Tải bản đầy đủ (.doc) (189 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ vấn đề GIẢI PHÓNG NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM bị áp bức TRONG tư TƯỞNG NHÂN văn hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.94 KB, 189 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tài sản tinh thần vơ cùng quý báu của
dân tộc ta, đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn
trong 7 thập kỷ qua. Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 18/2/1995 của Bộ Chính
trị đã đánh giá: "Tư tưởng của Người đã và đang soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành những giá trị bền vững của
dân tộc Việt Nam và lan tỏa ra thế giới" [13, 3]. Một trong những thành tố
quan trọng góp phần làm nên tầm cao và chiều sâu, giá trị định hướng của tư
tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay là tư tưởng nhân văn của Người
[61].
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với nội dung cơ bản: giải phóng
người lao động đã chi phối tất cả các lĩnh vực trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hiện nay, với chính sách "mở cửa", xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN (đang trong quá trình vừa thực hiện, vừa tìm tịi, chưa
từng có tiền lệ) làm biến đổi sâu sắc đời sống xã hội. Nền kinh tế được
"vực dậy", ổn định và tăng trưởng trong nhiều năm kéo theo đời sống văn
hóa tinh thần có nhiều thay đổi rõ rệt, tích cực. Mặt khác, mặt trái của nền
kinh tế thị trường cũng tự phát gây ra nhiều tiêu cực (ở mức độ nghiêm
trọng) trong đời sống xã hội, đặc biệt ở lĩnh vực văn hóa tinh thần, đạo đức
cả ở phía đảng viên, cán bộ nhân viên nhà nước và cả ở phía những người
lao động: tình trạng quan liêu của bộ máy Đảng, Nhà nước; sự sa sút phẩm
chất đạo đức, thối hóa biến chất của một số khơng ít trong đội ngũ cán
bộ; sự thiếu kiến thức dân chủ trong một bộ phận lớn người lao động...
dẫn đến tình trạng quyền làm chủ của người lao động bị vi phạm một cách
phổ biến, nhiều nơi ở mức độ nghiêm trọng đã cản trở, làm chậm lại tiến
trình giải phóng, phát triển con người và gây ra nguy cơ của sự phát triển

1



không bền vững. Người lao động - lực lượng cơ bản nhất của xã hội - phải
chịu hậu quả trực tiếp, nặng nề nhất do sự vận động theo xu hướng tiêu
cực gây ra.
Để hạn chế, khắc phục kịp thời nguy cơ sự phát triển kinh tế xã hội
không phục vụ trên thực tế cho sự nghiệp giải phóng nhân dân lao động,
việc nghiên cứu Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức
trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là việc làm thiết thực nhằm hạn
chế tối đa tình trạng người lao động phải chịu nhiều thiệt thịi trong đời
sống xã hội, thậm chí bị áp bức, điều trái với bản chất xã hội XHCN mà
chúng ta đang xây dựng; nhằm tìm ra giải pháp định hướng, tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho sự giải phóng, phát triển năng lực và phẩm chất Con
Người ở mỗi cá nhân người lao động.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng giải phóng con người của Hồ Chí Minh đã được các nhà
lý luận, nhà văn hóa, nhà chính trị... nghiên cứu ngay từ khi bắt đầu hình
thành vào những năm 20 của thế kỷ này. Thời kỳ Cách mạng tháng Tám,
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đặc
biệt nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100, 105 ngày sinh Hồ Chí Minh, nhiều tác
phẩm của các học giả nước ngoài và trong nước đã nghiên cứu sâu sắc
những đóng góp to lớn của Người đối với phong trào giải phóng dân tộc,
giải phóng con người và với nền văn hóa thế giới.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng
Cộng sản Việt Nam, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tư tưởng giải
phóng dân tộc, giải phóng con người của Hồ Chí Minh ở nhiều cấp độ và
giác độ khác nhau như: Chương trình nghiên cứu cấp Nhà nước về Tư
tưởng Hồ Chí Minh: Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh tập 1, 2, 3; Chương
trình khoa học và cơng nghệ cấp Nhà nước về Tư tưởng Hồ Chí Minh KX.02 với nhiều đề tài nhánh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

2



(KX.02.08),
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con
người (KX.02.05), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong điều
kiện đã có chính quyền (KX.02.06); Đề tài khoa học cấp Bộ: Tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh, của khoa Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh... Các tạp chí khoa học xã hội và nhân văn đều mở chuyên mục
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đăng tải những kết quả nghiên cứu của
đông đảo các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà lãnh đạo quản lý, ví dụ
như: Một số nét cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, của
PGS.TS Lê Văn Dương; Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng
con người mới, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; Bản chất cách mạng và
khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, của GS.TS Trần Hữu Tiến; Hồ Chí
Minh - Nhà văn hóa lớn, của PGS Song Thành; Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền con người, quyền công dân, của PGS.TS Đỗ Long; Nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, của PGS.TS Phùng Hữu
Phú; Những luận điểm của Hồ Chí Minh về con người và con người trong sự
nghiệp

xây

dựng

chủ nghĩa xã hội, của PGS.TS Nguyễn Trọng Phúc; Giải phóng con người
và mưu cầu hạnh phúc cho con người - cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh,
của
TS Bùi Đình Phong... Đặc biệt phải kể đến các tác phẩm có giá trị lớn của
các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp viết về con người, sự
nghiệp, đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có nói nhiều đến tư tưởng

nhân văn của Người, ví dụ như các tác phẩm: Hồ Chí Minh và con người
Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh (Phạm Văn Đồng), Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (Võ Ngun
Giáp)...
Các cơng trình nêu trên đã đi sâu phân tích nguồn gốc, bản chất, nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Đó là một

3


hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các vấn đề giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, về lòng yêu nước thương dân, về sức mạnh của nhân dân, về văn
hóa, về đạo đức cách mạng... Tất cả đều chứa đựng những giá trị nhân văn
lớn lao, bởi đó là những tư tưởng tiến bộ, chứa chan tình u con người, vì
mục đích đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân mà tiêu
điểm là người lao động bị áp bức. Các cơng trình nêu trên làm cơ sở cho
việc nghiên cứu tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức
của Hồ Chí Minh mà chúng tơi chọn làm đề tài nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích: Xác định rõ nội dung cơ bản của tư tưởng giải phóng
người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh,
từ đó vận dụng vào cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay nhằm thúc đẩy
tiến trình giải phóng người lao động lên trình độ mới.
Nhiệm vụ:
1- Luận chứng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang bản chất nhân
văn cộng sản, mà tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức
là nội dung cơ bản nhất. Nó là kết quả tất yếu của địi hỏi của cách mạng
giải phóng dân tộc, giải phóng con người Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX kết hợp với thiên tài, nhân cách Hồ Chí Minh trên nền tảng
truyền thống nhân ái của dân tộc và tư tưởng giải phóng con người của chủ

nghĩa Mác-Lênin.
2- Khái quát đặc trưng cơ bản và nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp giải
phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh.
3- Trước những vấn đề đặt ra trong quá trình giải phóng người lao
động Việt Nam trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng giải

