Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về xây DỰNG KHỐI đoàn kết TOÀN dân TRONG KHỞI NGHĨA vũ TRANG GIÀNH CHÍNH QUYỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.69 KB, 56 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, Người cha
thân yêu của lực lượng vũ trang đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, và để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta những di sản tư tưởng
vô cùng quí giá. Đã gần một thế kỷ trôi qua, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn soi
đường, chỉ lối cho Đảng ta hoạch định đúng đắn đường lối và phương pháp cách
mạng, lãnh đạo nhân dân ta giành được nhiều thắng lợi to lớn. Chính vì giá trị to
lớn về lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam, nên Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (1991) đã khẳng định: Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách
mạng Việt Nam.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta xác định nghiên cứu phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ trong công tác
nghiên cứu lý luận của Đảng nhằm khám phá thêm những giá trị lý luận, thực
tiễn, để từ đó vận dụng sáng tạo vào xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng đất nước, nhất là trong chiến
lược xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Tình hình thế giới và khu vực đang diễn biến phức tạp, chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch đang ra sức chống phá cách mạng nước ta, chúng coi lĩnh vực
chính trị tư tưởng là trọng điểm và tập trung xuyên tạc, bóp méo, bôi nhọ chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm cho bản chất cách mạng, khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bị phai mờ trong nhận
thức của nhân dân ta. Vì thế nghiên cứu làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về
đoàn kết toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền là góp phần khẳng
định tính cách mạng, khoa học trong tư tưởng của Người, là cơ sở đấu tranh
chống lại mọi âm mưu thủ đoạn xảo quyệt của kẻ thù.
Với lý do cơ bản đó, thực hiện đề tài luận văn sẽ góp phần giải quyết được
những đòi hỏi cấp thiết của cách mạng Việt Nam đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài


Xung quanh tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc đã có nhiều công
trình khoa học của nhiều tác giả trong và ngoài quân đội thực hiện, được in thành
sách hoặc đăng trên báo, tạp chí.
Một số công trình sử học đã được công bố như: "Mặt trận Việt Minh" của
Nguyễn Thành [47]; "Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh" của
Trịnh Nhu [42]; "Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam" của
Võ Nguyên Giáp [17]; "Đảng Cộng sản Việt Nam trước những bước ngoặt lịch sử
của cách mạng" của Vũ Như Khôi [22]; "Sức mạnh dân tộc của cách mạng Việt
Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh" của Lê Mậu Hãn [20].


Các công trình khoa học trên mới chỉ đề cập một khía cạnh nhỏ tư tưởng
đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn một số chuyên luận khoa học đã được đăng trên các tạp chí
như: "Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự ra đời của Mặt trận Việt Minh" của Nguyễn
Trọng Phúc" [43]; "Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
vững chắc giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức" của
Dương Quốc Dũng [10]; "Bài học về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân
trong cách mạng tháng Tám với sự nghiệp đổi mới hiện nay" của Đoàn Ngọc
Hải [18]; "Cách mạng tháng Tám - bài học về phát động, tổ chức, lãnh đạo
quần chúng" của Vũ Như Khôi [23]. Cũng có đề cập đến tư tưởng đoàn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc.
Hoặc có đề tài luận văn về tư tưởng và hoạt động của Hồ Chí Minh về đoàn
kết dân tộc như: "Hồ Chí Minh nêu cao mục tiêu độc lập dân tộc nhằm tập hợp
lực lượng cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền 1945" của Phan
Hải Cường [5].
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một tác giả nào nghiên cứu một cách hệ
thống, đầy đủ, trực tiếp những cống hiến của Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Để làm sáng tỏ tư
tưởng đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một thời kỳ lịch sử quan

trọng, đề tài luận văn: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết toàn
dân trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền" sẽ góp phần thực hiện nhiệm
vụ đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích: Luận văn góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng khối đoàn kết toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong
một thời điểm lịch sử cách mạng (1941 - 1945). Đồng thời thấy được Đảng ta đã
vận dụng đúng đắn sáng tạo tư tưởng đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh trong
quá trình lãnh đạo toàn dân đứng lên giành chính quyền (1945) và phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung làm rõ mấy vấn
đề cơ bản sau đây:
- Phân tích làm rõ tính tất yếu phải khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền,
phải xây dựng lực lượng cách mạng cho khởi nghĩa vũ trang.
- Làm sáng tỏ những nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn
kết toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
- Làm rõ quá trình xây dựng khối đoàn kết toàn dân - xây dựng lực lượng
cách mạng trong cao trào giải phóng dân tộc của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí
Minh thời kỳ 1941 - 1945.
- Làm rõ sự vận dụng đúng đắn sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về tư
tưởng đại đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.


4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu đề tài
Cơ sở lý luận:
Đề tài luận văn dựa vào lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài.
Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp
lôgíc, ngoài ra còn sử dụng các phương pháp: thống kê, so sánh, phân tích tổng
hợp... trong từng nội dung.
5. Ý nghĩa luận văn
Với cách trình bày có hệ thống và tập trung về tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng khối đoàn kết toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1941 1945), luận văn làm sáng tỏ, sâu sắc hơn tư tưởng đại đoàn kết toàn dân khởi nghĩa
giành chính quyền của Hồ Chí Minh trong cao trào cách mạng chuẩn bị và tiến tới
cách mạng tháng Tám 1945. Trên cơ sở đó góp phần vào cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ
sự trong sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, giúp cho mỗi người nhận thức đúng đắn hơn,
khoa học hơn về tư tưởng đại đoàn kết toàn dân của Hồ Chí Minh. Đồng thời, thấy
được sự vận dụng sáng tạo tư tưởng đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh, của Đảng ta
trong việc xây dựng và phát huy sức mạnh dân tộc trong sự nghiệp đổi mới đất nước
hiện nay. Luận văn góp thêm một tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu và giảng
dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhà trường trong và ngoài quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo.
Chương 1
NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG KHỐI
ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG KHỞI NGHĨA VŨ TRANG GIÀNH
CHÍNH QUYỀN
1.1. Khởi nghĩa vũ trang và yêu cầu xây dựng lực lượng cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm khoa học toàn diện, sâu sắc và
cách mạng triệt để, đó là kho lý luận cách mạng vô cùng quý giá để lại cho các
thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau. Trong kho tàng lý luận quý giá đó, phải kể
đến tư tưởng về xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền.
Tư tưởng về khởi nghĩa vũ trang được Hồ Chí Minh đề cập trong nhiều bài
nói, bài viết của Người từ những năm nửa đầu thế kỷ XX, tập trung nhất ở tác
phẩm: “Bản án chế độ thực dân Pháp” năm 1925; “Đường cách mệnh” năm 1927;

“Chính cương sách lược vắn tắt” năm 1930; “Kính cáo đồng bào” năm 1941;
“Thế giới đại chiến và phận sự của chúng ta” năm 1941; “Chiến thuật du kích”


năm 1942; “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân” năm
1944.
Tư tưởng khởi nghĩa vũ trang của Người được thể hiện trên những nội dung
cơ bản sau đây:
Về lực lượng khởi nghĩa vũ trang: Bao gồm hai lực lượng cơ bản đó là lực
lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Lực lượng chính
trị giữ vai trò quyết định đến thắng lợi trong khởi nghĩa, lực lượng vũ trang nhân
dân giữ vai trò hỗ trợ cho lực lượng chính trị của quần chúng trong khởi nghĩa.
Ngoài lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang cách mạng được
xây dựng ở một mức độ nhất định, Hồ Chí Minh còn xác định Đảng Cộng sản đội tiên phong của giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang.
Về phương thức tiến hành khởi nghĩa: Hồ Chí Minh chỉ ra rằng khởi nghĩa
vũ trang được tiến hành trên cơ sở sử dụng hai lực lượng chính trị và quân sự,
đấu tranh với hai hình thức kết hợp: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Trong đó lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị giữ vai trò quyết định chủ yếu
đến thắng lợi trong khởi nghĩa vũ trang. Con đường khởi nghĩa vũ trang đi từ
khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
Về điều kiện và mục tiêu khởi nghĩa vũ trang: Hồ Chí Minh xác định khởi
nghĩa vũ trang chỉ nổ ra khi điều kiện khách quan và chủ quan tạo ra tình thế và
thời cơ cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, tình thế cách mạng trong đấu tranh giành
chính quyền là tổng hợp những điều kiện chính trị - xã hội do mâu thuẫn dân tộc,
giai cấp ở Đông Dương phát triển đến mức gay gắt nhất định, nhờ đó khởi nghĩa
có thể nổ ra và thắng lợi. Tình thế cách mạng theo Hồ Chí Minh là điều kiện
khách quan nhưng lại hình thành và phát triển trong sự tác động qua lại giữa nhân
tố chủ quan với các điều kiện khách quan. Thời cơ khởi nghĩa được Hồ Chí Minh
quan niệm là thời điểm thuận lợi nhất trong tình thế cách mạng, là sự hội tụ
những điều kiện khách quan và chủ quan đến độ chín muồi, bảo đảm cho khởi

nghĩa nổ ra thắng lợi. Thời cơ khởi nghĩa nói cụ thể ra là thời điểm mà: chính
quyền Đế quốc tay sai hoang mang đến cực độ; lực lượng cách mạng đã được xây
dựng rộng khắp, vững mạnh; Đảng Cộng sản Đông Dương đã chuẩn bị sẵn sàng
và các tầng lớp trung gian “ngả về phe cách mạng”. Nếu khởi nghĩa nổ ra không
có đủ hai điều kiện tình thế và thời cơ cho phép thì khởi nghĩa sẽ khó tránh khỏi
sự đàn áp và thất bại. Hồ Chí Minh cho rằng thời cơ khởi nghĩa là đại lượng luôn
biến đổi theo thực tiễn, cho nên thời cơ đến sớm hay muộn còn tuỳ thuộc rất
nhiều vào nhân tố chủ quan, nhất là vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương
trong việc tạo thời cơ và chớp thời cơ khởi nghĩa. Mục tiêu khởi nghĩa vũ trang
được Hồ Chí Minh xác định là giành chính quyền. Khởi nghĩa được gọi là khởi
nghĩa vũ trang khi khởi nghĩa ấy phải bao hàm hai yếu tố: đó là khởi nghĩa chống


