Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiểu luận biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.87 KB, 20 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản, xuyên suốt, bao
trùm toàn bộ lịch sử vận động, phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp lên cao. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất đã chỉ ra rằng, sự kết hợp đúng đắn giữa
các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, giữa các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất, giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất sẽ đem lại những phương thức liên kết có hiệu
quả cao giữa người lao động với tư liệu sản xuất, thúc đẩy sản xuất
xã hội phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội
có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Để thực hiện được điều này thì
phương hướng cơ bản đầu tiên của nước ta trong giai đoạn hiện nay
là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên môi trường”.
Đây là lựa chọn phù hợp với lý luận về mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; phù hợp với thực tiễn
đất nước và hoàn cảnh quốc tế đang chuyển từ nền kinh tế công
nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Đó cũng là con đường duy nhất giúp
chúng ta “rút ngắn” quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
Sau 20 năm thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, và 10 năm tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, nền kinh tế đất nước đã có bước phát triển,
đất nước đã thóat khỏi vạch nghèo để trở thành nước có thu nhập
trung bình thấp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết




2
điểm. Chính vì thế, việc tiếp tục nghiên cứu và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo nguyên lý mác xít về mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào thực tiễn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam trong hoàn cảnh mới vẫn là một vấn đề cấp
thiết cả về lý luận và thực tiễn. Đó là lý tôi lựa chọn đề tài: “Biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam gắn với phát triển
kinh tế tri thức hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ TÍNH MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất với đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã thu hút nhiều nhà
khoa học quan tâm, nghiên cứu. Trong đó có một số công trình, tác
phẩm có liên quan đến đề tài như sau:
“Tìm hiểu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănghen về quy luật phù
hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất” của Trương Hữu
Toàn (Tạp chí Triết học, số 3 - 1994); “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực” của Phạm Khiêm Ích và
Nguyễn Đình Phan (Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994); “Xây dựng quan
hệ sản xuất trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
của Phan Thanh Phố (Tạp chí Cộng sản, số 2 -1998); “Nền kinh tế tri
thức: Nhận thức và hành động” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế
Trung ương (Nxb Thống kê, Hà Nội, 2000); “Phát triển kinh tế tri
thức rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của
GS.TS.Đặng Hữu (Tạp chí cộng sản, số 22 - 2002); “Vai trò nền
tảng, động lực của khoa học và công nghệ đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển xã hội ở Việt Nam” của
PGS.TS.Phạm Thị Ngọc Trầm (Tạp chí Triết học, số 7 - 2002);

“Kinh tế tri thức - xét từ góc độ lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất” của Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Triết học, số 3 - 2003); “Kinh
tế tri thức - thời cơ và thách thức đối với sự phát triển của Việt Nam”
của GS.Đặng Hữu (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004); “ Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - Phát thảo lộ trình” của Trần


3
Đình Thêm (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); “Quan điểm đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức - Bước phát triển mới trong đường lối tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước của Đảng ta” của ThS. Lê Ngọc Anh
(Tạp chí Triết học, số 12 - 2006); “Biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Thừa Thiên Huế (Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Tuấn Ngọc, bảo vệ tại trường Đại học khoa học Huế năm
2008); “Thế nào là một nước công nghiệp” của GS.Đỗ Quốc Sam
(Tạp chí Cộng sản, số 5 - 2009); “Kinh tế tri thức và thực hiện phát
triển kinh tế tri thức ở nước ta” của GS.TS.Trần Ngọc Hiên (Tạp chí
Cộng sản, số 8 - 2010); “Luận điểm “Khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp” của C.Mác và sự vận dụng ở nước ta hiện nay”
của TS.Trần Đắc Hiến (Tạp chí triết học, số 1 - 2011); “Công nghiệp
hóa theo hướng hiện đại và sự phát triển bền vững” của
GS.TS.Nguyễn Trọng Chuẩn (Tạp chí Cộng sản, số 9 - 2011)
Đây là nguồn tư liệu quan trọng, là cơ sở, là nền tảng cho để tôi
hoàn thành đề tài luận văn của mình.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Phân tích và làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Trên cơ sở đó, vạch rõ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay là một tất yếu
khách quan. Đồng thời, làm rõ định hướng, giải pháp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt
Nam giai đoạn 2011 - 2015.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Từ mục đích và nhiệm vụ của đề tài đã quy định đối tượng và
phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
- Phương thức sản xuất vật chất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức hiện nay.