4


phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh, đề ra giải
pháp định hướng thúc đẩy giải phóng người lao động trong giai đoạn mới.
4. Cơ sở lý luận và thực tiễn, phương pháp nghiên cứu của luận
án
Luận án dựa trên cơ sở lý luận hệ thống các quan điểm, tư tưởng
của Hồ Chí Minh, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin, Văn kiện Đảng
Cộng sản Việt Nam, sử dụng nhiều tài liệu trong Chương trình nghiên cứu
cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh, tài liệu trong các hội thảo khoa
học về tư tưởng Hồ Chí Minh, sách, báo, tạp chí...
Cơ sở thực tiễn: Qua các sách, báo, tạp chí; quan sát thực tế.
Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, các phương pháp: lịch sử-lơgíc, phân tích-tổng hợp, so sánh... để làm rõ
nội dung chủ đạo của đề tài.
5. Đóng góp mới của luận án
1. Chỉ ra nguồn gốc trực tiếp tác động hình thành tư tưởng giải phóng
người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
2. Bước đầu khái quát nội dung cơ bản tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh.
3. Bước đầu khái quát nội dung cơ bản tư tưởng giải phóng người
lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.

4. Khẳng định giá trị của tư tưởng giải phóng người lao động Việt
Nam bị áp bức của Hồ Chí Minh trong giai đoạn quá độ lên CNXH của
nước ta. Nêu giải pháp định hướng thúc đẩy tiến trình giải phóng người lao
động trong công cuộc đổi mới hiện nay.
6. Giá trị và ý nghĩa của luận án

5


Luận án góp phần nghiên cứu di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, một nhiệm vụ lý luận quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường chính trị, các trường cao
đẳng và đại học.
7. Kết cấu luận án
Luận án có 175 trang, ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, được chia thành 3 chương 6 mục.

6


Chương 1
SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
GIẢI PHĨNG NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM BỊ ÁP BỨC
TRONG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH

1.1. TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH

Nhân văn là một khái niệm để chỉ giá trị văn hóa tinh thần của con
người. Nó phản ánh và đề cao những giá trị con người đạt được trong quan

niệm về con người và các mối quan hệ của con người với con người trong
xã hội cũng như con người với tự nhiên. Nó thuộc về văn hóa của lồi
người. Văn hóa Người.
Nội dung của khái niệm nhân văn phát triển gắn liền với sự phát
triển của tiến bộ xã hội qua mỗi thời đại của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng.
Trong cuộc sống, con người luôn muốn được tự do và hạnh phúc,
ln có khát vọng vươn tới cái văn hóa, cái đẹp. Song điều đó bị chi phối
bởi điều kiện lịch sử, chính trị-xã hội của từng quốc gia dân tộc, của từng
thời đại, đặc biệt là quan điểm, tư tưởng của giai cấp thống trị (khi xã hội
đã phân chia giai cấp). Điều đó cũng có nghĩa là, quan niệm nhân văn bị
chi phối sâu sắc bởi quan điểm giai cấp của giai cấp thống trị trong xã hội.
Bên cạnh việc thừa nhận những giá trị văn hóa tinh thần chung của nhân
loại, quan niệm nhân văn của mỗi thời đại, mỗi giai cấp mang những nét
đặc trưng riêng. Những giai cấp đối lập nhau có quan niệm nhân văn khác
nhau về bản chất và chính quan điểm giai cấp ấy ảnh hưởng trở lại đối với
những giá trị chung mà nhân loại đã thừa nhận.
Sự phát triển của tư tưởng nhân văn trong thời đại ngày nay đạt
đỉnh cao ở tư tưởng nhân văn cộng sản.
Xuất phát từ quan điểm thương yêu, tôn trọng giá trị nhân phẩm con
người, tin vào sức sáng tạo vô biên của con người, coi quyền con người

7


được phát triển tự do, hạnh phúc và lợi ích của con người là tiêu chuẩn
đánh giá sự tiến bộ của các quan hệ xã hội, tư tưởng nhân văn cộng sản
khắc phục những hạn chế của các tư tưởng nhân văn trước đó, chủ trương
phát triển mọi khả năng của con người và xã hội, thừa nhận và thực hiện
các ngun tắc bình đẳng, cơng bằng, nhân đạo trong quan hệ giữa con
người với nhau trên một cơ sở kinh tế - chính trị - xã hội hiện thực.

Tư tưởng nhân văn có q trình phát triển lâu dài trong lịch sử xã
hội loài người. Khi xã hội dần phát triển, con người ngày càng bị phân hóa
thành kẻ giàu người nghèo, đời sống vật chất, tinh thần giữa các tầng lớp
dân cư ngày càng cách xa nhau, giai cấp ra đời với hai giai cấp cơ bản: giai
cấp thống trị và giai cấp bị thống trị. Cũng từ đó, khát vọng về một cuộc
sống tốt đẹp hơn của giai cấp bị trị xuất hiện. Đó là mơ ước về một xã hội
khơng cịn nghịch cảnh bất cơng, bất bình đẳng, áp bức bóc lột trong quan
hệ con người; con người được u thương, tơn trọng, hịa thuận, đồn kết,
giúp đỡ nhau.
Những khát vọng về cuộc sống tự do và hạnh phúc như vậy của con
người, khi xã hội lồi người đạt đến một trình độ phát triển nhất định, một
trình độ tư duy nhất định đủ để nhận thức một cách khái quát về vai trò và
giá trị của con người, trở thành những giá trị nhân văn. Và như chúng ta
đều biết, các giá trị nhân văn ấy trước hết và cơ bản là của nhân dân lao
động, do họ là những người trực tiếp gánh chịu sự bất công nặng nề nhất,
cảm nhận sâu sắc nhất về sự bất bình đẳng trong xã hội; và của những giai
cấp tiên tiến của mỗi thời đại.
Tư tưởng nhân văn ra đời gắn liền với “cuộc đảo lộn tiến bộ lớn
nhất mà từ xưa đến nay nhân loại chưa từng thấy” (Ăngghen) - thời kỳ tiền
tư bản. (Những nhân tố của chủ nghĩa nhân văn đã từng tồn tại trong văn
học dân gian, trong văn hóa tinh thần của nhiều dân tộc thời cổ, nhưng phải
đến thời kỳ Phục Hưng - Tây Âu thì tư tưởng nhân văn mới xuất hiện như