lại luật pháp của chính quyền tay sai đế quốc và giành được chính quyền. Tất cả
những cuộc khởi nghĩa nổ ra hoặc chuẩn bị nổ ra nếu không bao hàm hai yếu tố
đó thì không được gọi là khởi nghĩa vũ trang mà chỉ đơn thuần là “các cuộc nổi
dậy” hoặc “Khởi nghĩa địa phương mà thôi”. Trên thực tế, các cuộc khởi nghĩa
nổ ra trước ngày 9 tháng 3 năm 1945, được Hồ Chí Minh xem đó là các cuộc đấu
tranh của quần chúng chứ chưa đạt đến trình độ khởi nghĩa vũ trang.
Quy mô khởi nghĩa vũ trang: Hồ Chí Minh xác định khởi nghĩa vũ trang
diễn ra trong phạm vi cả nước từ rừng núi đến đồng bằng và đô thị, tính chất
quyết liệt, thời gian khẩn trương, tốc độ liên tục khởi nghĩa vũ trang không bao
hàm tư tưởng phòng ngự. Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, nếu xem xét khởi
nghĩa và chiến tranh trong tiến trình cách mạng giải phóng dân tộc, thì khởi nghĩa
vũ trang là hình thức biểu hiện cao nhất của bạo lực cách mạng nhằm giành chính
quyền. Còn chiến tranh được thực hiện khi đã xuất hiện nhà nước và quân đội,
chiến tranh là sự tiếp tục tư tưởng bạo lực trong điều kiện hai quân đội của hai
nhà nước tham chiến với nhau. Vì khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng
đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng cộng sản, cho nên tuy mục tiêu trực
tiếp có sự khác nhau, song xét về lâu dài đều đi tới mục đích cao nhất đó là giải

phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Qua bao
năm bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng đồng bào khỏi ách thống trị, bóc lột
của bọn đế quốc tay sai, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng đắn kẻ thù của giai cấp,
của dân tộc và tìm thấy con đường đúng đắn để giành độc lập cho dân tộc. Ngay
sau khi trở về Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã khẩn trương triệu tập Hội nghị Trung
ương Đảng lần thứ 8 (5/1941), trong Hội nghị này, Người đã khẳng định dứt
khoát: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ
trang” [11, tr.129]. Tư tưởng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của Chủ tịch
Hồ Chí Minh không phải là một quan điểm bột phát thuần tuý mà là cả một luận cứ
khoa học có tính chất tổng kết thực tiễn và đúc kết lý luận mà hình thành. Có thể
khái quát luận điểm về khởi nghĩa vũ trang và xây dựng lực lượng cách mạng của
chủ tịch Hồ Chí Minh dựa trên các căn cứ khoa học dưới đây.
Thứ nhất, từ sự tiếp thu truyền thống, kinh nghiệm trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc Việt Nam
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trên quê hương Việt Nam giàu truyền thống
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập thống nhất dân tộc, Người đã sớm
được các bậc yêu nước tiền bối kể cho nghe bao câu chuyện trong lịch sử dựng
nước và giữ nước. Ngay từ thuở nhỏ, Người sớm say mê đọc sách, thích tìm hiểu
lịch sử, nhất là lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Với mong muốn
nghiên cứu lịch sử “cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” [37, tr.216], Hồ Chí
Minh nghiên cứu lịch sử và nhận thấy dân tộc Việt Nam “đời nào cũng có người
anh hùng mưu cao võ giỏi” [37, tr.216], lãnh đạo toàn dân đánh đuổi quân cướp


nước. Do đất nước Việt Nam có vị trí quan trọng trong khu vực và thế giới, cho nên
nước ta trong suốt mấy nghìn năm luôn phải đối chọi với nhiều kẻ thù xâm lược.
Buổi đầu công nguyên, giặc Đông Hán thống trị đô hộ nước ta, Hai Bà: Trưng Trắc
và Trưng Nhị đã tụ tập nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa vào năm 40 và giành thắng
lợi giải phóng 65 huyện, thành, đuổi quân Đông Hán về nước, giành độc lập cho dân
tộc.

Khoảng sau đó nửa thế kỷ, Lí Bí (Lí Bôn) là một hào trưởng ở địa phương,
quê ở Hà Nội đã cùng với người cùng quê là Tinh Thiều, tù trưởng Chu Diên là
Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục bỏ quan về làng, chiêu mộ hào kiệt, phất
cờ khởi nghĩa vào năm 542 chống lại sự đô hộ thống trị của nhà Lương, đánh tan
các đạo quân xâm lược của nhà Lương, lập ra Triều Lý, đặt tên nước là Vạn Xuân
vào năm 544. Nhiều cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giữ nước của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của các thủ lĩnh, các triều đại phong kiến Việt Nam sau đó đã
liên tiếp nổ ra và giành được thắng lợi. Một số cuộc khởi nghĩa và chiến tranh
tiêu biểu như: Cuộc kháng chiến chống Tống xâm lược năm 981 dưới sự lãnh đạo
của Thập Đạo Tướng quân Lê Hoàn; cuộc kháng chiến chống giặc Mông –
Nguyên (1258, 1285, 1288) dưới sự lãnh đạo của nhà Trần, dưới sự chỉ huy trực
tiếp của Trần Quốc Tuấn; cuộc khởi nghĩa Lam Sơn phát triển thành chiến tranh
giải phóng do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo (1416 – 1427); cuộc khởi nghĩa
nông dân Tây Sơn vươn lên thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc (1771–
1789) do Nguyễn Huệ lãnh đạo. Nếu đem so sánh lực lượng quân đội của hai bên
tham chiến thì ta thua kém hơn địch nhiều. Tuy lực lượng quân đội của các triều
đại phong kiến không nhiều, song triều đình và tướng lĩnh chỉ huy cuộc khởi
nghĩa, chỉ huy cuộc kháng chiến nhờ biết dựa vào dân, biết phát huy sức mạnh
của quân và dân nên đã lần lượt đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ
thù, bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Trần Quốc Tuấn – Người chỉ huy trực tiếp
các cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân dân ta ở thế kỷ XIII đã nêu lên tư
tưởng “chúng chí thành thành” – ý chí của dân chúng là bức thành không kẻ nào
phá nổi. Thực hiện đúng đắn tư tưởng đó chẳng những phát huy được sức mạnh
dân tộc trong sự nghiệp dựng nước mà còn tạo ra sức mạnh to lớn đánh bại các
cuộc chiến tranh xâm lược. Theo Trần Quốc Tuấn, một nhà nước vững mạnh phải
dựa trên nền tảng dựa vào dân, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, khi
đất nước có chiến tranh thì phải theo tư tưởng chỉ đạo chiến lược “tận dân vi
binh, cử quốc nghênh địch”. Nghiên cứu lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc
Việt Nam, Hồ Chí Minh thấy rằng, muốn lật đổ chính quyền thống trị, muốn đánh
thắng các cuộc chiến tranh xâm lược không có cách nào khác là dùng sức mạnh

quân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh sau này đã tổng kết thành
chân lý: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập. Tóm lại
lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [37, tr.217]. Sức mạnh


nhân dân được Hồ Chí Minh xem như là vũ khí của mọi thắng lợi: “dân khí mạnh thì
quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại” [32, tr.274]. Sử dụng sức mạnh
nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang được Hồ Chí Minh xem như là quy luật thắng lợi
trong sự nghiệp giữ nước của dân tộc.
Thứ hai, Hồ Chí Minh vận dụng quan điểm bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lê
nin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam
Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lê nin
khẳng định đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội có giai cấp. Mục tiêu
cuộc đấu tranh đó dưới chế độ tư bản chủ nghĩa là lật đổ chính quyền nhà nước tư
sản. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng
nhưng phổ biến là con đường bạo lực cách mạng. Trong tác phẩm “Tư bản”,
C.Mác đã khẳng định vai trò của bạo lực trong sự phát triển xã hội: “Bạo lực là
bà đỡ của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén một chế độ mới” [29, tr.1043].
Cùng tư tưởng với C.Mác, Ph.Ăng ghen đã phân tích vai trò của bạo lực trong
lịch sử. Trong tác phẩm nổi tiếng “Chống Đuy – Rinh”, ông coi: “Bạo lực là công
cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình
thức chính trị đã hoá đá và chết cứng” [28, tr.259].
Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, xuất bản năm 1848, C.Mác và Ph.Ăng
ghen cũng khẳng định: “Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu dấu
diếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đích
của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ trật tự xã hội
hiện hành” [27, tr.646]. V.I.Lênin kế tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của C.Mác
và Ph.Ăng ghen đã nói rằng: “… chính tư tưởng ấy – tư tưởng cách mạng bạo lực
là nền tảng của toàn bộ học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen” [26, tr.28]. Ông
còn khẳng định: “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi Nhà nước vô sản (chuyên chính

vô sản) không thể bằng con đường “tiêu vong” được, mà chỉ có thể, theo quy luật
chung bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi” [25, tr.27]. Thực tiễn đấu tranh
giai cấp, đấu tranh dân tộc trong lịch sử cho thấy cách mạng bạo lực được diễn ra
hoặc bằng loại hình khởi nghĩa hoặc loại hình chiến tranh cách mạng, hoặc loại
hình kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh, chiến tranh với khởi nghĩa. Chủ nghĩa
Mác - Lê nin, một mặt khẳng định tính quy luật cách mạng bạo lực của giai cấp
vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới và thường nói đến đấu tranh vũ
trang, tới nội chiến khi bàn đến khởi nghĩa. Mặt khác, lại thừa nhận tính muôn
màu muôn vẻ của các hình thức đấu tranh, xuất hiện từ trong thực tiễn cách mạng
của quần chúng, chứ không hề định sẵn một hình thức cụ thể nào trong cách
mạng bạo lực. Trong tác phẩm “Chiến tranh du kích” V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa
Mác tuyệt đối không từ chối bất cứ một hình thức đấu tranh nào. Không bao giờ
nó lại tự hạn chế ở những hình thức đấu tranh có thể có và đang tồn tại chỉ trong


