Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ẢNH HƯỞNG của đạo đức tôn GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH xây DỰNG đạo đức mới ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.83 KB, 86 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo không phải từ trên trời rơi xuống, và cũng không phải là một
di sản thiên nhiên vốn có, mà là một sản phẩm do con người sáng tạo ra. Tuy
nhiên, tôn giáo không đồng hành với con người. Tôn giáo là phạm trù lịch sử.
Tôn giáo vốn là một hiện tượng xã hội phức tạp và hiện nay là một trong những
vấn đề nhạy cảm ở nhiều dân tộc, quốc gia. Việt nam là một quốc gia đa tôn
giáo. Có những tôn giáo du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công
nguyên... Có những tôn giáo mới hình thành ở Việt Nam vào những thập niên
đầu của thế kỷ XX như: Cao Đài, hòa Hảo v.v...
Lịch sử dân tộc đã minh chứng, có một số tôn giáo đã góp phần nâng
cao ý thức dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống của cả cộng đồng. Tuy
nhiên, lại cũng có những tôn giáo có thời kỳ đã bị các thế lực phản động trong
và ngoài nước lợi dụng vì mục đích ngoài tôn giáo. Hiện nay số lượng tín đồ
các tôn giáo chiếm gần khoảng 20% dân số, và tập trung ở các tôn giáo lớn, còn
nếu tính cả những người có tâm thức tôn giáo thì con số sẽ lớn hơn gấp bội.
Quá trình đổi mới đất nước, khi chuyển sang kinh tế thị trường, bên
cạnh những thành tựu, cũng nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, làm xói
mòn một số giá trị đạo đức xã hội. Thực tiễn đó đòi hỏi phải xây dựng
những giá trị đạo đức mới cho phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó trong nhận thức
cần xác định những ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo tới quá trình xây dựng
đạo đức mới, để từ đó có thái độ ứng xử đúng với các tôn giáo (một vấn đề
hết sức tế nhị, nhạy cảm và còn tồn tại lâu dài) là điều cấp thiết.
Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị ngày 16/10/1990 có ghi:
"Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng tôn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có nhiều điều
phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới".



2

Xuất phát từ tinh thần nghị quyết 24 của Bộ Chính trị, từ đặc điểm
tình hình tôn giáo Việt Nam và từ yêu cầu của việc xây dựng đạo đức mới
trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tôi thấy cần thiết phải chọn vấn đề
nghiên cứu: "Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo trong quá trình xây
dựng đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay", làm đề tài cho luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ tôn giáo của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
"Đạo đức tôn giáo" là một vấn đề đã được nhiều người quan tâm
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, chẳng hạn:
+ Khuynh hướng nghiên cứu đạo đức phật giáo từ góc độ tôn giáo.
Đó là những công trình nghiên cứu của các phật tử, đều nhằm mục đích
phục vụ cho tôn giáo của mình. Ví dụ, cuốn "Đạo đức học Phật giáo"
(nhiều tác giả) của Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995.
Cuốn "Giải thoát tri kiến" của Jkrishnamutri, An Tiêm, Sài Gòn xuất
bản 1973. Cuốn sách này đã nêu bật đạo đức Phật giáo là phương tiện quan
trọng để thực hiện con đường giải thoát theo quan điểm của Phật giáo.
+ Khuynh hướng nghiên cứu đạo đức Phật giáo nhìn từ góc độ triết
học. Đã có một số công trình đáng lưu ý. Đó là cuốn "Lịch sử triết học Ấn
Độ" của hòa thượng Thích Mãn Giác, Ban tu thư, đại học Vạn Hạnh 1997.
Cuốn "Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông" của
Nguyễn Hùng Hậu, nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội 1996. Cuốn
"Triết học về Tánh không" của Tuệ Sĩ, An Tiêm, Sài Gòn xuất bản 1970.
Cuốn "Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo" của hòa thượng Thích Mật Thể,
Viện triết lý và triết học thế giới... Từ những cuốn sách này ta có thể chắt
lọc ra những ý tưởng nghiên cứu đạo đức Phật giáo dưới góc độ triết học.
+ Bên cạnh các khuynh hướng trên còn có khuynh hướng nghiên
cứu đạo đức Phật giáo dưới góc độ văn hóa cũng đáng chú ý. Chẳng hạn



3

như cuốn "Những nét văn hóa của đạo Phật" của hòa thượng Thích Phụng
Sơn, nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1995. Cuốn "Cơ sở văn hóa Việt
Nam" của giáo sư Trần Ngọc Thêm, Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí
Minh 1996... Ngoài ra gần đây còn có một số luận án cũng nghiên cứu về
đạo đức Phật giáo như "Đạo đức Phật giáo và ảnh hưởng của nó với đời
sống tinh thần của người Việt Nam".
Nếu như đạo đức Phật giáo được nghiên cứu tương đối nhiều dưới
các góc độ khác nhau thì ngược lại đạo đức của các tôn giáo khác chưa có
nhiều công trình nghiên cứu.
+ Gần đây có các luận án tiến sĩ triết học nghiên cứu về đạo đức của
Công giáo như "Góp phần tìm hiểu tư tưởng đạo đức trong Kinh thánh" của
Trương Như Vương, "Sự thống nhất giữa Kính Chúa " và "yêu nước" trong
"lịch sử tư tưởng Việt Nam thời cận đại"; "Vận dụng quan điểm khoa học
về tôn giáo trong công tác đối với Thiên chúa giáo hiện nay ở Việt Nam"
của Nguyễn Văn Long... Bên cạnh các luận án tiến sĩ này cũng phải nói tới các
luận văn thạc sĩ nghiên cứu về đạo đức công giáo như: "Khía cạnh nhân văn của
giáo lý Thiên chúa và công tác xây dựng nếp sống mới ở vùng đồng bào Thiên
chúa giáo"; "Quá trình truyền giáo của đạo Thiên chúa và ảnh hưởng của nó đối
với đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam"...
Về đạo đức của đạo hòa Hảo có: "Đạo hòa Hảo và ảnh hưởng của
nó ở đồng bằng sông Cửu Long" (5.01.02) của Nguyễn Hoàng Sa. Về đạo
đức của đạo Cao Đài có "Ảnh hưởng của đạo Cao Đài với đời sống tinh
thần ở Tây Ninh..." của Đặng Thị Thu Nga.
Tuy nhiên, nghiên cứu "Ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo trong quá
trình xây dựng đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay" là một vấn đề mang tính
tổng hợp và là một vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu.



