Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH PHÁT TRIỂN PHẬT GIÁO ở NHẬT bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.56 KB, 50 trang )

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
Ở NHẬT BẢN

LỜI NÓI ĐẦU
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội đặc biệt ra đời và tồn tại hàng
ngàn năm nay với nhân loại, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo
nhân dân ở hầu khắp các quốc gia trên hành tinh này. Với con số hàng tỷ
người trên thế giới và gần như 100% dân cư ở nhiều nước cụ thể theo các
tôn giáo khác nhau đã nói rõ nhu cầu đó. Tôn giáo đã có ảnh hưởng mạnh
mẽ đến đời sống xã hội nhiều mặt của con người.
Tuy nhiên, xung quanh hiện tượng tôn giáo đang còn nhiều ý kiến
khác nhau trong giới nghiên cứu (và có thể nói là một trong những hiện
tượng xã hội có nhiều tranh cãi nhất). Chẳng hạn, tôn giáo là một hiện
tượng tích cực hay tiêu cực, có ảnh hưởng tốt hay xấu đến đời sống con
người, xã hội và đánh giá nó trên cơ sở khoa học nào. Về mặt hình thái ý
thức xã hội, tôn giáo lâu nay được xem như đối lập với khoa học và nếu
vậy thì cắt nghĩa như thế nào về hiện tượng tôn giáo có chiều hướng gia
tăng hiện nay trong khi có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ trên phạm vi thế giới cũng như mỗi quốc gia; vấn đề quan hệ hay tác
động, ảnh hưởng qua lại giữa tôn giáo với chính trị, văn hóa, đạo đức, khoa
học... như thế nào và bản thân tôn giáo trong nội dung các quan niệm của
mình có chứa đựng các yếu tố chính trị, văn hóa, đạo đức, khoa học
không...?
Có thể nói những vấn đề trên đây là những vấn đề lớn rất cần được
quan tâm nghiên cứu của nhiều ngành, nhiều giới, nhất là vấn đề ảnh hưởng
của tôn giáo đối với xã hội, con người là có tính thời sự cấp thiết.
Nhật Bản là quốc gia có trình độ phát triển cao trên nhiều lĩnh vực.
Trong những nguyên nhân tạo nên thành công chung của quốc gia này phải
kể đến sự tác động của một nền văn hóa rất độc đáo mang bản sắc Nhật
1



Bản (bao gồm văn hóa Phật giáo). Chỉ có nghiên cứu chính nền văn hóa
Nhật Bản trong đó có văn hóa Phật giáo mới giúp ta cắt nghĩa được một
phần thành công của đất nước này trong sự phát triển.
Nghiên cứu quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản hiện vẫn
có nhiều ý kiến cho rằng, đó chỉ là sự bành trướng tư tưởng, văn hóa Trung
Hoa hơn là nhu cầu nội tại của nước Nhật, và mặc dù, các môn phái đạo
Phật ở đây trong thế giới quan của mình còn chứa đựng những yếu tố duy
tâm, song khách quan mà nói, đạo Phật ở Nhật Bản nói chung đã có những
đóng góp tích cực cho lịch sử xã hội Nhật Bản trong lịch sử cũng như hiện
tại. Nghiên cứu những đóng góp đó sẽ có ý nghĩa rất bổ ích cho việc nghiên
cứu những chính sách kinh tế - xã hội cho một quốc gia phát triển.
Trong lịch sử nhân loại, tuy giữa các nước có những khác biệt về
tính cách, lối ứng xử của nhân dân và mọi đặc tính văn hóa khác do lịch sử
để lại, song giữa các dân tộc vẫn có nhiều nét tương đồng, nhất là đối với
Việt Nam và Nhật Bản là những quốc gia cùng nằm trong cộng đồng châu
Á, cùng có chung một xuất phát điểm về kinh tế là kinh tế nông nghiệp lúa
nước, đồng nổi bật nhất là cả hai nước đều mang dấu ấn đậm nét của văn
hóa Trung Hoa. Do đó, nghiên cứu Nhật Bản nói chung, văn hóa Nhật Bản
(bao gồm văn hóa Phật Giáo) nói riêng, chắc chắn Việt Nam sẽ tìm được
một phần những bài học kinh nghiệm bổ ích cho sự phát triển đất nước
mình. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Tìm hiểu ảnh hưởng của Phật giáo
đối với Nhật Bản" làm đề tài nghiên cứu lâu dài của mình. Trong phạm vi
rất hẹp của một đề tài cấp Viện và khả năng nghiên cứu của bản thân hiện
nay còn nhiều hạn chế, tôi chọn mảng vấn đề: "Quá trình hình thành,
phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản", là cơ sở để nghiên cứu đề tài lớn
nói trên làm đề tài nghiên cứu trong năm tới.

