Từ các triều đại phong kiến, chính quyền
thực dân cho đến nhà nước hiện đại tổ chức, quản lý và phát triển kinh tế luôn được
coi là nhiệm vụ trọng tâm.
Trong thời kỳ phong kiến, nhằm đảm bảo quyền sở hữu đất đai - tư liệu quan
trọng bậc nhất có ý nghĩa sống còn đối với nhà nước, các triều đại phong kiến đã đề ra


nhiều phương thức, hình thức quản lý phù hợp với nền kinh tế lấy nông nghiệp làm
trọng tâm và khai thác giá trị của đất đai phục vụ lợi ích giai cấp, chế độ. Từ các triều
đại Lý, Trần đến Hậu Lê và sau cùng là triều Nguyễn các chính sách cho phép lập thái
ấp, lộc điền, quân điển, ức thương trọng nông… lần lượt được ban hành, áp dụng.
Hoặc, chính sách “Bế quan tỏa cảng” được thực hiện nhằm ngăn chặn sự phát triển
của tầng lớp tư sản bản địa, sự can dự của tư sản nước ngoài.
Sau khi Việt Nam giành độc lập, chức năng kinh tế của nhà nước có nhiều thay
đổi. Nhà nước thực hiện mọi phương thức, hình thức tổ chức, điều tiết quản lý nền
kinh tế hướng tới mục tiêu chủ yếu phục vụ công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước, cải
tạo xã hội.
Trước Đại hội VI của Đảng (1986), do ảnh hưởng chính sách kinh tế của Liên
Xô, cũng như mục tiêu tập trung mọi nguồn lực giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, nhà nước ta đã vận dụng chính sách kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Với
chính sách này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa

trên kế hoạch, chỉ tiêu áp đặt từ trên xuống dưới. Nhà nước là chủ sở hữu hầu hết các
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và người trực tiếp tổ chức hoạt động kinh tế từ
khâu cung ứng vật tư, nguyên liệu điều hành sản xuất đến khâu phân phối sản phẩm.
Sau một thời gian thực hiện chính sách kế hoạch hóa tập trung nền kinh tế,
những bất cập của chính sách này đã bộc lộ, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng trầm
trọng. Nguy cơ sụp đổ chế độ trở nên hiện hữu. Đứng trước thách thức đó, Đảng và
Nhà nước đã quyết tâm đổi mới đất nước, mà trước tiên là đổi mới phương thức, hình
thức tổ chức, quản lý và điều tiết nền kinh tế.
Từ chính sách kinh tế kế hoạch, tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước đến nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam không chỉ thoát nghèo mà còn từng bước tạo
lập được môi trường phát triển ổn định hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
c.Các hình thức thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước
Thực hiện chức năng kinh tế luôn gắn liền với những hình thức xác định. Hình
thức thực hiện chức năng kinh tế là sự biểu hiện ra bên ngoài những mong muốn (ý
chí) của Nhà nước nhằm tổ chức, điều tiết và quản lý nền kinh tế.
Với mục tiêu xây dựng và phát triển nề kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nhà nước ta thực hiện chức năng kinh tế theo các hình thức cơ bản sau
đây:
 Nhà nước tổ chức, quản lý, điều tiết kinh tế bằng pháp luật


Trong xã hội hiện đại, pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu nhất để nhà nước tổ
chức, điều tiết và quản lý nền kinh tế. Với những thuộc tính ưu việt vốn có, pháp luật
có thể tác động mạnh mẽ, có giá trị bắt buộc chung đối với toàn xã hội. Pháp luật có
tính thống nhất và được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước giúp cho những
quy định liên quan đến tổ chức, điều tiết và quản lý kinh tế được triển khai thực hiện
một cách thống nhất, nhanh chóng và hiệu quả. Ngoài ra, tính minh bạch, chặt chẽ,
dân chủ và công bằng của pháp luật cũng là những đảm bảo cần thiết tạo lập niềm tin