4

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo trong quá trình
xây dựng đạo đức mới Việt Nam hiện nay, bước đầu đề xuất một số giải pháp
nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của sự ảnh hưởng đó.
3.2. Nhiệm vụ
+ Luận văn tập trung làm rõ một số đặc trưng của đạo đức tôn giáo.
+ Làm rõ những nét tương đồng và khác biệt giữa đạo đức tôn giáo
với đạo đức mới.
+ Trên cơ sở làm rõ những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo
đức tôn giáo trong quá trình xây dựng đạo đức mới. Luận văn góp phần đề
xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh
hưởng tiêu cực của đạo đức tôn giáo trong xây dựng đạo đức mới hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Lịch sử các tôn giáo cho thấy, khi tôn giáo tồn tại trong bất cứ một
xã hội nào đó thì ít, nhiều nó đều có ảnh hưởng tới đạo đức, lối sống của xã
hội đó. Điều này cũng được kiểm chứng qua lịch sử các tôn giáo tồn tại ở
Việt Nam. Như vậy, cũng có nghĩa là tôn giáo đã từng ảnh hưởng tới các
dạng đạo đức trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Song ở đây luận văn tập
trung nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức tôn giáo đối với đạo đức mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng của Đảng ta về tôn giáo, đạo đức để phân
tích những vấn đề đặt ra.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chú ý sử dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời


5

chú trọng sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp lịch sử và
lôgic, phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh v.v...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
+ Trên cơ sở phân tích đạo đức của các tôn giáo, bước đầu luận văn
nêu lên một số đặc trưng của đạo đức tôn giáo và góp phần làm rõ một số
nét tương đồng và khác biệt giữa đạo đức tôn giáo và đạo đức mới.
+ Luận văn góp phần làm rõ ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của đạo
đức tôn giáo đối với quá trình xây dựng đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay.
+ Bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích
cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức tôn giáo trong xây dựng
đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
+ Về mặt lý luận:
Luận văn góp phần làm sáng tỏ tinh thần nghị quyết 24 của Bộ
Chính trị ban hành ngày 16.10.1990: "Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù
hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới".
+ Về mặt thực tiễn:
- Luận văn góp phần vào việc tìm ra những biện pháp thực hiện
nhiệm vụ của nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (1998) về chính sách văn hóa đối với tôn giáo: "Khuyến
khích ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện... trong tôn giáo, đồng thời
tuyên truyền, giáo dục khắc phục mê tín dị đoan...".
- Luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu cho việc tham khảo,

nghiên cứu và học tập bộ môn tôn giáo, đạo đức, triết học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và
mục lục, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.


6

Chương 1
MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO
VÀ ĐẠO ĐỨC MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

"Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ
thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực
xã hội. Nó ra đời, tồn tại, và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó con
người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh
phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con
người với con người, giữa cá nhân và xã hội" [14, tr. 12].
Trong bất cứ một xã hội cụ thể nào cũng cần hình thành những
nguyên tắc sống để con người tự nguyện tuân theo, nhằm bình ổn trật tự xã
hội, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội và cá nhân. Trong đời sống,
có những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức chung cho mọi thời đại (sống
thiện, trung thực, yêu quý lao động), nhưng vẫn có những nguyên tắc,
chuẩn mực chỉ phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Ngày nay, cả nước ta đang tiến hành sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa về các quan hệ đạo đức của
chúng ta đòi hỏi phải tạo ra được một môi trường mà như C. Mác đã nhấn
mạnh: Tự do của mỗi người không phải là sự chấm dứt tự do của người
khác, mà ngược lại, nó là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người.

Môi trường đạo đức theo định hướng xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ
quan điểm đạo đức cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là chống áp bức, bóc
lột, bất công tàn bạo. Con người đối với con người phải có văn hóa. Mỗi
người phải được phát triển toàn diện khả năng và nhân cách. Không phải vì
có cơ chế thị trường chúng ta mới đặt ra yêu cầu xây dựng nền đạo đức


7

mới. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã làm cuộc cách mạng phản
đế và phản phong. Đạo đức của giai cấp phong kiến cũng như đạo đức của
chủ nghĩa đế quốc và giai cấp tư sản đều là đối tượng cải tạo của cách
mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Lý tưởng đạo đức
nhất quán của Đảng và nhân dân ta là xây dựng một xã hội, trong đó các
quan hệ đạo đức giữa con người phải trong sáng, tương thân, tương ái, xã
hội công bằng và bình yên, mọi người được bình đẳng ấm no, tự do, hạnh
phúc, tiến bộ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng không phải từ trên
trời rơi xuống, và cũng không nảy sinh từ một mảnh đất trống trải, khô cằn.
Đạo đức cách mạng chỉ có thể ra đời trên cơ sở của nền đạo đức truyền
thống, là sự nối tiếp và phát huy đạo đức truyền thống lên một tầm cao
mới. Theo tinh thần đó, việc xây dựng nền đạo đức mới phải đi từ lịch sử
tới hiện tại, từ truyền thống tới cách tân. Truyền thống tuy sinh thành trong
lịch sử nhưng lại là một thành phần quan trọng trong tích hợp, trong hạt
nhân văn hóa của xã hội hiện thực. Vì vậy, việc xây dựng đạo đức mới
không thể là sự đoạn tuyệt với lịch sử. Thái độ khoa học là cần kế thừa có
phê phán, chắt lọc lấy những tinh hoa hợp lý trong di sản truyền thống để
phục vụ cho cuộc sống hôm nay. Vì vậy việc xây dựng nền đạo đức mới
vừa phải kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, vừa phải
chắt lọc những tinh hoa có thể có ở các dạng đạo đức khác, mà trong đó có

đạo đức tôn giáo.
1.1. MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA ĐẠO ĐỨC TÔN GIÁO

1.1.1. Hướng con người tới khát vọng hạnh phúc
Phạm trù "Hạnh phúc" là một trong những phạm trù cơ bản của đạo
đức học. Qua các thời đại lịch sử, con người luôn luôn khát khao, mơ ước
tìm kiếm hạnh phúc. Mọi cố gắng của con người đều đi đến thực hiện lý


8

tưởng tối cao của mình, đó là hạnh phúc cho cá nhân, cho gia đình, cho dân
tộc, cho xã hội. Hạnh phúc có tính lịch sử cụ thể, vì mỗi thời đại lịch sử,
mỗi một con người trong những hoàn cảnh khác nhau, có quan niệm về
hạnh phúc khác nhau. Vì vậy, trong lịch sử loài người đã tồn tại nhiều quan
niệm hạnh phúc khác nhau. Có người cho rằng, hạnh phúc là sự thỏa mãn
và đáp ứng những nhu cầu cụ thể, đó là điều kiện sống, địa vị xã hội, điều
kiện tham gia công tác, học tập... của mỗi người. Người lao động quan
niệm về hạnh phúc khác với quan niệm của giai cấp thống trị bóc lột.
Người ở các lứa tuổi, các vùng khác nhau, có những quan niệm hạnh phúc
khác nhau.
Đạo đức học Mác - Lênin quan niệm rằng "Hạnh phúc là một phạm
trù cơ bản của đạo đức học, là mối quan tâm lớn, là mục đích của con
người. Nó bắt nguồn và tồn tại trong cuộc sống, hiện thực như những cảm
nhận, phân tích, đánh giá có tác dụng mạnh mẽ đến ý nghĩa, hành vi, quan
hệ giữa con người với con người và giữa con người với xã hội" [14, tr. 87].
Nếu xét về đạo đức các tôn giáo ta có thể khẳng định: hầu như tôn
giáo nào cũng đề cập, hướng con người tới khát vọng hạnh phúc, dù rằng
cái hạnh phúc đó theo quan niệm của các tôn giáo có khác nhau và khác với
quan niệm mác xít.

