HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT
vèn x· héi cña ngêi lao ®éng
trong chuyÓn ®æi cÊu tróc nghÒ nghiÖp
ë n«ng th«n ®ång b»ng s«ng hång
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÃ HỘI HỌC
Mã số: 62 31 03 01
HÀ NỘI 2015
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. LÊ NGỌC HÙNG
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông thôn Việt Nam có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Những năm qua Đảng, Nhà nước
đã luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp, nông
thôn, nâng cao đời sống của nông dân. Nghị quyết Đại hội Đảng qua các
thời kỳ đều nhấn mạnh vai trò và các giải pháp phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Quốc hội, Chính phủ đã ban hành nhiều luật, cơ chế, chính
sách thực hiện chủ trương của Đảng. Một số chương trình, cơ chế,
chính sách đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và có tác động tốt đến nông
nghiệp, nông dân, nông thôn thay đổi xu hướng phát triển của kinh tế
nông thôn. Một trong những xu hướng của quá trình chuyển đổi cấu trúc
kinh tế ở khu vực nông thôn trong thời gian qua là việc đa dạng hóa sản
xuất, phát triển nông nghiệp toàn diện và phát triển ngành nghề phi
nông nghiệp. Trong quá trình đó người lao động chuyển đổi nghề
nghiệp của họ và đồng thời làm biến đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông
thôn. Vấn đề nghiên cứu đặt ra ở đây là vốn xã hội của người lao động
ở nông thôn biểu hiện như thế nào trong bối cảnh chuyển đổi cấu trúc
nghề nghiệp và có ảnh hưởng như thế nào đối với sự chuyển đổi nghề
nghiệp của người lao động?
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi cấu trúc
nghề nghiệp của người lao động. Các nghiên cứu ở góc độ kinh tế học
tập trung lý giải sự phát triển các ngành nghề, đóng góp của việc
chuyển đổi đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn
nhưng chưa đi sâu tìm hiểu, đo lường các tác động, đóng góp của vốn xã
hội. Chính vì vậy, rất nhiều đặc điểm, tính chất và các chiều cạnh của
vốn xã hội bị coi nhẹ hoặc chưa được xem xét. Trong khi đó, nhiều
nghiên cứu chỉ ra rằng, các nhân tố xã hội, trong đó nổi bật là vốn xã hội
có những đóng góp quan trọng đối với quá trình chuyển đổi kinh tế nói
chung và cấu trúc xã hội nghề nghiệp ở nông thôn. Việc tập trung
nghiên cứu lý luận và thực tiễn chuyên sâu từ góc độ xã hội về chủ đề
này là rất quan trọng và cần thiết về mặt lý luận và thực tiễn để nâng
cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi trong quá trình xây dựng và
thực hiện các chính sách thúc đẩy chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp,
nhằm góp phần phát triển nông nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống
2
nông dân. Trước tình hình như vậy, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu
cho luận án tiến sỹ chuyên ngành xã hội học là: “Vốn xã hội của
người lao động trong chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn
Đồng bằng sông Hồng".
2. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu của luận án
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Vốn xã hội của người lao
động trong chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn Đồng bằng
sông Hồng (qua nghiên cứu trường hợp tỉnh Hải Dương).
2.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của đề tài là: Người lao động ở nông thôn.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án sẽ làm rõ quá trình chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông
thôn thông qua nghiên cứu 01 trường hợp điển hình (tỉnh) thuộc Đồng
bằng sông Hồng. Luận án sẽ tìm hiểu thực tế vốn xã hội của người lao
động và cách thức người lao động vận dụng vốn xã hội để thay đổi nghề
nghiệp việc làm của họ.
Phạm vi không gian: luận án tiến hành khảo sát tại 04 xã thuộc 02
huyện (Cẩm Giàng và Ninh Giang) tỉnh Hải Dương.
Phạm vi thời gian là từ năm 2000 đến nay, nhất là giai đoạn từ
năm 2008 đến nay, đây là giai đoạn đẩy mạnh quá trình thực hiện chính
sách phát triển nông nghiệp và nông thôn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu có hệ thống về quá trình người lao động ở nông thôn
vận dụng vốn xã hội để thay đổi nghề nghiệp, việc làm của họ; đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực của vốn xã hội
trong quá trình chuyển đổi, phát triển nghề nghiệp của người lao động
ở nông thôn Đồng bằng sông Hồng, cụ thể là trường hợp tỉnh Hải
Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận để nghiên cứu quá trình người lao động
vận dụng vốn xã hội nhằm thay đổi nghề nghiệp, việc làm trong bối
cảnh chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn.
Phân tích quá trình chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn
bối cảnh vĩ mô trong đó người lao động thay đổi nghề nghiệp việc
làm.
3
Tìm hiểu thực tế vốn xã hội của người lao động ở nông thôn qua
khảo sát tại tỉnh Hải Dương.
Làm rõ quá trình người lao động vận dụng vốn xã hội để thay
đổi, phát triển nghề nghiệp, việc làm trong bối cảnh chuyển đổi cấu
trúc nghề nghiệp ở nông thôn.
Đề xuất giải pháp nhằm phát huy tác động tích cực, hạn chế tác
động tiêu cực của vốn xã hội đối với quá trình chuyển đổi nghề nghiệp,
việc làm của lao động trong bối cảnh chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp
ở nông thôn hiện nay và thời gian tới.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Sự chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn diễn ra như thế
nào trong giai đoạn vừa qua, đặc biệt là từ 2008 đến nay?
Thực trạng vốn xã hội của người lao động trong bối cảnh
chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn hiện nay như thế nào?
Người lao động vận dụng vốn xã hội như thế nào để chuyển đổi
nghề nghiệp của họ, từ đó dẫn đến chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở
nông thôn?
Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến vốn xã hội của người lao
động trong chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn?
Có thể đưa ra những giải pháp nào để phát triển vốn xã hội và
kiểm soát những ảnh hưởng bất lợi của vốn xã hội của người lao
động?
5. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: Cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn chuyển
đổi từ cấu trúc nghề nghiệp nặng về nông nghiệp sang cấu trúc nghề
nghiệp phi nông dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng trong sản
xuất, kinh doanh ở nông thôn.
Giả thuyết thứ hai: Vốn xã hội của người lao động ở nông thôn
chủ yếu bao gồm mạng lưới xã hội, niềm tin và quan hệ có đi có lại
được hình thành, biểu hiện và phát triển trên cơ sở tình cảm, gia đình,
dòng họ, bạn bè, đồng hương và sự tham gia các tổ chức cộng đồng ở
nông thôn.
Giả thuyết thứ ba: Vốn xã hội được người lao động ở nông thôn
vận dụng để tìm kiếm thông tin, huy động nguồn lực và tăng cường hỗ
trợ, hợp tác, liên kết trong chuyển đổi nghề nghiệp, nhờ vậy mà chuyển
đổi cấu trúc nghề nghiệp.
6. Đóng góp của luận án
4
6.1. Đóng góp về khoa học
Góp phần hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý thuyết của
Coleman, Bourdieu và Giddens được áp dụng trong nghiên cứu về vốn xã hội
và tác động của nó đến sự chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp của người lao
động.