8


một hệ thống quan điểm lý luận). Nó đưa ra những quan điểm triết học,
chính trị, đạo đức lấy con người là trung tâm. Tư tưởng nhân văn tư sản ra
đời đánh dấu bước phát triển mới về chất trong nhận thức xã hội về con
người. Nó địi hỏi phải trả lại con người cho tự nhiên (đối lập với thế giới

quan tôn giáo) để tự do phát triển, coi việc tận hưởng mọi hạnh phúc trần
tục là sự phát triển tồn diện của tính người.
Tư tưởng nhân văn tư sản khi mới ra đời biểu thị ý muốn hiểu biết
và sáng tạo, khát vọng chân lý và tự do cơng bằng, bình đẳng và bác ái,
lịng tin ở con người phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao
động đã góp phần giải phóng sản xuất, phát triển văn hóa, khoa học, tạo
điều kiện cho sự tiến bộ xã hội. Nó giữ vai trị chính chi phối mạnh mẽ đời
sống tinh thần xã hội.
Tư tưởng nhân văn tư sản có một quan niệm đầy đủ hơn so với chủ
nghĩa nhân bản (dù theo nghĩa cũ chủ nghĩa nhân văn được hiểu tương tự
chủ nghĩa nhân bản: đều là học thuyết về con người và trong đó con người
là trung tâm [77], [78]). Chủ nghĩa nhân bản tách rời con người khỏi những
quan hệ xã hội cụ thể về lịch sử. Nó quan niệm về con người một cách siêu
hình và trừu tượng. Đáng lẽ phải nghiên cứu con người trong các mối quan
hệ xã hội, giai cấp... thì chủ nghĩa nhân bản lại đưa ra khái niệm trừu tượng
“con người nói chung”. Tính chất thiển cận đó biểu hiện ở chỗ nó khơng có
khả năng gắn liền nhận thức luận với thực tiễn xã hội, ở chỗ không thể áp
dụng chủ nghĩa duy vật vào việc giải thích lịch sử của xã hội [80]. "Chủ
nghĩa nhân bản" với nội dung như vậy, so với quan điểm giáo lý kinh viện,
tôn giáo là một tiến bộ, song so với "chủ nghĩa nhân văn" cịn nhiều hạn
chế, vì không gắn con người với môi trường xã hội của nó.
Tổng hợp theo lịch sử và nội dung của khái niệm "chủ nghĩa nhân
văn" từ các sách xuất bản ở Việt Nam, từ khi học giả Đào Duy Anh đưa
vào Việt Nam lần đầu tiên năm 1932 trong sách "Giản yếu Hán - Việt từ

9


điển" (Nhà xuất bản Trường Thi - 26, Lê Văn Tánh Sài Gòn), cho đến Từ
điển Triết học, Từ điển Triết học giản yếu, Từ điển Tiếng Việt (qua các lần

tái bản và các soạn giả khác nhau)... tựu trung đều thống nhất giải thích
khái niệm " nhân văn" như sau:
Nghĩa cũ: Triết lý cho rằng con người là trung tâm của vũ trụ [77], [78].
Nghĩa chung: Văn hóa của lồi người (ít dùng) [10], [76], [79].
Với thuật ngữ: “Chủ nghĩa nhân văn”, Từ điển Tiếng Việt (in lần
thứ 2 và 3) [77], [78] của Nxb KHXH Việt Nam, giải thích như sau:
"a) Chủ trương phục hưng văn học và nghệ thuật cổ đại Hy Lạp và
La Mã, phát triển đầu tiên ở Ý, sau lan ra khắp châu Âu.
b) Vũ trụ quan của giai cấp tư sản đang lên hồi thế kỷ XIV đến thế
kỷ XVI, nhằm phá tan những trói buộc kinh tế phong kiến, mưu giải phóng
cho cá nhân, trên cơ sở thừa nhận giá trị của con người, tin tưởng vào sức
sáng tạo của con người”.
Khái qt lại, theo chúng tơi chủ nghĩa nhân văn có hai nội dung chính:
1. Đề cao những giá trị văn hóa tinh thần của con người.
2. Mưu giải phóng cho cá nhân tiến lên tự do làm mục đích cao
nhất, trên cơ sở thừa nhận giá trị của con người, yêu con người và tin vào
sức sáng tạo của con người.
Về khái niệm “nhân đạo”, theo Từ điển Tiếng Việt: đạo đức thể
hiện ở chỗ tôn trọng quyền lợi, giá trị, phẩm chất của con người [77].
Về “chủ nghĩa nhân đạo”, cũng theo từ điển trên: quan niệm nhân
sinh chủ trương phải yêu thương tất cả mọi người trong xã hội.
Ở một số Từ điển Tiếng Việt xuất bản các năm 1977, 1994 [77], [78]
và Từ điển Triết học giản yếu [81] quan niệm rằng: chủ nghĩa nhân đạo
cộng sản như chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Như vậy, khái niệm nhân văn
và khái niệm nhân đạo, chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo có một

10


lớp nghĩa nào đó trùng nhau tuy khơng hồn tồn đồng nghĩa. Chúng tơi

nhất trí với quan điểm của Viện sĩ Hồ Tơn Trinh: “chủ nghĩa nhân văn" có
nghĩa rộng hơn "chủ nghĩa nhân đạo" vì nó nói đến con người một cách
tồn diện, gắn con người với văn hóa, với vẻ đẹp của văn hóa lồi người từ
thời cổ đại, qua Phục Hưng và Ánh Sáng cho đến ngày nay. Cịn "chủ
nghĩa nhân đạo" thiên về khía cạnh đạo đức, về tình yêu thương quý trọng
con người gắn với khái niệm "nhân ái" (nhân ái: yêu thương con người
[76], [10]), và như vậy "chủ nghĩa nhân đạo" là một nội dung rất cơ bản
của "chủ nghĩa nhân văn", và "nhân ái" được quan niệm như một yếu tố
thuộc về nội dung của "chủ nghĩa nhân văn". Ở đây, trong luận án, chúng
tôi dùng khái niệm "Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh" như một khái niệm
bao trùm các khái niệm "chủ nghĩa nhân đạo", "nhân ái" cho phù hợp với
đối tượng nghiên cứu.
Giai cấp tư sản ra đời cùng với quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa
(TBCN), đòi hỏi sự giải phóng xã hội và con người để phát triển kinh tế-xã
hội, sử dụng tư tưởng nhân văn như một vũ khí tư tưởng phản kháng lại chế
độ phong kiến chuyên chế và giáo hội cùng hệ tư tưởng của nó. Tư tưởng
nhân văn tư sản góp phần quan trọng giải phóng con người và mang lại tiến
bộ xã hội ở thời đó. Do hạn chế của thời đại, của lập trường giai cấp tư sản,
tư tưởng nhân văn tư sản thiếu một cơ sở dân chủ vững chắc, dừng lại ở
tính duy lý, hình thức đối với đông đảo quần chúng nhân dân. Cuộc cách
mạng tư sản khơng mang lại, cũng khơng hướng tới sự giải phóng tồn diện
người lao động.Nó phá vỡ được xiềng xích áp bức của chế độ phong kiến và
giáo hội nhưng thay vào đó vẫn là một chế độ áp bức bóc lột người lao động
dưới những hình thức mới. Quá trình phát triển phương thức sản xuất
TBCN với những tiến bộ vượt bậc về kỹ thuật (sau đó là khoa học) đã đem