và môi trường kinh tế bình đẳng, lành mạnh, bền vững cho các chủ thể tham gia vào
các quan hệ kinh tế.
Ở Việt Nam, quản lý kinh tế bằng pháp luật là một trong những nguyên tắc
Hiến định. Hiến pháp 1992 quy định “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12), “Nhà nước thống nhất quản
lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách” (Điều 26).
Song song với hoạt động lập pháp và ký kết, tham gia các điều ước quốc tế, tổ
chức thực hiện và bảo đảm thực hiện các quy phạm pháp luật cũng luôn được Nhà
nước chú trọng. Việc thiết lập các cơ chế giám sát, thành lập các cơ quan chuyên
trách đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh cũng được đề cao.
Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có cả yếu tố chủ quan và khách
quan, hệ thống pháp luật kinh tế của nước ta, về cơ bản chưa đồng bộ và chưa đáp
ứng được yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Việc triển khai thực hiện các văn
bản pháp luật còn chưa nghiêm, tư duy quản lý còn lạc hậu chưa theo kịp thay đổi
của yêu cầu mới… Tất cả các yếu tố đó đã phần nào làm suy giảm vai trò của pháp
luật như là công cụ chủ yếu trong điều tiết và quản lý nền kinh tế. Nhưng, không thể
phủ nhận một thực tế, là những nỗ lực của nhà nước trong nhiều năm trở lại đây đã
và đang góp phần tạo nên hành lang pháp lý cơ bản có hiệu quả trong tổ chức, điều
tiết và quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
 Nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành kinh tế bằng chính sách, kế hoạch

Ngoài pháp luật, nhà nước còn quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch chính sách.
Trong quá trình quản lý nền kinh tế Đảng và Nhà nước thường xuyên thực hiện kế
hoạch hóa nền kinh tế. Trong rất nhiều nghị quyết của Đảng cũng như của cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội) nhiều kế hoạch phát triển kinh tế xã hội theo
các giai đoạn, thời kỳ đã được xác định và thực hiện. Kế hoạch là hình thức nhà nước
thiết lập các mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình tổ chức, quản lý, điều tiết nền kinh tế
theo lộ trình hoặc các bước thực hiện nhằm phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả, hợp
lý để thực hiện mục tiêu đặt ra.
Ngoài kế hoạch, chính sách kinh tế cũng là hình thức thường xuyên được thực

hiện để quản lý nền kinh tế. Chính sách kinh tế là những sách lược mà nhà nước tác
động nên nền kinh tế để đạt được mục tiêu nhất định. Chính sách kinh tế bao gồm một
số loại chủ yếu, đó là: chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách điều tiết hoạt động kinh tế,
chính sách kinh tế đối ngoại và chính sách phát triển kinh tế…


 Nhà nước tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế với tư cách chủ thể

đặc biệt – kinh tế nhà nước
Trong quá trình quản lý nền kinh tế, nhà nước không chỉ quản lý bằng các
phương tiện vĩ mô, mà trong nhiều trường hợp nhà nước tham gia trực tiếp vào các
hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các tập đoàn, doanh nghiệp thuộc sở hữu
nhà nước, doanh nghiệp nhà nước có vốn hoặc cổ phần chi phối.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế nhà nước có
vai trò quan trọng. Sự tồn tại kinh tế nhà nước, trước hết, là điều kiện vật chất đảm
bảo cho nhà nước thực hiện các chức năng khác của mình, đặc biệt các chức năng
quốc phòng, an ninh và xã hội. Tuy nhiên, để đảm bảo các điều kiện của nền kinh tế
thị trường, kinh tế nhà nước chỉ tham gia vào các lĩnh vực then chốt, những lĩnh vực
hành hóa và dịch vụ công cộng mà nếu nằm trong tay doanh nghiệp của tư nhân thì có
nguy cơ gây thiệt hại cho toàn xã hội hoặc tham gia vào những lĩnh vực mà tư nhân
không có điều kiện hoặc không muốn tham gia (do không hoặc ít phát sinh lợi nhuận,
địa bàn khó khăn…).
Cần phải lưu ý rằng, kinh tế nhà nước không lấy mục tiêu lợi nhuận làm mục
tiêu chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh. Kinh tế nhà nước có mục tiêu xã hội,
đảm bảo quốc phòng an ninh công cộng, giúp nhà nước điều tiết nền kinh tế và tạo lập
môi trường thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển.
d.Các phương pháp thực hiện chức năng kinh tế
Quản lý nền kinh tế chỉ thực sự hiệu quả khi nhà nước sử dụng các phương
pháp phù hợp. Đối với từng đối tượng, lĩnh vực và thời điểm cụ thể nhà nước có thể
sử dụng rất nhiều các phương pháp khác nhau để đạt được mục tiêu quản lý kinh tế.