Kiểm chứng một số giả thuyết nghiên cứu về vốn xã hội và ảnh
hưởng của nó trong chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động và
chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn.
Phát hiện những vấn đề mới và cung cấp thông tin khoa học gợi
mở suy nghĩ tìm tòi cho nghiên cứu lý thuyết khoa học tiếp theo về vốn
xã hội và chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn.
Cung cấp kiến thức lý luận và thực tiễn góp phần phát triển các
chuyên ngành xã hội học nông thôn, xã hội học lao động – nghề nghiệp,
xã hội học kinh tế.
6.2. Đóng góp về thực tiễn
Điểm mới cơ bản, quan trọng về mặt khoa học và thực tiễn cần
nhấn mạnh của luận án là việc phân tích làm rõ vốn xã hội của người
lao động trong bối cảnh chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn,
đồng thời làm rõ cách thức mà người lao động sử dụng, vận dụng vốn
xã hội để chuyển đổi nghề nghiệp của họ. Từ đó có thể gợi mở suy
nghĩ, nghiên cứu và đề xuất giải pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực có thể có của vốn xã hội trong chuyển đổi cấu trúc nghề
nghiệp ở nông thôn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cấu thành 5 chương.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NGHIÊN CỨU VỀ VỐN XÃ HỘI
Xem xét các quan niệm về vốn xã hội, luận án sử dụng những nội
dung chung, thống nhất có thể tìm thấy trong các quan niệm về vốn xã
hội, đặc biệt là quan niệm của Coleman và Bourdieu. Cụ thể luận án sử
dụng khái niệm vốn xã hội với những ý nghĩa, nội dung cơ bản là: (1)
vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội của người lao
5
động, (2) vốn xã hội là nguồn lực của hoạt động nghề nghiệp và
chuyển đổi nghề nghiệp của cá nhân, cộng đồng (3) vốn xã hội được
tạo ra thông qua việc đầu tư vào các quan hệ xă hội, hoặc mạng lưới xã
hội, và các cá nhân có thể sử dụng vốn xã hội để đạt kết quả nhất định,
trong đó có việc chuyển đổi nghề nghiệp của họ, (4) vốn xã hội bao
gồm sự tin cậy và quan hệ qua lại/sự có đi có lại.
Qua xem xét các các quan niệm và nhất là các cách đo lường vốn
xã hội từ nhiều cách tiếp cận của các tác giả khác nhau, luận án này
chọn các thước đo, các chỉ số đo ba đặc điểm cơ bản của vốn xã hội.
Đó là: (1) mạng lưới xã hội (2) niềm tin và (3) sự có đi có lại.
1.2. NGHIÊN CỨU VỀ CẤU TRÚC NGHỀ NGHIỆP Ở NÔNG
THÔN
Cấu trúc nghề nghiệp được hiểu là hệ thống các nghề nghiệp và
kiểu quan hệ giữa các nghề nghiệp của một cộng đồng xã hội xác định.
Cấu trúc nghề nghiệp của một cộng động không đứng im mà vận động,
biến đổi không ngừng về cả mặt định lượng và định tính: một số nghề
nghiệp tăng lên và một số nghề nghiệp giảm đi, đồng thời vị thế, uy tín
của từng loại nghề nghiệp cũng có thể thay đổi.
1.3. NGHIÊN CỨU VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA VỐN XÃ HỘI ĐẾN
CHUYỂN ĐỔI CẤU TRÚC NGHỀ NGHIỆP
Vốn xã hội và cùng với nó là vốn con người có ảnh hưởng tích cực
trong tìm kiếm việc làm của người lao động nói chung và sinh viên tốt
nghiệp nói riêng (Lê Ngọc Hùng; Hoàng Bá Thịnh, Nguyễn Tuấn Anh).
Vốn xã hội cua ng
̉
ươi lao đông có th
̀
̣
ể hỗ trợ cho những người đang thất
nghiệp hoặc không có nghề nghiệp trong việc tìm kiếm một công việc,
hoặc nếu đã có việc làm se hô tr
̃ ̃ ợ trong viêc thay đ
̣
ổi công việc hoặc
thăng tiến hơn trong công việc. Khi tìm kiếm một công việc, vốn xã hội
đôi v
́ ơi ng
́ ươi lao đông có th
̀
̣
ể là một tài sản tích cực trong việc cung cấp
kiến thức về các cơ hội.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 “Tổng quan tình hình nghiên cứu” cho thấy rõ hiện nay
đã có khá nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về các chủ đề của vốn
xã hội. Các nghiên cứu khác nhau nhấn mạnh các chiều cạnh, các hình
thức, các thước đo, các chỉ số khác nhau, các chức năng, vai trò của vốn
xã hội của con người. Từ đó các nghiên cứu này gợi ra sự cần thiết phải
tiếp tục nghiên cứu các thành phần, cấu trúc và đặc điểm chung, cơ
6
bản, quan trọng nhất của vốn xã hội trong đó nổi bật nhất là mạng lưới
xã hội, niềm tin hay lòng tin và sự có đi có lại với tính cách là các thành
tố cơ bản của vốn xã hội. Các nghiên cứu cho thấy vốn xã hội có tác
dụng, ảnh hưởng nhất định đối với người lao động trong tìm kiếm các
nguồn lực kinh tế, thiết lập và củng cố mối quan hệ gia đình và quan hệ
với cộng đồng. Đặc biệt vốn xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
huy động nguồn lực, tìm kiếm các điều kiện để thực hiện hoạt động
nghề nghiệp, việc làm của người lao động và ra quyết định chuyển đổi
nghề nghiệp của các cá nhân. Vốn xã hội ảnh hưởng đến sự chuyển đổi
nghề nghiệp của người lao động và sự chuyển đổi nghề nghiệp của các
cá nhân người lao động tương tác tổng tích hợp với nhau tạo nên sự
chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp của cộng đồng xã hội. Đến lượt nó sự
chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn tạo thành bối cảnh diễn
ra sự chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động ở nông thôn. Tuy
nhiên, các nghiên cứu trong nước và ngoài nước đã bàn nhiều về vốn xã
hội của người lao động, nhưng chưa xem xét kỹ lưỡng vốn xã hội của
người lao động trong bối cảnh chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông
thôn và cũng chưa tập trung làm rõ ảnh hưởng của vốn xã hội đối với
nghề nghiệp của người lao động trong bối cảnh như vậy. Tổng quan
nghiên cứu như trên cho thấy việc lựa chọn đề tài luận án là cần thiết
và phù hợp để tác giả có thể vừa kế thừa các kết quả nghiên cứu hiện
có về lý luận, phương pháp và các phát hiện khoa học về vốn xã hội và
vừa đi sâu nghiên cứu làm rõ các hình thức biểu hiện và cách sử dụng,
vận dụng vốn xã hội của người lao động trong bối cảnh chuyển đổi
cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn tỉnh Hải Dương.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG CHUYỂN ĐỔI CẤU TRÚC NGHỀ NGHIỆP Ở NÔNG THÔN
2.1.1. Các khái niệm làm việc
2.1.1.1. Vốn xã hội
Trên cơ sở các quan niệm về vốn xã hội của Bourdieu và Coleman,
luận án nêu một định nghĩa như sau: Vốn xã hội là một thành tố của mối
quan hệ giữa con người và xã hội được hình thành, biểu hiện ở mạng
7
lưới xã hội, niềm tin và sự có đi có lại. Vốn xã hội được con người tạo
dựng, vận dụng nhằm đạt được mục tiêu, lợi ích nhất định trong cuộc
sống sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt hàng ngày của họ.