11


lại sự giải phóng về cơ bắp cho người lao động nhưng sự áp bức bóc lột về

kinh tế, chính trị vẫn còn.
Sự phát triển xã hội dựa trên quan hệ sản xuất (QHSX) tư hữu tư
bản đã ngày càng làm cho con người phát triển phiến diện: trở thành thứ
cơng cụ và hàng hóa cho nhà tư bản kiếm lời (phía người lao động), trở
thành nơ lệ của vật chất (phía nhà tư bản). Sự lệ thuộc của con người vào
những quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản (CNTB) mâu thuẫn với chính
lý tưởng của tư tưởng nhân văn tư sản và chứng minh sự trừu tượng, khơng
triệt để của nó, với tư cách là lý luận và phương pháp về con đường giải
phóng nhân loại.
Nguyên nhân chính của sự hạn chế của tư tưởng nhân văn tư sản là
do: Con người mà tư tưởng nhân văn tư sản đặt ở vị trí trung tâm chỉ bó
hẹp ở con người tư sản, đông đảo quần chúng nhân dân lao động bị đặt ra
ngồi khn khổ của sự giải phóng. Họ tiếp tục bị chà đạp, bị áp bức bóc
lột, chỉ có sự thay đổi ở chỗ: kẻ áp bức bóc lột họ trước đây là phong kiến,
giáo hội, nay thay bằng nhà tư bản. Tư tưởng nhân văn tư sản thực chất là
chủ nghĩa cá nhân tư sản.
Khác về chất với tư tưởng nhân văn tư sản là tư tưởng nhân văn
cộng sản. Từ khi tư tưởng nhân văn cộng sản ra đời những năm 40 của thế kỷ
XIX, nhất là từ cuộc Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại giành thắng lợi đã
tạo nên bước ngoặt lịch sử đối với sự nghiệp giải phóng lồi người. Tư
tưởng nhân văn cộng sản phản ánh quyền lợi và những giá trị văn hóa tinh
thần của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Và mang tính hiện thực
khi nó khơng những thừa nhận và nâng cao giá trị của con người, mà còn
chủ trương chiến đấu giải phóng con người khỏi mọi áp bức, đưa con người
đến chỗ thắng được tự nhiên, làm chủ vận mệnh của mình [77].

12


Trên cơ sở quan điểm cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản

chất con người là tổng hịa những quan hệ xã hội" [37, 11], do vậy, muốn
giải phóng con người và tạo điều kiện cho con người phát triển thì phải
thay đổi những quan hệ xã hội kìm hãm, trói buộc con người. Nghĩa là xóa
bỏ quan hệ bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị, tạo lập hệ thống những
quan hệ xã hội mới tốt đẹp, mối quan hệ bình đẳng, tự do giữa con người
với con người. Trong toàn bộ các quan hệ xã hội ấy, QHSX giữ vai trị chi
phối. Nó là quan hệ kinh tế cơ bản của hình thái kinh tế xã hội. Muốn xóa
bỏ QHSX, quan hệ kinh tế, những điều kiện kinh tế-xã hội của phương
thức sản xuất TBCN trói buộc, kìm hãm sự phát triển của con người thì
phải làm cách mạng, xây dựng hồn cảnh thực sự hợp tính người. Trong xã
hội tư sản, lực lượng xã hội có khả năng xóa bỏ quan hệ sản xuất TBCN nguồn gốc của mọi sự đau khổ của người lao động - là giai cấp cơng nhân.
Chỉ có họ mới tiến hành được cuộc cách mạng vì lợi ích của chính mình và
cũng vì lợi ích của tất cả mọi người lao động trong xã hội, của toàn nhân
loại và xây dựng một xã hội mới, trong đó sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Việc vạch
ra nguồn gốc, bản chất của sự áp bức bóc lột người lao động trong các xã
hội dựa trên chế độ sở hữu tư nhân những tư liệu sản xuất chính, từ đó chỉ
ra điều kiện vật chất căn bản nhất cho sự giải phóng cũng như lực lượng
giải phóng, mục tiêu giải phóng, đối tượng giải phóng đã mang lại cho tư
tưởng nhân văn cộng sản tính khoa học, tính cách mạng và tính hiện thực.
Vì vậy tư tưởng nhân văn cộng sản là đỉnh cao của tư tưởng nhân văn của
xã hội hiện đại.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang bản chất nhân văn cộng sản,
theo chúng tơi nó được biểu hiện qua những nội dung cơ bản sau:
1. Yêu con người. Hồ Chí Minh yêu con người với ý thức của người
cộng sản chân chính, trước hết là quần chúng lao khổ, khơng phân biệt