một lúc nào đó, nó thừa nhận rằng tình thế xã hội thay đổi thì tất nhiên sẽ xuất
hiện những hình thức đấu tranh mới mà những người hoạt động trong thời kỳ
chưa hề biết đến. Về phương diện đó, chủ nghĩa Mác đã học tập, có thể nói là
thực tiễn quần chúng, nó không hề tham vọng dạy quần chúng những hình thức
đấu tranh mà “các chuyên gia thích hệ thống” ngồi trong phòng giấy nặn ra” [25,
tr.2]. V.I. Lênin còn khẳng định dứt khoát rằng: “Không xem xét tỉ mỉ hoàn cảnh
cụ thể của phong trào nhất định, trong giai đoạn phát triển nhất định của nó, mà
cứ muốn thừa nhận hoặc phủ nhận một phương thức đấu tranh nhất định, như vậy
là hoàn toàn rời bỏ lập trường Mác – xít” [25, tr.2]. Đó là những nguyên tắc lý
luận mà bất cứ một người cách mạng và Đảng cách mạng nào cũng phải tuân
theo.
Dựa trên quan điểm bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Hồ Chí
Minh phân tích và đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của kẻ thù xâm lược.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” xuất bản năm 1927, Hồ Chí Minh đã tổng
kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới như cách mạng tư

sản Mỹ (1776), cách mạng tư sản Pháp (1789), cách mạng tháng Mười Nga
(1917). Người khẳng định cả hai cuộc cách mạng tư sản Pháp và cách mạng tư
sản Mỹ đều là những cuộc cách mạng “không đến nơi”, vì nó chưa giải phóng
triệt để được cho công nông. Còn với cuộc cách mạng tháng Mười Nga năm
1917, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng đó là cuộc cách mạng vô sản triệt để nhất trong
lịch sử, đã giải phóng triệt để nhân dân lao động thoát khỏi sự áp bức thống trị
của bọn đế quốc tay sai. Học tập tư tưởng bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác Lê nin, cùng với những thắng lợi vĩ đại trong cách mạng tháng Mười Nga năm
1917, Hồ Chí Minh đi đến một sự khẳng định dứt khoát con đường cách mạng
Việt Nam: “Phải đi theo con đường cách mạng tháng Mười Nga” – con đường
cách mạng vô sản, sử dụng sức mạnh đoàn kết toàn dân đấu tranh giành chính
quyền.
Thứ ba, từ yêu cầu của cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX
Sau hiệp ước Patơnốt mà Triều đình Huế ký với Pháp năm 1884, đất nước ta
hoàn toàn đặt dưới sự đô hộ, thống trị của đế quốc Pháp. Để tăng cường củng cố sự
thống trị ở Đông Dương, đế quốc Pháp thi hành hàng loạt chính sách phản động tàn
ác đối với dân chúng Việt Nam, trong đó chúng ra sức thực thi chính sách “chia để
trị”. Chúng chia cắt nước ta ra làm ba kỳ với ba hình thức cai trị có nét khác nhau,
nhưng thực chất đều là thuộc địa của Pháp.
Đế quốc Pháp ra sức xây dựng bộ máy chính quyền và quân đội, cảnh sát,
nhà tù để thẳng tay bóc lột. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam, của nhân dân Việt Nam
càng bóc lột, đàn áp tàn khốc; càng làm cho sự căm tức của toàn thể nhân dân
Việt Nam đối với đế quốc Pháp xâm lược và tay sai dâng cao. Mâu thuẫn cơ bản,


chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ phát triển gay gắt. Nhiều nhà yêu nước
xuất thân từ các tầng lớp khác nhau đã tập hợp nhân dân dựng cờ khởi nghĩa
chống lại chính quyền đế quốc tay sai, các cuộc đấu tranh của nhân dân ta nổ ra
khắp mọi nơi, song kết cục đều bị thất bại, mâu thuẫn cơ bản giữa dân tộc Việt
Nam với đế quốc Pháp và tay sai không được giải quyết triệt để. Yêu cầu của
cách mạng Việt Nam lúc này là phải tìm ra một con đường cứu nước mới. Hồ Chí

Minh từ sự phân tích đánh giá đúng tình hình Việt Nam đầu thế kỷ XX và cho
rằng cách mạng Việt Nam chỉ có thể giành được thắng lợi trên cơ sở giải quyết
triệt để mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu đó. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu không đánh đổ
chính quyền đế quốc phong kiến giải phóng dân tộc thì “chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp
đến vạn năm cũng không đòi lại được” [11, tr.113]. Theo Hồ Chí Minh, cách
mạng là một quá trình “phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt” [32,
tr.263], đó là một nhiệm vụ to lớn, nặng nề, với bao khó khăn, hy sinh. Muốn
cách mạng thắng lợi thì không chỉ dựa vào một lực lượng riêng rẽ mà phải dựa
vào lực lượng đoàn kết toàn dân, phải dùng sức mạnh đoàn kết dân tộc tiến hành
một cuộc khởi nghĩa vũ trang lật đổ chính quyền đế quốc tay sai. Khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền là một tất yếu, song theo Hồ Chí Minh, không thể đánh
giặc bằng “tay không” mà phải trên cơ sở có đủ lực lượng mới tiến hành khởi
nghĩa được. Vì vậy, xây dựng lực lượng cho khởi nghĩa vũ trang là một yêu cầu
khách quan, cấp bách đang đặt ra. Vấn đề đầu tiên được Hồ Chí Minh đặc biệt
chú ý quan tâm trong xây dựng lực lượng cách mạng đó là Đảng cộng sản. Trong
tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra rằng muốn làm cách
mạng: “trước hết phải có Đảng cách mệnh” [32, tr.267]. Sự thất bại của các
phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đều bắt nguồn do thiếu một đội
tiên phong dẫn đường – Đảng cách mạng. Đảng cách mạng trong tư tưởng Hồ
Chí Minh đó là Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, là tổ
chức cao nhất của giai cấp công nhân, đó là một tổ chức chính trị được tổ chức rất
chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm minh được xây dựng và hoạt động trên cơ sở phong
trào cách mạng phát triển đến một trình độ nhất định, có lý luận tiên phong dẫn
đường đó là chủ nghĩa Mác - Lê nin. Đảng Cộng sản có nhiệm vụ vận động, tập
hợp, giác ngộ quần chúng và lãnh đạo quần chúng tranh đấu đến mục tiêu trực
tiếp trong cách mạng giải phóng dân tộc là giành chính quyền. Theo sự đánh giá
của Hồ Chí Minh thì ở Việt Nam đầu thế kỷ XX đã xuất hiện nhiều Đảng phái
của các giai cấp tiểu tư sản, tư sản. Song các đảng ấy không đảm đương được sứ
mệnh lịch sử của dân tộc giao phó, không có khả năng tập hợp và phát động toàn

dân vươn lên làm cuộc cách mạng “chính quyền”. Một bộ máy chính quyền đế
quốc đồ sộ với quân đội, cảnh sát được huấn luyện kỹ càng, được trang bị vũ khí
hiện đại, lại nhiều mưu mô xảo quyệt thì không thể dựa vào những đảng với lý


luận nửa vời để lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi được, mà phải trên
cơ sở một đường lối chính trị đúng đắn cách mạng, đó là đường lối Mác - Lênin
do Đảng Cộng sản đề ra. Vì vậy, vấn đề quan tâm nhất của Hồ Chí Minh là phải
nhanh chóng chuẩn bị các yếu tố để sớm tổ chức ra Đảng Cộng sản và phải không
ngừng xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng vững mạnh, đủ sức đảm đương sứ
mệnh lịch sử mà nhân dân giao phó. Trong xây dựng lực lượng cách mạng chuẩn
bị khởi nghĩa và khởi nghĩa thì nhiệm vụ xây dựng Đảng Cộng sản vững mạnh cả
chính trị, tư tưởng và tổ chức có ý nghĩa quyết định đến xây dựng lực lượng toàn
dân. Kết hợp xây dựng Đảng gắn với xây dựng lực lượng chính trị quần chúng và
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Sức mạnh quần chúng được thể hiện ở sự
đoàn kết thống nhất, cho nên Hồ Chí Minh chỉ ra rằng trong suốt quá trình xây
dựng lực lượng cách mạng phải dựa trên quan điểm lập trường của giai cấp công
nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng lý luận bởi đó là “chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất” [32, tr.268]. Kẻ địch bố trí lực lượng
khắp mọi nơi để đàn áp, bóc lột đồng bào ta, vì thế Hồ Chí Minh cho rằng phải
xây dựng lực lượng rộng khắp, để khi thời cơ đến, ở đâu bộ máy chính quyền,
quân đội, cảnh sát cũng bị lực lượng của ta đánh chặn, làm cho địch tan rã từng
mảng đến tan rã toàn bộ. Chúng ta xây dựng lực lượng từ không đến có, từ nhỏ đến
lớn với bao khó khăn đặt ra, do vậy, Hồ Chí Minh nhắc nhở phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng nhằm bảo đảm cho quá trình xây dựng lực lượng – xây dựng khối
đoàn kết toàn dân phát triển thống nhất theo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông
Dương.
1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đoàn kết
toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
Tư tưởng xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong khởi nghĩa vũ trang giành