2



I. MỘT SỐ NÉT VỀ LỊCH SỬ PHẬT GIÁO

1.1. Về sự ra đời của Phật giáo
Trong tác phẩm nổi tiếng: "Phê phán triết học pháp quyền của
Hêghen (lời nói đầu)", C.Mác vĩ đại đã cho rằng: "Sự nghèo nàn của tôn
giáo, một mặt phản ánh sự nghèo nàn hiện thực và mặt khác là sự phản
kháng chống lại sự nghèo nàn hiện thực ấy"(1). Vì lẽ ấy, ta thấy, Các ánh xạ
của xã hội trần tục "nghèo nàn" mà tôn giáo là hiện thân có khả năng đại
diện cho tiếng nói và lương tri của những con người lao động bần cùng,
giúp họ đạt tới một sự giải tỏa về tinh thần. Vì vậy C.Mác viết tiếp: "Tôn
giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không
có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội
không có tinh thần..."(2).
Những nhận định của C.Mác trên đây là những chỉ dẫn để chúng ta
quay trở lại lần tìm những cơ sở hiện thực tiềm ẩn trong xã hội trần tục - cơ
sở làm nảy sinh tôn giáo nói chung và hiện tượng Phật giáo nói riêng.
Trở lại lịch sử Ấn Độ cổ đại vào khoảng thế kỷ thứ VI (TCN), ta
thấy, đó là một giai đoạn đặc biệt diễn ra sự tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc
và sự phát triển mạnh mẽ của chế độ chiếm hữu nô lệ. Chính cơ sở lịch sử
đó minh chứng cho nguyên nhân thúc đẩy một bộ phận dân cư Ấn Độ bị
gạt ra ngoài sự can dự vào các vấn đề trọng đại của đất nước. Muốn vậy, xã
hội quan phương phải tìm cách không chỉ tước đoạt họ về kinh tế mà còn
tước đoạt họ cả tinh thần và cuối cùng tuyên bố họ là những thân phận
phục tùng, tôi tớ.
Sự phân hóa xã hội mạnh mẽ, sâu sắc đã làm cho Ấn Độ cổ đại tồn
tại như là một xã hội có đẳng cấp và sự phân biệt đẳng cấp là hết sức nghiệt
ngã. Tuy nhiên, điều đặc biệt là, khác xã hội phương Tây như Hy Lạp, La
Mã - nơi tồn tại chế độ chiếm hữu nô lệ rất điển hình bao gồm hai giai cấp
chính là chủ nô và nô lệ thì ở Ấn Độ có những 4 đẳng cấp cùng tồn tại. Sự

(1)

, (2) Mác - Aghen, Tuyển tập, tập I. STHN 1980, tr.14.

3


khác biệt đó bắt nguồn từ những đặc thù của xã hội phương Đông kiểu Ấn
Độ. Trong xã hội, những nhân tố kinh tế như truyền thống văn hóa, phong
tục, tập quán, tín ngưỡng... đóng vai trò cực kỳ quan thiết.
Trong truyền thống của Ấn Độ cổ đại, những tăng lữ đại diện cho
Bà La môn giáo (một tôn giáo có trước khi Phật giáo xuất hiện cả ngàn
năm) có vai trò quyết định và tuyệt đối. Họ không chỉ thuần túy là những
tín đồ hay những người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp mà địa vị xã hội
còn cho phép họ can dự vào cả chính trị cũng như xếp đặt thang giá trị cho
xã hội. Vì thế không chỉ tầng lớp nô lệ, những nông dân, thợ thủ công, nhà
buôn mà ngay đến quý tộc cũng chịu sự chi phối của giới tăng lữ. Thực tế
đó là cơ sở cho những bất bình xã hội và chúng ta không lấy làm lạ, tại sao
người khởi xường phong trào tư tưởng phật giáo, không ai khác mà là đại
diện tiêu biểu của tầng lớp qúy tộc đương thời và phật giáo trong một thời
gian tương đối ngắn đã tìm được sự hưởng ứng mạnh mẽ của các giai tầng
xã hội khác nhau, trở thành phong trào lớn mạnh nhất lúc bấy giờ bất chấp
cả truyền thống cũng như sự phản ứng quyết liệt từ tầng lớp tăng lữ. Bàn về
phương diện này, một nhà nghiên cứu nổi tiếng người Ấn Độ đã có lý khi
thừa nhận trong công trình "Đạo phật và chính trị": "Trên căn bản, tôn giáo
từ cách giải quyết các vấn đề trong xã hội bằng cách giáo hóa nếu cá nhân,
vốn là thành viên của xã hội, và bằng cách đề nghị các nguyên tắc tổng
quát để điều hướng xã hội tiến đến một phong thái nhân bản, cải thiện đời
sống của mọi thành viên, và cổ động sự phân phối các nguồn vật lực một
cách công bằng hơn"(1). So sánh vấn đề trên với các cơ sở xuất hiện đạo

Kytô ta thấy, ở đây dường như có một sự đối lập. Nếu như Giêsu Kytô là
một nhân vật xuất thân trong một gia đình nghèo hèn thì thái tử Tất Đạt Đa
lại hiện thân của tầng lớp thượng lưu của xã hội. Tuy nhiên, điểm tương
đòng là ở chỗ, họ cũng nói lên được tiếng nói của những thân phận bì đè
nén, bị làm nhục, nhu cầu về một thế giới tốt đẹp hơn. Điều căn bản hơn,
họ cũng đại diện cho tiếng nói phản ánh sự bất bình xã hội mà nguyên nhân
của những bất bình ấy nằm ngay trong thiết chế trần tục của xã hội quan
(1)

Đạo Phật và Chính trị. Giác ngộ số 8 tháng 11/1996, tr.46.