Trước hết, ta hãy xem xét trong đạo đức Phật giáo. Với Phật giáo
trạng thái Niết Bàn là hạnh phúc siêu việt, một trạng thái an lạc tuyệt đối,
khi con người được giải thoát tức là khi con người đã đạt đến sự giác ngộ
cao. Tuy vậy, trong cuộc sống hàng ngày, Phật giáo vẫn quan niệm có
những trạng thái hạnh phúc khác nhau của con người. Và để đạt được hạnh
phúc đó con người phải sống có đạo đức và khuyến khích người khác cũng
sống có đạo đức. Nhưng sống có đạo đức theo quan niệm của nhà Phật là
phải thực hiện tốt các giới răn mà Phật giáo đã nêu ra. Với ý nghĩa đó,


9

trong lời dạy cho giới Tỳ-kheo xuất gia, đức Phật đặc biệt nhấn mạnh:
"Một đời sống đạo đức là một đời sống hạnh phúc" [10, tr. 16]. Đồng thời
Đức Phật dạy các đệ tử hãy tôn trọng giới luật, tức là sống có đạo đức để
đảm bảo một đời sống hạnh phúc cho chính mình và đem lại hạnh phúc cho
mọi người: "Thành tựu năm pháp, Tỳ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và
đem lại hạnh phúc cho người. Thế nào là năm? Vị Tỳ kheo tự mình đầy đủ
giới hạnh và khuyến khích người khác đầy đủ giới hạnh. Tự mình đầy đủ
Thiền định và khuyến khích người khác đầy đủ Thiền định. Tự mình đầy
đủ trí tuệ và khuyến khích người khác đầy đủ trí tuệ. Tự mình đầy đủ giải
thoát và khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát. Tự mình đầy đủ giải
thoát tri kiến và khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát tri kiến. Đầy đủ
năm pháp này, này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và
đem lại hạnh phúc cho người" (Tăng chi II, tr. 20) [10, tr. 17]. Đạo đức
Phật giáo còn chia ra từng thứ bậc của hạnh phúc để khuyến khích các phật
tử từng bước tu dưỡng tới hạnh phúc. Theo nguyên tắc, phép tu từ Nhân
Thừa đến Bồ Tát Thừa thì mỗi phép tu có bao nhiêu điều, đắc bấy nhiêu là
hạnh phúc. Nhưng đó là hạnh phúc của những người tu hành. Đối với đời
thường, để diễn giải cụ thể cái hạnh phúc cơ bản của một con người, đức

Phật có thuyết pháp cho ông Cấp - Cô - Độc (Anatha pin di ka), một đại thí
chủ quan trọng nhất khi Phật còn tại thế. Trong đó, đức Phật chia ra bốn
loại hạnh phúc: Hạnh phúc có vật sở hữu là hạnh phúc do mình tạo nên vật
sở hữu, bằng sự cố gắng nỗ lực của chính sức mình; hạnh phúc có tài sản là
hạnh phúc mà mình đã tạo nên tài sản bằng sự nỗ lực cố gắng giống như
tạo ra vật sở hữu; hạnh phúc không mang nợ là mình không nợ ai bất cứ
món nợ lớn nhỏ nào cả về vật chất và tinh thần; hạnh phúc không bị khiển
trách là nói về vấn đề tự trọng của con người. Trong bốn loại hạnh phúc đó,
thì ba loại đầu thuộc về kinh tế, vật chất, còn loại thứ tư thuộc về hạnh


10

phúc của tâm hồn, phát sinh từ một đời sống trong sạch và lương thiện.
Theo đức Phật, ba loại hạnh phúc đầu không bằng một phần mười sáu của
hạnh phúc thứ tư, vì đây thuộc về giá trị con người. Như vậy hạnh phúc
trước hết là sự an tâm, sự yên tĩnh của tâm hồn là hạnh phúc lớn hơn tất
cả...
Trong đạo đức Công giáo, khi bàn về hạnh phúc, các nhà Thần học
Công giáo đã chia mức độ của hạnh phúc thành hai loại: Hạnh phúc tương
đối để chỉ các mức độ của cảm giác con người về sự thỏa mãn những nhu cầu
cụ thể trong cuộc sống ở trần gian và hạnh phúc tuyệt đối là hạnh phúc
hoàn hảo, toàn phúc để chỉ mức độ tuyệt đỉnh, hoàn mỹ của cảm giác con
người về sự thỏa mãn mọi nhu cầu của con người trong cuộc sống ở Thiên
đường.
Hạnh phúc tuyệt đối ở nơi Thiên đường, thường được Kinh thánh
diễn tả cho dễ hiểu bằng nhiều hình ảnh cụ thể như: Thái bình, đời sống
vĩnh cửu, niềm vui Chúa ban, thiên triều vinh hiển, thiên quốc, nơi cực
thánh... Và trong Tân cước, Thiên đường ấy còn được gọi bằng cái tên
"Nước Đức Chúa Trời". Cũng trong Tân ước, sách khải huyền của Thánh

Giắc đã mô tả về cuộc sống của những con người đã được chọn vào "Nước
Đức Chúa Trời ": "Họ sẽ không còn đói khát nữa, cũng chẳng bị mặt trời và
hơi nóng nung đốt nữa. Vì Chiên Con ở giữa ngai sẽ chăn giữ và hướng
dẫn họ đến các suốt nước sự sống. Đức Chúa Trời sẽ lau sạch tất cả các
giọt lệ nơi mắt họ" [54, tr. 485 ]. Người trong "Nước Đức Chúa Trời" sẽ là
công dân thiên quốc, mặc áo dài tinh bạch, đầu đội vòng hoa, tay cầm cành
lá kè và ngồi với Chúa để xét xử dân các nước. Nói chung các sách trong
Kinh Thánh đều mô tả cuộc sống nơi Thiên đường là yên hàn, vô lo, hết
khổ, không còn chết nữa, con người hoàn toàn giác ngộ về chân lý, nhất là
được hưởng trọn tình yêu thương của Thiên Chúa như Con thảo trong nhà Cha


11

mình. Ở đó lòng người được mãn nguyện bởi được thông phần vĩnh phúc với
Thiên Chúa trong hiểu biết và yêu thương: "Mọi sự của con đều là của Cha và
sự gì của Cha cũng là của Con" [37, tr. 176]. Vì thế các nhà Thần học đã coi
hạnh phúc mãn nguyện đời người là được nhìn thấy Thiên Chúa.
Đối với hạnh phúc trần thế (hạnh phúc tương đối), lúc đầu các tác
giả sách Cựu ước cho rằng đó là việc thỏa mãn những nhu cầu, khát vọng
trong cuộc sống, hạnh phúc là những điều tốt lành và là mục tiêu mà con
người hướng tới. Đối lại, bất hạnh là một điều xấu mà trong mọi điều kiện
con người cần phải xa lánh. Về sau trong sách Tân ước các tác giả hướng
con người tới những hạnh phúc trần thế không chỉ là sự thỏa mãn nhu cầu
mà còn là sự chấp nhận hoàn cảnh của mình để hướng tới hạnh phúc nơi
Thiên đường. Trong Bài giảng trên núi, Chúa Giê-su đã hướng con người
tới một chương trình hạnh phúc trần thế giành cho những người nghèo
nhưng có tấm lòng trong sạch, giàu tình thương và chấp nhận mọi gian khổ,
hy sinh để làm sáng danh Chúa: "Phúc cho người nghèo khổ trong tâm linh,
vì Nước Thiên Đảng thuộc về họ; phúc cho người than khóc, vì sẽ được an