chính quyền của Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm lý luận cách mạng và khoa
học được hình thành trong những năm ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân
tộc, cũng như khi trở về hoạt động lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước.
Tư tưởng của Người về xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong khởi nghĩa vũ
trang được thể hiện trên những nội dung cơ bản sau đây:
1.2.1. Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định thắng lợi trong khởi
nghĩa vũ trang giành chính quyền
Mục tiêu và hoài bão của Hồ Chí Minh là mang lại độc lập dân tộc, tự do
hạnh phúc cho nhân dân. Hoài bão ấy đã thúc dục Hồ Chí Minh bôn ba tìm
đường cứu nước giải phóng đồng bào. Những năm tháng lao động bằng nhiều
công việc khác nhau, cùng với nhiều hoạt động cách mạng ở nước ngoài đã
giúp Hồ Chí Minh từng bước nhận thức đúng đắn về vai trò của những cần lao


và các dân tộc bị áp bức, về vai trò của quần chúng trong sự nghiệp giải phóng
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Khi chưa bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức của Hồ Chí Minh cũng
mới chỉ dừng lại ở sự hiểu biết ban đầu như: đế quốc vô luận da trắng hay da
vàng đều là kẻ thù của nhân dân lao động, quần chúng cần lao đều là bạn. Thắng
lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười Nga (1917) cùng với bản luận cương của
Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa như ngọn đuốc dẫn đường thúc dục Hồ
Chí Minh trên con đường nhận thức khoa học. Từ chỗ tìm đến học thuyết Mác Lênin, Người đã dày công nghiên cứu, học tập lý luận, soi rọi lý luận trong thực
tiễn để rồi tiếp thu một cách tự giác quan điểm của các nhà kinh điển Mác Lênin, tiếp thu quan điểm về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng
vô sản.
Sau bao năm hoạt động trực tiếp ở nước ngoài, nhất là từ lúc Hồ Chí Minh
nghiên cứu, học tập, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí Minh xác
định đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng Việt Nam, trong
đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ
Chí Minh khẳng định rằng: “... cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không
phải việc một hai người” [32, tr.262]. Quan niệm của Hồ Chí Minh về quần

chúng nhân dân và vai trò của họ trong cách mạng Việt Nam là kết quả của sự kế
thừa, mở rộng và phát triển giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ở
các Triều đại phong kiến Việt Nam đã quan niệm nhân dân là lực lượng có vai trò
quan trọng trong các cuộc chiến tranh và khởi nghĩa. Sức mạnh đoàn kết dân tộc
được Nguyễn Trãi đánh giá rất cao: “Chở thuyền và lật thuyền đều do dân”, tuy
nhiên quan niệm dân của cha ông ta trước đây là chỉ tầng lớp nông dân – lực
lượng đông đảo nhất trong toàn xã hội phong kiến. Địa vị xã hội của họ chỉ là
những lực lượng cày thuê, cuốc mướn cho địa chủ, sự bóc lột của giai cấp địa chủ
phong kiến đối với người nông dân trong xã hội được giai cấp địa chủ phong kiến
coi như sự sắp đặt của “mệnh trời”.
Còn trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quần chúng nhân dân
không chỉ là lực lượng nông dân mà còn bao gồm tất cả mọi người dân Việt Nam
yêu nước không phân biệt già, trẻ, gái, trai, dân tộc, tôn giáo, đảng phái. Nhân dân
lao động được Hồ Chí Minh xem họ là chủ nhân của đất nước, chứ không phải là
thân phận tôi tớ làm thuê. Vai trò của quần chúng nhân dân được Hồ Chí Minh
quan niệm: “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì
mạnh bằng sức mạnh đoàn kết toàn dân”.
Trong mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và nhân dân, Hồ Chí Minh cho rằng
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Việc
sắp xếp, vị trí, vai trò của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam


đầu thế kỷ XX, cũng được Hồ Chí Minh sắp xếp đúng đắn. Trong khi xác định:
“học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ... chủ là bầu bạn cách mệnh của công nông” [32,
tr.266], Hồ Chí Minh xác định rằng giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là:
“gốc cách mệnh” [32, tr.266]. Sở dĩ Hồ Chí Minh xác định công nông là gốc cách
mạng bởi vì người phân tích dựa trên mấy lý do sau đây:
“Công nông bị áp bức nặng hơn... công nông là đông nhất cho nên sức mạnh
hơn hết, là vì công nông là tay không chân rỗi, nêu thua chỉ mất một cái kiếp khổ,
nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc” [32, tr.266]. Xã hội Việt Nam

đầu thế kỷ XX có rất nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau, nhưng trong tất cả các
giai cấp tầng lớp trong xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định chỉ có giai cấp
công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo nhân dân ta giành chính quyền.
Theo Hồ Chí Minh, quần chúng nhân dân có sức mạnh to lớn trong đấu
tranh vũ trang giành chính quyền, song sức mạnh ấy chỉ được phát huy trên cơ sở
xây dựng được khối đoàn kết dân tộc, dựa trên nền tảng liên minh công nông.
Những năm tháng đi tìm đường cứu nước, xa quê hương, nhưng ngày ngày Người
vẫn “vọng cố hương”, theo sát từng bước chuyển của Tổ quốc. Khi đang ở nước
ngoài, Hồ Chí Minh tìm đủ mọi cách chuyển tài liệu về trong nước kêu gọi toàn
dân kết đoàn lại. Sau khi trở về Tổ quốc (1941), Hồ Chí Minh đã chỉ đạo xây
dựng khối đoàn kết toàn dân, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân vào trong mặt trận
Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Người chỉ cho nhân dân ta kẻ thù, chỉ cho
nhân dân ta biết rõ sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân, Người khuyên nhân
dân Việt Nam phải luôn nhớ “chữ đồng” – “đồng tình, đồng sức, đồng lòng,
đồng minh”. Bài học kinh nghiệm trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc ta,
tiêu biểu là bài học về sự thất bại của nhà Hồ trong kháng chiến chống giặc
Minh xâm lược (1407) càng là cơ sở thực tiễn để Hồ Chí Minh nhận thức sâu
sắc hơn sức mạnh nhân dân – sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân: “sự
đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”.
Quan niệm trên đây của Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân
trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đã kịp thời khắc phục được những
nhận thức sai lệch trong việc xác định vai trò của nhân dân, nhất là công nhân
và nông dân. Đồng thời, là cơ sở để Đảng ta hoạch định đúng đắn chiến lược
xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất trong khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền.
1.2.2. Sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ được phát huy khi biết
phát động, tổ chức và lãnh đạo
Hồ Chí Minh luôn quan niệm nhân dân là lực lượng quý nhất, đông đảo
nhất, là nguồn sức mạnh to lớn trong cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh
nhân dân lúc thường đang tiềm ẩn trong mỗi người, mỗi tập thể, mỗi tổ chức. Nếu



chúng ta không biết phát động, khơi dậy, tổ chức và lãnh đạo thì không thể phát
động thành lực lượng vĩ đại trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Sự thống trị, áp bức, bóc lột của đế quốc, tay sai với hàng loạt chính sách,
luật pháp hà khắc, phản động đã đẩy nhân dân ta, nhất là giai cấp công nhân và
giai cấp nông dân đi vào con đường ngày càng cực khổ. Nạn đói rét, bệnh tật, mù
chữ, chết chóc diễn ra hàng ngày khắp mọi miền Tổ quốc. Mặt khác, kẻ địch luôn
tìm mọi cách ru ngủ nhân dân, làm cho nhận thức của nhân dân bị lệch lạc. Thực
trạng đó đã tác động đến suy nghĩ hàng ngày của Hồ Chí Minh, càng thôi thúc
Chủ tịch Hồ Chí Minh ở nước ngoài mau chóng “trở về nước, đi vào quần chúng,
thức tỉnh họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh, giành tự do độc lập” [30,
tr.192]. Trải suốt những năm tháng hoạt động cách mạng ở xa Tổ quốc, để khơi
dậy tinh thần yêu nước trong các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh tích cực viết
sách báo truyền bá tư tưởng, lý luận cách mạng về nước nhằm làm cho nhân dân,
nhất là công nhân và nông dân nhận thức đúng đắn hơn về âm mưu thủ đoạn của
kẻ thù, nguồn gốc của mọi sự đau khổ, thông qua sách báo gửi về nước để chỉ cho
họ con đường giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Đáng chú ý là trong
những năm đầu của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã viết và cho xuất bản hai tác
phẩm có giá trị tư tưởng lý luận to lớn gây tiếng vang trong giới báo chí Việt
Nam, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của mỗi người dân Việt
Nam. Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” xuất bản năm 1925 là bản cáo
trạng tố cáo tội ác của đế quốc Pháp ở Đông Dương – Người vạch trần chính sách
nham hiểm, thâm độc của chính quyền Pháp cùng với những hành vi cướp bóc đê
tiện của những tên quan Pháp cai trị Đông Dương đối với mọi tầng lớp nhân dân.
Bằng các dẫn chứng cụ thể mà Hồ Chí Minh nêu ra, bộ mặt thật của kẻ thù nhân
dân Đông Dương được phơi bày, làm cho quần chúng hiểu biết hơn về dã tâm
cướp nước và bán nước của bọn đế quốc và tay sai của chúng, từ đó Hồ Chí Minh
khêu gợi và động viên nhân dân ta đoàn kết đấu tranh chống lại bọn tham quan vô
lại, lật đổ bộ máy phản cách mạng của kẻ thù.