13



chủng tộc, màu da. Người khẳng định: “lòng thương yêu của tôi đối với
nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi” [59, 47]. Và con người
trong quan điểm của Hồ Chí Minh khơng chung chung mà rất cụ thể, đó là
tồn thể nhân loại tiến bộ, là đồng bào, là người công nhân, người nông dân
và những người lao động khác, là cụ già, em bé, chị phụ nữ; là mỗi con
người của từng nhóm xã hội, giai cấp nhất định - những con người cụ thể
với cuộc sống của họ. Đấu tranh mưu cầu cuộc sống tự do, hạnh phúc cho
người lao động là mục đích cuối cùng và nhất quán trong mọi suy nghĩ và
hành động của Hồ Chí Minh. Trong tờ báo Le Paria (số 1) Hồ Chí Minh đã
khẳng định mục đích: giải phóng loài người [44, 456], cho đến Di chúc,
trước lúc tạ thế vẫn canh cánh nghĩ tới việc chăm lo con người. Người căn
dặn khi chiến tranh kết thúc: “đầu tiên là công việc đối với con người” [55,
503].
Tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ ý thức thương yêu con người
và nhằm một mục đích cuối cùng: đem lại lợi ích cao nhất cho con người.
Có thể nói: vấn đề đem lại tự do, hạnh phúc cho người lao động và xây
dựng, rèn luyện con người bao giờ cũng là trung tâm của tư duy, mục tiêu
của mọi hoạt động của Hồ Chí Minh.
2. Tin vào bản chất tốt đẹp của con người và sức mạnh của con
người. Hồ Chí Minh tin tưởng sâu sắc vào bản chất tốt đẹp của con người.
Người cho rằng: Người ta sinh ra tính đều tốt cả, nhưng về sau, do ảnh
hưởng của gia đình, xã hội mà dần dần mỗi người một khác, ví như trong một
bàn tay có ngón ngắn ngón dài và trong mỗi con người đều có thiện, ác ở
trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như
hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi [55, 558]. Chính vì quan niệm đó
mà Người trân trọng cái phần thiện, dù nhỏ nhất, ở mỗi con người và có
lịng khoan dung rộng lớn.

14



Hồ Chí Minh đặt niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân đó chính là chủ thể của mọi giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người của dân tộc ta khởi đầu
với phương tiện vật chất hết sức thô sơ: gậy tầm vông, mã tấu, bom ba
càng... khi bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến, khi bắt tay xây dựng
miền Bắc thì chủ yếu từ một nền nông nghiệp manh mún, lạc hậu... nhưng
dân tộc ta đã anh dũng chiến đấu, phấn đấu đạt được những thắng lợi to
lớn. Có được điều ấy, chính bởi Hồ Chí Minh đã tìm ra sức mạnh của quần
chúng nhân dân. Người nói: Con người là vốn quý nhất! Con người được
giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả.
3. Kính trọng nhân dân. Bình đẳng trong quan hệ người - người
trong xã hội. Ý thức và sự kính trọng nhân dân ở Hồ Chí Minh được biểu
thị sâu sắc qua hoạt động hàng ngày của Người. Ở đỉnh cao nhất của quyền
lực, lại có uy tín tuyệt đối, Hồ Chí Minh vẫn khơng bao giờ áp đặt ý kiến
của mình buộc cấp dưới phải tuân theo. Người chân thành lắng nghe ý kiến
của nhân dân, của cán bộ, chắt lọc từ các ý kiến ấy những điểm đúng,
Người nghiêm túc trả lời những thư mà Người nhận được, Người rất trân
trọng thành tích chiến đấu và lao động của nhân dân, dù là những “việc tốt”
nhỏ nhất của những người bình thường nhất. Người tin tưởng tuyệt đối vào
trí tuệ nhân dân. Người khẳng định: “Dân rất thông minh. Quần chúng kinh
nghiệm, sáng kiến rất nhiều. Chỉ cần mình có biết học hay biết lợi dụng mà
thôi” [50, 62]. Người tin rằng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vơ cùng
tận, dù việc khó khăn đến đâu nhân dân cũng có thể lo liệu được. Khéo tổ
chức, khéo lãnh đạo thì lực lượng ấy có thể xoay trời chuyển đất. Chính
việc chúng ta đánh giặc và xây dựng xã hội mới bằng những việc làm mn
hình mn vẻ của hàng chục triệu con người, chứ không phải chỉ bằng một
vài việc làm nổi bật và vang dội của một số cá nhân anh hùng là minh
chứng lịch sử cho tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịng kính trọng nhân dân của Hồ

15



Chí Minh cịn được biểu thị ở việc địi hỏi đảng viên, cán bộ phải thành
khẩn tự phê bình trước nhân dân và khuyến khích nhân dân phê bình
mình... Nhìn tổng qt, lịng kính trọng ấy biểu hiện sự tin tưởng nhân dân,
thực sự coi nhân dân vĩ đại, thực sự khẳng định và thực hiện sự bình đẳng
giữa người với người.
Hồ Chí Minh coi việc giữ lời hứa với nhân dân là một trong những
biểu hiện của thái độ kính trọng nhân dân. Khơng giữ lời hứa là khinh miệt,
coi thường nhân dân và tự làm xói mịn lịng tin yêu của nhân dân đối với
bản thân cán bộ, đối với Đảng, Nhà nước. Bệnh hình thức chủ nghĩa, làm
qua loa chiếu lệ là một trong những biểu hiện của việc không giữ lời hứa,
coi thường nhân dân mà hậu quả của nó khơng gì khác hơn là làm xói mịn,
khủng hoảng lịng tin của nhân dân.
Một u cầu của kính trọng nhân dân là: mọi chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước phải xuất phát từ nhu cầu, quyền lợi, lợi ích của
quần chúng. Khi xây dựng chủ trương, chính sách phải trên cơ sở “tỏ rõ cái tư
tưởng và lòng ước ao của quần chúng” [48, 306].
4. Sử dụng sức mạnh của nhân dân vì lợi ích của nhân dân. Xuất
phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của quần chúng
trong lịch sử, Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp cách mạng chỉ có thể
thắng lợi nếu sức mạnh của nhân dân được huy động và biết sử dụng để
phát huy sức mạnh tối đa của nó.
Sử dụng sức mạnh của nhân dân vì lợi ích của nhân dân theo tư tưởng
của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ đem lại những
lợi ích chính trị, kinh tế cho nhân dân, mà còn đem lại cuộc sống tinh thần
phong phú lành mạnh - một sự phát triển toàn diện - bởi chỉ trong quá trình
nhân dân hoạt động thực tiễn cách mạng, sức mạnh của nhân dân mới được
bộc lộ và phát triển. Quan điểm này rất rõ ràng trong tư tưởng của Hồ Chí