ủi. Phúc cho người khiêm nhu, vì sẽ được thừa hưởng đất; phúc cho người
đói khát sự công chính, vì sẽ được no đủ, phúc cho người đầy lòng thương,
vì sẽ được thương xót; phúc cho người có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức
Chúa Trời; phúc cho người hòa giải vì sẽ được gọi là con cái Đức Chúa
Trời; phúc cho người vì sự công chính mà chịu bắt bớ, vì Nước Thiên Đàng
thuộc về họ; phúc cho các con khi bị người ta mắng nhiếc, ngược đãi và vu
cáo đủ điều ác vì cớ Ta (Giê-su)" [54, tr. 7]. Như vậy từ đó có thể thấy rằng
trong cuộc sống trần thế con người có hai điều hạnh phúc chính, bao hàm
mọi điều hạnh phúc khác: đó là sự khó nghèo, vì từ nay những người hạnh
phúc trên trần gian không còn là những tay cự phú, những người no say,
những kẻ được tâng bốc; đó là sự bị bách hại vì tình yêu Thiên Chúa, vì


12

những người bị bách hại đó sẽ được vào Nước Thiên Đàng trong ngày tận
thế.
- Với đạo Cao Đài, muốn xây dựng một cuộc sống hạnh phúc,
không phải là đấu tranh xóa bỏ bóc lột mà phải luyện đệ nhị xác thân cho
đầy đủ sự tinh khiết, là phải thương loài vật, thương tất cả để chấm dứt cái
oan nghiệt (tức là chấm dứt sự hận thù, thù địch nhau mà tranh tranh, đấu
đấu không ngừng - Theo Phạm Công Tắc), cứu vớt quần sinh thoát khỏi
vòng địa lạc hoàn toàn. Và đối với đạo Cao Đài thì chính đạo đức con
người là cái thang vô ngần bắc cho con người leo đến phẩm vị tối cao, tối
thượng là ngang bậc "cùng Thầy" hoặc "hơn Thầy" ("Thầy" chỉ Phạm
Công Tắc). Vì lẽ đó Cao Đài khuyên con người nên tu hành, làm đủ phận
người, công bằng chính trực để khi hồn lìa xác thì cứ theo đẳng cấp gần
trên mà luân hồi lên mãi. Tuy nhiên, nếu như vậy thì cũng biết chừng nào
mới hiệp hội cùng "Thầy". Vì thế, "Thầy" cho một quyền rộng rãi hơn cho
cả nhân loại càn khôn thế giới biết là: nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở

về cùng "Thầy" - giữ trọn con đường tu hành, sẽ sớm trở về "Bạch Ngọc
Kinh", nơi mà đạo Phật gọi là Niết Bàn.
1.1.2. Tính hướng thiện, tránh ác
Tính hướng thiện, tránh ác là một đặc trưng cơ bản của đạo đức các
tôn giáo. Có thể nói, thiện, ác là hai phạm trù có vai trò trọng yếu trong hệ
thống đạo đức của mọi tôn giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng.
Trong quan niệm về Thiện, ác, Phật giáo chú trọng đến phạm trù thiện hơn,
bởi với Phật giáo thiện không chỉ là một chuẩn mực đạo đức, mà còn là
một phương tiện thiết thực để giải thoát. Phật giáo quan niệm thiện là bản
chất thường trụ của pháp giới (Phật tính), nên một đồ tể chỉ cần quẳng con
dao, chịu khó tu đạo là có thể đạt thiện tâm, ngược lại là tội ác, phải chịu
cảnh trầm luân, khổ ải. Trong Phật giáo nội dung của thiện, ác được kết tập


13

trong Kinh tạng nguyên thủy, văn hệ Pa-li, và được duy trì một cách liên
tục, nhất quán cho đến nay hầu như không thay đổi gì mấy, kể cả trong thời
kỳ Phật giáo Bộ Phái và Phật giáo Đại Thừa.
Quan điểm về thiện được trình bày rất rõ ràng, đặc biệt là trong tác
phẩm "Kinh thập thiện". Thiện là "lành, có đạo đức tốt", trái lại là ác,
"Kinh thập thiện" có bốn phần chính:
Phần đầu nói về thế và xuất thế gian. Theo Phật, tất cả sự xấu xa
hoặc tốt đẹp ở cuộc đời và trên bậc Thánh đều là do hành động của thân miệng - ý tạo nên. Tâm ý tốt, lời nói và việc làm tốt, giúp ích cho đời ở cả
hiện tại và tương lai. Ngược lại tâm ý xấu dẫn đến lời nói và cả việc làm
không tốt đẹp, đem lại tai ương cho cuộc đời ở cả hiện tại và tương lai.
Theo Kinh Thập thiện "Tất cả hình sắc, chủng loại của chúng sinh có khác
nhau đều do tâm tạo thiện hoặc bất thiện nơi thân, ngữ, ý gây ra" [10, tr.
84].
Phần thứ hai nói về hình tướng của Thập thiện qua thân, miệng, ý:

Thân không được giết hại sinh vật, trộm cắp và tà hạnh. Miệng không nói
dối, không nói châm chọc, không nói thêm bớt và không nói độc ác.
Ý không tham, sân, si
Phần thứ ba nói rằng nếu con người thực hành "thập thiện" sẽ có
những hiệu quả tốt ở hiện tại và tương lai. Chẳng hạn, theo Kinh nhà Phật,
không giết hại sinh vật sẽ được pháp không bức não, thân ít bệnh, giúp cho
việc trường thọ... Không ai giết hại sinh vật sẽ không có sự oán thù...;
không trộm cắp sẽ được pháp bảo tín, giàu có không bị lường gạt, nhà nhà
không cần đóng cửa. Ngoài đường của đánh rơi được đem trả lại; không tà
hạnh được người hiểu biết ngợi khen, vợ chồng không bị ai xâm phạm tiết
hạnh, cuộc sống được thuần phong, mỹ tục; không nói dối, châm chọc,