Một số phương pháp phổ biến trong quản lý kinh tế là giáo dục, thuyết phục, khuyến
khích, cưỡng chế hay các phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế…
Giáo dục là phương pháp tác động có định hướng làm thay đổi nhận thức của
chủ thể. Ví dụ, nhà nước giáo dục người dân về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như
tuân thủ những quy định pháp luật về kinh doanh mặt hàng liên quan đến vệ sinh an
toàn thực phẩm.
Thuyết phục là phương pháp tác động làm cho chủ thể khác nghe theo và thực
hiện theo những lời khuyên, những khuyến cáo, chỉ dẫn của nhà nước trong hoạt
động kinh tế. Ví dụ, nhà nước thuyết phục người dân nói không với những mặt hàng
không rõ nguồn gốc xuất xứ hay thuyết phục người dân trồng những giống lúa cho
năng xuất và chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.
Khuyến khích: phương thức nhà nước tác động nên các chủ thể quan hệ kinh tế
với mục đích hướng họ theo những hoạt động, hành vi mà nhà nước cho là có lợi cho
nền kinh tế. Ví dụ, nhà nước khuyến khích người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt
Nam.


Cưỡng chế là biện pháp nhà nước dùng để bắt buộc chủ thể quan hệ kinh tế
dừng, chấm dứt hoặc thực hiện các hoạt động theo yêu cầu của nhà nước. Ví dụ, thu
hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp vi phạm điều kiện
ngành nghề đăng ký kinh doanh.
Phương pháp hành chính là các phương pháp có tính chất mệnh lệnh, áp đặt có
tính chất bắt buộc của nhà nước đối với chủ thể trong quan hệ kinh tế vì mục tiêu
quản lý kinh tế. Ví dụ, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các cơ sở kinh doanh vàng
miếng SJC cần phải có giấy phép kinh doanh vàng miếng.
Phương pháp kinh tế là các biện pháp nhà nước áp dụng căn cứ vào quy luật
kinh tế, quy luật thị trường nhằm quản lý nền kinh tế. Ví dụ, để kiềm chế lạm phát
nhà nước nâng lãi suất tiền gửi, kiểm soát tín dụng, hạn chế đầu tư công hay để phục
hồi thị trường bất động sản nhà nước nới lỏng tín dụng, hạ lãi xuất tiền gửi…
e. Kết luận

Như vậy, có thể thấy chức năng kinh tế luôn là một trong những chức năng quan trọng
nhất của nhà nước. Thực hiện tốt chức năng kinh tế là đảm bảo sự tồn tại, phát triển
của nhà nước nói riêng, toàn bộ hệ thống chính trị nói chung, đồng thời tạo điều kiện
tiền đề về cơ sở vật chất để thực hiện các chức năng khác của nhà nước.
Câu 7. Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam: khái niệm, phân loại các cơ quan
nhà nước, vị trí, vai trò, chức năng cơ bản của các cơ quan nhà nước?
Trả lời
1) Khái niệm

BMNN (nói chung) là hệ thống các cqNN từ trung ương đến địa
phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống
nhất nhằm thực hiện nhiệm vụ và chức năng của NN.
− BMNN CHXHCN VN là hệ thống các cơ quan NN từ TƯ xuống địa
phương, được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung, thống
nhất nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược và các chức năng của
NN vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn
minh.