4


phương và mặc dù hai thân phận khác nhau nhưng Giêsu và Tất Đạt Đa đều
chung một cảnh ngộ: là những thân phận không tự do.
Các nguồn sử liệu phật giáo đã không cắt nghĩa vấn đề trên thấu
đáo. Họ đã lái sự chú ý vào những quan sát, chiêm nghiệm của Tất Đạt Đa
khi quán chiếu vào đời sống thực của nhân sinh. Theo đó dù là đẳng cấp
nào, khi chưa được giải thoát cũng đều vướng vào "Bát khổ" mà sinh, lão,
diệt, tử như là những chướng ngại của mỗi con người. Như vậy Phật giáo
đã quá đề cao chủ nghĩa nhân đạo của Tất Đạt Đa, biến ông thành mẫu mực
của chủ nghĩa nhân đạo Phật giáo mà không thấy hết sự không tự do của
Tất Đạt Đa với tư cách là Thái tử. Theo chúng tôi. Tất Đạt Đa từ nhận thức
thân phận mình để đi đến nhận thức thân phận người nô lệ chứ không phải
chỉ quan tâm đến thân phận của người nô lệ.
Ngoài những cơ sở như đã trình bày ở trên, có hàng loạt các vấn đề
khác cũng tham gia vào quá trình hình thành các tư tưởng phật giáo. Chúng
ta có trách nhiệm phải làm sáng tỏ các cơ sở ấy để trả lời cho vấn đề: tại
sao phật giáo chỉ khởi phát từ Ấn Độ mà không thể từ một địa danh nào

khác.
Nhìn chung, một hiện tượng tư tưởng xuất hiện không chỉ do sự
chuẩn bị điều kiện từ các cơ sở kinh tế, chính trị thuần túy mà còn là sự
chuẩn bị những chất liệu của chính bản thân tư tưởng. Phật giáo xuất hiện
là kết quả của sự lao động và sáng tạo văn hóa của người Ấn Độ đã tích lũy
hàng ngàn năm và nảy sinh trực tiếp từ cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt
giữa các trào lưu tư tưởng đương thời.
Qua quá trình lao động, người Ấn Độ đã tích lũy và phát triển được
cho bản thân mình một kho tàng đồ sộ những tri thức và kinh nghiệm,
những luật tục và thói quen. Nhìn chung các vấn đề được lưu giữ trong bộ
kinh Vêđa đồ sộ mà người Ấn quan niệm đó là "Nguồn gốc của hiểu biết"
hay "sông trí tuệ"... Mạch ngầm tư tưởng và văn hóa của Phật giáo phong

5


phú, đa dạng song theo chúng tôi, Phật giáo đã kế thừa trên căn bản các
thành tựu sau:
Thứ nhất: Truyền thống nhân bản, nhân văn của tư tưởng phương
Đông (nói chung), Ấn Độ (nói riêng).
Hành trình của tư tưởng nhân loại, nhìn chung đều lấy con người
làm đối tượng dẫu cho phương thức thực hiện có những dị biệt. Trong buổi
bình minh của tư duy triết học, có thể nói, những đối tượng tự nhiên gần
gũi cuộc sống con người luôn là điểm chú ý đầu tiên. Vì lẽ ấy, kho tàng
thần thoại Đông - Tây đều mô phỏng những vị thần mà sức mạnh, vẻ đẹp
cũng như sự hung hãn của họ là quá trình lưu xuất từ những hiện tượng tự
nhiên. Đến giai đoạn triết học xuất hiện, bắt đầu có những bước rẽ ngoặt
khá căn bản. Triết học Hy - La là triết học tự nhiên. Triết học Trung Hoa,
Ấn Độ là triết học về con người. Cách tiếp cận khác nhau của triết học
Đông - Tây sở dĩ có bởi những nguyên nhân từ chính cuộc sống và sự thôi

thúc của cuộc sống. Nhìn chung các vấn đề xã hội ở phương Đông càng
ngày càng phức tạp. Chiến tranh và thôn tính diễn ra quyết liệt và tàn khốc.
Trong không gian xã hội đó, thân phận con người quá mỏng manh bất luận
họ đứng ở vị trí nào của xã hội. Vì vậy, ở Trung Hoa, vấn đề con người,
"tính người"... là vấn đề trung tâm của triết học. Ở Ấn Độ vấn đề "giải
thoát" là mục tiêu của các trào lưu tư tưởng. Phật giáo là một tư trào tư
tưởng cũng lấy "Giải thoát" cho con người là mục đích vươn tới cũng vì lẽ
ấy.
Thứ hai: Tiếp tục hành trình đưa con người đạt đến sự "giải thoát",
một mặt Phật giáo kế thừa tư tưởng "giải thoát" đã có từ trước và mặt khác
tạo nên một sự vượt bỏ quan niệm cũ một cách độc đáo.
Theo chiết tự, "giải" là cởi ra, mở ra, "thoát" là vượt bỏ. Tựu trung
lại, "giải thoát" là hành trình con người tự nhận thức mình và vượt qua
chính bản thân mình. Vấn đề đặt ra ở đây là: Tại sao người Ấn Độ lại hiểu
"giải thoát" theo nghĩa trên?