Năm 1927, Hồ Chí Minh còn cho xuất bản cuốn sách có giá trị to lớn về mặt
lý luận, đó là tác phẩm nổi tiếng “Đường cách mệnh”. Tác phẩm này của Hồ Chí
Minh là tập các bài giảng do Hồ Chí Minh biên soạn để giảng dạy cho lớp thanh
niên Việt Nam yêu nước ở Quảng Châu (Trung Quốc) từ năm 1925 đến năm
1927. Tác phẩm lý luận quan trọng này là kết quả của quá trình Hồ Chí Minh
nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, khảo sát tổng kết thực tiễn cách mạnh Việt
Nam và thế giới. Nội dung tác phẩm là hệ thống quan điểm cách mạng, từ việc
lý giải cách mạng là gì, vì sao phải làm cách mạng, ai làm cách mạng... Tất cả
những nội dung đó có ý nghĩa to lớn về tư tưởng lý luận, để từ đó Đảng ta
hoạch địch đúng đắn đường lối chiến lược, sách lược. Để “thức tỉnh” nhân dân,
“giác ngộ” nhân dân, Hồ Chí Minh còn viết nhiều sách báo cổ động, khêu gợi


truyền thống chống xâm lược, truyền thống đoàn kết yêu thương đùm bọc lẫn
nhau. Đáng chú ý là từ sau khi trở về Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã viết và cho
đăng trên các sách, báo nhiều bài có giá trị tư tưởng lý luận, tiêu biểu như:
“Khuyến cáo đồng bào mua báo Việt Nam độc lập” (1941); “Dân cày” (1941);
“Công nhân” (1941); “Thế giới đại chiến và phận sự dân ta” (1941); “Nên học
sử ta” (1942); “Lịch sử nước ta” (1942); “Hòn đá” (1942); “Chiến thuật du
kích” (1944).
Chính quyền đế quốc và tay sai không từ bỏ bất cứ một thủ đoạn âm mưu
nào để duy trì sự thống trị của chúng đối với nhân dân Đông Dương. Nó “lấy tôn
giáo và văn hoá làm cho dân ngu, lấy pháp luật buộc dân lại, lấy sức mạnh làm
cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham. Nó làm cho dân nghe đến hai chữ
cách mệnh thì sợ rùng mình” [32, tr.267]. Sự thống trị, bóc lột và đàn áp của kẻ
thù đã làm cho nhân dân ta “Khổ quá hay làm bạo động” [32, tr.267]. Hồ Chí
Minh cho rằng bạo động của dân chúng bị thất bại là bởi: “Không có chủ nghĩa,
không có kế hoạch, đến nỗi thất bại” [32, tr.267]. Tiếp thu tư tưởng của Lênin
“Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”, Hồ Chí Minh
sau khi học tập tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê nin đã tích cực đấu tranh truyền bá lý

luận tiền phong vào phong trào cách mạng Việt Nam. Ở Việt Nam đầu thế kỷ
XX, phong trào cách mạng đang chịu sự tác động, chi phối của hệ tư tưởng phong
kiến và hệ tư tưởng ta sản và đang đứng trước sự khủng hoảng về lý luận cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, khởi nghĩa vũ trang nổ ra cũng phải trên cơ sở sự đồng
tâm hiệp sức của toàn dân, trên cơ sở sự hiểu biết và giác ngộ cách mạng của mọi
người. Để khơi dậy và phát động nhân dân đứng lên đấu tranh cách mạng, Hồ
Chí Minh một mặt mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ cách mạng, đưa họ
thâm nhập vào trong quần chúng ở khắp mọi nơi, nhằm đưa chủ nghĩa Mác - Lê
nin, thắng lợi của cách mạng tháng Mười thâm nhập vào mọi tầng lớp nhân dân để
thức tỉnh dân chúng, phát động dân chúng xuống đường tranh đấu chống kẻ thù của
giai cấp và dân tộc. Hồ Chí Minh nghiên cứu và thấy rằng đau khổ, nghèo đói, sự
tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc và tay sai đã làm cho người Đông Dương che dấu
một cái gì đó đang sục sôi, đang gầm thét. Cái đang che dấu mà Người nói đó
chính là tinh thần yêu nước căm thù quân cướp nước và bè lũ bán nước, để biến
tinh thần cách mạng thành hành động cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng phát
động dân chúng là khâu rất quan trọng, nếu làm tốt thì dân chúng tham gia cách
mạng sẽ ngày càng đông đảo, nhiệt tình, trái lại nếu không làm tốt thì tinh thần
cách mạng của nhân dân sẽ không trở thành hành động cách mạng. Vì vậy, nhiệm
vụ tuyên truyền, vận động dân chúng phải hết sức khéo léo, ngay cả khẩu hiệu cổ
động cũng phải khêu gợi và động viên được dân chúng tham gia khởi nghĩa vũ
trang, bởi “Một khẩu hiệu sát đúng với tình thế cụ thể có sức dấy lên cả một cao
trào” [8, tr.46-47]. Thực tế qua sự thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam


đầu thế kỷ XX cho thấy, các phong trào yêu nước do thiếu tổ chức chặt chẽ cho
nên dân chúng tham gia đông nhưng không liên kết các phong trào với nhau
được. Trong một địa bàn, sự thiếu tổ chức trong phong trào quần chúng được
biểu hiện ra ở chủ trương bạo động tự phát, không quy tụ được sức mạnh dân
chúng. Sự phân tán về lực lượng cách mạng, sự thiếu thống nhất về mặt tổ chức
đã dẫn đến phong trào bị đàn áp và thất bại. Điều đó được Hồ Chí Minh chỉ rõ:

“Ở Đông Dương chúng ta có đủ những cái mà một dân tộc có thể mong muốn...
nhưng chúng ta thiếu tổ chức và thiếu người tổ chức” [31, tr.132].
Với tư tưởng cách mạng là việc chung của cả dân chúng, Hồ Chí Minh
mong muốn ai cũng góp công, góp sức tham gia phong trào cách mạng. Muốn
vậy, thì phải sáng tạo ra các hình thức tổ chức tập hợp phong phú linh hoạt để
cho mọi người ai cũng có thể tham gia cách mạng được và không bỏ sót một ai.
Hồ Chí Minh phân tích Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc trong sự tồn tại của
nhiều dòng văn hoá, tầng văn hoá đan xen. Phần đông dân cư là nông dân, công
nhân lại bị phân tán về nhận thức tư tưởng, về nếp sống... Để làm cho dân chúng ai
cũng có thể tham gia cách mạng, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền khi thời
cơ đến, thì cách thức tổ chức tập hợp quần chúng phải phản ánh tính rộng rãi, phù
hợp với nghề nghiệp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi và trình độ dân chúng.
Nếu các tổ chức quần chúng không thoả mãn được yêu cầu đó thì sẽ không tập hợp
được quần chúng, không phát huy được sức mạnh quần chúng trong khởi nghĩa.
Khi chưa có tình thế và thời cơ khởi nghĩa thì các tổ chức quần chúng ra
đời chủ yếu hoạt động theo phương hướng mục tiêu đấu tranh đòi dân sinh, dân
chủ (chống đánh đập, bắt lính, chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình, ủng hộ Liên
xô, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin, bảo vệ Đảng, bảo vệ Việt Minh, bảo
vệ nhân dân). Hình thức tổ chức và tên gọi cũng do mục tiêu cách mạng, mục
tiêu hoạt động của các tổ chức quần chúng quy định, ví như công nhân thì vào
công hội, nông dân thì vào nông hội, các hội khác như Hội đưa ma, Hội lợp
nhà, Hội cấy, Hội cày, Hội báo chí, Hội ái hữu... Cách thức hoạt động của các
tổ chức quần chúng ở thời kỳ này phải kết hợp giữa tranh thủ khả năng hợp
pháp nửa hợp pháp với bí mật bất hợp pháp. Hoạt động của các tổ chức quần
chúng phải theo phương châm lấy xây dựng lực lượng là chủ yếu, kết hợp với
đấu tranh ở một mức độ nhất định.
Khi tình thế và thời cơ khởi nghĩa xuất hiện thì cách thức tổ chức quần
chúng và hoạt động của các tổ chức quần chúng phải vươn lên mục tiêu khởi
nghĩa giành chính quyền. Do đó theo Hồ Chí Minh, quy mô tổ chức phải được
mở rộng để cho mọi người dân Việt Nam từ trẻ đến già, từ miền xuôi đến miền

ngược không phân biệt giới tính, dân tộc, đảng phái, tôn giáo, phải thu hút họ
tham gia vào Mặt trận Việt Minh, vào các hội quần chúng. Tên gọi của các đoàn


thể quần chúng sẽ được thay đổi cho phù hợp với cao trào giải phóng dân tộc, ví
như nông dân cứu quốc, công nhân cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu
quốc... Mặt trận dân tộc thống nhất cũng phải đổi tên cho phù hợp theo tình hình
và yêu cầu cách mạng. Các tổ chức quần chúng phải được xây dựng từ thấp lên
cao, từ nhỏ đến lớn, sự ra đời của các tổ chức quần chúng phải xuất phát từ thực
tiễn, từ trong đấu tranh, trong lao động mà lập ra. Để lập ra các tổ chức quần
chúng đáp ứng với yêu cầu phát triển lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho cách mạng. Từ quan niệm “cán
bộ là gốc của mọi công việc”, Hồ Chí Minh rất coi trọng khâu phát hiện bồi
dưỡng và huấn luyện những người có khả năng vận động và tổ chức quần
chúng. Tuỳ theo tình hình cụ thể, địa bàn cụ thể mà dùng người cho đúng việc,
đúng chỗ, đúng lúc.
Để ngăn chặn sự phân tán về mặt tổ chức và để đảm bảo cho các tổ chức
hoạt động được thống nhất, chặt chẽ nhằm phát huy cao độ sức mạnh dân tộc
trong khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, Hồ Chí Minh cho rằng, mọi hoạt
động từ thành lập cho đến hoạt động các tổ chức quần chúng đều phải đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực tế lịch sử cho thấy các
phong trào yêu nước thất bại vì hoạt động không có kế hoạch thống nhất, không
theo một đường lối chính trị đúng đắn. Cách mạng càng gần đến ngày thắng lợi,
càng đòi hỏi Đảng phải có chủ trương biện pháp đúng đắn huy động đông đảo
quần chúng, giáo dục giác ngộ họ, đưa họ vào cuộc đấu tranh “lưu huyết” với kẻ
thù để giành quyền độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường chỉ bảo cho Đảng
Cộng sản Đông Dương rằng: Muốn phát động được đông đảo quần chúng, phải
phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng
viên cần phải gần gũi sâu sát với quần chúng. Hồ Chí Minh căn dặn phải: Tránh
bệnh cô độc, lâu nay quen lối lựa chọn quá kỹ lưỡng và bắt buộc điều kiện quá