4
- Vận dụng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Cơ sở lý luận: Những nguyên lý duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng các quan điểm, chính sách
của Đảng và Nhà nước.
- Phương pháp nghiên cứu: các nguyên tắc của phép biện chứng
duy vật và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng các phương pháp như:
phân tích, tổng hợp, so sánh và hệ thống hóa, thống kê, chú giải các
tài liệu.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở khoa học của việc tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở
Việt Nam; vạch rõ định hướng và giải pháp đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta giai
đoạn 2011 - 2015.

7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham
khảo, luận văn gồm có 2 chương và 6 tiết.


5
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC HIỆN NAY
1.1. Phương thức sản xuất và quy luật vận động của nó
1.1.1. Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình
sản xuất vật chất ở những giai đoạn nhất định của xã hội loài người.
Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản
xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Trong
đó, lực lượng sản xuất là toàn bộ các lực lượng được con người sử
dụng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất
bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ; tư liệu sản
xuất, trước và khoa học, công nghệ. Trong các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất thì con người hay người lao động giữ vị trí hàng đầu
và quyết định, là nguyên nhân sâu xa của mọi biến cải xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình
sản xuất, bao gồm: các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; các
quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất; các quan hệ trong phân
phối sản phẩm lao động. Ba mặt quan hệ cấu thành quan hệ sản xuất
thống nhất, gắn bó với nhau tạo thành một hệ thống tương đối ổn
định. Trong đó, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ chi
phối và quyết định các quan hệ còn lại. Bên cạnh đó, quan hệ tổ chức
quản lý sản xuất và quan hệ phân phối về mặt sản phẩm lao động với

các vai trò đặc thù của nó cũng có sự tác động trở lại đối với quan hệ
sở hữu, từ đó, nó có khả năng đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình
phát triển kinh tê - xã hội.


6
1.1.2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất vạch rõ, lực lượng sản xuất là yếu tố
năng động, phổ biến, là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển,
biến đối của sản xuất xã hội theo chiều tiến bộ. Sự vận động và phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản
xuất cho phù hợp với nó. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất bao giờ cũng
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất biến đổi phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, lúc đó quan hệ sản xuất tạo điều
kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và tư
liệu sản xuất, và do đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển hết khả
năng của nó. Khi quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu, hoặc “tiên tiến”
hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo tính khách
quan, quan hệ sản xuất đó sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất
mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là mang tính khách quan, tất yếu, cơ bản,
và phổ biến của toàn xã hội. Nó là nguồn gốc và động lực cơ bản của
sự vận động, phát triển các phương thức sản xuất, chi phối sự vận
động, phát triển của toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Đối với nước

ta, biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là cơ sở lý
luận vững chắc cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức.
1.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Công nghiệp hóa
Trong thực tiễn tiến hành công nghiệp hóa đến nay vẫn tồn tại
nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù “công nghiệp hóa”. Nhưng
chúng ta có thể hiểu, theo nghĩa hẹp, công nghiệp hóa là quá trình