6


Quay trở lại lịch sử tiến hóa của nhận thức ta thấy, ở giai đoạn tiền
khởi, trình độ nhận thức và năng lực thực tiễn của con người còn rất thấp.
Giới hạn lịch sử đó đã chưa cho phép con người vượt quá giới hạn của bản
năng. Con người sống hòa lẫn với tự nhiên như một bộ phận thuần túy. Nói
cách khác, năng lực bản chất người chưa đạt đến trình độ đưa con người
đến chỗ xác lập bản chất đích thực của giống loài. Tuy nhiên, càng ngày
năng lực thực tiễn và nhận thức càng phát triển và sự phát triển đó làm nảy
sinh nhu cầu tự nhận thức mình. Chỉ đến lúc đó, con người mới tự nhận
thấy rằng, năng lực của mình so với tự nhiên bên ngoài là cực kỳ bé nhỏ.
Họ khát vọng đạt đến sự hoàn thiện và hùng mạnh của tự nhiên. Trong điều
kiện năng lực có hạn, ở đó đã xuất hiện hai cách lựa chọn khác nhau. Ở

phương Tây đó là ý chí vươn lên để chiếm lĩnh tự nhiên, thống trị tự nhiên,
dần dần hình thành quan niệm con người như là chúa tể của vũ trụ. Còn ở
phương Đông, đó là quá trình con người đạt đến sự hợp nhất giữa bản ngã
và vũ trụ, giữa tiểu ngã và đại ngã. Vì vậy, trước khi Phật giáo xuất hiện,
"giải thoát" được quan niệm như là quá trình con người đạt đến sự hợp nhất
tuyệt đối với cái bên ngoài. Phật giáo cũng tiếp nhận quan niệm đó nhưng
đã lái sang một phương diện khác. Cụ thể là, Phật giáo nguyên thủy tin
rằng con người hoàn toàn có khả năng đạt đến sự giải thoát. Đó là quá trình
tự lực và có thể nhận thấy ngay trong kiếp sống hiện tại. Hơn nữa, dù bất
cứ
ai cũng có thể đạt đến sự giải thoát và con đường đạt đến sự giải thoát là
phụ thuộc "căn cơ, nghiệp lực của từng người". Cũng chính vì vậy, sự giải
thoát có rất nhiều cấp độ (nhiều quả vị khác nhau). Quan niệm như vậy
đã tạo ra những hy vọng không chỉ cho những người có địa vị cao trong xã
hội mà còn cho hết thảy những ai được gọi là thấp hèn. Đó là cơ sở cho sự
lan tỏa Phật giáo khá nhanh chóng ra toàn cõi Ấn Độ, tạo ra những điều
kiện để phật giáo trở thành tôn giáo thế giới sau ngày hình thành khoảng
3 thế kỷ.

7


Thứ ba: Tồn tại trong một môi trường địa lý đa dạng: núi cao và
băng tuyết, sa mạc nóng bỏng, khô cằn, những bình nguyên rộng lớn hay
những cánh đồng phì nhiêu do các con sông Indus và sông Hằng tạo nên...,
người Ấn cổ có điều kiện để chiêm nghiệm và so sánh tương quan giữa cá
nhân và tha nhân, giữa ta và vũ trụ. Thói quen đó được củng cố, trở thành
truyền thống và chất liệu cho những suy tư trừu tượng, hình thành hai
phương pháp tụ tập điển hình: theo con đường trí tuệ và con đường thực
hành có tính khổ hạnh trong đó con đường trí tuệ trở nên căn bản vì điều đó

được luận giải rằng, bản chất của kẻ phàm tục là mê lầm. Vì mê lầm nên
không nhận thức được chân lý. Không nhận thức được chân lý nên càng
trôi nổi trong chốn lầm lạc. Cứ như vậy, mê lầm làm nảy sinh dục vọng và
càng đẩy con người chìm sâu vào bến mê, xa vời bến giác.
Là một trào lưu tư tưởng nảy sinh trong truyền thống đó nên Phật
giáo đã tiếp nhận được khả năng tư duy trừu tượng ở trình độ cao và tìm
cách dung hòa vấn đề này với quảng đại dân chúng bình dân bằng tuyên
ngôn: mọi chúng sinh đều có thể thành phật và đạt đến sự giác ngộ không
phải duy nhất chỉ một con đường, ngược lại phải "Tùy duyên phương tiện".
Thứ tư: Một trong những cơ sở để hình thành tư trào Phật giáo
chính là sự tồn tại đo dạng các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh... trong rất
nhiều tư trào tư tưởng xuất hiện lúc đó. Chính sự đa dạng của các quan
điểm làm cho chúng có cơ sở để đối chứng, va đập lẫn nhau hình thành nên
một thực tế là, sự vay mượn, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các tư tưởng. Trong
bối cảnh đó Phật giáo có thêm dữ liệu tư tưởng để kết tinh thành một tư
trào độc lập. Điều đã nêu trên có thể tìm thấy ở Trung Hoa thời kỳ Xuân
thu chiến quốc mà sử gọi là: "Bách pha chưa tử" hay "Trăm nhà tranh minh,
trăm người đua tiếng" hoặc như thời kỳ đầu của triết học tự nhiên Hy Lạp
và La Mã cổ đại.
1.2. Một số đặc điểm nổi bật của tư tưởng Phật giáo