2) Phân loại các cơ quan nhà nước


Khác với bộ máy nhà nước tư sản, bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ
chức theo nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, có dự phân công và


phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
− Tất cả các cơ quan nhà nước tạo thành bộ máy nhà nước . Nhưng bộ máy nhà
nước không phải là một tập hợp đơn giản các cơ quan nhà nước, mà là 1 hệ

thống thống nhất các cơ quan có mối quan hệ ràng buộc qua lại chặt chẽ với
nhau vận hành theo 1 cơ chế đồng bộ.
− Theo hiến pháp năm 2013 , ở nước ta có các loại cơ quan nhà nước sau:
+ Các cơ quan quyền lực nhà nước( Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực ở địa phương).
+ Các cơ quan hành chính nhà nước, bao gồm: Chính phủ, các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan có chức năng quản lí nhà nước thuộc Chính phủ; Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ
ban nhân dân.
+ Tòa án nhân dân.
+ Viện kiểm sát nhân dân
− Nguyên thủ quốc gia làngười đứng đầu nhà nước, đại diện cho đất nước về đối
nội, đối ngoại.
1. CÁC CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC:
* QUỐC HỘI:

+

+

+
+
+

+

Vị trí pháp lý:
Vị trí pháp lý của Quốc hội còn được thể hiện rõ trong các mối quan hệ giữa
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước. Cùng với sự phân công rành mạch chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước còn được thực hiện thông qua sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, tránh
lấn sân, chồng chéo, mâu thuẫn khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó. Để
tăng cường quan hệ phối hợp trong việc thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp, Hiến pháp năm 2013 khẳng định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp.
Tuy nhiên, khác với Hiến pháp năm 1992, Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013
không còn là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến.
Cơ cấu
UBTVQH (Chủ tịch QH, Phó chủ tịch QH và các Ủy viên).
Hội đồng dân tộc và các UB của QH (7 Ủy ban của QH)
Các đoàn Đại biểu QH.
Chức năng
Về chức năng của Quốc hội, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ hơn, khái quát
hơn trên ba phương diện: thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; quyết định


+

+

+


+
+

+


những vấn đề quan trọng của đất nước; giám sát tối cao đối với hoạt động của
Nhà nước.
Trước hết, về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm 2013
đã có sự phân biệt rõ ràng giữa quyền lập hiến, quyền lập pháp và thay quy
định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy
định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp” (lập hiến và lập
pháp theo Hiến pháp năm 1992 là một quyền).
Thứ hai, về quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, so với quy định
của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng khái
quát hơn, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội trong Hiến pháp và trong các đạo luật chuyên ngành.
Thứ ba, về giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đây là hoạt động
mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí của cử tri và là một trong những tiêu chí
để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp năm 1992 thì quy định này có những
điểm mới đáng chú ý sau: (1) phạm vi thẩm quyền giám sát tối cao đối với hoạt
động của Nhà nước của Quốc hội là có giới hạn, không mở rộng đến “toàn bộ”
hoạt động của Nhà nước . (2) Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các thiết chế độc lập như Kiểm toán
nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan nhà nước khác do Quốc
hội thành lập. (3) Quy định khái quát để các luật có điều kiện cụ thể hóa những
hoạt động nào của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội.
Hình thức hoạt động :
QH hoạt động chủ yếu thông qua các kỳ họp QH (1 năm 2 lần).
Ngoài các kỳ họp thường lệ, UBTVQH có thể triệu tập họp bất thường.
Vai trò :
Vừa là đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, vừa nắm giữ mọi
quyền lực cũng như mọi công việc.


*HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP :



+
+

+

Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng
và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân và địa phương bầu ra, chịu trách
nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên ( Điều 119, Chương 9,
Hiến pháp 1992 )
Vị trí pháp lý :
Là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng
và quyền làm chủ của nhân dân
Do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương và cơ quan cấp trên.
Cơ cấu:
Thường trực Hội đồng nhân dân, Các ban của Hội đồng nhân dân.


+

+
+
+

+


+

Hội đồng nhân dân có nhiệm kì 5 năm, được thành lập ở các cấp địa phương
( tỉnh, huyện, xã ).
Chức năng:
Quyết định các vấn đề của địa phương
Thành lập ra các định chế quyền lực ở địa phương
Giám sát việc tuân theo hiến pháp và pháp luật ở địa phương
Hình thức hoạt động:
Thông qua các kỳ họp HĐND.
Vai trò:
Đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, chịu trách
nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên.

2. CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC :
*CHÍNH PHỦ :

+

+

+

+

+
+

+


+

Vị trí pháp lý :
Điều 94 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Cơ cấu :
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm
kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới thành lập
Chính phủ.
Thành viên Chính phủ: Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ
tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu, số
lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quyết định.
Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ, do Quốc hội bầu trong số
đại biểu Quốc hội, .
Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự
phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng
Chính phủ về nhiệm vụ được phân công.
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ
tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội.
Chức năng :
Điều 96 Hiến pháp năm 2013 quy định: Chính phủ có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
• Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;


Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội

quyết định; trình dự án luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác
trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
• Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học,
công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an
ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc
động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần
thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
• Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành
lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới
đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
• Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia
• Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền
công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
• Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền
của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt
hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình
Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài;
• Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình.
Vai trò :
Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật,
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; bảo đảm bình đẳng giới.
Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chức năng, phạm vi
quản lý giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; đề cao trách nhiệm cá nhân của người
đứng đầu.

Tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, năng động, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm
nguyên tắc cơ quan cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành
nghiêm chỉnh các quyết định của cơ quan cấp trên.
Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo
đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng
tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Minh bạch, hiện đại hóa hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan hành chính nhà nước các cấp; bảo đảm thực hiện một nền hành chính
thống nhất, thông suốt, liên tục, dân chủ, hiện đại, phục vụ Nhân dân, chịu sự
kiểm tra, giám sát của Nhân dân.



+
+

+

+

+


*UBND CÁC CẤP :


+


+

+


+


+

Là một cơ quan hành chính nhà nước của hệ thống hành chính Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vị trí pháp lý :
Đây là cơ quan thực thi pháp luật tại các cấp: tỉnh, huyện, xã. Các chức danh
của Ủy ban nhân dân được Hội đồng nhân dân cấp tương ứng bầu ra và có
nhiệm kỳ trùng với nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân.
Cơ cấu :
Người đứng đầu Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Ủy ban nhân dân, thường là phó
bí thư Đảng ủy Đảng Cộng sản Việt Nam cấp tương ứng.
Quyền hạn của Ủy ban nhân dân được quy định tại Hiến pháp nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân. Ủy ban nhân dân các cấp có các cơ quan giúp việc như: Sở (cấp
tỉnh), Phòng (cấp huyện), Ban (cấp xã).
Chức năng :
Theo điều 2 và 3 Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân (năm
2003) quy định về chức năng và mục đích Ủy ban Nhân dân như sau:
 Điều 2
• Uỷ ban nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội
đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách
nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp trên.
• Uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản
của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng

cấp nhằm bảo đảm thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa
bàn.
• Uỷ ban nhân dân thực hiện chức năng quản lý nhà nước ở địa phương, góp
phần bảo đảm sự chỉ đạo, quản lý thống nhất trong bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương tới cơ sở.
 Điều 3
• Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ.
• Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình theo Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên;
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, ngăn ngừa và chống các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm và các biểu hiện tiêu cực khác của
cán bộ, công chức và trong bộ máy chính quyền địa phương.
Vai trò :
Phối hợp với các cơ quan cấp trên quản lí ngân sách trong địa bàn của mình,
quản lí đất đai, tài nguyên, công trình vừa và nhỏ, hệ thống đê điều, quản lí


công trình giao thông đô thị, hộ tịch, hộ khẩu, giải quyết các khiếu nại, kiến
nghị, tố cáo của công dân,…
3. TÒA ÁN NHÂN DÂN :
Vị trí pháp lý :
Tại Khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ
quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư
pháp”.
− Cơ cấu :
Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do Luật định
quy định.


+


+

+

+


+

Chức năng :
Có thẩm quyền giải quyết những loại vụ việc liên quyền con người, quyền của
công dân, mà những loại việc đó hiện nay là các cơ quan hành chính đang thực
hiện…
So với Hiến pháp năm 1992 thì ngoài chức năng xét xử thì Tòa án nhân dân
còn thực hiện quyền tư pháp là nhằm phân định quyền lực nhà nước theo
hướng Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Chính phủ là cơ
quan thực hiện quyền hành pháp, Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập
hiến, lập pháp.
Đây là cơ sở pháp lý để giao cho Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết
những loại vụ việc liên quyền con người, quyền của công dân, mà những loại
việc đó hiện nay là các cơ quan hành chính đang thực hiện…
Vai trò :
Hướng dẫn các tòa án quân sự thống nhất pháp luật, giám sát xét xử và đảm
bảo kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật, quản lí các tòa án địa phương về
mặt tổ chức.


4. VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN :

+

+

+

Vị trí pháp lý :
Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013 Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Cơ cấu :
Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm
sát khác do luật định.
Chức năng :
Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất (Khoản 3 Điều 107, Hiến pháp
2013).


+

+


+

+


Việc bảo vệ pháp luật, là trách nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị,
được quy định tại điều 119 Hiến pháp; Với chức năng Hiến định, Viện kiểm sát
nhân dân sẽ có điều kiện để góp phần bảo đảm cho pháp luật ơ được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, thông qua việc thực hiện quyền năng pháp lý như
kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu trong hoạt động tư pháp.
Đồng thời phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ
quan chuyên trách bảo vệ pháp luật, kiến nghị với Đảng, Nhà nước để hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tiến tới xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vai trò :
Bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân vì mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
Thể hiện rõ quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.

5. NGUYÊN THỦ QUỐC GIA :

+

+

+

+
+
+


+

+

Vị trí pháp lý :
Là người đứng đầu nhà nước, đại diện cho đất nước về đối nội, đối ngoại.
Cơ cấu :
Chủ tịch nước CHXHCNVN.
Chức năng :
Đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm phó chủ tịch nước, thủ tướng
chính phủ, chánh án tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương.
Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc
phòng và an ninh.
Tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài: quyết định đàm phán,
ký Điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Việt Nam.
Vai trò :
Thống nhất về mặt quản lí, lãnh đạo lực lượng vũ trang nhân dân, tham gia vào
công việc đối nội đối ngoại,… giữ một vai trò vô cùng quan trọng.
Hình thức hoạt động :
Do quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội.

Câu 8: Nhà nước pháp quyền: khái niệm, đặc điểm cơ bản?
1. Khái niệm:


Nhà nước pháp quyền là nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước
thực sự thuộc về nhân dân, pháp luật có tính pháp lí và công bằng, thể hiện đầy đủ các

giá trị cao cả của xã hội và của con người, pháp luật phải giữ vai trò chủ đạo trong
mọi hoạt động, trong sử xự của các chủ thể và toàn xã hội.
2. Đặc điểm:
- Có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, phản ánh đúng yêu cầu khách quan của quản
lí nhà nước và quản lí xã hội. Các đạo luật phải có vai trò tối thượng trong hệ thống
pháp luật. Nhà nước và các thiết chế của nó phải được xác định rõ ràng về mặt pháp
luật, tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, viên chức và công dân phải tuân
thủ nghiêm chỉnh và triệt để pháp luật.

- Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, công dân có trách nhiệm đối với nhà
nước và nhà nước cũng có trách nhiệm đối với công dân. Quan hệ giữa công dân và
nhà nước là quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

- Là một tổ chức thực hiện công quyền dựa trên nền tảng pháp luật vững chắc, các
quyền tự do, dân chủ, các lợi ích chính đáng của con người phải được pháp luật bảo
đảm và bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân do bất kì cơ quan nhà nước, người có chức quyền hay công dân nào thực hiện đều
phải bị phát hiện và nghiêm trị.

- Quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân định rõ ràng, hợp lí
cho ba hệ thống các cơ quan nhà nước tương ứng trong một cơ chế kiểm tra, giám sát
và chế ước nhau tạo thành cơ chế đồng bộ đảm bảo sự thống nhất của quyền lực nhà
nước, nhân dân thực sự là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước.
Câu 9: Pháp luật được ra đời như thế nào? Nêu các loại nguồn của pháp
luật?Liên hệ với nguồn pháp luật ở nước ta hiện nay?
Trả lời:
1. Khái niệm pháp luật
- Khái niệm pháp luật: Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước
đặt ra có tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bắt
buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực của nhà nước và được nhà

nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2. Quá trình ra đời của pháp luật