7
chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp) sang nền
kinh tế công nghiệp làm chủ đạo. Theo nghĩa rộng hơn, công nghiệp
hóa là quá chuyển dịch từ kinh tế nông nghiệp (hay tiền công nghiệp)
sang kinh tế công nghiệp, từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp.
Kể từ khi hình thành cho đến nay, có thể chia công nghiệp hóa
thành hai loại hình lớn: Loại hình thứ nhất là công nghiệp hóa kiểu
truyền thống và loại hình thứ hai là công nghiệp hóa kiểu mới (hay
công nghiệp hóa hiện đại) với nhiều mô hình khác nhau. Tuy quá
trình tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới còn nhiều hạn chế
nhưng lịch sử khắc nghiệt của kinh tế thế giới đã chứng minh rằng:
Bất cứ một nước chậm phát triển nào muốn đạt tới trình độ phát
triển đều phải trải qua nấc thang có tính tất yếu lịch sử là công
nghiệp hóa. Đó là yếu tố quan trọng và là con đường duy nhất để
thóat khỏi tình trạng kinh tế nông nghiệp nghèo nàn và lạc hậu.
Về bản chất, quá trình công nghiệp hóa có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, quá trình công nghiệp hóa không chỉ liên quan đến phát triển
công nghiệp mà là quá trình bao trùm cả các ngành, các lĩnh vực hoạt
động của một nước. Thứ hai, quá trình công nghiệp hóa trong bất kỳ giai

đoạn nào cũng đều vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật, vừa là quá trình
kinh tế - xã hội. Thứ ba, quá trình công nghiệp hóa cũng đồng thời là
quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện
nay quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Thứ tư, công nghiệp
hóa không phải là mục đích tự thân, mà là một phương thức có tính chất
phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước. Thứ năm, công nghiệp
hóa là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các
ngành kinh tế quốc dân, trước hết là những ngành trọng yếu.
1.2.2. Hiện đại hóa
Hiện đại hóa là một quá trình đang tiến triển nên chưa bộc lộ hết
những đặc điểm của nó. Chính vì thế cho đến nay vẫn còn nhiều quan
điểm khác nhau về quá trình hiện đại hóa. Nhưng ta có thể hiểu, hiện
đại hóa là quá trình chuyển biến từ xã hội nông nghiệp thành xã hội


8
công nghiệp, là sự chuyển dịch căn bản từ xã hội truyền thống sang
xã hội hiện đại.
Hiện nay, hiện đại hóa là quá trình tất yếu dành chung cho tất cả
các quốc gia lạc hậu, kém phát triển để phát triển nhanh chóng, đuổi
kịp các nước phát triển. Với các nước phát triển tiến trình hiện đại
hóa không dừng lại mà vẫn tiếp tục diễn ra để đưa xã hội đến một
trình độ cao hơn, hiện đại hơn, tiên tiến hơn nữa. Nhìn chung, các
nước trên thế giới đều đang ở những giai đoạn khác nhau của quá
trình hiện đại hóa.
1.2.3. Mối quan hệ giữa công nghiệp hóa và hiện đại hóa
Hiện đại hóa và công nghiệp hóa là hai quá trình khác nhau nhưng
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Hiện đại hóa, xét trên góc độ kinh tế
- kỹ thuật là cái đích cần vươn tới trong quá trình công nghiệp hóa.
Trong giai đoạn hiện nay, cốt lõi của hiện đại hóa, quá trình trung tâm

của hiện đại hóa là công nghiệp hóa gắn liền với đổi mới căn bản về
công nghệ, phát triển mạnh mẽ các ngành có hàm lượng khoa học và
công nghệ cao. Tạo nên bước phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản
xuất, từ đó thay đổi luôn quan hệ sản xuất, hình thành nên phương thức
sản xuất mới tiến bộ hơn.
Đối với một số quốc gia đi sau trong việc tiến hành công nghiệp
hóa, họ đã lựa chọn tiến hành công nghiệp hóa song song với hiện đại
hóa để có thể bắt kịp các nước đi trước. Ở các quốc gia này, xét toàn
cục, hiện đại hóa chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của
quá trình công nghiệp hóa mà thôi.
1.3. Kinh tế tri thức
1.3.1. Khái niệm và đặc trưng của nền kinh tế tri thức
Ngay từ khi xuất hiện nền kinh tế tri thức, có rất nhiều quan điểm
khác nhau về khái niệm “kinh tế tri thức”. Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OEDC) đưa ra định nghĩa: Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong
đó sự sản sinh ra công nghệ, phổ cập và sử dụng tri thức giữa vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra nhiều của cải, nâng
cao chất lượng cuộc sống. Ngân hàng Thế giới (WBI) cho rằng: Nền