8


Không gian văn hóa, lịch sử được phác họa ở trên đã làm xuất hiện
một trào lưu tư tưởng mới: tư trào phật giáo. Chính vì vậy, ngoài những đặc
điểm chung của các trào lưu tư tưởng Ấn Độ cổ mà nhiều công trình nghiên
cứu Ấn Độ đã đề cập, Phật giáo còn có thêm những đặc điểm khác.
Một là: Không giống bất cứ tư tưởng nào đương thời, Phật giáo
công khai bày tỏ quan điểm của mình về một xã hội bình đẳng. Nói cách

khác, Phật giáo chủ trương xóa bỏ chế độ đẳng cấp bằng tuyên ngôn bất hủ
của Thích Ca Mâu Ni: "Không có sự phân biệt trong nước mắt càng mặn và
trong máu càng đỏ". Tuyên ngôn này tự nó đã phân biệt Phật giáo với các
trào lưu tư tưởng khác bởi nó không đề cập đến những vấn đề trừu tượng
xa vời cuộc sống mà đi ngay vào vấn đề quan thiết của nhân sinh. Vì vậy,
tầng lớp nô lệ và người bình dân xem Phật giáo là cứu cánh là người biện
hộ tinh thần, là sự "an ủi" và "bù đắp" cho những thiếu hụt hiện thực của
họ.
Hai là: Giáo lý Phật giáo bác bỏ sự sáng thế và cứu thế. Nó phủ
định sự sáng tạo của thần linh và khẳng định, chỉ có bản thân mình mới có
khả năng tự cứu mình mà không trông chờ vào tha lực thông qua bùa chú,
phù phép... Rõ ràng trong bối cảnh cuộc sống cơ cực của người lao động,
phật giáo cho họ một điểm tựa, hình thành một niềm tin.
Ba là: Là một tôn giáo đạt đến trình độ tư duy lý luận cao nhưng
Phật giáo cũng đặc biệt chú ý đến phương diện thực tiễn, đến phương pháp
thực hành việc tụ tập. Phật giáo không đồng tình với việc dừng lại ở những
vấn đề siêu hình như thế gian là hữu hay vô; là tồn tại hay không tồn tại...
Theo quan điểm Phật giáo, khi nhân sinh đang đắm chìm trong nỗi khổ:
"nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước các đại dương cộng lại", "nỗi khổ
như một lò lửa khổng lồ"... thì việc đầu tiên là cứu khổ mà khoan hãy bàn
đến việc luận lý. vì vậy, nhiều người cho rằng, Phật giáo là một tôn giáo
thực tiễn, là một phương pháp thực hành.

9


Năm là: Là một tôn giáo nhưng Phật giáo không bị chi phối bởi
thuyết định mệnh và trở thành một chủ nghĩa định mệnh. Có được điều này
bởi, một trong những trụ cột lý luận của Phật giáo là quan niệm về nhân quả song nó đã được làm giảm tính cứng nhắc khi luận giả về các nhân tố,
điều kiện cho sự chuyển hóa nhân - quả mà nó gọi là "Duyên". Tuy nhiên

nó cũng nhấn mạnh rằng, rút cục, đã tạo nhân ắt phải gặt quả. Vì vậy khi cá
nhân suy nghĩ, hành động phải chịu hậu quả của suy nghĩ, hành động của
chính mình. Trên thực tế giáo lý đó là sự khuyến khích cho hành động thiện
và ở mức độ nhất định, có khả năng làm giảm thiểu các hành động ác. Mặc
dù ở điểm này, giai cấp thống trị xã hội lợi dụng để biện minh cho thực tế
của người lao động là do họ tạo nên mà kẻ cầm quyền không hề phải chịu
trách nhiệm song nó cũng có thể thỏa mãn khát vọng hướng đến cái thiện,
rằng kẻ làm ác không thể trốn tránh hậu quả xấu.
Sáu là: Phật giáo cho rằng, vị trí xã hội của cá nhân không giúp tạo
ra giá trị cá nhân cao hay thấp. Ngược lại, dù ở vị trí nào, nếu "Chỉ ác mạc
tác, chúng thiện phụng hành" (Ngăn việc ác, làm việc thiện) thì cũng có giá
trị như nhau, tức là đều có khả năng đạt đến sự giải thoát. Tư tưởng này đã
dẫn đến một kết luận, rằng Phật không ở đâu xa mà Phật ở ngay trong con
người. Khi tâm lương thiện thì đó là tâm phật.
Bảy là: Phật giáo khẳng định: "Chư hành vô thường, chư pháp vô
ngã". Nói cách khác, vạn vật luôn biến đổi, vạn pháp không tồn tại độc lập
mà phụ thuộc vào tương quan, tương duyên cụ thể theo kiểu.
"Cái này có thì cái kia có
Cái này không thì cái kia không
Cái này sinh thì cái kia sinh
Cái này diệt thì cái kia diệt".
Một quan niệm như vậy là có tính biện chứng, đã chỉ ra được một
phương diện của sự thật. Tuy nhiên, sự cực đoan trong khi nhấn mạnh mặt

10


biến đổi mà không thấy hết vai trò của mặt ổn định của tạo vật đã đưa Phật
giáo rơi vào lập trường duy tâm, phủ nhận mọi sự tồn tại của sự vật và cho
đó là giả, ảo, huyền... Tuy nhiên, ở phương diện này, Phật giáo củng cố sự