16


Minh. Trong thư từ biệt các bạn cùng hoạt động, trước khi bí mật rời Pari
sang nước Nga Xơ viết, tháng 6 năm 1923, Người viết: “Đối với tôi, câu trả
lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn
kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập" [44, 192].
Như vậy, quần chúng nhân dân không chỉ đơn thuần là đối tượng
giải phóng mà họ cịn phải đồng thời là chủ thể giải phóng. Họ cần được tôi
luyện, thử thách, trưởng thành trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi của chính
mình. Sử dụng sức mạnh của nhân dân vì lợi ích của nhân dân là biểu hiện
tập trung của tư tưởng: “Tất cả vì con người, do con người”, “con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng”.
5. Chăm lo bồi dưỡng, phát triển tồn diện con người, đồng thời
địi hỏi sự phấn đấu vươn lên của mỗi người. Hồ Chí Minh chú trọng
công tác giáo dục con người, những con người “vừa hồng vừa chuyên”.
Người dùng khái niệm: “Con người hoàn toàn” để chỉ con người phát
triển toàn diện. “Con người hoàn tồn” ở người lao động chân tay và lao
động trí óc được xác định cụ thể: người lao động chân tay mà văn hóa
kém, người lao động trí óc mà khơng liên hệ với lao động chân tay là
khơng hồn toàn, chỉ được một nửa. Người lao động chân tay cũng phải
có văn hóa, phải biết lao động trí óc, người lao động trí óc cũng phải biết
lao động chân tay mới là người lao động hoàn toàn, tiến tới “lao động chân
tay và trí óc hợp lại trong một người” [51, 395].
Để trở thành con người có ích, “con người hồn tồn” tùy từng tầng
lớp, giai cấp, cơng việc mà Hồ Chí Minh chỉ ra những tiêu chuẩn cụ thể ở
từng giai đoạn cách mạng vừa sâu sắc, vừa cụ thể. Và Người đòi hỏi tự mỗi
người phải biết cố gắng phấn đấu.
Trên đây là một số nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh. Qua đó chúng ta thấy con người được Hồ Chí Minh xem xét trong


17


các mối quan hệ xã hội lịch sử cụ thể của nó, tin tưởng sâu sắc vào bản chất
tốt đẹp và sức mạnh của con người, yêu thương, bồi dưỡng và địi hỏi ở
mỗi người vì sự tiến bộ, sự phát triển tồn diện của con người do chính sức
mạnh và lý tưởng của con người quyết định. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh góp phần quyết định sự phát triển xã hội Việt Nam theo định hướng
XHCN; giải quyết tồn diện, sâu sắc, vững chắc vấn đề giải phóng người
lao động, nhân dân Việt Nam cũng như giải phóng các dân tộc thuộc địa.
Hồ Chí Minh khơng nói về chủ nghĩa nhân văn nhưng tư tưởng và
cuộc đời Người sâu đậm bản chất nhân văn. Nếu như thực chất của tư
tưởng nhân văn là giải quyết vấn đề tự do, hạnh phúc của con người, sự
phát triển tự do và toàn diện của mỗi cá nhân và tất cả các cá nhân thì Hồ Chí
Minh với tư tưởng nhân văn cộng sản của mình đã đưa ra câu trả lời cần
phải làm gì và làm như thế nào cho người lao động Việt Nam đạt được mục
đích đó [72]. Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức là vấn
đề biểu hiện tập trung nhất, sinh động nhất và sâu sắc nhất tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh.
Người lao động Việt Nam bị áp bức ở đây trước hết là giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và những người lao động khác. Họ là lực lượng cơ
bản nhất của xã hội - sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần để xã hội tồn
tại và phát triển, chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư nhưng họ đều là những
người bị áp bức bóc lột hai lần, với tư cách là dân của một nước thuộc địa
và với tư cách là người lao động dưới chế độ phong kiến, thực dân. Trong
các giai cấp bị áp bức, Hồ Chí Minh hướng tới giai cấp cơng nhân trước
hết, vì đó là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới tiến bộ, giai
cấp tiên tiến nhất của thời đại có sứ mệnh giải phóng mình và giải phóng
nhân loại khỏi QHSX - quan hệ xã hội TBCN, xây dựng QHSX - quan hệ

xã hội mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, phù hợp
với bản tính con người. Giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp

18


giải phóng người lao động bị áp bức cũng như tất cả những người bị áp bức
khác.
Như thế nào là "bị áp bức"? Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, áp
bức là dùng quyền lực chính trị, luật pháp, kinh tế... và vũ lực để đè nén và
tước đoạt quyền tự do của người khác, giai cấp khác, dân tộc khác, quốc gia
khác, bắt họ phải phục tùng, bất chấp đạo lý về quyền con người và quyền cơ
bản của dân tộc, quốc gia [82]. Như vậy, giải phóng người lao động Việt Nam
bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là đưa họ cùng tồn thể dân
tộc ra khỏi tình trạng bị nước ngồi nơ dịch, bị phụ thuộc, ra khỏi ách thống
trị và bóc lột giai cấp. Tiếp đó, giải phóng họ ra khỏi đói nghèo, từng bước
vững chắc đến hạnh phúc, tự do trong Tổ quốc Việt Nam độc lập và
XHCN. Và có một nội dung quan trọng khác, theo chúng tôi rất đậm nét
trong tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí
Minh, đó là: khơng chỉ có áp bức dân tộc, áp bức giai cấp giữa các dân tộc,
các giai cấp đối kháng mà ngay trong đời sống xã hội khơng có giai cấp đối
kháng, khơng có áp bức giai cấp vẫn tồn tại khả năng "áp bức" và "bị áp bức"
giữa những con người khi sự lạm dụng quyền lực (chính trị, kinh tế, văn
hóa...) của những người nắm quyền lực không được ngăn chặn, điều chỉnh kịp
thời, hiệu quả của pháp luật, của đạo đức... Nếu hiện tượng đó phổ biến và
trầm trọng sẽ xảy ra khả năng "tự diễn biến hịa bình" từ hiện tượng áp bức
sang chế độ áp bức. Như vậy, tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam
bị áp bức khơng chỉ có ý nghĩa trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
mà nó vẫn giữ nguyên giá trị thời sự trong cách mạng XHCN - quá trình
xây dựng CNXH.