2.1: Nguồn gốc của pháp luật:
Trong xã hội công xã nguyên thủy cũng đã có sự quản lý bằng các quy phạm xã
hội như quy phạm tập quán, tôn giáo, bằng uy tín của người đứng đầu… Mục đích của
sự quản lý thường là vì lợi ích chung của xã hội nên thường được mọi người tự giác
thực hiện. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, khi tư hữu và sự mâu thuẫn
giữa các giai cấp hình thành và phát triển sâu sắc, dẫn đến sự ra đời của Nhà nước, thì
những người nắm trong tay quyền lực nhà nước nhận thấy không thể tiếp tục sử dụng
cách thức, cũng như những quy phạm xã hội trước kia để quản lý một xã hội hiện tại
đã phức tạp hơn trước rất nhiều. Do đó, nhà nước cần có một loại quy phạm hiệu quả
hơn để quản lý. Chính từ nguyên nhân đó mà pháp luật ra đời.
2.2: Các cách thức ra đời của thành pháp luật:
Pháp luật được ra đời cùng với nhà nước, nó là loại quy phạm hữu hiệu nhất để
quản lý quy phạm xã hội.
Các con đường hình thành nên pháp luật:
-Thứ nhất, tập quán pháp: là việc nhà nước thừa nhận các tập quán đã từng tồn
tại trước đó có giá trị pháp lý, mang tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Về nguyên tắc, các tập quán này không trái
với lợi ích của nhà nước.
- Thứ hai, tiền lệ pháp: là những quyết định của các cơ quan hành chính, của cơ
quan tư pháp về những vụ việc cụ thể (trong trường hợp pháp luật không quy định
hoặc quy định không rõ) được nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý bắt buộc để giải
quyết những vụ việc tương tự xảy ra sau đó.
- Thứ ba, văn bản pháp luật do nhà nước xây dựng và ban hành: là hình thức
thể hiện các quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những
trình tự, thủ tục pháp lý nhất định, trong đó quy định những quy tắc xử sự có tính bắt
buộc chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, được áp dụng nhiều lần trong cuộc

sống.
3. Các loại nguồn của pháp luật.
- Nguồn pháp luật (hình thức bên ngoài của pháp luật): là những hình thức
chính thức thể hiện các quy tắc bắt buộc chung được nhà nước thừa nhận có giá trị
pháp lý để áp dụng vào việc giải quyết các sự việc trong thực tiễn pháp lý và là
phương thức tồn tại trên thực tế của các quy phạm pháp luật.
- Có 3 loại nguồn pháp luật, đó là:
+ Tập quán pháp: là việc nhà nước thừa nhận các tập quán đã từng tồn tại
trước đó có giá trị pháp lý, mang tính bắt buộc chung, được đảm bảo thực hiện bằng
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Về nguyên tắc, các tập quán này không trái với lợi
ích của nhà nước.
+ Tiền lệ pháp: là những quyết định của các cơ quan hành chính, của cơ quan
tư pháp về những vụ việc cụ thể (trong trường hợp pháp luật không quy định hoặc quy
định không rõ) được nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý bắt buộc để giải quyết
những vụ việc tương tự xảy ra sau đó.
+ Văn bản pháp luật do nhà nước xây dựng và ban hành: là hình thức thể hiện
các quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo những trình tự,


thủ tục pháp lý nhất định, trong đó quy định những quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống.
4. Liên hệ với nguồn pháp luật nước ta hiện nay
- Loại nguồn chính thức của pháp luật Việt Nam là Văn bản quy phạm pháp
luật.
- Việt Nam có sử dụng tập quán pháp nhưng ở mức độ hạn chế và thông thường
được sử dụng trong ngành luật dân sự và thương mại.
- Suốt một thời gian dài trước kia, chúng ta ko thừa nhận án lệ là nguồn của
pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam đã thừa nhận án lệ là một loại
nguồn bổ sung. Năm 2015, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết 03 về
việc sử dụng án lệ (nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP). Và gần đây nhất, Tòa án nhân