an ủi nhân sinh nô lệ bởi nó cho họ một niềm tin: thân phận mình rồi cũng
sẽ được thay đổi.
Tám là: Phật giáo chủ trương "giải quyết các vấn đề xã hội bằng
cách giáo hóa mỗi cá nhân", vì vậy mặt đạo đức rất được chú trọng. Nhìn
chung, mọi tôn giáo đều có chung điểm đặc biệt này song ở Phật giáo có
những đặc thù. Các đặc thù ở đây không chỉ đưa lại cho cá nhân một gương
mặt hoàn thiện hơn, cũng không phải để làm hài lòng đấng sáng thế mà là
việc đưa lại một lợi ích thiết thực cho cá nhân và có thể nhận thấy.
Chín là: Trong số các tôn giáo thế giới lớn, Phật giáo chủ trương
hoằng hóa, phổ độ bằng con đường hòa bình. Chủ trương này được khởi
xuất từ việc tôn trọng cá nhân, đức tin của cá nhân. Nhìn chung đã là một
tín niệm, theo phật giáo, không thể cưỡng bức mà là quá trình tự giác. Điều
này có thể không tìm thấy ở những tôn giáo khác khi các tôn giáo này chỉ
thừa nhận bản thân minhf là duy nhất, ngoài nó là "tà đạo", là "dị đạo".
Điều này này có lúc đã thúc đẩy một bộ phận nhân loại vào những cuộc
chiến tranh thảm khốc mà hậu quả còn rất nặng nèe cho đến tận hôm nay
dẫu cho đã có rất nhiều nỗ lực thiện ý nhằm vượt qua. Hơn nữa, với
phương châm "Tùy duyên phương tiện" trong tu tập, trong hoằng hóa phật
pháp mà phật giáo nhanh chóng thích ứng với tín ngưỡng bản địa, trở thành
một bộ phận văn hóa ở những nơi nó có mặt. Thực tế đó làm cho phật giáo
bề ngoài trầm lặng nhưng lại có một sức sống lâu bền ở bên trong.
Mười là: Đạo phật là một tôn giáo có cách đặt vấn đề độc đáo và đã
có những kiến giải sâu sắc về bản chất của đời sống tâm thức. Mặc dù chỉ
qua phỏng đoán và chiêm nghiệm nhưng những nghiên cứu của nó về cấu
trúc của tâm thức được xem là những giá trị. Mục tiêu của tu phật là để
lắng đọng tâm (tâm thanh tịnh) nêu trong xã hội có nhiều xáo trộn nó trở
thành cứu cánh của nhiều người. Trong xã hội hiện đại, việc nhiều người
11



phương Tây tìm đến đạo phật, xem nó như là một phương tiện giúp cân
bằng tâm lý là những minh chứng.
Có thể nói gọn lại, trên cơ sở giáo hóa cá nhân bằng cách chỉ ra bản
chất của sự tồn tại của họ, phật giáo vạch ra những con đường để cá nhân
tự lựa chọn nhằm đạt đến một sự an ủi nội tâm góp phần điều chỉnh hành vi
phù hợp với quan niệm của họ về cái thiện.
1.3. Sơ lược về sự truyền bá của Phật giáo ở châu Á
Sau khi Thích Ca tịch diệt, trải qua các lần kết tập kinh điển, Phật giáo
đã hoàn chỉnh với tư cách là một tôn giáo có đầy đủ giáo lý, giáo luật quy định
lễ nghi và tổ chức. Tại Ấn Độ, Phật giáo đạt đến cực thịnh vào triều đại vua
ADục (lên ngôi năm 268 TCN). Nói về vua ADục, ông là đời thứ 3 của vương
triều Khổng Tước (Mauryu Dynasty) khoảng thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ II
TCN. Trải qua một thời kỳ chinh chiến, tàn sát giết hại nhiều sinh linh, ông đã
hối hận và quy y Phật. Dưới vương triều ADục, không chỉ phật giáo trong
nước hưng khởi mà ông còn cử nhiều đoàn truyền giáo ra nước ngoài. Phật
giáo đã vượt qua biên giới quốc gia, có mặt ở nhiều nước châu Á. Sách "Lịch
sử Phật giáo thế giới" viết: "Qua đây có thể thấy, dưới thời ADục vương,
Phật giáo đã trở thành một tôn giáo có tính thế giới. Còn việc giáo hóa của
Phật giáo đã nối liền châu Á, châu Phi, cả đến vùng giáp giới châu Âu..."(1).
Để trở thành một tôn giáo thế giới, trong quá trình phát triển của
mình. Phật giáo đã phải trải qua nhiều bước thăng trầm. Đầu tiên là cuộc
đấu tranh chống lại các tư tưởng truyền thống, của đạo Ba La môn. Khi
cuộc đấu tranh đó thắng lợi cũng là lúc trong nội bộ Phật giáo xuất hiện
nhiều tư tưởng không thống nhất. Những mâu thuẫn nảy sinh và kịch phát
nhất là khi Thích Ca tịch diệt. Nội bộ tăng đoàn Phật giáo chia thành hai
thế lực, thế lực bảo thủ và thế lực có xu hướng cách tân, là cơ sở để hình
thành một thời kỳ đặc biệt mà lịch sử phật giáo gọi là Phật giáo bộ phái
(Phái Thượng tọa và phái Đại chúng). Cũng qua cuộc đấu tranh nội bộ đã
dẫn đến quyết định phân chia khu vực truyền bá và ảnh hưởng của vua
(1)


Lịch sử Phật giáo thế giới. Tập I, Nxb Hà Nội 1995, tr.82.