14

thêm bớt, thô tục, miệng được thanh tịnh, nói không sai lầm được người tín
cẩn, gia đình, bạn bè, xóm làng hòa thuận, vui vẻ, tôn trọng lẫn nhau,
không tham, sân, si sẽ được tự tại, không gây oán hờn, kiện tụng, trí não
thanh thản, sáng suốt, phán đoán được mọi vấn đề trong cuộc sống.
Phần thứ tư cho rằng nhờ thực hiện Kinh thập thiện, con người sẽ
không còn ích kỷ mà vị tha, bằng cách thực hành lục độ, vạn hạnh như bố
thí, giữ giới, nhẫn nhục, siêng năng, hành thiền và trí tuệ. Rồi cũng từ đó
mở rộng tâm từ bi, hỷ xả...
Cũng theo nhà Phật, pháp thập thiên có tác dụng ngăn chặn các
hành vi độc ác, đối trị các hành vi không thiện, giải thoát tất cả những nỗi
khổ của việc sống, việc chết. Nếu ngoài việc thực hành thập thiện lại biết
đem giáo hóa cho mọi người, giúp cho mọi người hướng thiện, tức là đã
tựu đủ quả vị giác ngộ Bồ-đề. Cũng theo đạo đức phật giáo, trong thân,
miệng, ý thì tâm ý là chủ động. Tâm ý tốt làm cho lời nói và hành động tốt.
Tâm ý xấu thì lời nói hành động xấu. Bởi thế, khi kết tội người phạm giới,

phải xem xét có dụng ý hay không. Hành vi phạm giới có dụng ý là yếu tố
cấu thành tội. Trường hợp phạm giới, không dụng ý, dù cũng có tội, song
lại nhẹ hơn.
Bên cạnh Kinh thập thiện, đạo đức Phật giáo còn định ra "ngũ giới",
"bát giới" để hướng thiện theo những cấp độ khác nhau nhằm giáo dục tín
đồ. Trong đó "ngũ giới" là những giới luật cơ bản nhất. Đó là: Không sát
sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Cùng với "Ngũ giới" giáo lý về "tam độc" (tham, sân, si) trong đạo
đức Phật giáo đã phân biệt rành rọt đâu là thiện, đâu là bất thiện mà con
người cần theo và cần tránh, tham là bất thiện, vô tham là thiện, sân là bất
thiện, vô sân là thiện. Si là bất thiện, vô si là thiện. Sát sinh là bất thiện,


15

không sát sinh là thiện. Tà dâm là bất thiện, từ bỏ tà dâm là thiện. Nói dối,
nói ác là bất thiện, từ bỏ nó là thiện, không uống rượu làm tổn hại sức khỏe
dẫn đến mất trí là bất thiện, từ bỏ là thiện...
Với đạo cơ đốc, kinh thánh đã xem Thiên Chúa là cái Thiện toàn
năng, tức là xem Thiên Chúa là hình mẫu lý tưởng của cái Thiện mà các tín
đồ phải nói theo: "Các con hãy toàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng
toàn hảo" [54, tr. 9]. Từ quan niệm về cái Thiện, Kinh thánh đi đến đề cập
về nhân đức, là những hành vi đạo đức tốt ở con người trong cuộc sống, là
biểu hiện cụ thể của cái thiện. Khi con người trở nên bất lực trong việc chế
ngự dục vọng và không làm chủ được mình thì tội lỗi, tật xấu xuất hiện và
nhân đức sẽ lu mờ. Sau khi con người phạm tội (tội tổ tông) - bất tuân luật
Chúa thì cái ác đã xuất hiện và tràn lan trên trái đất. Cái ác còn có nguồn
gốc từ quỷ dữ là địch thủ của cái thiện, là kẻ thù của Thiên Chúa và của
mọi tín đồ Công giáo. Nói cách khác, cái ác xuất hiện ở trần thế là do sự
kết hợp giữa quỷ giữ và các tật xấu trong con người. Hậu quả của cái ác

con người phải gánh chịu, đó là sự trừng phạt bằng đau khổ, chết chóc,
bệnh tật... thậm chí giới tự nhiên cũng nổi giận, đất sinh ra gai góc để
chống lại con người... Kinh thánh cho rằng con người có bảy tật xấu cơ bản
(bảy mối tội đầu): Kiêu ngạo, dâm ô, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, lười
biếng. Đây là nguồn gốc phát sinh ra các tội và các tật xấu khác. Đối với
kinh thánh trong hành trình con người đi tìm Chúa là phải đi theo con
đường Chúa đã vạch ra, phải tuân theo những lời Chúa phán truyền, noi
gương Chúa mà trở nên người thiện. Vì vậy sự hướng thiện trong Kinh
thánh là nằm trong hành trình con người đến với hạnh phúc vĩnh cửu nơi
Thiên đường. Nhưng thái độ hướng thiện của Kinh thánh thời Cựu ước còn
mang tính tích cực hơn so với thời Tân ước. Bởi ngoài việc khuyên dạy con
người làm những điều lành như nhau thì thời Cựu ước "Kinh thánh còn cho
phép con người thù ghét kẻ tội lỗi, và không được đồng lõa với cái ác. Dân


16

kinh thánh được phép sử dụng luật báo thù" [54, tr. 61]. Nhưng đến thời
Tân Ước thay cho quan niệm này, Kinh thánh khuyên con người trong mọi
trường hợp phải lấy thiện báo ác, lấy ơn báo oán. Chẳng hạn, trong điều
luật nói về thẩm quyền của Đức Chúa Con, có viết "Ai làm việc thiện sẽ
sống lại để được sống. Còn ai làm điều ác sẽ sống lại để nhận án phạt" [54,
tr. 186].
Kinh thánh trong Tân ước cũng khuyên các tín hữu phải biết xa
lánh những điều dữ, luôn luôn làm điều lành: "Đừng lấy ác báo ác cho ai
cả; hãy làm điều thiện trước mặt mọi người, đừng tự báo thù ai. Đừng để
điều ác thắng mình nhưng hãy lấy điều thiện thắng ác" [54, tr. 304].
Điều này được thể hiện rõ trong sách Tân ước, khi Thánh Mathi-ơ
mô tả cuộc nói chuyện giữa đức Giê-su với một tín đồ: "Có một người đến
hỏi đức Giê-su: Thưa thầy tôi phải làm điều thiện nào để được sống vĩnh

phúc? Ngài đáp: Tại sao anh hỏi Ta về việc thiện? Chỉ có một đấng Toàn
thiện mà thôi. Nếu muốn được sự sống ấy hãy giữ các điều răn". Người đó
lại hỏi: "Những điều răn nào?" Đức Giê-su đáp: "Đừng giết người, đừng
ngoại tình, đừng trộm cắp, đừng làm chứng dối. Hãy hiếu kính cha mẹ và
thương yêu người lân cận như chính mình" [54, tr. 38].
- Giáo lý đạo Hòa Hảo là sự kết hợp, pha trộn bởi nhiều tư tưởng và
được trình bày dưới hình thức diễn nôm với mức độ bình dân, dễ hiểu,
nhưng trong giáo lý đó cũng có cả một quyển sấm giảng thứ 5 với tựa đề:
"Khuyến thiện". Chẳng hạn, đối với người phụ nữ, bên cạnh việc phê phán
các thói hư tật xấu: xa hoa, lẳng lơ... đạo Hòa Hảo yêu cầu:
"Phải gìn dục vọng lòng tà
Đừng chiều theo nó vậy mà hư thân
Nghe lời cha mẹ cân phân