cao làm cho sự phát triển các đoàn thể cách mạng trở nên khó khăn, khi tuyên
truyền chính sách của Đảng “cán bộ phải dùng cách thuyết phục chứ không
dùng mệnh lệnh và phải ra sức làm cho quần chúng tin tưởng ở Đảng” [34,
tr.566].
Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng tổ chức, xây dựng lực
lượng phải theo phương hướng gắn liền xây dựng lực lượng với đưa quần chúng
vào thực tiễn đấu tranh.
Xây dựng lực lượng cách mạng và đấu tranh của quần chúng là hai mặt có
quan hệ biện chứng với nhau. Thực tiễn trong phong trào cách mạng Việt Nam
đầu thế kỷ XX đã cho thấy, trong điều kiện ban đầu, Đảng ta còn ít kinh
nghiệm, lực lượng đảng viên còn mỏng, quần chúng chưa được tổ chức chặt
chẽ, rộng khắp đã vội đẩy phong trào lên quá mức, sớm bộc lộ lực lượng cách


mạng khi chưa đủ điều kiện, dẫn đến phong trào cách mạng gặp khó khăn và
thất bại. Hồ Chí Minh đánh giá cao tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân
các địa phương Nghệ An và Hà Tĩnh trong cao trào cách mạng 1930 – 1931,
nhưng cũng đã dự đoán chính quyền Xô Viết sẽ không duy trì được lâu vì lực
lượng còn non yếu, chưa đều khắp, vũ trang bạo động trong một vài địa phương
là quá sớm, Hồ Chí Minh cho rằng, nhiệm vụ trước mắt của Đảng và cách mạng
nước ta là: “tập hợp, tổ chức trung, bần nông và kích động họ đấu tranh giành
lấy chủ quyền của nhân dân, chứ không phải để tiến hành một cuộc khởi nghĩa
địa phương” [34, tr.566 – 567].
Vừa xây dựng, vừa đấu tranh là làm cho quần chúng yêu nước được tôi
luyện trong thực tiễn, có thêm kinh nghiệm, rèn luyện thêm bản lĩnh, tinh thần
cách mạng. Đấu tranh của quần chúng có tác dụng gây cho địch hoang mang, lo
sợ, trừ khử những tên tay sai hại dân hại nước, tiêu hao sinh lực địch. Qua đấu
tranh quần chúng, Đảng phát hiện được âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, từ đó điều
chỉnh chiến lược xây dựng lực lượng và đấu tranh cho phù hợp với từng nơi, từng
lúc. Đưa quần chúng xuống đường đấu tranh khắp nơi làm cho kẻ địch phải phân

tán lực lượng để đối phó, tạo ra những chỗ sơ hở để Đảng ta lãnh đạo nhân dân
đấu tranh tiêu hao ý chí và sinh lực địch. Qua phong trào đấu tranh của quần
chúng thắng lợi sẽ cổ vũ thêm tinh thần cách mạng trong dân chúng, là môi
trường tốt để rèn luyện đảng viên, đồng thời là nơi phát hiện những cá nhân và tổ
chức cơ hội phản động, loại trừ để làm trong sạch Đảng và phong trào cách mạng.
Mặt khác, từ phong trào cách mạng của quần chúng mà phát hiện, tuyển chọn
những người ưu tú bổ sung cho bộ tham mưu phong trào. Phong trào cách mạng
của quần chúng là nơi kiểm nghiệm đường lối, chủ trương của Đảng, giúp Đảng
ta hoàn chỉnh đường lối chủ trương khởi nghĩa vũ trang. Phong trào đấu tranh của
quần chúng giống như những cuộc diễn tập, tổng diễn tập của cách mạng trong
thời kỳ đấu tranh giành chính quyền. Theo Hồ Chí Minh đưa quần chúng nhân
dân xuống đường tranh đấu phải trên cơ sở lực lượng cách mạng đã được xây
dựng ở một mức độ nhất định. Không có lực lượng cách mạng thì không thể tiến
hành đấu tranh cách mạng được. Vì vậy Hồ Chí Minh rất quan tâm vấn đề xây
dựng cả lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Khi lực
lượng cách mạng đã được xây dựng khá mạnh thì lúc đó mới đẩy mạnh phong
trào đấu tranh của quần chúng. Nếu lực lượng cách mạng còn mỏng, yếu thì
không nên đề cao nhiệm vụ tranh đấu vì nếu phong trào quần chúng nổ ra dễ bị
kẻ địch đàn áp và thất bại, cho nên ngay trong Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
8 (tháng 5 năm 1941), Hồ Chí Minh đã chỉ ra những yếu kém của Đảng ta trong
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng: Có nơi cấp uỷ Đảng đã bộc lộ sự nóng vội,
tiến hành khởi nghĩa vũ trang khi lực lượng chưa được xây dựng vững mạnh rộng
khắp, có nơi cấp uỷ Đảng lại quá chú trọng xây dựng lực lượng mà không chú ý


hoặc chú ý không đúng mức nhiệm vụ đưa quần chúng xuống đường tranh đấu.
Kết hợp xây dựng lực lượng cách mạng với đưa quần chúng xuống đường tranh
đấu giành độc lập là một công việc khó khăn, nhất là trong khi Đảng ta với số
lượng đảng viên quá mỏng, thiếu cán bộ chỉ đạo, chỉ huy. Vì vậy, phải tích cực
phát triển đảng viên, lập thêm các tổ chức Đảng ở những nơi cần thiết, tăng

cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp bộ Đảng ở từng miền, từng địa phương nhằm
làm cho quá trình kết hợp hai mặt: xây dựng lực lượng cách mạng và đưa quần
chúng vào thực tiễn tranh đấu càng ngày càng chặt chẽ hơn. Cần ngăn ngừa và
khắc phục tư tưởng “tả khuynh, hữu khuynh” khi tiến hành nhiệm vụ xây dựng lực
lượng và đưa quần chúng vào thực tiễn tranh đấu.
1.2.3. Xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng rộng khắp, vững mạnh,
trên cơ sở đó từng bước xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
Cách mạng là bước phát triển cao nhất của đấu tranh giai cấp và bao giờ
cũng được thực hiện bằng bạo lực của giai cấp bị thống trị chống lại giai cấp
thống trị nhằm giải quyết vấn đề chính quyền. Bạo lực có thể được thể hiện và
thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng dù là hình thức nào thì bạo lực
cách mạng vẫn phải dựa vào hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị, lực lượng
quân sự và bao gồm hai hình thức đấu tranh: đấu tranh quân sự, đấu tranh chính
trị và sự kết hợp giữa hai lực lượng, hai hình thức đấu tranh ấy. Theo Hồ Chí
Minh, khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền không chỉ là tiến công quân sự của
lực lượng vũ trang cách mạng, mà phải là cuộc nổi dậy của toàn dân với hai lực
lượng chính trị và vũ trang. Do vậy chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa vũ trang là
chuẩn bị cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó phải bắt đầu từ
xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng. Từ việc vận động quần chúng đấu
tranh chính trị dưới nhiều hình thức khác nhau, thông qua đó mà giáo dục, giác
ngộ quần chúng, đến một mức độ nào đó, khi có điều kiện mới xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng và phát động đấu tranh vũ trang. Hồ Chí Minh phân
tích cơ cấu xã hội giai cấp thấy rằng: giai cấp công nhân và giai cấp nông dân
Việt Nam chiếm hơn 90% dân số cả nước, lại là hai giai cấp bị bọn đế quốc tay
sai áp bức bóc lột nặng nề nhất, do vậy họ có tinh thần cách mạng nhất. Hai giai
cấp này lại có quan hệ tự nhiên gần gũi với nhau, có tinh thần yêu nước nồng
nàn; các giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc và tầng lớp địa chủ cũng đều bị đế
quốc chèn ép nên họ cũng có ý thức dân tộc, muốn đánh đuổi bọn đế quốc; mặt
khác ở nước ta, phong trào cách mạng của quần chúng sớm có lý luận tiền
phong dẫn đường. Đây là những điều kiện vô cùng thuận lợi để tiến hành xây

dựng lực lượng chính trị của quần chúng cho khởi nghĩa vũ trang.
Tuy nhiên, kẻ thù luôn tìm mọi cách phá hoại cách mạng, phá hoại các cơ sở
chính trị của Đảng ta, chia rẽ quần chúng với Đảng, chia rẽ dân chúng giữa các


miền, giữa các vùng với nhau, thì nhiệm vụ xây dựng lực lượng chính trị cũng
không phải dễ dàng chút nào. Nếu không xây dựng được lực lượng chính trị của
quần chúng, không dựa vào lực lượng này thì khởi nghĩa vũ trang sẽ không thành
công. Lịch sử chống xâm lược của dân tộc ta trong suốt mấy nghìn năm cho Hồ
Chí Minh thấy rằng: Khi nào cha ông ta dựa vào nhân dân, phát huy được sức
mạnh của toàn dân tộc cho khởi nghĩa và chiến tranh thì khởi nghĩa, chiến tranh
sẽ mau chóng thắng lợi; còn khi nào không biết dựa vào nhân dân, phát huy sức
mạnh toàn dân mà chỉ dựa vào quân đội thì kết cục cuộc kháng chiến của nhân
dân ta sẽ thất bại. Sự thất bại của cuộc kháng chiến chống quân Minh sang xâm
lược, dưới sự lãnh đạo của Triều đại Hồ Quý Ly (1407) với chủ trương dùng 1
triệu quân để chống lại giặc, đã càng giúp Hồ Chí Minh thêm tự tin hơn trong chủ
trương xây dựng lực lượng chính trị quần chúng cho khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền.
Xây dựng lực lượng chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải đạt được yêu
cầu rộng khắp và vững mạnh. Yêu cầu rộng khắp trong xây dựng lực lượng chính
trị của quần chúng được thể hiện ở hình thức tổ chức ở khắp các địa phương, tập
hợp rộng khắp các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, đảng phái, mọi
lứa tuổi... ở đâu có nhân dân thì phải thực hiện cuộc vận động tuyên truyền, giáo
dục, giác ngộ, tập hợp quần chúng vào các đoàn thể cách mạng. Trong đó phải ra
sức xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất với hệ thống tổ chức và lực lượng ở
khắp nơi trong toàn quốc. Từ năm 1941, Mặt trận dân tộc thống nhất đổi tên
thành Mặt trận Việt Minh. Sự ra đời và hoạt động của các tổ chức quần chúng,
Mặt trận Việt Minh sẽ đoàn kết được các tầng lớp nhân dân, tạo nên sợi dây liên
kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân thành lực lượng hùng mạnh chuẩn bị cho khởi
nghĩa vũ trang. Mặt trận Việt Minh được xây dựng trên cơ sở dựa vào liên minh