9
kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa vào tri thức như là động lực chính cho
sự tăng trưởng kinh tế. Đó là nền kinh tế trong đó tri thức được lĩnh hội,
sáng tạo, phổ biến và vận dụng để thúc đẩy phát triển.
Do tính mới của nền kinh tế tri thức và thực tiễn nền kinh tế tri
thức chưa phát triển hoàn thiện nên các quan niệm về kinh tế tri thức
vẫn chưa hoàn chỉnh và thời gian tới sẽ còn nhiều biến đổi, mở rộng
hơn. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận diện nền kinh tế tri thức qua
các đặc trưng sau: trong nền kinh tế tri thức, tri thức cùng với khả
năng sáng tạo ra tri thức của con người, thông tin và khoa học công nghệ trở thành vốn quý nhất và là nguồn lực hàng đầu để tăng

trưởng. Chất lượng cuộc sống được nâng cao, tính dân chủ hóa được
thúc đẩy, giáo dục và đào tạo được đầu tư cao hơn, tạo nên khả năng
phát triển nhanh và bền vững.
Nhận thức được tầm quan trọng của phát triển kinh tế tri thức,
Đại hội XI của Đảng đã quyết tâm thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi
trường, “rút ngắn” quá trình công nghiệp hóa.
1.3.2. Mối quan hệ giữa kinh tế tri thức với công nghiệp hóa,
hiện đại hóa
Nền kinh tế tri thức là bước phát triển tiếp theo của nền kinh tế
công nghiệp, của quá trình hiện đại hóa, là sản phẩm của sự phát triển
khách quan của lực lượng sản xuất cùng với hoàn thiện quan hệ sản
xuất phù hợp. Đối với các nước phát triển đã hoàn thành quá trình
công nghiệp hóa và hiện đại hóa thì việc chuyển sang nền kinh tế tri
thức là bước phát triển tất yếu mang tính tuần tự, xuất phát từ yêu cầu
của thực tiễn sản xuất công nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế. Đối với
các nước đi sau, các nước đang phát triển đang trong quá trình tiến
hành công nghiệp hóa thì nền kinh tế tri thức là cơ hội để tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn.
Bằng cách gắn kết công nghiệp hóa, hiện đại hóa với kinh tế tri thức
Việt Nam có khả rút ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực
và trên thế giới, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh bền vững.


10
CHƯƠNG 2
ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC GẮN VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRI THỨC HIỆN NAY
2.1. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

là cơ sở khoa học của đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức
Đối với Việt Nam, Đảng ta xác định công nghiệp hóa là nhiệm
vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ
sở nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất, vai trò của khoa học và công nghệ, của kinh
tế tri thức. Đại hội XI của Đảng một lần nữa có bước đổi mới về tư
duy khi khẳng định: Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường. Hướng đến mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất theo
hướng hiện đại, thực hiện xã hội hóa sản xuất về mặt kinh tế - kỹ
thuật, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiên tiến, phù hợp, đảm bảo tính
định hướng xã hội chủ nghĩa trong suốt tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại.. Tất cả vì dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Đây cũng chính là mục tiêu cao nhất
mà chúng ta hướng đến trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Tuy nhiên, để đạt được những mục tiêu đã đề ra của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, chúng ta cần thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau: Thứ
nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Thứ hai,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ ba, lấy
phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển


11
nhanh bền vững.Bốn là, phát triển khoa học và công nghệ là nền

tảng và động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức.Thứ năm, tiến hành công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đi đôi với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học đảm bảo
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững
Phát huy một cách tối đa các nhân tố cấu thành lực lượng sản
xuất từ phát huy nguồn lực con người, đến đẩy mạnh ứng khoa học
và công nghệ vào quá trình sản xuất, tạo ra hệ thống công cụ lao
động hiện đại, cũng như nguồn tư liệu lao động phong phú; để quan
hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối trở thành
một chỉnh thể hoàn thiện, trở thành nhân tố thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
2.2. Những điều kiện ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta
hiện nay
2.2.1. Toàn cầu hóa
Đối với Việt Nam, toàn cầu hóa tạo điều kiện cho chúng ta hội
nhập, gia nhập vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tham gia vào mạng sản
xuất toàn cầu, quá trình tham gia vào phân công lao động quốc tế
diễn ra thuận lợi hơn. Nhờ vậy, chúng ta có cơ hội tiếp cận với các
nguồn vốn; chuyển giao công nghệ; tiếp cận với những thành tựu
trong khoa học - công nghệ tiên tiến.
Bên cạnh đó, quá trình toàn cầu hóa hiện nay vẫn chứa đựng nhiều
thách thức cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức: Thứ nhất, trong một nền kinh tế toàn
cầu hóa ở mức cao, nền kinh tế trong nước sẽ bị phụ thuộc vào những
diễn biến từ bên ngoài. Thứ hai, trong quá trình tiếp nhận chuyển giao
công nghệ từ các nước đang phát triển sẽ đặt Việt Nam trước thách
thức lựa chọn công nghệ nếu không muốn trở thành bãi rác công nghệ
của thế giới. Thứ ba, Việt Nam sẽ phải đối mặt với nhiều thay đổi tiêu

cực về mặt xã hội như khoảng cách giàu nghèo tăng lên, cạnh tranh


12
khiến nhiều doanh nghiệp bị phá sản, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, ô
nhiễm môi trường lan rộng.
2.2.2. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra với quy mô lớn
chưa từng có trong lịch sử, làm thay đổi kết cấu kinh tế thế giới. Đối
với nước ta, việc kết hợp tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội với những
thành tựu mà cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại mang lại
là một vấn đề quan trọng tạo ra cơ hội cho chúng ta đi tắt, đón đầu, rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, tốc độ phát triển nhanh chónh của khoa học và công
nghệ sẽ dẫn đến nguy cơ tụt hậu xa hơn không chỉ trên thế giới mà
còn ở trong khu vực. Đây là thách thức lớn nhất khi chúng ta tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh phát
triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ.
2.2.3. Kinh tế tri thức
Đối với Việt Nam, phát triển kinh tế tri thức là cơ hội chưa từng
có của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, để Việt Nam
có thể “đi tắt, đón đầu” trên con đường phát triển kinh tế và thu hẹp
dần khoảng cách với các nước đi trước. Bởi nền kinh tế tri thức làm
xuất hiện khả năng phát triển đồng thuận giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ xã hội và phát triển bền vững. Nền kinh tế tri thức cũng làm
biến đổi sâu sắc về sở hữu và phân phối, tạo nên sự bình đẳng trong
xã hội, góp phần tăng năng suất lao động - một nhân tố quyết định
thắng lợi cuối cùng của một chế độ xã hội. Kinh tế tri thức cho ta cơ
hội để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ cấp bách, bức xúc,
cũng như những nhiệm vụ cơ bản lâu dài trong quá trình công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, nền kinh tế tri thức với những đặc điểm là: tri thức
là yếu tố hàng đầu của nền sản xuất, thông tin là tài nguyên quan
trọng nhất, sáng tạo chính là động lực tạo ra sự phát triển của xã hội.
Đòi hỏi mỗi quốc gia trong quá trình phát triển nền kinh tế tri thức
phải có nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn giỏi, có năng lực


13
sáng tạo, tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, phát
triển mạnh mẽ công nghệ thông tin. Tuy nhiên, ở nước ta, đây vẫn
đang là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Thế nên, kinh tế tri
thức có thể trở thành một thách thức lớn trong quá trình phát triển
kinh tế, thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
2.2.4. Bối cảnh trong nước
Ở nước ta, những thành tựu của 25 năm đổi mới đã tạo cho đất
nước thế và lực, sức mạnh tổng hợp để Việt Nam tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Cơ chế thị
trường, nền kinh tế nhiều thành phần phát triển và ngày càng hóa
thiện, hệ thống kinh tế - xã hội được kết nối chặt chẽ hơn. Việt Nam
thóat khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước có
mức thu nhập trung bình thấp.
Đặc biệt, Việt Nam hiện đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số
vàng, năng lực trí tuệ, khả năng sáng tạo con người Việt Nam không
thua kém các nước. Là một nước tiến hành công nghiệp hóa muộn,
Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm phong phú về công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của các nước đi trước. Đồng thời, nước ta có vị trí địa
kinh tế thuận lợi, nằm ở trung tâm vùng kinh tế năng động Đông
Nam Á, thuận lợi cho việc giao lưu và hội nhập quốc tế. Nước ta có