17

Tam tòng vẹn giữ lập thân buổi này" [50, tr. 69].
Ngay trong "lời dặn dò bổn đạo", giáo lý Hòa Hảo cũng chỉ rõ phải
biết hiểu đúng "Tứ đế", biết suy nghĩ đúng, biết giữ nghiệp chính, không
làm nghiệp xấu, biết rèn luyện, tu tập không mệt mỏi, có niềm tin vững bền
vào sự giải thoát:
"Đạo mầu bát chánh ráng ghi
Thứ nhất chánh kiến việc chi xem mình
Luận bàn chân lý cho minh
Chuyện chi xét đoán xảo - tinh mới là
Thứ nhì chánh mạng vậy mà..." [51, tr. 73]
Hoặc: "Thứ năm tinh tấn hội đàm
Sạch trong kỹ lưỡng mà làm mới ngoan
Thứ sáu chánh ngữ liêu toan

Nói năng điều chánh thì an lo gì
Thứ bảy chánh niệm vậy thì
Khi cầu, khi niệm chuyện gì thật tâm
Thứ tám chánh định chớ lầm..." [51, tr. 73].
1.1.3. Tính nhẫn nhục, cam chịu
Hầu hết giáo lý của các tôn giáo đều có những điều khuyên răn con
người, khuyên răn các tín đồ phải nhẫn nại, cam chịu. Nếu chỉ giới hạn sự
nhẫn nại trong những hoàn cảnh cần thiết thì lại khác, nhưng sự nhẫn nại
trong đạo đức các tôn giáo là sự nhẫn nại trong mọi hoàn cảnh, không có
giới hạn, đến mức nó trở thành nhẫn nhục, cam chịu.


18

Trong đạo đức Công giáo, sự nhẫn nhục cam chịu đạt đến đỉnh cao.
Điều này được thể hiện trong quan niệm của Kinh thánh thời Tân ước đối
với kẻ thù và đối với kẻ ác. Những trường hợp bị kẻ ác xúc phạm thân thể
và xâm phạm của cải, Kinh thánh vẫn khuyên tín đồ không được mảy may
có hành động chống cự: "Đừng chống cự kẻ ác. Nếu ai vả má bên phải hãy
đưa luôn má bên kia cho họ. Nếu ai muốn kiện con để lấy áo ngắn, hãy để họ
lấy luôn áo dài. Nếu ai bắt con đi một dặm, hãy đi với họ hai dặm" [54, tr. 9].
Thậm chí ngay cả khi trong cơn hoạn nạn, bị bức hại, Kinh thánh
Tân ước vẫn khuyên các tín đồ nên vui mừng hy vọng, không chỉ đừng
hành động chống cự mà còn đừng cả nói lời chống cự (nguyền rủa). Vượt
lên trên sức chịu đựng ấy, Kinh thánh còn khuyên tín đồ hãy chúc phúc cho
kẻ bức hại mình và kiên nhẫn cầu nguyện Chúa: "Hãy vui mừng trong hy
vọng, nhẫn nại trong cơn hoạn nạn, kiên tâm cầu nguyện. Hãy chúc cho kẻ
bức hại anh chị em, hãy chúc phúc đừng nguyền rủa". Hơn thế nữa, Kinh
thánh còn khuyên các tín đồ, nếu kẻ bức hại mình có đói khát thì hãy cho
ăn, cho uống và cũng đừng nghĩ đến sự trả thù nó, bởi mọi sự đã có Chúa

anh minh phán xét: "Anh chị em thân yêu, đừng tự báo thù ai, nhưng hãy
nhường chỗ cho cơn thịnh nộ của Chúa, vì Thánh kinh đã chép: "Sự báo trả
thuộc về Ta; Ta sẽ báo ứng!" Chúa phán vậy ". Nhưng nếu kẻ thù anh chị
em đói, hãy cho ăn, có khát hãy cho uống... [54, tr. 304]. Bị kẻ thù bức hại
mà không được nghĩ sự chống cự, không được nói lời chống cự và không
được làm hành động chống cự, lại còn phải nuôi ăn, nuôi uống và chúc
phúc cho kẻ thù. Như thế vẫn chưa đủ, Kinh thánh còn dạy tín đồ phải biết
thương yêu kẻ thù nữa "Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các con
" [54, tr. 9]. Cũng trong Kinh thánh của sách Tân ước có đoạn viết: "Hễ ai
tìm cách bảo tồn mạng sống thì sẽ mất, nhưng ai chịu mất mạng sống thì sẽ
bảo toàn được nó" [54, tr. 153]. Đây là những thái độ "tạo thuận lợi" cho kẻ
thù, cho cái ác mặc sức hoành hành, một mặt thể hiện tính chịu đựng, chịu


19

nhục, kiên tâm chờ đợi đến khi kẻ thù đã "chán, chê", mặt khác còn thể
hiện sự hèn nhát và ích kỷ. Bởi vì trước kẻ thù, trước cái ác, trước cái chết
con người có quyền được tự vệ chính đáng. Như thế, quả là tinh thần nhẫn
nhục cam chịu trong đạo đức Công giáo đã đạt đến điểm đỉnh.
- Trong đạo đức Phật giáo, sự nhẫn nhục được xem không phải là
sự khiếp nhược, yếu hèn, cam chịu, mà được coi là hành động dũng cảm,
cao thượng. Bởi đức Phật luôn dạy các đệ tử phải nhẫn nhục trước những
trường hợp khó khăn nhất. Theo đức Phật, người nào nhẫn được trong
trường hợp ấy mới xứng đáng là bậc Đại sĩ dũng cảm, cao cả hơn người:
"Này, các thầy Tỳ-kheo, ai thực hành đức nhẫn mới được mệnh danh là bậc
đại

nhân




sức mạnh. Kẻ nào không thể tiếp nhận những lời nhục mạ một cách hoan
hỷ như uống nước cam lồ, kẻ ấy không được ca ngợi là bậc thượng nhân có
trí" [10, tr. 54].
Đạo đức Phật giáo không chỉ khuyên các đệ tử nhẫn nhục tiếp nhận
những lời nhục mạ một cách hoan hỷ, mà còn coi sự nhẫn nhục cam chịu là
một thứ vũ khí để đối phó với những kẻ xâm phạm đến đời sống của mình,
như trong Bồ - tát giới mô tả: "Nếu là phật tử thì không được đem sự giận dữ
đáp lại sự giận dữ, cũng không được nuôi hận thù đối với những kẻ đã tàn sát
cha mẹ, anh em, chú bác của mình. Tóm lại, làm tổn thương sự sống để trả
thù sự sống là điều trái ngược với đức hiếu sinh của đạo Bồ tát" [10, tr. 53].
Theo Phật giáo quan niệm, kẻ thù đích thực từng gây đau thương, thống
khổ, bất tận cho nhân loại chính là tam độc tham, sân, si, chứ không phải là
những con người bằng xương, bằng thịt có những hành vi độc ác. Do tham,
sân, si thúc đẩy mà có người đã biến thành kẻ trộm, kẻ cướp, kẻ giết người,
gây đau khổ cho bao người. Do tham, sân, si mà có những tập đoàn người
ngông cuồng thực hiện mộng xâm lăng, đi xâm chiếm đất đai nước khác...
Vì thế, Phật giáo cho rằng những người mà ta xem là kẻ thù kia chẳng qua