1.2. NGUỒN GỐC TƯ TƯỞNG GIẢI PHÓNG NGƯỜI LAO ĐỘNG
VIỆT NAM BỊ ÁP BỨC TRONG TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH

19


Trên đây chúng tôi đã phác họa một số điểm chính q trình phát
triển tư tưởng nhân văn trong lịch sử mà tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
thuộc dịng tư tưởng nhân văn cộng sản nhằm làm sáng tỏ phần nào nguồn
gốc tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Người.
Vấn đề nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh đã được các nhà khoa học
khẳng định. Theo chúng tôi, nguồn gốc tư tưởng giải phóng người lao động
Việt Nam bị áp bức khơng nằm ngồi nguồn gốc chung đó. Song, từ nguồn
gốc chung, chúng tơi chú ý tìm hiểu những khía cạnh giữ vai trị trực tiếp
tác động hình thành nên tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị
áp bức của Người [60, 79].
Tìm hiểu nguồn gốc tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam
bị áp bức của Hồ Chí Minh chúng tơi chú ý đến những yếu tố với tính chất
là cơ sở khách quan góp phần làm nên nội dung và khơng thể thiếu vai trị
chủ thể của tư tưởng. Bởi vì tư tưởng do con người sáng tạo ra trên cơ sở
thực tiễn, trên cơ sở kế thừa những tư tưởng đã có, dầu cho đó là một nhân
vật lịch sử kiệt xuất thì sự trưởng thành về tư tưởng - nhận thức cũng là
một quá trình, và chịu sự tác động có tính quyết định của phẩm chất của
chủ thể.
Từ những lý do trên, chúng tôi xác định những nguồn gốc trực tiếp
của tư tưởng giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức của Hồ Chí
Minh là:
1.2.1. Vấn đề giải phóng con người trong truyền thống tư tưởng
dân tộc
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, vấn đề con người và cuộc sống

của con người đã được đặt ra từ rất sớm. Các triều đại phong kiến (đặc biệt
từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX) đều chú trọng giải quyết vấn đề này.

20


Khi dân tộc độc lập, tự chủ, triều đại phong kiến ở vào giai đoạn
thịnh trị, có tinh thần dân tộc, gắn liền với nhân dân, thi hành chính sách
thân dân, khoan thư sức dân... khi đó đời sống con người tương đối dễ chịu.
Nhưng ngay cả ở những giai đoạn ấy, vấn đề làm sao cho con người có
được cuộc sống tốt đẹp hơn, được giải thoát khỏi những niềm đau nỗi khổ
của cuộc đời (sinh, lão, bệnh tử - theo quan điểm của Phật giáo) đã được
đặt ra. Về vấn đề này, cách giải quyết của hai vị vua đời Trần: Trần Thái
Tông (1218-1277) và Trần Nhân Tông (1258-1308) là tiêu biểu. Theo hai
ông, hạnh phúc của con người không ở quyền uy, phú quý, dù ở ngôi vua
và hạnh phúc của con người có thể có được ngay tại trần thế. Theo Trần
Thái Tông, con người chỉ có thể vượt ra khỏi nỗi khổ của cuộc đời bằng
cách trừ bỏ tham, sân, si, coi tất cả đều là không, giữ cho cái tâm trong
sáng, phẳng lặng, không bị ngoại cảnh chi phối ngay tại trần thế [69].
Sau thời kỳ thịnh trị, triều đại phong kiến nào cũng đều bị suy đốn.
Nhà cầm quyền dần xa dân, xa vào lối sống hưởng lạc, tranh giành quyền
bính, ăn chơi đàng điếm, vơ vét cho bản thân. Họ trở thành đối lập với nhân
dân. Do tình trạng rối loạn, suy sụp của xã hội mà sản xuất đình đốn, xã hội
loạn ly, khả năng chống cự của con người trước thiên tai dữ dội gần như bị
tước mất. Ở những thời điểm đó, đời sống của nhân dân cay đắng, bấp
bênh. Từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Việt
Nam ở vào giai đoạn khủng hoảng sâu sắc. Nội chiến giữa Trịnh - Nguyễn,
phong trào Tây Sơn và phe lũ Nguyễn Ánh, nạn đói, nạn dịch, nạn lụt
hồnh hành. Nơng dân oằn lưng dưới sự áp bức bóc lột của vua quan, địa
chủ. Khơng chỉ bị áp bức bóc lột về kinh tế, người dân còn phải chịu đựng

mặt bảo thủ, tiêu cực, nghiệt ngã cố hữu của hệ tư tưởng chính thống mà
Nho giáo là nòng cốt (từ thế kỷ XV trở đi) đè nặng lên cuộc sống tinh thần
con người, càng thôi thúc con người suy nghĩ về các vấn đề của bản thân
mình. Và vấn đề thân phận con người, giải phóng con người đã bùng cháy

21


thành các cuộc khởi nghĩa nông dân, được phản ánh trong văn học nghệ
thuật và trong tư tưởng. Quan niệm “dân là gốc”, tư tưởng thân dân, dưỡng
dân được biểu hiện rõ nét qua lời trình tâu của Nguyễn Trãi đối với vua Lê
đồng thời cũng là lời cảnh báo về thực trạng đời sống nhân dân, đời sống
xã hội: “Dám mong bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn ni mn dân,
khiến cho trong thơn cùng xóm vắng khơng cịn một tiếng hờn giận ốn
sầu”. Đó chính là cái gốc cho mọi chính sách của nhà nước độc lập để bảo
vệ nền độc lập, cải thiện đời sống cho nhân dân.
Ước mơ về giải phóng cá nhân cũng tự phát xuất hiện.
Những tài năng, cá tính, số phận ý thức rõ về cá nhân bản thân, khát
khao thoát khỏi cảnh bế tắc, sự o ép nghiệt ngã của giáo điều Nho giáo, dồn
nén đến độ bật lên thành khát vọng vượt ra khỏi hiện thực đương thời
(Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Cơng Trứ...), nhưng chính bản thân họ vẫn mang
nặng hệ tư tưởng Nho giáo nên bế tắc, khơng tìm thấy con đường giải phóng
ngay tại xã hội đương thời mà tìm cách thốt ly xã hội, vì vậy ước mơ giải
phóng chỉ có thể mang sắc thái tư tưởng Lão trang nhiều hay ít mà thơi.
Đời sống cùng quẫn của người nghèo, sự tương phản giữa giàu và
nghèo trong xã hội, tình yêu thương con người, khát vọng của con người
muốn thoát khỏi sự nghiệt ngã của đời sống hiện thực, khỏi những ràng
buộc của lễ giáo phong kiến, muốn có hịa bình, hạnh phúc, muốn thốt
khỏi ách áp bức bóc lột của những tên quan đồi bại... đã được phản ánh
trong những tác phẩm văn học ở nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ

XIX. Đó là các tác phẩm: Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Kim Vân
Kiều... Nhưng tất cả chỉ là tiếng thở dài của những số phận con người mà
khơng có cách gì thấy được con đường giải phóng con người.
Tóm lại, trong hoàn cảnh đất nước độc lập tự chủ nhưng xã hội
phong kiến ở vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, vấn đề thân phận con