2.1.1.2. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp gắn liền với lao động và việc làm của con người
trong xã hội do vậy nó bị quy định bởi hệ thống các quy tắc, chuẩn mực
nhất định của xã hội. Trong Bộ Luật lao động (2012) việc làm được
hiểu là "mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật
cấm". Trong khi đó, lao động được hiểu là toàn bộ các hoạt động của
con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ mục đích, đời sống của
con người. Nghề nghiệp không đơn giản chỉ là công việc, việc làm hay
lao động để kiếm sống, để tồn tại mà còn là con đường, cách thức và cơ
chế để người lao động thể hiện và khẳng định các phẩm chất, các giá
trị và vị thế, vai trò của họ trong xã hội.
2.1.1.3. Cấu trúc nghề nghiệp và chuyển đổi cấu trúc nghề
nghiệp
Trong luận án này, cấu trúc nghề nghiệp được hiểu là “hệ thống
tương đối ổn định, bền vững của các nghề nghiệp và mối quan hệ giữa
các nghề nghiệp đó”. Khi phân tích cấu trúc nghề nghiệp các nhà xã hội
học thường xem xét nó theo 3 ngành nghề là nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ cùng nhiều loại hình nghề nghiệp khác.
Chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp. Cấu trúc xã hội không đứng im
mà luôn biến đổi, tương tự như vậy, cấu trúc nghề nghiệp không cố
định mà luôn luôn biến đổi và chuyển đổi một cách tự phát, tự giác dưới
tác động của các yếu tố khác nhau, trong đó nổi bật nhất là yếu tố chính
sách phát triển kinh tế xã hội và yếu tố lựa chọn, chuyển đổi nghề
nghiệp của người lao động.
2.1.2. Các quan điểm lý thuyết về vốn xã hội
Quan điểm của Bourdieu về vốn xã hội
Pierre Bourdieu (1930 2002) là một trong những nhà xã hội học
nghiên cứu kỹ lưỡng về vốn xã hội và mối quan hệ của nó với các loại
vốn khác. Bourdieu cho rằng ba loại vốn: vốn kinh tế, vốn văn hóa và
vốn xã hội là nhân tố cốt lõi quyết định năng lực và vị trí của chủ thể
hành động trong bất kì lĩnh vực nào. Theo ông, vốn xã hội là toàn bộ
nguồn lực (thực tế hoặc tiềm ẩn) xuất phát từ mạng lưới quen biết trực
8
tiếp hoặc gián tiếp (chẳng hạn thành viên của cùng một tôn giáo, hoặc
cùng sinh quán, hay đồng môn.
Quan điểm của Coleman về vốn xã hội
James Coleman (1926 1995) là một trong những nhà khoa học
người Mỹ có đóng góp to lớn trong sự phát triển của khái niệm vốn xã
hội. Khái niệm này được ông bàn đến rất cụ thể trong tác phẩm “Social
capital in the creation of human capital”. Coleman xác định ba khía cạnh
quan trọng của vốn xã hội: nghĩa vụ và mong đợi (mà phụ thuộc vào sự
tin cậy với môi trường xã hội), khả năng của dòng chảy thông tin trong
các cấu trúc xã hội, và sự hiện diện của quy tắc, tiêu chuẩn được kèm
theo sự trừng phạt.
Quan điểm của Anthony Giddens về cấu trúc hóa
Luận án lựa chọn và áp dụng lý thuyết cấu trúc hóa (structruration
theory) của Anthony Giddens để có thể nhận diện và giải thích cách
thức người lao động sử dụng vốn xã hội để chuyển đổi nghề nghiệp
của họ trong bối cảnh chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn.
Ông giải thích rằng cấu trúc được coi như là những quy tắc và nguồn
lực có liên quan đến sự tái tạo xã hội; những đặc điểm được thể chế
hóa của các hệ thống xã hội có những thuộc tính về cấu trúc theo nghĩa
rằng các mối quan hệ được ổn định qua thời gian và không gian. Có thể
nói thuyết cấu trúc hóa của Giddens là một sự lựa chọn phù hợp cho
phép luận án tìm hiểu, giải thích mối tương tác giữa cấu trúc nghề
nghiệp và vốn xã hội của người lao động.
2.2. KHUNG PHÂN TÍCH
9
Khung phân tích cho thấy trong mối quan hệ giữa vốn xã hội và sự
chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động có thể xác định sự chuyển
đổi nghề nghiệp của người lao động là biến phụ thuộc chịu sự ảnh
hưởng của vốn xã hội và các biến độc lập khác như đặc điểm cá nhân,
gia đình của người lao động;
2.3. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Phương pháp luận
2.3.1.1. Phương pháp luận duy vật biện chứng
2.3.1.2. Phương pháp so sánh /lịch sử
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu
2.3.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
2.3.2.2. Phương pháp thu thập thông tin định tính
Phỏng vấn sâu 20 trường hợp tại địa bàn 4 xã. Phỏng vấn theo
phương pháp lịch sử nghề nghiệp đối với 4 trường hợp điển hình, số ca
phỏng vấn: 04 trường hợp.
Thảo luận nhóm tập trung: 12 cuộc thảo luận nhóm đối với 3
nhóm/1 xã, ở 4 xã.
2.3.2.3. Phương pháp thu thập thông tin định lượng
Theo thống kê số hộ của 04 xã thuộc 02 huyện được khảo sát có
tổng số 8.839 hộ gia đình. Theo đó, bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu
nhiên với độ tin cậy 95%, tổng số hộ được chọn khảo sát là 410 hộ trong
đó số phiếu hợp lệ là 403 của 403 hộ được khảo sát.
2.3.2.4. Phương pháp xử lý số liệu: số liệu định lượng và định
tính được xử lý bằng phần mềm EpiInfor, SPSS 16.0 và Nvivo 7.0.
2.4. ĐỊA BÀN VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT
10
2.4.1. Địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại 04 xã thuộc 02 huyện của tỉnh Hải
Dương (gồm Cẩm Giàng và Ninh Giang). Đây là hai huyện có điều kiện
kinh tế xã hội khác nhau nhằm so sánh về vốn xã hội của người lao
động cũng như thực tế tác động của vốn xã hội đối với chuyển đổi cấu
trúc nghề nghiệp của người lao động. Việc chọn địa bàn nghiên cứu
như vậy để kiểm chứng giả thuyết rằng điều kiện, đặc điểm kinh tế xã
hội, văn hóa ở mỗi khu vực có ảnh hưởng khác nhau đến yếu tố vốn xã hội
của người lao động.
2.4.2. Đặc điểm của đối tượng khảo sát
Giới tính
Đối với cả hai huyện Cẩm Giàng và Ninh Giang đều có tỷ lệ nam
giới tham gia cao hơn so với tỷ lệ nữ giới, đặc biệt là ở huyện Ninh
Giang, tỷ lệ nam giới chiếm tới 60,6%, huyện Cẩm Giàng chiếm tỷ lệ ít
hơn với 53,5%. Cả hai huyện tỷ lệ nữ tham gia trả lời đều chiếm ít hơn.