dân tối cao đã công bố 06 án lệ chính thức là nguồn của pháp luật Việt Nam.
Câu 10: Bản chất, thuộc tính cơ bản, vai trò của pháp luật trong xã hội?
So sánh quy phạm pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác?
Trả lời:
- Khái niệm pháp luật: Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước
đặt ra và thừa nhận có tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình
thức và tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực của nhà nước
và được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.
1. Bản chất của pháp luật.
* Tính giai cấp của pháp luật:
- Tính giai cấp của pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị
trong xã hội, nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai
cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật
do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
- Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã
hội, pháp luật là yếu tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm định
hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý
chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa
đó pháp luật chính là công cụ thể hiện sự thống trị của giai cấp.
* Tính xã hội của pháp luật:
- Pháp luật vừa là thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị trong xã
hội, vừa là công cụ ghi nhận, bảo vệ lợi ích của các giai cấp khác vì mục đích ổn định
và phát triển xã hội theo đường lối của giai cấp thống trị.
Lưu ý:
Pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện
tính xã hội, hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Mức độ thể hiện đậm nhạt của 2 thuộc tính này trong các kiểu pháp
luật là khác nhau và thường biến đổi tùy thuộc vào điều kiện kinh tế,
xã hội, đạo đức, quan điểm, đường lối và các trào lưu chính trị xã hội
trong mỗi quốc gia, ở mỗi thời kì lịch sử nhất định.



2. Thuộc tính cơ bản của pháp luật.
Pháp luật có các thuộc tính cơ bản sau:
- Tính quy phạm phổ biến, bắt buộc chung:
+ Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, đó là những khuôn mẫu hành
vi mà mọi cá nhân, tổ chức nhất định phải tuân theo.
- Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức:
+ Các quy phạm pháp luật được thể hiện trong các văn bản pháp luật với
những tên gọi, cách thức ban hành và giá trị pháp lý nhất định.
+ Về mặt ngôn ngữ: ngắn gọn, rõ ràng, trực tiếp để đảm bảo tính phổ
thông, dễ hiểu, dễ vận dụng, tránh việc hiểu đa nghĩa.
- Tính được đảm bảo thực hiện bằng nhà nước:
+ Pháp luật do nhà nước trực tiếp xây dựng, ban hành hoặc thừa nhận
nên pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng các công cụ, biện pháp của nhà
nước.
+ Các biện pháp mà nhà nước sử dụng để đảm bảo thực hiện các quy
phạm pháp luật rất đa dạng, bao gồm các biện pháp cương chế, thuyết phục, giáo dục,

3. Vai trò của pháp luật.
Vai trò của pháp luật được thể hiện qua những chức năng, tức là những phương
diện tác động chủ yếu của pháp luật lên các quan hệ xã hội và hành vi cá nhân. Pháp
luật có 3 chức năng chủ yếu đó là:
- Chức năng điều chỉnh:
+ Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật là sự xác lập,
ổn đinh, trật tự hóa các quan hệ xã hội theo đường lối của nhà nước, phù hợp với sự
vận động, phát triển của đời sống xã hội, để hướng các quan hệ xã hội đó phát triển
trong trật tự và ổn định theo mục tiêu mà nhà nước mong muốn.
- Chức năng bảo vệ:
+ Cách thức thể hiện: quy định những phương tiện nhằm mục đích bảo

vệ những quan hệ xã hội là cơ sở, nền tảng của xã hội trước các vi phạm và loại trừ
những quan hệ xã hội lạc hậu, không phù hợp với bản chất của chế độ.
+ Phương tiện thực hiện chức năng: chủ yếu là những quy định pháp
luật về xử phạt (chế tài hành chính, chế tài hình sự,…).
- Chức năng giáo dục:
+ Chức năng giáo dục của pháp luật được thể hiện thông qua sự tác
động của pháp luật vào ý thức con người (từ ý thức đến hành vi).
+ Hình thức, phương pháp thực hiện: phổ biến pháp luật, tư vấn và trợ
giúp pháp luật, thông qua các hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền…
3. So sánh pháp luật với các loại quy phạm xã hội khác.

- Khái niệm:
+ Quy phạm pháp luật: là quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho mọi
người, do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận thể hiện ý chí của giai cấp thống trị được


×