22


người và mưu cầu cuộc sống hạnh phúc cho con người, giải phóng con
người đã nổi lên bức xúc; vấn đề khẳng định cá nhân và giải phóng cá nhân
cũng đã xuất hiện nhưng đều bế tắc, khơng có câu trả lời đúng đắn bởi lẽ
không được soi sáng bởi một hệ tư tưởng cao hơn hệ tư tưởng phong kiến.
Nó dừng lại ở tư tưởng đồn kết nội bộ dân tộc, khoan thư sức dân, xây
dựng một xã hội trong đó mọi người đều sống yên vui, mà chưa thể vạch ra
con đường giải phóng triệt để con người vì khơng đụng chạm đến căn
ngun cơ bản nhất, sâu xa nhất của nỗi khổ của con người là cơ sở kinh tế
- xã hội của chế độ phong kiến.
Khi đất nước bị xâm lược, lịch sử giữ nước hàng ngàn năm của dân
tộc đã khẳng định tiền đề: Vấn đề con người, vấn đề cá nhân phụ thuộc,
hòa nhập tất yếu vào vấn đề dân tộc. Hiện tượng Nguyễn Cơng Trứ là một
minh chứng điển hình (Nguyễn Cơng Trứ - thế kỷ XIX - đã từng làm quan
to trong triều, đã từng xin cáo quan vì chán nản trước thời cuộc, bi quan cho
thân phận con người, muốn tìm sự giải thoát cá nhân bằng cách thoát ly xã
hội nhưng khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta (1858) Nguyễn Cơng
Trứ khi đó đã ngồi 80 tuổi, dâng sớ xin theo việc quân chống giặc giữ
nước).
Nửa cuối thế kỷ XIX và kéo dài sang thế kỷ XX, tư duy Việt Nam
chủ yếu hướng vào giải quyết vấn đề dân tộc (trước sự xâm lược của thực
dân Pháp 1858) mà không đặt vấn đề con người, vấn đề cá nhân thành

những vấn đề riêng cần giải quyết. Tuy nhiên, vấn đề ấy đã xuất hiện một
cách bức xúc trong suốt nhiều thế kỷ trước khi đất nước bị xâm lược, bởi
vậy, mọi tư tưởng, đường lối về vấn đề dân tộc đều phải đồng thời giải
quyết cả vấn đề giải phóng con người, giải phóng cá nhân sau khi đã chiến
thắng quân xâm lược. Sức lôi cuốn của mỗi phong trào, mỗi tổ chức giải

23


phóng dân tộc tùy thuộc rất lớn vào đường lối phát triển đất nước, giải
phóng con người, giải phóng cá nhân sau khi đã giành được độc lập.
Đầu thế kỷ XX, các sĩ phu yêu nước (tiêu biểu là Phan Bội Châu)
đã vượt qua hệ tư tưởng phong kiến, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản trên
cơ sở tiếp thu phần tích cực, tiến bộ của chủ nghĩa yêu nước truyền thống
thực hiện một bước tiến về chất trong lịch sử tư tưởng nước ta về vấn đề con
người.
Phan Bội Châu đã nêu lên một cách cụ thể những quyền hạn và
vinh dự mà con người sẽ được hưởng trong xã hội tương lai, trên cơ sở duy
tân đất nước và mở mang dân trí, dân khí, dân quyền. Ông nêu lên một tư
tưởng đặc sắc về dân quyền, rằng “vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ...”,
bao nhiêu “việc chính trị đều do cơng chúng quyết định” [6, 264]. Quan
điểm của ông về một xã hội trong đó tất cả mọi người được no ấm, được
học hành, được bình đẳng, được tự do, một xã hội mà trong đó mọi người
sẽ thương yêu, đùm bọc nhau (dưới dạng lý tưởng và lý thuyết) thấm đượm
tinh thần yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo tích cực, vượt xa thuyết thân dân
của Nho giáo [68, 22-23].
Tựu trung, cho đến thế hệ Phan Bội Châu vấn đề con người, giải
phóng con người mà lịch sử đã đặt ra chưa được giải quyết một cách khoa
học, cách mạng. Sự kiểm nghiệm của thực tiễn đã chứng minh các học
thuyết mà thế hệ ấy tiếp thu và vận dụng không đáp ứng được nhu cầu giải

phóng con người về mặt hệ tư tưởng.
Kinh nghiệm lịch sử đó là một trong những tiền đề khách quan đưa
đến việc Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng giải phóng con người của chủ
nghĩa Mác-Lênin.

24


Cần nhấn mạnh rằng, chính vấn đề con người, giải phóng con
người, giải phóng cá nhân đã được đặt ra trong tư tưởng truyền thống dân
tộc là nền tảng tư tưởng sâu rộng Hồ Chí Minh kế tục và phát triển sau này.
1.2.2. Thực trạng xã hội Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình trong và
ngồi nước có những thay đổi lớn. Trên phạm vi thế giới, lịch sử loài người
đã chuyển sang giai đoạn mới: CNTB chuyển sang giai đoạn CNĐQ, chủ
nghĩa xã hội khoa học kết hợp với phong trào công nhân, phong trào giải
phóng dân tộc nhất định phải gắn với phong trào cách mạng thế giới. Trong
nước, vua quan nhà Nguyễn đồi bại, nhu nhược, đầu hàng trước sự xâm
lược của thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ hai
tròng” của thế lực thực dân và phong kiến. Đời sống người lao động dưới
chế độ phong kiến suy tàn vốn đã cơ cực nay càng cơ cực bội phần. Thực
dân Pháp thực hiện chính sách cai trị tàn bạo: Về kinh tế: Vơ vét tài nguyên
qua các cuộc khai thác thuộc địa lần 1, lần 2. Vơ vét tài sản của đồng bào ta
qua chính sách sưu thuế nặng nề, vô lý. Sản xuất nông nghiệp - nguồn thu
nhập chính của dân tộc ta bị thu hẹp, tình trạng mất mùa, lao dịch, phu
phen liên miên... làm cho dân ta kiệt lực. Về chính trị-xã hội: Thực hiện
chính sách ngu dân, bạo lực, rượu cồn, thuốc phiện và nhà thổ để đàn áp và
làm tha hóa dân ta; chúng bóp chết mọi quyền tối thiểu của con người:
quyền sống, quyền đi lại, quyền tự do báo chí, tự do hội họp... đã gây ra vô

vàn tội ác man rợ đối với nhân dân ta. Đại đa số người Việt Nam bị đối xử
như nơ lệ. Trong đó, giai cấp nông dân phải gánh chịu sự áp bức bóc lột
nặng nề nhiều hơn cả. Giai cấp cơng nhân được hình thành chủ yếu từ đội
qn những người nơng dân bị cướp hết ruộng đất, tài sản... đổ về các nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền... Và ở đây, họ lao động nặng nhọc, bị đánh đập, cắt
lương, đuổi việc một cách vô lý. Cuộc sống bần cùng của những người công

25


×