Tuổi
Trong các nhóm độ tuổi tham gia khảo sát, tại huyện Cẩm Giàng
phần lớn là nhóm tuổi từ 36 đến 55 tuổi chiếm tỷ lệ 65%, thứ hai là
nhóm tuổi từ 25 đến 35 tuổi chiếm tỷ lệ 31,5%. Đối với huyện Ninh
Giang, chiếm phần lớn số người tham gia trả lời là nhóm tuổi từ 36 đến
55 tuổi chiếm tới 81,3%.
Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật
Tại huyện Cẩm Giàng, tỷ lệ người tham gia trả lời có trình độ
trung học cơ sở nhiều hơn so với huyện Ninh Giang chiếm (57%), tỷ lệ
đạt trình độ trung học phổ thông chỉ chiếm (30,5%), trong khi đó huyện
Ninh Giang, tỷ lệ người tham gia trả lời có trình độ trung học phổ thông
cao hơn với 42,9%.
Trình độ chuyên môn
Trong tổng số người tham gia khảo sát của cả hai huyện, tỷ lệ người
có tham gia đào tạo chiếm rất ít, tại huyện Cẩm Giàng chỉ có 13,5% người
có tham gia đào tạo, huyện Ninh Giang chỉ có 10,8% người có tham gia đào
tạo.
Mức thu nhập trung bình hàng năm
Đối với mức thu nhập trung bình hàng năm, phần lớn người tham
gia trả lời có mức thu nhập từ 1 đến 5 triệu ở cả hai huyện, ngoài ra đối
11
với mức thu nhập từ 5,1 đến 10 triệu ở huyện Ninh Giang chiếm tỷ lệ
22,2%, nhiều hơn so với huyện Cẩm Giàng là 13%.
Số thành viên trong gia đình
Đối với hai huyện Cẩm Giàng và Ninh Giang đều có số lượng
thành viên trong gia đình chiếm cao nhất là từ 3 đến 4 thành viên, và
mức từ 5 đến 6 thành viên. Tại huyện Cẩm Giàng, số thành viên từ 3
đến 4 người trong gia đình chiếm tỷ lệ khá cao tới 75,5%, huyện Ninh
Giang chỉ chiếm 57,6%, tuy nhiên tại huyện Ninh Giang, tỷ lệ số thành
viên trong gia đình từ 5 đến 6 thành viên lại chiếm tỷ lệ cao tới 29,6%,
trong khi đó huyện Cẩm Giàng chỉ chiếm 15%. Như vậy, giữa hai huyện
đã dần có sự thay đổi về cấu trúc gia đình trong làng, xã.
Số lượng lao động trong gia đình
Đối với huyện Cẩm Giàng, phần lớn có từ 1 đến 2 lao động trong
gia đình chiếm tỷ lệ 79,5%, tại huyện Ninh Giang chiếm tỷ lệ ít hơn
với 57,1%, tuy nhiên huyện này lại có số lượng lao động từ 3 đến 4
người, nhiều hơn và chiếm tới 39,95% so với huyện Cẩm Giàng là
19,5%.
Tổ chức đang tham gia
Về đặc điểm tổ chức tham gia của các người lao động, đa số họ
đến từ rất nhiều tổ chức khác nhau, tuy nhiên tập trung vào bốn tổ chức
chính, tỷ lệ tham gia nhiều nhất là Hội phụ nữ, thứ hai là Hội nông dân,
ngoài ra có sự tham gia của Đoàn thanh niên và Hội cựu chiến binh.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 về cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài đã làm rõ những
khái niệm then chốt như “vốn xã hội”, “nghề nghiệp”, “cấu trúc nghề
nghiệp”, “chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp”. Việc thao tác hóa các khái
niệm này đều dựa trên một số cách tiếp cận lý thuyết được chọn và
trình bày kỹ để làm cơ sở lý luận của đề tài. Đó là phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin, các lý thuyết của Bourdieu và Colemans về
vốn xã hội và một số khái niệm liên quan. Bên cạnh đó luận án vận
dụng lý thuyết cấu trúc hóa của Giddens về việc con người trong bối
cảnh của cấu trúc xã hội nhất định, cụ thể là trong bối cảnh chuyển đổi
cấu trúc nghề nghiệp luôn chủ động, tích cực sử dụng các nguồn lực
trong đó có vốn xã hội của họ và các quy tắc lao động để lao động, thực
hành nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp hay phát
triển nghề nghiệp. Bằng cách đó người lao động tham gia “tái cấu trúc
12
xã hội”, cụ thể ở đây là tham gia vào quá trình làm chuyển đổi cấu trúc
nghề nghiệp ở nông thôn. Những nội dung nghiên cứu cơ bản của luận
án được tóm tắt trong khung phân tích để dựa vào đó luận án xác định
các biến phụ thuộc, biến độc lập, biến can thiệp và lựa chọn, sử dụng
các phương pháp nghiên cứu phù hợp. Khung phân tích này sẽ được sử
dụng xuyên suốt trong quá trình phân tích kết quả nghiên cứu, trả lời các
câu hỏi nghiên cứu và chứng minh các giả thuyết nghiên cứu của luận
án (trong các chương 3, 4, 5). Về phương pháp nghiên cứu, chương này
đề cập đến các phương pháp nghiên cứu cụ thể, quy trình, kỹ thuật thu
thập và phân tích thông tin từ cuộc khảo sát 403 người ở bốn xã của
huyện Cẩm Giàng và huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương.
Chương 3
BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI CẤU TRÚC NGHỀ NGHIỆP Ở NÔNG
THÔN TỈNH HẢI DƯƠNG
3.1. CHÍNH SÁCH VÀ THỰC TIỄN CHUYỂN ĐỔI CẤU TRÚC KINH
TẾ, NGHỀ NGHIỆP Ở NÔNG THÔN
Vốn xã hội và sự chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn tỉnh
Hải Dương diễn ra trong bối cảnh Việt Nam thực hiện chính sách đổi
mới, phát triển nông nghiệp, nông thôn và thực tiễn chuyển đổi cấu trúc
kinh tế của cả nước. Do vậy việc tìm hiểu các chính sách và thực tiễn
chuyển đổi kinh tế nông thôn Việt Nam trong thời gian qua là quan trọng.
Có thể thấy rằng việc triển khai các đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước về nông thôn, nông nghiệp trong những năm qua đã mang lại
những thành tựu to lớn, làm chuyển đổi mạnh mẽ cấu trúc kinh tế và
nâng cao mức sống của người dân trong giai đoạn gần đây.
Chuyển đổi cấu trúc kinh tế
Trong quá trình chuyển đổi cấu trúc ngành kinh tế từ năm 2005
đến năm 2014, đã có sự chuyển dịch dần giữa các ngành kinh tế. Trong
năm 2005 tỷ trọng ngành công nghiệp, xây dựng chiếm cao nhất với
41,5%, thứ hai là ngành dịch vụ với tỷ lệ 37,5% và thứ ba là nông, lâm
nghiệp và thủy sản chiếm tỷ lệ 21%.
Chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp theo ngành kinh tế
Cùng với chuyển đổi về cấu trúc hộ, cấu trúc nguồn lao động nói
trên, cấu trúc ngành nghề ở nông thôn cũng đã có sự chuyển đổi theo
13
hướng tích cực. Cụ thể, số lượng, tỷ trọng hộ hoạt động trong lĩnh vực
nông, lâm, thuỷ sản ngày càng giảm, lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ ngày càng tăng. Số hộ hoạt động trong lĩnh vực nông lâm thuỷ
sản là 9,53 triệu hộ, giảm 248 nghìn hộ so với năm 2006. Số hộ hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và hộ dịch vụ đạt 5,13 triệu
hộ, tăng 1,67 triệu hộ so với năm 2006.
3.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HẢI DƯƠNG
3.2.1. Dân số lao động
Nhìn chung, tỷ lệ lao động ở nhóm tuổi trẻ (15 24 tuổi và 25 34
tuổi) có xu hướng giảm và tỷ lệ lực lượng lao động ở các nhóm tuổi cao
(45 54 và 55 tuổi trở lên) có xu hướng tăng. Trong giai đoạn hơn 10
năm vừa qua, cấu trúc lao động có thay đổi theo hướng giảm ở khu vực
nông thôn, tăng lên ở khu vực thành thị.
3.2.2. Kinh tế thu nhập
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP theo giá 2010) ước tăng
7,7% so với năm 2013 cao hơn bình quân cả nước (cả nước ước tăng
5,8%), trong đó, giá trị tăng thêm (tính cả thuế) khu vực nông, lâm
nghiệp, thủy sản tăng 2,3%, công nghiệp xây dựng tăng 9,9% (cả thuế
là 10,2%), dịch vụ tăng 6,5% (cả thuế là 7%). Thu nhập bình quân toàn
tỉnh năm 2014 đạt 39 triệu đồng/người, tăng 3,9 triệu đồng so với năm
2013.
3.3. BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI CẤU TRÚC NGHỀ NGHIỆP Ở NÔNG
THÔN TỈNH HẢI DƯƠNG GIAI ĐOẠN 20102015
3.3.1. Chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp theo ngành kinh tế
Phạm vi của khái niệm chuyển đổi cấu trúc lao động ở nông thôn
trong nghiên cứu này được hiểu là sự thay đổi cấu trúc nghề nghiệp
theo các ngành kinh tế: Nông nghiệp Công nghiệp, Xây dựng Dịch
vụ. Trong những năm gần đây, cấu trúc lao động của tỉnh Hải Dương có
sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng lao động tại ngành có giá trị
gia tăng thấp như nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng ở những ngành có giá
trị gia tăng cao như công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Cụ thể cấu trúc lao
động làm việc trong các khu vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản công
nghiệp, xây dựng dịch vụ chuyển dịch từ 70,5% 15,8% 13,7% (năm
2005) sang 39,5% 33,3% 27,2% (năm 2013); Giai đoạn 2005 2015,
tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm đến
14
31%, trong khi đó lĩnh vực công nghiệp, xây dựng tăng 17,5%, dịch vụ
tăng 13,5%.
3.3.2. Chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp theo trình độ chuyên
môn kỹ thuật
Đối với lao động phân theo trình độ đào tạo của tỉnh Hải Dương
cho thấy, phần lớn lao động ở đây vẫn chưa qua đào tạo, năm 2000 tỷ
lệ lao động chưa qua đào tạo chiếm tới 77,50%, một tỷ lệ đáng chú ý
đối với một tỉnh đang trên đà phát triển công nghiệp hóa, từ năm 2000
cho đến năm 2010 tỷ lệ này đã giảm dần từ 77,50% xuống còn 60%, tuy
nhiên vẫn là con số cần chú ý.
3.3.3. Chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp theo loại hình doanh
nghiệp
Theo kết quả thống kê, tính đến 2012, Hải Dương có 4.329 doanh
nghiệp đang hoạt động, trong đó có 1163 doanh nghiệp FDI (liên doanh
và 100% vốn nước ngoài), 4.139 doanh nghiệp ngoài nhà nước (bao gồm
công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã) và 27 doanh
nghiệp nhà nước (trung ương và địa phương). So với năm 2008, số
doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn giảm 6 doanh nghiêp, số doanh
nghiệp ngoài nhà nước tăng gấp đôi (2008: 2.615 doanh nghiệp) và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 67 doanh nghiệp (2008: 96
doanh nghiệp).
3.3.4. Chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp theo giới
Về cấu trúc giới, 55% số lao động làm việc tại khu vực doanh
nghiệp là lao động nữ. Tuy nhiên, cấu trúc giới của lao động là rất khác
nhau tại các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
Trong số lao động nữ làm việc theo các loại hình doanh nghiệp, thì ở
khu vực doanh nghiệp nhà nước, lao động nữ chỉ chiếm 2,8%, trong khi
đó tại khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tỷ lệ nữ chiếm
68,2%, khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 29,0%.
3.3.5. Chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp ở nông thôn tỉnh Hải
Dương
Lực lượng lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp tại Hải
Dương vẫn đang chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số lao động. Ngoài canh tác
lúa nước, Hải Dương còn nổi tiếng với các nghề truyền thống như kim
hoàn, chạm khắc gỗ, chế biến bánh kẹo. Đây là lĩnh vực có năng suất lao
15
động thấp, hiệu quả lao động không cao, nhiều người lao động thiếu việc
làm.
3.4. THỰC TRẠNG NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở ĐỊA
BÀN KHẢO SÁT
3.4.1. Tình trạng việc làm
Kết quả khảo sát cho thấy, ở huyện Cẩm Giàng, tỷ lệ có việc làm
thường xuyên thấp hơn so với khu vực Ninh Giang. Bên cạnh đó, tỷ lệ
thiếu việc làm ở Cẩm Giàng cao hơn so với Ninh Giang. Điều này được
lý giải: huyện Ninh Giang phần lớn là nông nghiệp kết hợp với tiểu thủ
công nghiệp, buôn bán nhỏ, trong khi đó ở Cẩm Giàng diện tích đất cho
nông nghiệp không còn nhiều (do chuyển đổi sang đất công nghiệp),
thời gian gần đây tình trạng các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, phá
sản, v.v, tăng dẫn đến nhu cầu lao động trong các cơ sở sản xuất giảm.
3.4.2. Cấu trúc nghề nghiệp chính
Trong tổng số các thành phần tham gia khảo sát, nghề nghiệp
chính chiếm tỷ lệ cao nhất là trồng trọt với 24,6%, thứ hai là nghề xây
dựng, vận tải trong nội bộ xã, liên xã và các dịch vụ khác phục vụ sản
xuất, đời sống dân cư nông thôn chiếm tỷ lệ 21,1%, thứ ba là buôn bán
kinh doanh nhỏ, tạp hóa chiếm tỷ lệ 17,4%, thứ tư là sản xuất vật liệu
xây dựng, đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, cơ khí nhỏ
chiếm tỷ lệ 17,1%.