20

cũng chỉ là nạn nhân của những hoàn cảnh lịch sử, địa lý, chính trị và đặc
biệt là nạn nhân của tham, sân, si, không nên trả thù họ, hãy nhẫn nhục cam
chịu. Nhẫn nhục, cam chịu cũng là cách thể hiện sự mở rộng tấm lòng
khoan dung cho họ, để cảm hóa họ. Bởi nếu không, dùng oán để trả oán thì
oán sẽ chất chồng, khó mà dứt được dòng vay trả, trả vay bất tận:
"Hận thù diệt hận thù,
Đời này không thể có

Từ bi diệt hận thù,
Là định luật ngàn thu" [10, tr. 53].
- Đối với đạo hòa Hảo, biết nhẫn nhịn trên mọi phương diện tức là
đã biết trau sửa tâm tính để đạt tâm đức của người hiền - Một mẫu hình lý
tưởng trong sự tu nhân của hòa Hảo. Sự nhẫn nhịn ấy được giáo lý chỉ ra
thành một loạt thứ nhẫn. Trong đó:
Nhẫn thứ nhất là nhẫn nhịn trong ứng xử cuộc sống:
"Chữ thứ nhất nhẫn năng xử thế
Là người hiền khó kiếm trên đời" [51, tr. 62].
Nhẫn thứ hai là nhẫn giới trì tâm, nghĩa là răn lòng cẩn thận mọi
việc muốn thành công thì trước hết phải biết nhẫn nhục. Thiếu sự nhẫn thì
lòng ắt nóng nảy, hời hợt, vọng động, không thể tu thân được:
"Chữ nhẫn giới trì tâm trong trẻo
Khuyên dương trần giữ phận làm đầu" [51, tr. 62].
Nhẫn thứ ba, thứ tư là nhẫn nhịn trong quan hệ tình làng, nghĩa
xóm, trong quan hệ vợ chồng phu - phụ, để xây dựng cuộc sống bình yên,
vợ chồng thuận hòa.
"Nhẫn hương lân cùng khắp đâu đâu
Trên cùng dưới đều hòa ý hỷ


21

Nhẫn phụ - mẫu gọi trang hiền sĩ
Phận xướng tùy chồng vợ nhịn nhau" [51, tr. 62]
....
1.1.4. Đề cao luân lý gia đình
Trong giáo lý nói về đạo đức của mỗi tôn giáo, đều có phần dành
riêng để nói về luân lý gia đình. Đó là những chuẩn mực, những quy định
mà mỗi tôn giáo đặt ra cho con người trong việc xử lý các mối quan hệ

giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái v.v...
Chẳng hạn, đạo đức Thiên Chúa giáo ít nói tới cộng đồng rộng lớn
nhưng lại rất quan tâm đến gia đình, bởi lẽ đối với đạo Công giáo gia đình
là đền thờ tại gia, là nơi được mời gọi chuyển giao đức tin của tiền nhân, là
nơi vun trồng các truyền thống tôn giáo, là nơi cùng nhau dâng lời cầu
nguyện lên Thiên Chúa và là nơi thể hiện các niềm tin tôn giáo trong cuộc
sống. Luân lý gia đình trong đạo đức Kinh thánh đề cập đến hai mối quan
hệ chủ yếu: Quan hệ vợ chồng; quan hệ cha mẹ, con cái.
Hôn nhân là một chủ đề được Kinh thánh quan tâm đặc biệt. Trong
thập giới thì có điều 6 và điều 9 ngăn cấm các hành vi tội lỗi trong quan hệ
tình dục để bảo vệ hôn nhân. Đặc trưng của hôn nhân trong Kinh thánh là
hôn nhân một vợ một chồng, và hôn nhân bất phân rẽ. Vợ chồng phải sống
thương yêu, hòa thuận và thủy chung với nhau cho đến chết, bởi lẽ Chúa
Giê-su đã phán dạy: "Những người Đức Chúa Trời đã kết hợp thì loài
người không được phân rẽ" [54, tr. 38]. Tín điều này đến nay vẫn được
Công đồng Va-ti-căng II khẳng định: "Vì sự hiến dâng của hai người cho
nhau, vì sự kết hợp mật thiết giữa hai người, cũng như vì lợi ích của con
cái, vợ chồng phải trung thành toàn diện đối với nhau, cũng như giữa hai
người có một sự hợp nhất không thể phá vỡ được" [70, tr. 129]. Song,
ngoại trừ trường hợp vợ ngoại tình, lúc đó người chồng muốn ly dị mới


22

được giáo hội cho phép. Cùng với thời gian, phẩm giá người phụ nữ trong
quan hệ hôn nhân đã được nâng lên bình đẳng với nam giới. Điều này được
thể hiện trong sách Tân ước, với việc làm và lời nói của mình, Chúa Giê-su
đã khẳng định rằng phụ nữ cũng được kính trọng như nam giới. Ngài đã đòi
hỏi sự chung thủy tuyệt đối cả từ phía người chồng lẫn người vợ và bác bỏ
quyền li dị không phải chỉ đối với người đàn bà mà cả đối với người đàn

ông: "Ta nói cho các ông rõ: Trừ trường hợp vợ tà dâm, nếu ai ly dị vợ mà
cưới người khác, thì phạm tội ngoại tình" [54, tr. 38].
Trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái, đạo đức Công giáo quy định
con cái phải "Thảo kính cha mẹ", đây là điều răn thứ tư, một trong mười
điều răn dạy của Thiên Chúa, đã được khắc vào bia đá, ban cho Mai-sen, tổ
phụ của dân Do Thái. Thảo kính cha mẹ theo Kinh thánh phải thực hiện đủ
bốn việc sau: Nể trọng, tôn kính cha mẹ, cho dù tuổi tác hay kiến thức (kể
cả tài năng hay địa vị) của cha mẹ và con cái chênh lệch nhau đến mức nào;
vâng phục cha mẹ; yêu quý và biết ơn cha mẹ; đùm bọc, giúp đỡ cha mẹ
trong cuộc sống. Kinh thánh còn nêu rõ, nếu không thảo kính cha mẹ sẽ
phạm tội nghịch cùng điều răn thứ tư: "Ai cười nhạo cha và không tuân
phục mẹ theo bổn phận, kẻ ấy sẽ bị quạ tới mổ xác bên bờ suối và chim kền
kền xẻ thịt" [70, tr. 123]. Mặt khác khi đã phạm vào điều răn thứ tư, thì
cũng có thể mắc luôn các tội nghịch với các điều răn khác nữa, khi đó tùy
biểu hiện mà con cái có thể mắc tội trọng, tội nhẹ hoặc không có tội...
Đạo đức Công giáo cũng xác định rõ nghĩa vụ của cha mẹ đối với
con cái. Cha mẹ phải nuôi dưỡng và giáo dục con cái cho đến khi "luật
Chúa được khắc ghi trong tâm hồn nó" [70, tr. 123] (tức là đến khi con cái
trưởng thành). Mọi hành vi ứng xử trong gia đình và cộng đồng, cha mẹ
phải làm gương cho con cái như Chúa đã từng làm gương cho con người:


23

Đó là việc làm gương, như Đức Giê-su đã làm cho các môn đệ của mình
noi theo [70, tr. 124].
Vai trò của gia đình và giáo dục gia đình trong đạo đức Phật giáo
cũng rất được chú trọng. Điều này dễ thấy, bởi trong hệ thống đạo đức Phật
giáo, có cả một phương thức xây dựng cuộc sống gia đình với hai mối quan
hệ cơ bản: quan hệ giữa cha mẹ và con cái và quan hệ giữa vợ với chồng.