12


ADục: Phật giáo tiểu thừa ở phía Tây Nam, Phật giáo Đại thừa ở phía Đông
- Bắc Ấn Độ. Vì lý do đó, sau này, khi phát triển ra các khu vực khác thì
các nước Đông Bắc Á như Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên... chủ yếu
chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa và các nước như Myanma,
Xrilanca... chủ yếu chịu ảnh hưởng của Phật giáo tiểu thừa: Hiện nay, theo
ước tính, phật giáo có khoảng hơn 300 triệu tín đồ chủ yếu tập trung ở châu
Á. Từ thế kỷ XIX, Phật giáo đã có mặt ở các nước Âu - Mỹ. Đặc biệt
khoảng nửa thế kỷ trở lại đây, phật giáo có xu hướng phát triển mạnh ở
phương Tây. Theo ước tính có khoảng 40 triệu tín đồ phật giáo là người Âu
- Mỹ.
Qua quá trình phát triển của phật giáo, có thể thấy rằng, so với một
số tôn giáo lớn khác, mức độ phát triển tín đồ của Phật giáo có chậm hơn.
Tuy nhiên, điểm đặc biệt là, Phật giáo khi du nhập vào nơi khác ít để xảy ra
những xung đột hay chiến tranh với các nước bản địa. Đặc biệt hơn, ngay
tại Ấn Độ ngày nay, tín đồ Phật giáo chỉ chiếm khong tới 10% dân số trong
khi nhiều nước trong khu vực vẫn xem Phật giáo là quốc đạo như Thái Lan,
Cămpuchia, Lào, Myanma,...
II. QUÁ TRÌNH DU NHẬP PHẬT GIÁO VÀO NHẬT BẢN

2.1. Bối cảnh lịch sử của quá trình tiếp nhận Phật giáo ở Nhật
Bản
2.1.1. Đất nước và con người Nhật Bản
Nhật Bản là một quần đảo gồm hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ gộp lại
có diện tích vào khoảng 322.000km2 tương đương với tỉnh Tứ Xuyên của

Trung Quốc hay gần bằng diện tích lãnh thổ Việt Nam (329.000km 2). Phần
lớn các đảo có diện tích không lớn và chỉ có 4 đảo lớn là: Hokkaido,
Honshu, Shikoku, Kynshu.
Quần đảo Nhật Bản nằm ở Tây - Bắc lòng chảo Thái Bình Dương
với chiều dài tổng cộng 4.000 km. Phần lớn lãnh thổ Nhật Bản là núi
(chiếm 70% diện tích đất đai với nhiều ngọn núi cao. Trong số đó riêng dãy

13


Alpơ có nhiều núi cao trên 3.000km. Ngọn Fuji (Phú sĩ) cao 3.756m. Điểm
đặc biệt là, Nhật Bản có rất nhiều núi lửa hoạt động, hàng năm gây ra nhiều
tai họa cho con người và xã hội. Với điều kiện núi cao, bờ biển gập ghềnh
với những vách đá thẳng đứng đã tạo cho Nhật Bản một khung cảnh thiên
nhiên tuyệt đẹp.
Về mặt hình dạng của lãnh thổ, trông xa có người bảo có hình trăng
lưỡi liềm. Lại có người bảo có hình con tằm. Nhiều người tin rằng, Nhật
Bản muốn tồn tại phải dựa vào Trung Quốc vì hình dạng Trung Quốc giống
lá dâu. Tuy nhiên, đó chỉ là phỏng đoán nặng tính tư biện bởi thực tế lịch
sử đã chứng minh rằng, sức tự cường của người Nhật không xô đẩy họ vào
con đường lệ thuộc, ngược lại, Nhật là nước duy nhất ở Đông Bắc Á không
rơi vào họa thực dân thời kỳ thực dân hóa. Về phương diện văn hóa, mặc
dù Nhật tiếp nhận nhiều giá trị văn hóa ngoại lai song họ vẫn là quốc gia có
bản sắc văn hóa độc đáo.
Về phương diện nhân chủng học, người Nhật Bản hiện nay là kết
quả của sự cộng hợp nhiều dòng máu của nhiều tộc người khác nhau. Theo
kết quả của các nhà nhân chủng học, khảo cổ học, đất nước Nhật Bản có
vết chân người là vào cuối thời đại đồ đá mới (cách đây khoảng 3000 năm).
Xét về mặt địa hình, nhiều người đã phát hiện thấy sự liên kết chặt chẽ giữa
lục địa Trung Hoa và quần đảo Nhật Bản. Từ đó có suy luận rằng, gốc gác

người Nhật có quan hệ với các tộc người ở đại lục. Về đại thể, hiện nay,
nhiều người cho rằng người Nhật có hệ lớn:
- Bộ tộc Hà Di cũ: gốc da trắng ở châu Âu, vượt Xi-bê-ri đến Nhật Bản.
- Bộ tộc Thông Cổ Tư vốn sống ở Tây Á trong đó có tộc Thiên Tôn
lớn nhất. Tộc người này lấy đất Đại Hòa làm căn cứ nên còn gọi là dân tộc
Đại Hòa. Đây là nòng cốt của dân tộc Nhật Bản và là người Nhật Bản gốc.
- Một số tộc người thiểu số khác.