3.4.3. Cấu trúc nghề nghiệp làm thêm
Đối với các nghề nghiệp làm thêm, chủ yếu nghề nghiệp tham gia
làm thêm là nghề trồng trọt chiếm tỷ lệ 32,5%, thứ hai là nghề chăn nuôi
chiếm tỷ lệ 15,1% và thứ ba là nghề buôn bán kinh doanh nhỏ, tạp hóa
chiếm tỷ lệ 11,7%. Phần lớn người tham gia khảo sát đều làm việc trong
thôn chiếm tỷ lệ 40,7%, ngoài ra tham gia làm việc trong xã chiếm tỷ lệ
31,8% và tham gia làm việc ngoài xã nhưng trong huyện chiếm tỷ lệ
19,6%.
Tiểu kết Chương 3
Trước khi phân tích thực trạng nghề nghiệp của người lao động
được khảo sát ở huyện Ninh Giang và Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương,
chương 3 tập trung giới thiệu bối cảnh chính sách và thực tiễn chuyển
đổi kinh tế, nghề nghiệp cả nước nói chung và tỉnh Hải Dương nói
riêng. Trên phạm vi cả nước và ở tỉnh Hải Dương, cấu trúc kinh tế và
16
cấu trúc nghề nghiệp đều chuyển đổi theo hướng giảm dần tỉ trọng các
nghề nghiệp thuộc ngành kinh tế nông nghiệp và tăng dần tỉ trọng các
nghề nghiệp thuộc ngành kinh tế công nghiệp và dịch vụ.
Thực trạng cấu trúc nghề nghiệp của người lao động được khảo
sát cho thấy trong bối cảnh đổi mới chính sách và chuyển dịch cấu trúc
kinh tế nói chung của đất nước và tỉnh Hải Dương, người lao động ở
địa bàn khảo sát có thể đã chuyển đổi nghề nghiệp nhanh hơn và nhiều
hơn. Một phận lớn những người lao động ở nông thôn thuộc địa bàn
khảo đã chuyển đổi nghề nghiệp từ nông nghiệp sang phi nông cho nên
tỉ trọng nghề nghiệp phi nông mới chiếm hai phần ba. Vấn đề nghiên
cứu đặt ra tiếp theo ở đây là người lao động có vốn xã hội như thế nào
và họ sử dụng vốn xã hội ra sao để chuyển đổi nghề nghiệp.
Chương 4
VỐN XÃ HỘI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
Ở NÔNG THÔN HẢI DƯƠNG
4.1. CÁC THÀNH TỐ CỦA VỐN XÃ HỘI
4.1.1. Mạng lưới xã hội
Đối với huyện Cẩm Giàng, tổ chức được người dân tham gia đông
đảo nhất là Hội nông dân chiếm tỷ lệ 33%, thứ hai là Hội phụ nữ chiếm
tỷ lệ 28% và thứ ba là Đoàn thanh niên chiếm tỷ lệ 18,5%. Tuy nhiên,
giữa nam giới và nữ giới trong huyện lại có sự lựa chọn tham gia các tổ
chức khác biệt, đối với nam giới, tổ chức tham gia nhiều nhất là Hội
nông dân chiếm tỷ lệ 57,9%, thứ hai là tổ chức Đoàn thanh niên chiếm
tỷ lệ 15%, và thứ ba là tổ chức Hội cựu chiến binh chiếm tỷ lệ 11,2%.
Đối với nữ giới, tổ chức chiếm tỷ lệ tham gia nhiều nhất là Hội phụ nữ
với 59,1%, thứ hai là tổ chức Đoàn thanh niên với tỷ lệ 22,6%. Đối với
huyện Ninh Giang, người dân cũng tham gia khá đa dạng các tổ chức,
tuy nhiên tổ chức chiếm tỷ lệ nhiều người tham gia là tổ chức Hội phụ
nữ chiếm tỷ lệ 33,5% và Hội nông dân chiếm tỷ lệ 33,5%, Hội cựu
chiến binh chiếm tỷ lệ 11,8%.
4.1.2. Niềm tin
17
Trong luận án, niềm tin được đo lường trực tiếp qua câu hỏi:
“mức độ tin tưởng lẫn nhau ở nơi ông/bà sinh sống hiện tại như thế
nào?” Câu trả lời được nêu sẵn với 5 thang đo từ “Tất cả tin tưởng lẫn
nhau” đến “Tất cả không tin tưởng lẫn nhau”. Qua các phỏng vấn sâu,
thảo luận nhóm tại cộng đồng cho thấy mức độ tin cậy lẫn nhau của
người dân còn khá cao. Hầu hết mọi người vẫn tin tưởng lẫn nhau, điều
này được thể hiện rất rõ trong việc giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong cộng
đồng.
4.1.3. Sự có đi có lại
Sự giúp đỡ của gia đình, họ hàng, hàng xóm, bạn bè
Đây là các mối quan hệ gần gũi, dựa trên huyết thống, thân tộc thể
hiện khá rõ nét ở nông thôn Việt Nam. Hầu hết các hoạt động hỗ trợ
đều từ người thân, cao hơn từ phía họ hàng khá nhiều trong tất cả các
loại hình hỗ trợ. Đối với sự trợ giúp của người thân, tỷ lệ hình thức trợ
giúp lớn nhất đó là động viên tinh thần (huyện Cẩm Giàng chiếm tỷ lệ
63%, huyện Ninh Giang chiếm tỷ lệ 73,8%), bên cạnh đó là hình thức
hỗ trợ tiền đối với người lao động (huyện Cẩm Giàng chiếm tỷ lệ
54,3%, huyện Ninh Giang chiếm tỷ lệ 53,2%), ngoài ra người lao động
còn tiếp nhận thêm sự trợ giúp của họ hàng, hàng xóm và bạn bè. Tuy
nhiên, đối với sự trợ giúp của họ hàng, hàng xóm và bạn bè chủ yếu tập
trung trợ giúp bằng việc động viên tinh thần là chủ yếu.
Sự giúp đỡ của các tổ chức chính trị xã hội khi người lao
động gặp rủi ro
Qua khảo sát cho thấy, các tổ chức chính quyền, đoàn thể chính trị
xã hội ở địa phương chủ yếu hỗ trợ về mặt tinh thần đối với các thành
viên của mnh. Cao nh
́
ất là Hội Nông dân (20,3%), tiếp đến là Chính
quyền địa phương (17,6%), Hội Phụ nữ (15,0%), các tổ chức hội, đoàn
thể khác cũng chiếm một tỷ lệ nhất định. Ngoài ra, một số tổ chức có
các hỗ trợ khác về tiền cũng như đứng ra kêu gọi cộng đồng ủng hộ
hoặc đứng ra giới thiệu việc làm cho các hội viên. Đối với những hoạt
động giới thiệu việc làm chủ yếu là thông qua các chương trình, dự án,
chương trình hành động của các tổ chức hội cấp trên chứ ít khi các hội,
tổ chức đứng ra tổ chức độc lập hoặc tổ chức dựa trên nhu cầu của các
hội viên.
Sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính thức
Đối với sự trợ giúp của tổ chức phi chính thức như hiệp hội ngành
nghề hoặc hội đồng môn, có thể thấy vai trò khá yếu của các tổ chức
18
này đối với sự trợ giúp người lao động tại địa phương và hầu như là
không có sự trợ giúp đáng kể.