giai cấp công – nông với giai cấp công nhân làm nền tảng, đồng thời chú ý tới
tính chất toàn dân, nhằm lôi kéo đông đảo nhân dân từ trẻ đến già đoàn kết “cùng
nhau cứu nước Nam ta” [36, tr.270].
Yêu cầu trong xây dựng lực lượng chính trị quần chúng Việt Nam vững
mạnh được thể hiện trước hết ở sự chặt chẽ, thống nhất về mặt tổ chức. Các tổ
chức quần chúng ra đời và hoạt động theo chương trình điều lệ, quy tắc theo nghề
nghiệp, giới tính, lứa tuổi, tôn giáo dân tộc mà tổ chức quần chúng đó lập ra.
Hoạt động của các thành viên trong tổ chức quần chúng phải theo tôn chỉ, mục
đích mà hội lập ra, không được hoạt động tự do trái với mục đích tôn chỉ mà họ
tham gia. Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ đứng đầu hội quần chúng phải là những
người có trình độ hiểu biết hơn những người khác trong tổ chức đó, có trách
nhiệm cao đối với các thành viên trong hội đó, có ý thức giác ngộ chính trị, ủng
hộ Việt Minh, ủng hộ phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng. Những
người này thường do dân chúng bầu ra hoặc do chỉ định của Đảng, hoặc chỉ định


của Mặt trận Việt Minh. Sự vững mạnh trong xây dựng lực lượng chính trị của
quần chúng còn thể hiện ở trình độ giác ngộ cách mạng của dân chúng. Theo Hồ
Chí Minh, dân chúng càng giác ngộ thì sự đoàn kết giữa các thành viên trong các
tổ chức quần chúng mà họ tham gia càng thắt chặt. Công nhân, nông dân, phụ nữ
và nhiều tầng lớp nhân dân khác càng hăng hái tham gia cách mạng. Bên cạnh đó,
sự vững mạnh trong xây dựng lực lượng chính trị quần chúng còn thể hiện ở sự
liên kết các tổ chức chúng đó lại với nhau trên từng địa phương, từng vùng và
từng miền. Đây là yêu cầu vô cùng quan trọng trong xây dựng lực lượng chính trị
quần chúng, bởi vì nếu không liên kết, phối hợp hoạt động giữa các tổ chức quần
chúng thì khó có thể phát huy được sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân khi thời
cơ đến và sẽ bị kẻ thù chia rẽ, đàn áp, phá hoại lực lượng cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng phải theo
tư tưởng tích cực chủ động bám sát thực tiễn. Khi tình thế và thời cơ chưa cho
phép khởi nghĩa thì cách thức tập hợp quần chúng và hoạt động của các tổ chức

quần chúng phải lấy mục tiêu hàng ngày để tập hợp, sáng tạo ra nhiều loại hình
tập hợp quần chúng, gây dựng cơ sở chính trị của Đảng trong nhân dân. Hướng
dẫn nhân dân đấu tranh vì mục tiêu dân sinh dân chủ hàng ngày. Tích cực lợi
dụng khả năng hợp pháp để ra sức xây dựng đội quân chính trị công nông chuẩn
bị cho khởi nghĩa vũ trang, tích cực xây dựng và phát triển Đảng khắp nơi để lãnh
đạo phong trào cách mạng quần chúng. Khi tình thế và thời cơ khởi nghĩa cho
phép thì nhanh chóng đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, tuyên truyền ảnh
hưởng Việt Minh, các tổ chức quần chúng phải hướng vào mục tiêu giành chính
quyền mà hoạt động, thực hiện sự thống nhất các lực lượng chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng, dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban khởi nghĩa. Khởi nghĩa vũ trang là sự
nổi dậy của dân chúng với hai lực lượng chính trị và quân sự. Vì vậy khi lực
lượng chính trị của quần chúng đã phát triển đến một mức độ nhất định thì tiến
hành xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, sở dĩ phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cho
khởi nghĩa bởi vì: xuất phát từ bản chất hiếu chiến, phản động của chính quyền
đế quốc tai sai. Muốn lật đổ chính quyền đó tất yếu phải tổ chức ra lực lượng
quân sự làm nòng cốt trong đấu tranh quân sự. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân còn xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ tuyên truyền, đây là nhiệm vụ chủ yếu
của lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ chuẩn bị tổng khởi nghĩa cũng như
trong quá trình khởi nghĩa. Việc tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân còn xuất
phát từ yêu cầu bảo vệ cách mạng, bảo vệ Đảng và cơ quan đầu não của khởi
nghĩa, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân còn có ý nghĩa về lâu dài.
Trong hội nghị thành lập Đảng ngày 3 tháng 2 năm 1930, Hồ Chí Minh đã
khẳng định sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để:


“a. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến.
b. Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập” [33, tr.1].
Theo đó phải “tổ chức ra đội quân công nông” [33, tr.1]. Những năm tháng
đầu thế kỷ XX, chúng ta chưa có một đơn vị vũ trang tập trung nào làm cơ sở để

xây dựng lực lượng quân sự cho mình, trong khi yêu cầu khởi nghĩa là phải
nhanh chóng xây dựng lực lượng quân sự. Trên cơ sở đánh giá đúng vai trò của
từng lực lượng trong khởi nghĩa vũ trang, cùng với thực tế lực lượng cách mạng
hiện có, Hồ Chí Minh sau khi về nước đã xúc tiến từng bước xây dựng lực lượng
vũ trang. Phương hướng xây dựng được Hồ Chí Minh chỉ ra là “chọn lọc trong
hàng ngũ du kích Cao – Bắc – Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết hăng hái
nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội quân chủ lực” [40,
tr.507]. Xây dựng lực lượng vũ trang từng bước từ số lượng đến qui mô tổ
chức, trình độ chiến thuật. Vừa xây dựng vừa rút kinh nghiệm. Xây dựng lực
lượng vũ trang khởi nghĩa theo Hồ Chí Minh là xây dựng cả hai lực lượng: lực
lượng vũ trang tập trung và lực lượng vũ trang địa phương. Trong chỉ thị thành
lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (1944), Hồ Chí Minh chỉ ra:
“Phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân” [40, tr.507]. Theo Hồ Chí Minh,
lực lượng vũ trang tập trung có nhiệm vụ: “dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa
phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội
này trưởng thành mãi lên” [40, tr.507]. Lực lượng vũ trang địa phương ra đời
phải phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương tiện đối với đội quân chủ
lực. Tư tưởng chủ đạo trong xây dựng lực lượng vũ trang đó là “chính trị trọng
hơn quân sự” [40, tr.507].
Để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, Hồ
Chí Minh chủ trương xây dựng các căn cứ địa cách mạng. Xây dựng căn cứ địa
cách mạng chính là nhằm tạo ra địa bàn rộng lớn để bảo vệ và phát triển lực
lượng cách mạng, là nơi huấn luyện, nuôi dưỡng lực lượng vũ trang; nơi nuôi
dưỡng bảo vệ trung tâm đầu não của Đảng, của cách mạng trong suốt quá trình
trước và trong khởi nghĩa. Điều quan trọng trong xây dựng căn cứ địa cách
mạng mà Hồ Chí Minh yêu cầu chính là phải chọn những nơi có diện tích khá
rộng, kín đáo, thuận lợi cho xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, phát
triển phong trào, thuận lợi cho hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với
mặt trận và phong trào cách mạng quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, địa hình các vùng rừng núi là những nơi thuận lợi

nhất cho việc xây dựng các căn cứ địa cách mạng. Người chỉ ra rằng, trong xây
dựng căn cứ địa cách mạng phải hết sức khẩn trương, tích cực chủ động. Qui
mô xây dựng căn cứ địa cách mạng phải từ nhỏ đến lớn theo yêu cầu của khởi


nghĩa vũ trang. Vừa xây dựng, vừa tổ chức rút kinh nghiệm để làm tốt hơn, đáp
ứng yêu cầu khởi nghĩa.
1.2.4. Xây dựng Đảng đoàn kết, thống nhất để lãnh đạo toàn dân khởi
nghĩa
Những năm tháng Hồ Chí Minh hoạt động ở nước ngoài cũng như khi trở về
Tổ quốc, Người luôn quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng đoàn kết thống nhất,
chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
Theo Hồ Chí Minh, sở dĩ phải xây dựng Đảng đoàn kết, thống nhất là bởi xuất
phát từ vai trò của đoàn kết, thống nhất trong Đảng đối với sức mạnh lãnh đạo của
Đảng, của cách mạng. Xây dựng Đảng đoàn kết, thống nhất chính là làm cho Đảng
ta vững mạnh trên cả ba mặt: Chính trị, tư tưởng và tổ chức. Hồ Chí Minh cho
rằng: một Đảng mạnh là một Đảng thống nhất, đoàn kết, nếu không có sự đoàn kết,
thống nhất thì Đảng đó không thể tồn tại, sớm hay muộn sẽ bị tan rã. Đảng Cộng
sản Đông Dương ra đời ở một nước thuộc địa nửa phong kiến với số lượng đảng
viên xuất thân chủ yếu từ giai cấp nông dân, tiểu tư sản, do vậy, nhận thức của
đảng viên và sự giác ngộ chính trị còn hạn chế. Lúc cách mạng và Đảng gặp khó
khăn, đảng viên dễ dao động tư tưởng, dễ bị chia rẽ, dễ bị lợi dụng. Cho đến những
năm giữa thế kỷ XX, trong Đảng ta còn tồn tại những khuyết điểm, hạn chế, trong
đó sự đoàn kết, thống nhất chưa cao. Trong nhiều tổ chức đảng còn có biểu hiện
thiếu đoàn kết, thống nhất, còn bị các phần tử cơ hội chui vào Đảng, chia rẽ sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Từ thực trạng đó, Hồ Chí Minh và Đảng ta thường xuyên chỉ đạo uốn nắn,
sửa chữa những khuyết điểm. Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở Đảng ta phải
luôn luôn chú ý để khai trừ những phần tử mục nát, hèn yếu ra khỏi Đảng. Để đáp
ứng được yêu cầu mà khởi nghĩa vũ trang đặt ra, Hồ Chí Minh chủ trương xây