nguồn tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú để phát triển một
số ngành công nghiệp quan trọng. Bên cạnh đó, truyền thống, bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam là nền tảng cho sự phát triển các khả năng
sáng tạo. Những yếu tố trên tạo nên lợi thế quan trọng trong cạnh
tranh quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để phát triển những
ngành, những lĩnh vực hiện đại, có thể theo hướng rút ngắn.
Bên cạnh những thuận lợi có được, Việt Nam cũng đang đứng
trước những khó khăn. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Nền kinh
tế phụ thuộc và sản xuất giản đơn, dựa trên lao động không có kỹ
năng, năng suất thấp và năng lực tiếp thu và phát triển công nghệ yếu


14
kém. Là nước tiến hành công nghiệp hóa muộn, Việt Nam gặp phải
những bất lợi trong cạnh tranh quốc tế, do năng suất thấp, chất lượng
sản phẩm thấp, hàm lượng vốn và trí tuệ trong sản phẩm không cao.
Bên cạnh đó, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta
phải đối mặt với các vấn đề về tài nguyên - môi trường, dân số và
công ăn việc làm ngày càng gay gắt.
2.3. Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam giai đoạn
2011 - 2015
2.3.1. Thành tựu và hạn chế của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
* Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Trong những năm qua, có thể thấy tỷ trọng trong GDP của ngành
nông nghiệp đã giảm nhanh, tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng
nhanh, tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều. Đây là dấu

hiệu cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế đang đi theo
xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh
tế còn chậm đặc biệt là chuyển dịch theo hướng phát triển kinh tế tri
thức và chất lượng chưa cao, năng lực sản xuất theo chiều sâu của
nền kinh tế nước ta không tăng lên, tác động đến hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế.
* Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với
phát triển kinh tế tri thức
Đến nay, việc thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiêp, nông thôn gắn với phát triển kinh tế tri thức đã được
những thành tựu đáng kể, tạo nên sự thay đổi trong quá trình sản xuất
nông nghiệp. Nền nông nghiệp tiểu nông đang được thay bằng nông
nghiệp thương phẩm - công nghiệp hóa; hàm lượng kinh tế tri thức


15
trong sản phẩm nông nghiệp tăng và nông thôn truyền thống đang
chuyển dần sang nông thôn mới với công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, tăng trưởng kinh tế trong lĩnh vực
nông nghiệp là theo chiều rộng và chưa hiệu quả, chưa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công
nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm. Chênh lệch mức sống giữa
nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Đời sống văn hóa - xã hội,
chất lượng môi trường bị giảm sút nghiêm trọng do tác động của đô
thị hóa và công nghiệp hóa.
* Phát triển nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ phục vụ cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức Xét

tổng thể, nguồn lao động ở nước ta số lượng lớn, nguồn lao động qua
đào tạo và có trình độ chuyên môn cao ngày càng tăng. Việc phát
triển khoa học và công nghệ đã được quan tâm, đưa vào áp dụng
trong thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt. Tuy nhiên,
chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố quyết định đến trình độ của lực
lượng sản xuất, sự phát triển của khoa học và công nghệ vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế, đang là điểm nghẽn cản trở
việc thực hiện các mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
* Tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các yếu tố thị
trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành và phát triển. Góp
phần giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực; hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, trong cơ cấu và chuyển dịch
cơ cấu thành phần kinh tế cũng còn những hạn chế và đặt ra một số
vấn đề cần giải quyết. Khiến cho nền kinh tế thị trường hiện vẫn là
nhân tố cản trở quá trình phát triển.
* Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển


16
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường Dù đã có những bước
tiến trong công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường nhưng vấn đề về
suy thóai môi trường vẫn là nỗi bức xúc trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiều hậu quả của biến đổi khí hậu
vẫn là mối quan ngại lớn nhất, là nhân tố đang đe doạ sự phát
triển bền vững của đất nước. Tất cả gây ảnh hưởng lớn đến các

hoạt động sản xuất, đời sống, sức khoẻ dân cư, giảm tính bền vững
của quá trình phát triển kinh tế.
2.3.2. Định hướng và giải pháp cho quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức từ nay đến năm 2015
Để đạt được mục tiêu tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chúng ta cần thực
hiện tốt các định hướng sau:
Thứ nhất, thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu
phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và
chiều sâu.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Khi thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được xây dựng phù hợp sẽ là động lực thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế.
Thứ ba, phát triển mạnh công nghiệp theo hướng hiện đại, có
hàm lượng tri thức cao tạo nền tảng cho một nước công nghiệp hiện
đại. Góp đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Thứ tư, phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đây là
nền tảng để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Thứ năm, phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo,
chất lượng nguồn nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh
tế tri thức. Bởi đây là ba trụ cột quan trọng của nền kinh tế tri thức, là
nhân tố đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển kinh tế tri thức
Thứ sáu, coi trọng bảo vệ môi trường, chủ động phòng, chống
thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu đảm bảo cho phát triển



17
nhanh và bền vững. Đảm bảo cho chất lượng cũng như tính bền vững
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức.
Trên cơ sở lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất; những định hướng của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bối
cảnh trong nước cũng như quốc tế. Tôi xin đề xuất một số giải pháp
để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát
triển kinh tế tri thức như sau:
Thứ nhất, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế. Đây là “chìa khóa”
cho mọi phát triển của Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ hai, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó phát triển kinh tế nhà
nước và kinh tế tập thể để chúng trở thành nền tảng của nền kinh tế.
Nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn thiện hệ thống pháp
luật, hệ thống các chính sách, phát triển đồng bộ các loại thị trường
đặc biệt là thị trường vốn, khoa học - công nghệ và thị trường lao
động. Đây là những thị trường quan trọng góp phần đẩy nhanh quá
trình xây dựng nền kinh tế tri thức ở nước ta.
Thứ ba, đẩy nhanh hơn nữa công cuộc đổi mới hệ thống giáo
dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; xây dựng nền giáo dục tiên
tiến, hiện đại, tạo điều kiện để mọi cá nhân được học tập suốt đời.
Quá trình giáo dục phải chú trọng đến việc bồi dưỡng, rèn luyện, xây
dựng năng lực tự học, chú ý đến phát triển năng lực sáng tạo hình
thành kỹ năng học tập suốt đời, kỹ năng phối hợp, chia sẻ và ứng
dụng những thông tin, tri thức. Gắn đào tạo lý thuyết với thực tế, tăng
cường tính thích ứng của giáo dục đại học với sự phát triển mạnh mẽ

của nền kinh tế đất nước cũng như sự phát triển của nền kinh tế tri
thức. Tăng cường thực hành dân chủ đặc biệt là dân chủ trong nghiên


18
cứu và sáng tạo; giải quyết tốt vấn đề lợi ích. Tạo động lực mạnh mẽ
thúc đẩy người lao động làm việc và thả sức sáng tạo.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tiềm lực khoa
học và công nghệ; nâng cao trình độ ứng dụng khoa học và công
nghệ vào sản xuất; cải tiến công cụ lao động ngày càng hiện đại.
Nhà nước tập trung thực hiện vai trò nhà quản lý khoa học và công
nghệ, nhà đầu phát triển khoa học và công nghệ về nghiên cứu cơ
bản. Tăng cường chức năng nghiên cứu cơ bản tại các trường đại học,
đổi mới cơ chế tài chính, hoàn thiện môi trường pháp lý, đổi mới tổ
chức và quản lý cho hoạt động khoa học và công nghệ. Chuyển mạnh
sang kinh tế thị trường, để cho sự cạnh tranh buộc phải sử dụng tri
thức, đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả, chất lượng của sản xuất,
từ đó thúc đẩy khoa học và công nghệ trong nước phát triển..
Thứ năm, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng hiện đại. Có chính sách ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực có trình độ cao làm việc ở nông thôn, và trong các ngành
nông nghiệp. Đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào
sản xuất nông nghiệp, góp phần tăng năng suất, cũng như chất lượng
sản phẩm nông nghiệp.
Thứ sáu, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở bảo
vệ tài nguyên môi trường, hướng đến thực hiện chỉ số “GDP xanh”
để phát triển hiệu quả và bền vững hơn. Xây dựng nền kinh tế tri
thức, tiết kiệm tài nguyên, nguyên liệu, năng lượng trong quá trình
sản xuất. Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn về