Sự giúp đỡ của các tổ chức tín dụng, kinh doanh
Đối với các tổ chức tín dụng ở địa phương như ngân hàng thì các
hình thức hỗ trợ chủ yếu liên quan đến tiền, đây chính là các khoản vay
dành cho các hộ gia đình nghèo, khó khăn, cho vay hỗ trợ học tập là
chính.
4.2. PHẠM VI, MỨC ĐỘ CỦA VỐN XÃ HỘI Ở NGƯỜI LAO ĐỘNG
4.2.1. Phạm vi của vốn xã hội
Kết quả phân loại quy mô/phạm vi theo các mối quan hệ xã hội thì
vốn xã hội của người lao động tồn tại ở các mức độ: (1) Phạm vi cá
nhân (giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng), (2) Phạm vi
nhóm/liên nhóm (cá nhân trong nhóm, giữa các tổ chức/nhóm với nhau).
Phạm vi theo không gian, có các loại: (1) Phạm vi trong gia đình/ họ
hàng, thân tộc, (2) phạm vi thôn, xóm, và (3) phạm vi tổ chức, mạng
lưới xã hội (các tổ chức đoàn thể, nơi làm việc, cơ sở đào tạo...).
4.2.2. Mức độ của vốn xã hội
Hầu hết những người được hỏi tham gia ít nhất một tổ chức ở địa
phương, tiếp đến là tham gia từ 2 tổ chức trở lên nhưng có chưa đầy 1%
người được hỏi tham gia 05 tổ chức khác nhau. Điều này cho thấy sự
tham gia các mạng lưới xã hội ở địa phương của các cá nhân người lao
động còn hạn chế.
4.3. MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VỐN XÃ HỘI CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG
4.3.1. Yếu tố cá nhân: tuổi, giới tính, học vấn
Giới tính: Kết quả thống kê cho thấy, tỷ lệ nam giới và nữ giới
không tham gia tổ chức nào tương đương nhau. Tuy nhiên, về số lượng
các tổ chức tham gia thì nam giới tham gia nhiều hơn bởi có điều kiện
về thời gian, trong khi đó phụ nữ vướng bận công việc gia đình, chăm
sóc con cái nên ít tham gia.
Học vấn: Đối với nhóm có trình độ cao đẳng, đại học là người
trẻ, họ thường làm việc cho các công ty, tổ chức kinh tế dưới dạng công
ty, doanh nghiệp nên không có điều kiện tham gia các tổ chức ở nông
thôn. Số có tham gia các tổ chức phần lớn làm việc tại nhà, chưa có
19
việc làm, làm việc không cố định và hỗn hợp các công việc khác nhau.
Nhóm có trình độ này phần lớn tham gia Đoàn thanh niên, một số tham
gia Hội nông dân, một số Hội phụ nữ. Đối với nhóm có trình độ học
vấn trung cấp/nghề: 100% đều tham gia ít nhất một tổ chức, trong đó
cao nhất tỷ lệ tham gia 2 tổ chức (52,9%), ti ếp đến là 1 tổ chức
(29,4%), 3 tổ chức (17,6%). Đối với nhóm có trình độ học vấn phổ
thông: về cơ bản đều tham gia các tổ chức xã hội ở nông thôn, có một
tỷ lệ nhất định tham gia đến 5 tổ chức khác nhau.
Độ tuổi: Có một xu hướng dễ dàng nhận thấy là những người
càng nhiều tuổi thì số lượng các tổ chức tham gia lại càng nhiều. Điều
này khá phù hợp ở khu vực nông thôn khi mà có các tổ chức dành cho
những người cao tuổi (hội người cao tuổi) và những hội dành cho những
cựu binh.
4.3.2. Yếu tố hộ gia đình
Giới tính chủ hộ: Vai trò của chủ hộ có ảnh hưởng rất lớn đến
hộ gia đình ở nông thôn Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, với
những hộ gia đình có nam là chủ hộ thì việc tham gia các tổ chức ở địa
phương cao hơn khi nữ làm chủ hộ.
Ngành nghề của hộ: Kết quả khảo sát cho thấy, những người lao
động làm trong ngành nghề phi nông nghiệp có xu hướng tham gia nhiều
tổ chức ở cộng đồng hơn những người lao động chỉ thuần túy làm nông
nghiệp. Tỷ lệ lao động phi nông tham gia từ 2 tổ chức trở lên cao hơn
lao động nông nghiệp. Tuy nhiên, nhóm lao động trong ngành nghề phi
nông nghiệp “không tham gia tổ chức nào” có tỷ lệ cao hơn nhóm làm
thuần nông nghiệp. Qua phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm cho thấy đây là
những người trẻ đang làm việc trong các khu công nghiệp, tổ chức kinh
doanh.
4.3.3. Yếu tố cộng đồng: địa lý và văn hóa
Cẩm Giàng cũng là nơi bị tác động bởi quá trình đô thị hóa mạnh
mẽ, người ở nơi khác về sinh sống, đan xen với người dân “gốc” nên
mức độ tin cậy cũng như tính cố kết theo kiểu làng, xã giảm so với khu
vực Ninh Giang (tốc độ đô thị hóa chậm hơn, ít khu công nghiệp và lao
động di cư).
4.3.4. Yếu tố chính sách, thể chế
20
Về chính sách phát triển kinh tế, trong những năm qua Ninh Giang
và Cẩm Giàng đều theo hướng “phát triển đa dạng hoá các loại hình sản
phẩm kinh doanh, ngành nghề, tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp,
giảm tỷ lệ thuần nông”. Theo đó, nhiều làng nghề được khôi phục phát
triển, trong đó có làng nghề trên địa bàn huyện Ninh Giang như làm bánh
gai, giò chả... Và thực tế, số lượng tham gia nghề phụ trong những năm
qua tăng lên đáng kể. Khi các làng nghề được khôi phục thì nhu cầu đào
tạo, chia sẻ kinh nghiệm về làm nghề trong cộng đồng tăng, từ đó các
giao dịch, tương tác xã hội giữa những người lao động tăng, là cơ sở duy
trì và phát huy vốn xã hội trong cộng đồng.