dựng Đảng đoàn kết, thống nhất theo mấy quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn làm cơ sở để xây dựng sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, đường lối chính trị và sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng
có quan hệ biện chứng với nhau. Đường lối chính trị đúng đắn là thể hiện sự thống
nhất, đoàn kết cao của Đảng, là cơ sở tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Ngược lại, nếu không xây dựng được Đảng đoàn kết, thống nhất cao hoặc thiếu sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng sẽ dẫn đến sự yếu kém, sai lầm cả về đường lối
chính trị và chỉ đạo thực hiện. Kinh nghiệm trong thực tiễn đấu tranh cách mạng ở
nhiều nước trên thế giới cho thấy, mọi thắng lợi mà giai cấp vô sản giành được đều
xuất phát từ đường lối chính trị đúng đắn, xuất phát từ Đảng Cộng sản có sự đoàn
kết, thống nhất cao. ở Việt Nam, trong những năm đầu thế kỷ XX cũng cho thấy, ở
đâu Đảng thiếu sự đoàn kết thống nhất thì ở đó không thể có chủ trương và sự chỉ
đạo đúng đắn, tổ chức đảng ở đó bị suy yếu, phong trào cách mạng ở đó gặp nhiều
khó khăn, thậm chí thất bại.
Chính vì vai trò to lớn của đường lối chính trị đối với sức mạnh đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, cho nên ngay khi trở về Tổ quốc, Hồ Chí Minh đã nhanh


chóng nắm bắt tình hình trong nước, cùng với các đồng chí cán bộ của Đảng ta
triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5.1941), nhằm hoàn chỉnh chủ trương
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, xác định đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, theo đó các nhiệm vụ khác cũng phải tuân thủ những qui định do đường
lối giải phóng dân tộc đặt ra.
Thành công của Hội nghị Trung ương lần thứ 8 của Đảng với sự hoàn chỉnh
về chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đã tạo nên cơ sở nền tảng cho sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Với đường lối chính trị đúng đắn đó góp phần
định hướng toàn bộ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với quá trình xây
dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền.

Hai là, trên cơ sở quan điểm, đường lối đề ra, phải coi trọng công tác tuyên
truyền đường lối, chủ trương của Đảng sâu rộng trong toàn Đảng nhằm nâng cao
sự thống nhất trong nhận thức cho mọi cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến cơ
sở.
Theo Hồ Chí Minh, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng trước hết bắt nguồn
từ sự hiểu biết và giác ngộ chính trị của mọi đảng viên trong tổ chức đảng. Khi
đường lối, chủ trương ra đời không phải ai cũng hiểu được, muốn cho mọi cán bộ,
đảng viên hiểu được đúng đắn, đầy đủ chủ trương giải phóng dân tộc của Đảng thì
phải bằng cách đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thông qua tuyên truyền làm cho
mọi người hiểu đầy đủ, đúng đắn đường lối chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, hiểu
biết được âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt của kẻ thù để từ đó biết cách tổ chức, lãnh
đạo, chỉ đạo quần chúng xây dựng lực lượng cách mạng và tiến hành khởi nghĩa
thắng lợi. Mỗi thắng lợi của cách mạng sẽ có tác dụng củng cố uy tín của Đảng,
tăng cường thêm sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng. Từ vị trí, vai trò của công tác
tuyên truyền đối với xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh
chỉ đạo phải lập ra các uỷ ban tuyên truyền chuyên môn hoặc các cá nhân tuyên
truyền chuyên trách ở các cấp trong toàn quốc. Chỉ thị có đoạn "Các cán bộ từ phủ,
huyện, tỉnh, bộ trở lên phải có uỷ ban hay vài người chuyên môn công tác tuyên
truyền" [12, tr.134]. Phải chú ý lựa chọn những người dũng cảm, khéo léo và đào
tạo họ, sử dụng họ trong đội quân tuyên truyền của Đảng ở từng nơi, từng lúc cho
phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền.
Ba là, cùng với chỉ đạo công tác tư tưởng, Đảng phải nhanh chóng củng cố,
kiện toàn, mở rộng hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến các địa phương.
Do đặc điểm các tổ chức của Đảng luôn bị kẻ địch khủng bố, giết hại đảng
viên, làm cho Đảng vừa thiếu đảng viên, vừa thiếu cán bộ. Các tổ chức cơ sở đảng
còn quá ít so với yêu cầu phát triển của cách mạng: "Hiện thời Đảng ta không
những ít chi bộ, mà còn có nhiều chi bộ eo hẹp, sống một cách thoi thóp" [12,
tr.207]. Sự liên lạc trong Đảng ở một số địa phương có lúc bị đứt đoạn kéo dài,
chậm được khắc phục, công tác bí mật của Đảng còn nhiều vấn đề cần phải trấn
chỉnh lại. Việc sắp xếp và sử dụng cán bộ, đảng viên ở một số vị trí trong Đảng và

trong các tổ chức chính trị quần chúng chưa phù hợp, thành phần giai cấp công


nhân trong Đảng còn quá ít, các phần tử xấu chui vào Đảng và đang tìm mọi cách
chia rẽ, phá hoại sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Từ thực trạng đó, Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương củng cố, kiện toàn và
mở rộng hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến các địa phương, nhằm thực
hiện sự liên lạc thông suốt trong Đảng, phát triển đảng viên "phải chú ý đào tạo
giai cấp vô sản đem vào Đảng" [11, tr.135], kết hợp phát triển đảng viên với củng
cố, mở rộng và phát triển các tổ chức cơ sở đảng. Tích cực đào tạo, sắp xếp, bố
trí, sử dụng cán bộ đảng cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng và yêu cầu xây
dựng Đảng. Thực hiện sự thống nhất tổ chức đảng ở các cấp từ Trung ương đến
các địa phương. Tích cực đấu tranh loại bỏ những đảng viên thoái hoá biến chất
ra khỏi Đảng, làm trong sạch tổ chức đảng.
Bốn là, gắn liền với các chủ trương, biện pháp về xây dựng Đảng phải coi
trọng xây dựng mặt trận dân tộc đoàn kết, thống nhất.
Theo Hồ Chí Minh, việc thành lập và hoạt động của Mặt trận Việt Minh có
vai trò rất to lớn đến sự thành công của cách mạng, sự trưởng thành của Mặt trận
tác động mạnh mẽ đến xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đảng lãnh
đạo toàn dân khởi nghĩa bằng đường lối, chủ trương, thông qua đội ngũ cán bộ,
đảng viên, thông qua Mặt trận Việt Minh. Hoạt động của các tổ chức chính trị quần
chúng, của Mặt trận Việt Minh chính là thực hiện sự liên lạc giữa Đảng với quần
chúng nhân dân. Do vậy, Hồ Chí Minh cho rằng Đảng phải "hoá thân" vào trong
Mặt trận Việt Minh, thông qua Mặt trận để lôi kéo, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân
tham gia chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa. Thông qua Mặt trận Việt Minh để
Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình trong nhiệm vụ đấu tranh giành chính quyền,
làm cho chủ trương, đường lối của Đảng được quán triệt sâu rộng trong các tầng
lớp nhân dân, để từ đó làm cho đại đa số quần chúng tán thành đường lối, chủ
trương của Đảng. Sự hưởng ứng và tham gia đông đảo của quần chúng theo
chương trình Việt Minh tạo nên những thắng lợi của cách mạng càng làm cho uy

tín của Đảng trong quần chúng ngày càng được nâng cao, sự đoàn kết, thống nhất
trong Đảng ngày càng được củng cố và phát triển.
Trong khi thực hiện xây dựng Đảng đoàn kết, thống nhất, Hồ Chí Minh nhắc
nhở Đảng ta không được xem nhẹ bất cứ một quan điểm nào, phải thường xuyên
nêu cao hơn nữa tinh thần gương mẫu đi đầu của đội ngũ cán bộ cấp uỷ đảng trong
công tác xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.


Chương 2
XÂY DỰNG KHỐI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG KHỞI NGHĨA VŨ
TRANG GIÀNH CHÍNH QUYỀN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
2.1. Xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong cao trào giải phóng dân tộc
(5.1941 – 8.1945)
2.1.1. Xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong cao trào đánh đuổi Pháp –
Nhật (5.1941 – 3.1945)
Vào giữa những năm 30 của thế kỷ XX, chủ nghĩa phát xít hình thành phát
triển nhanh chóng, chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. Cuộc đại chiến thế giới lần
thứ II bùng nổ năm 1939, đã làm cho tình hình thế giới biến đổi sâu sắc. Các
nước Đức, Ý, Nhật cấu kết với nhau thực hiện cuộc chiến tranh phát xít, lôi kéo
nhiều nước đế quốc cùng tham chiến, đẩy nhân loại đứng trước thảm hoạ diệt
vong.
Dù đang hoạt động ở nước ngoài, song lãnh tụ Nguyễn ái Quốc rất lo lắng,
quan tâm theo dõi diễn biến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, và những thay


×