Đạo đức Phật giáo đã nêu ra một số nguyên tắc ứng xử để xây dựng tốt hai
mối quan hệ này.
Trong mối quan hệ thứ nhất, Đức Phật khuyên cha mẹ nên thực
hiện 5 điều đối với con cái: "Ngăn chặn con làm điều ác; khuyến khích con
làm điều thiện; dạy con nghề nghiệp; cưới vợ (gả chồng) xứng đáng cho
con và đúng thời điểm trao của thừa tự cho con" [10, tr. 29-30].
Điều này chứng tỏ Phật giáo xem vai trò của cha mẹ và giáo dục gia
đình rất lớn. Cha, mẹ không chỉ có bổn phận nuôi dưỡng con cái khôn lớn
mà có trách nhiệm giáo dục con cái trong gia đình làm theo những việc
thiện, tránh ác, trang bị cho con cái một nghề nghiệp trong cuộc sống. Trách
nhiệm của người cha, người mẹ đến khi cưới vợ, gả chồng xứng đáng cho con
vẫn chưa phải là hết mà còn phải lựa thời điểm, "trao của thừa tự cho con" để
giúp cho con cái có một cơ sở vật chất ban đầu trong cuộc sống tự lập
riêng. Khi cha mẹ già yếu, con cái phải có trách nhiệm phụng dưỡng cha
mẹ và thay cha mẹ gánh vác công việc gia đình. Điều này được thể hiện
trong năm bổn phận mà đạo đức Phật giáo quy định cho con cái đối với cha
mẹ: "Nuôi dưỡng cha mẹ; làm tròn bổn phận đối với cha mẹ; giữ gìn truyền
thống gia đình; bảo vệ tài sản thừa tự và tang lễ khi cha mẹ qua đời" [10, tr.
30].
Trong mối quan hệ vợ - chồng, đạo đức Phật giáo cũng quy thành
những bổn phận riêng cho người vợ, người chồng phải thực hiện, để đảm


24

bảo quan hệ thủy chung trong hôn nhân và duy trì cuộc sống hạnh phúc của
gia đình. Những bổn phận mà người chồng phải thực hiện đó là: "Phải kính
trọng vợ; thương yêu vợ; trung thành với vợ; giao quyền hành cho vợ và
sắm nữ trang cho vợ" [10, tr. 30]. Người vợ cũng phải thực hiện năm bổn
phận đối với chồng: "Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà

con (bên chồng); trung thành với chồng; théo giữ gìn tài sản của chồng và
khéo léo nhanh nhẹn trong công việc" [10, tr. 30].
Với đạo hòa Hảo, những quy tắc ứng xử trong gia đình như giữa
cha mẹ với con cái và giữa vợ với chồng cũng rất được quan tâm. Chẳng
hạn:
"Đạo cha - con chặt chẽ chữ miên trường
Đạo chồng - vợ thuận hòa cho đến thác" [51, tr. 70]
...
1.1.5. Tình yêu thương con người, vị tha
Thương yêu con người là một nét phổ biến trong đạo đức các tôn giáo.
- Trong đạo đức Công giáo, tình yêu thương được Kinh thánh nói
đến trên cả ba bình diện: Yêu thương mình, yêu thiên nhiên và yêu thương
tha nhân (yêu thương người khác), trong đó yêu thương tha nhân vẫn là
trọng tâm của quan niệm đạo đức về tình yêu. Kinh thánh cho rằng, con
người trước hết phải yêu mến Thiên Chúa rồi yêu thương đến chính bản
thân mình. Đó là tiền đề, là cơ sở để yêu tha nhân được chân thực: "Hãy
yêu mến Thiên Chúa trước hết, rồi đến bản thân ngươi, sau đó hãy yêu
thương người gần mình nhất như chính bản thân mình... Bởi vì, nếu ngươi
không yêu bản thân mình thì làm sao ngươi có thể yêu thương người gần
mình một cách chân thực" [55, tr. 310].
Cũng như con người, thiên nhiên là tạo vật của Thiên chúa. Vì vậy,
yêu Thiên Chúa thì con người phải yêu thiên nhiên. Tình yêu đó phải được


25

quy định thành nghĩa vụ chăm sóc thiên nhiên của con người, cho dù thiên
nhiên ấy là đất đai, cây trồng hay muông thú. Yêu chính mình và yêu thiên
nhiên, theo Kinh thánh đó đều là lẽ tất nhiên và được lấy làm thước đo để
so sánh với tình yêu tha nhân - Cốt lõi của giới răn bác ái trong đạo đức

Công giáo. Trong Tân ước, tác giả Phúc âm Lu-ca đã đưa ra ngoại diên của
"tha nhân" mà con người phải yêu thương không chỉ là đồng bào trong một
nước, hay tín đồ cùng một tôn giáo mà cả người ngoại kiều và ngoại đạo.
Như vậy giới răn yêu thương của Tân ước là không biên giới, không phân
biệt chủng tộc, giai cấp, giới tính, giàu nghèo, có tội hay không có tội, thậm
chí cho cả kẻ thù.
Nét nổi bật của lòng bác ái trong Tân ước là động cơ, hành vi phải
không vị lợi. Thương yêu phải chân thành, hết mình và phải được thể hiện
bằng hiệu quả thực sự của hành động. Cho dù vì nghèo túng hay khốn khó,
ta không thể làm được nhiều, song trong khả năng có thể ta vẫn phải hành
động vì đức ái: "Nếu gặp anh chị em nào đó thiếu cơm ăn, áo mặc, mà có
người bảo: "Chúc anh chị em bình an! Cứ mặc cho ấm, ăn cho no nhé!"
Nhưng không cung ứng cho họ nhu cầu thể xác, thì có ích lợi gì?" [54, tr.
445]. "Hỡi các con bé nhỏ, chúng ta đừng thương yêu chỉ bằng lời nói và
nơi chót lưỡi, nhưng hãy yêu thương thành thật và bằng hành động" [54, tr.
468]. Như vậy, tình yêu thương, bác ái của Công giáo không chỉ là tình yêu
thương bản thân, yêu thiên nhiên, mà còn là lòng mong muốn mọi sự được
êm đẹp với người đang túng thiếu, là sự nỗ lực làm điều tốt cho người ấy, một
cách cụ thể và làm bất cứ điều tốt nào có thể làm được. Không chỉ là hành
động vào những dịp đặc biệt như khi họ gặp bất hạnh, mà cả trong những
hoàn cảnh sống thường tình của con người và cả sự đối xử nhân đạo với kẻ
thù của mình.


×