Tiểu kết Chương 4
Với mẫu nghiên cứu được chọn, qua khảo sát cho thấy thực trạng
vốn xã hội của người lao động thể hiện ở các hình thái: (1) Niềm tin,
(2) Sự có đi có lại và (3) Tham gia mạng lưới xã hội. Về niềm tin trong
cộng đồng, về cơ bản người dân vẫn tin tưởng lẫn nhau, dựa trên cơ sở
sự gần gũi về khu vực sinh sống, quan hệ huyết thống, thân tộc (người
thân, họ hàng, anh em). Theo đó, sự có đi có lại giúp đỡ lẫn nhau cũng
chủ yếu diễn ra ở các mối quan hệ xã hội này về mặt vật chất, tinh
thần như cho vay mượn, hỗ trợ tiền, đồ dùng, động viện viên tinh thần
lẫn nhau. Sự vươn ra các mối quan hệ bên ngoài gia đình, dòng họ vẫn
chưa mạnh do đặc trưng xã hội nông thôn. Về mạng lưới xã hội, chủ
yếu người lao động/người dân nói chung tham gia vào khoảng 05 các tổ
chức chính trị xã hội nhiều nhất là Hội Nông dân và Hội phụ nữ, bởi
đây là hai tổ chức phù hợp với đại đa số người dân ở nông thôn. Ngoài
việc tìm kiếm lợi ích về mặt kinh tế như phát triển nghề nghiệp, tìm
kiếm việc làm, huy động các nguồn lực hay lợi ích về mặt tinh thần thì
sự tham gia theo "phong trào" cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến
cho số lượng hội viên của hai tổ chức này khá cao. Bên cạnh đó, các
chuẩn mực, tiêu chuẩn về quan hệ xã hội ở khu vực nông thôn có ảnh
hưởng đến việc nhìn nhận và tham gia các mạng lưới xã hội trong cộng
đồng như tình làng xóm, quan hệ bạn bè, quan hệ trong gia đình. Nghiên
cứu cũng đã chỉ ra rằng, các yếu tố ảnh hưởng đến vốn xã hội của người
lao động bao gồm: (1) các đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ
học vấn, thu nhập, tình trạng việc làm; (2) đặc điểm hộ gia đình như giới
tính của chủ hộ, ngành nghề của chủ hộ; (3) đặc điểm cộng đồng bao
gồm yếu tố địa lý, lối sống, văn hóa, phong tục tập quán; và (4) chính
sách, thể chế ở nông thôn. Các yếu tố trên có ảnh hưởng làm cho vốn xã
21
hội của người lao động tăng lên hay giảm đi, theo đó, để xây dựng và
phát triển vốn xã hội cho người lao động cần quan tâm đến việc thúc đẩy
hoặc kiểm soát các yếu tố này. Tựu trung, chương 4 mới chỉ dừng lại ở
việc làm rõ thực trạng VXH của người lao động thể hiện ở 03 hình thái
(như đã phân tích), cũng như chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng
duy trì, phát triển và huy động VXH của người lao động ở nông thôn.
Trong thực tế, người lao động ở khu vực này đã huy động, sử dụng
nguồn lực VXH này như thế nào trong việc chuyển đổi nghề nghiệp của
các cá nhân dẫn đến chuyển đổi cấu trúc nghề nghiệp của địa phương sẽ
được đề cập ở trong Chương 5.
Chương 5
VỐN XÃ HỘI TRONG CHUYỂN ĐỔI NGHỀ NGHIỆP CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở NÔNG THÔN TỈNH HẢI DƯƠNG
5.1. CHUYỂN ĐỔI NGHỀ NGHIỆP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở
NÔNG THÔN
5.1.1. Số lần chuyển đổi
Theo kết quả khảo sát, có đến gần một nửa (45,4%) số người
được hỏi đã chuyển đổi “một lần” trước khi làm nghề/công việc hiện
tại. Có 5,2% từng chuyển đổi 2 lần. Tỷ lệ chuyển đổi từ ba lần trở lên
không đáng kể (0,7%). Có gần một nửa số người được hỏi trả lời chưa
chuyển bao giờ và công việc, lĩnh vực nghề nghiệp hiện tại của họ hiện
nay cũng chính là công việc, lĩnh vực nghề nghiệp đầu tiên của họ.
5.1.2. Lĩnh vực chuyển đổi
Như vậy, với ngành nghề hiện tại mà người lao động đang trực
tiếp tham gia thì đã có sự chuyển đối khá mạnh mẽ từ lĩnh vực ngành
nghề nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp (91,2% nông nghiệp
trước đây giờ chỉ còn 37,5%, trong khi đó chỉ có 8,8% phi nông nghiệp
trước đây nay lên 62,5%).
5.1.3. Thời điểm chuyển đổi nghề nghiệp
Tỷ lệ người chuyển nghề vào thời điểm 1980 chiếm 4,02%, năm
1985 chiếm 4,52%, tiếp đến là năm 1990 có 9,05%. Kể từ giai đoạn
2000 trở lại đây, một số thời điểm chuyển đổi khá lớn đó là năm 2000,
có đến 17,09% người. Sau đó là các thời điểm năm 2003, 2008, 2009 có
22
tỷ lệ chuyển đổi tương đương nhau (khoảng 6%). Ở khía cạnh vĩ mô,
sở dĩ sau năm 2000 có sự chuyển đổi về nghề nghiệp một phần vì lý do
thu hút đầu tư FDI như đã nêu trên, phần vì hoàn thành và đưa vào sử
dụng quốc lộ 5 (Hà Nội Hải Phòng) đi qua địa phận tỉnh Hải Dương
gồm (Cẩm Giàng, thành phố Hải Dương, Nam Sách, Kim Thành) vào
năm 1998. Đây cũng là giai đoạn tỉnh Hải Dương có các chính sách
khuyến khích người dân khu vực nông thôn chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi theo hướng tăng năng suất và hiệu quả kinh tế.
5.1.4. Lý do chuyển đổi
Khi tìm hiểu về lý do chuyển đổi từ nghề nghiệp của người lao
động trước đây sang nghề nghiệp hiện nay, nghiên cứu quan tâm đến hai
nhóm lý do: 1) lý do buộc phải thay đổi (lực đẩy công việc trước đây) và
lý do kích thích nhu cầu thay đổi (lực hút công việc mới). Đối với những
lý do thuộc về “lực đẩy”, khiến người lao động buộc phải thay đổi, kết
quả cho thấy, khoảng trên 1/3 số người trả lời giải thích do "sức khỏe
không phù hợp" với công việc trước đây (36,2%), tiếp đến là lý do "mất
tư liệu sản xuất/đất" (19,4%). Một lý do khác cũng chiếm tỷ lệ khá
cao (14,5%) là do "chính sách thay đổi trong phát triển ngành nghề của
địa phương” khiến người lao động phải thay đổi cho phù hợp. Lý do
thiếu vốn đầu tư cũng có 13,0% người trả lời lựa chọn. Ngoài ra các
lý do khác như phải di chuyển chỗ ở, gặp các rủi ro, tai nạn, thiên tai,
thiếu chuyên môn, tay nghề... có tỷ lệ người trả lời lựa chọn không
cao. Ở khía cạnh lực "hút" người lao động chuyển sang ngành
nghề/công việc mới, kết quả khảo sát cho thấy, lý do quan trọng nhất
là để "mang lại thu nhập ổn định" cho gia đình/bản thân người lao
động (70%), tiếp đến là "phù hợp với điều kiện gia đình" (37%), "phù
hợp với chuyên môn, tay nghề" (11,7%), "điều kiện lao động tốt hơn"
(6,8%).
5.2. NGƯỜI LAO ĐỘNG VẬN DỤNG VỐN XÃ HỘI TRONG
CHUYỂN ĐỔI NGHỀ NGHIỆP
5.2.1. Vốn xã hội trong cung cấp thông tin
Tìm kiếm thông tin về việc làm từ các quan hệ xã hội gia đình,
bạn bè
Kết quả khảo sát bằng bảng hỏi cho thấy, sự hỗ trợ, giúp đỡ trong
việc cung cấp thông tin, giới thiệu việc làm cho người lao động nhận