môi trường, chú trọng công tác dự báo và ứng phó với quá trình biến
đổi khí hậu. Xử lý mạnh tay và triệt để những cơ sở sản xuất gây ô
nhiễm môi trường.Nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của Nhà
nước đối với công tác môi trường. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền nâng cao vai trò và nhận thức của toàn dân đối với vấn
đề bảo vệ môi trường.


19
Thứ bảy, chủ động hội nhập sâu vào quá trình phân công lao
động quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại. Chủ động và khẩn trương
trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ và trình độ quản
lý để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát huy tối đa lợi thế so sánh
của nước ta. Cải thiện môi trường kinh doanh, khẩn trương đổi mới
và xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật phù hợp, xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch về phẩm chất, vững mạnh về chuyên môn. Xử lý
hài hoà mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Các giải pháp này có mối gắn kết chặc chẽ với nhau, cần được
tiến hành đồng thời và lồng ghép mới có thể đem lại những kết quả
khả quan cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức.

KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu lý luận về mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và sự vận dụng lý luận
này trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam gắn
với phát triển kinh tế tri thức hiện nay, chúng ta có thể đưa ra những
kết luận sau:
Chủ trương thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức của Đảng là sự vận dụng một cách sáng

tạo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong giai đoạn mới - khi quá trình toàn cầu
hóa, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế tri thức phát
triển như vũ bão. Quá trình đó, một mặt, chú trọng phát triển lực lượng
sản xuất, bởi lực lượng sản xuất luôn đi trước và xét cho cùng là
nguyên nhân chủ yếu thúc đẩy sản xuất phát triển, quyết định sự phát
triển xã hội. xây dựng nền cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại. Đồng thời,
quá trình đó thiết lập, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, là động lực thúc đẩy lực


20
lượng sản xuất phát triển. Tất cả hướng đến mục tiêu đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020.
Tuy nhiên, để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức chúng ta còn
phải vượt qua rất nhiều khó khăn, thách thức do nội tại nền kinh tế
của đất nước cũng như do sự phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn của
quá trình toàn cầu hóa kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ và nền kinh tế tri thức mang lại.
Để khắc phục những khó khăn đó, trong chặng đường từ đây đến
năm 2015, chúng ta phải thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau: thực
hiện tái cấu trúc nền kinh tế; hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới hệ thống giáo dục, đào
tạo, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện để mọi cá nhân được học
tập suốt đời. Nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tiềm lực khoa
học và công nghệ. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn gắn với phát triển kinh tế tri thức. Gắn nội
dung bảo vệ tài nguyên môi trường, hướng đến thực hiện chỉ số
“GDP xanh” trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Từ đó, phát huy được tối đa những lợi thế vốn có của đất nước,
phát huy cao độ tiềm năng trí tuệ nội sinh của dân tộc, khơi dậy được
những sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam, “cởi trói sức
dân”, tận dụng tốt những thời cơ của quá trình toàn cầu hóa kinh tế,
của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và nền kinh tế tri thức
mang lại. Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất sẽ phát triển một
cách toàn diện, quan hệ sản xuất ngày càng hoàn thiện phù hợp với
trình độ mới của lực lượng sản xuất. Tất cả sẽ tạo nên sức mạnh tổng
hợp mở đường cho kinh tế tri thức phát triển, “rút ngắn” quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.



×