14


Những điều kiện tự nhiên khá đa dạng, khí hậu ôn đới, cây cối tốt
tươi, rậm rạp... đã có những ảnh hưởng đến tính cách, tâm lý người Nhật,
khiến cho họ vừa có lòng dũng cảm, có tính tiến thủ mà biểu tượng được ví
như núi Fuji. Ngoài ra người Nhật cũng khá cởi mở, nặng tính thực dụng
với một bản lĩnh thép được hun đúc qua quá trình phát triển quốc gia. Đánh
giá về vấn đề này EDWIN. O. REISCHAUR trong cuốn: "Nhật Bản quá
khứ và hiện tại" cho rằng: "Ý thức về tinh thần liên kết trong thị tộc và
niềm tin vào tầm quan trọng của các quyền lợi và uy quyền cha truyền con
nối, chắc chắn phải là khá mạnh trong dân tộc này, vì những sức mạnh này
luôn chiếm ưu thế trong suốt lịch sử của Nhật Bản và vẫn còn rất sống
động trong nước Nhật hiện đại. Có lẽ hình ảnh người chiến sĩ quý tộc,
người đàn ông kỵ mã, lúc bấy giờ đã có một vị trí quan trọng trong xã hội
Nhật, bởi vì các hình ảnh mờ ảo này của Nhật Bản thời sơ khai đã vượt qua
được trận lũ của nền văn minh vay mượn của Trung Hoa để sau này trỗi lên
như cột xương sống của Nhật Bản thời phong kiến"(1).
Về phương diện tín ngưỡng, người Nhật cổ đại cũng sùng kích các
vị thần tự nhiên. Từ sùng bái tự nhiên dẫn đến sùng bái tổ tiên. Theo truyền
thuyết, số lượng thần tư nhân của người Nhật có đến tám mươi vạn vị.
Ngoài ra, nhiều hiền tướng, hào kiệt cũng được suy tôn, thiêng hóa và trở

thành các vị thần. Trong số các vị thần, Vũ Thiên Hoàng được tôn kính
nhất, Thiên Hoàng vì vậy là đại diện cho dòng dõi tôn quý, trở thành lãnh
tụ cả về tôn giáo và chính trị.
Những thần linh được người Nhật tôn kính thường được gọi là
Kami. Tín ngưỡng thờ Kami hay thần đạo trở thành tín ngưỡng bản địa có
lịch sử tồn tại xuyên suốt lịch sử Nhật Bản, chi phối mạnh mẽ các hình thức
tín ngưỡng khác. Vì lẽ ấy, về sau, khi Phật giáo được du nhập, ta thấy, lúc
đầu là sự phản ứng, sau nữa là sự kết hợp và tùy tương quan lực lượng cụ
thể; có thể có lúc Phật giáo có ưu thế song nhìn tổng quát thần đạo vẫn

(1)

Nhật Bản quá khứ và hiện tại, Nxb KHXH 1994, tr.16.

15


đóng vai trò trụ cột. Nguyên nhân của tình hình này chúng tôi sẽ trình bày
ở phần sau.
Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Phật giáo được du nhập. Lúc đầu
nó được đưa vào Nhật Bản thông qua vai trò của những người Triều Tiên,
Trung Hoa vốn là những người buôn bán hoặc như các tù binh. Sau đó, nhờ
sự nâng đỡ của chính quyền, Phật giáo chính thức được thừa nhận và phát
triển khá nhanh.
2.1.2. Một số quan điểm khác nhau về sự du nhập của Phật giáo
vào Nhật Bản
Cho đến hiện nay cuộc tranh luận về những động cơ dẫn đến sự du
nhập, bám rễ của Phật giáo vào Nhật Bản vẫn chưa đi đến những thống
nhất cần thiết. Có thể thấy có hai loại quan điểm chính. Loại thứ nhất cho
rằng, sự du nhập Phật giáo vào Nhật Bản là do những động cơ từ phía

Trung Hoa hay đó chỉ là sự bành trướng về tư tưởng, văn hóa của Trung
Hoa. Loại thứ hai cho rằng, đó là sự tiếp nhận diễn ra trên cơ sở nhu cầu
nội tại của người Nhật Bản hay người Nhật đã chủ động tiếp nhận Phật
giáo. Theo ý kiến của chúng tôi, trong sự phát triển của văn hóa Nhật Bản
(nói riêng) và của bất kỳ nền văn hóa nào (nói chung) không bao giờ là một
quá trình thuần nhất bởi các dân tộc liên tục có những cuộc tiếp xúc văn
hóa dù tự phát hay tự giác. Trường hợp Nhật Bản trước khi tiếp xúc với
Triều Tiên, Trung Hoa có những đặc biệt bởi đó là xứ sở của các hòn đảo
sống gần như biệt lập so với thế giới bên ngoài nhất là khi kỹ nghệ hàng hải
chưa phát đạt. Chính sự cô độc trong những mối qiao cảm văn hóa mà so
với Triều Tiên, Trung Hoa, trình độ văn minh của Nhật Bản lúc đó thấp
hơn. Về mặt xã hội, đó là sự tồn tại của chế độ thị tộc còn khá phổ biến và
về kinh tế là trình độ của lực lượng sản xuất còn rất thấp kém. Những thấp
kém đó được phản ánh trong lĩnh vực tinh thần là sự chưa hình thành các tư
tưởng có tính hệ thống trong nghệ thuật, trong tôn giáo, trong triết học...
Khi những quan hệ đầu tiên của Nhật Bản hình thành với lân bang qua
buôn bán và nhất là chiến tranh, người Nhật đã nhận ra rằng, bên cạnh họ là

16


những quốc gia có trình độ phát triển cao hơn. EDWIN. O. REISCHAUER
đã từng khẳng định: "Không có gì đáng ngạc nhiên nếu người Nhật sơ khai
trên một đất nước gồm những hòn đảo biệt lập của họ cảm nhận được
những phản quang của đế quốc Trung Hoa mới và bừng tỉnh với một nhận
thức mới về cái đất nước lớn lao ở bên kia bờ biển" (1). Tuy nhiên, như lịch
sử đã chứng tỏ, buổi đầu giao tiếp với Trung Hoa, những vay mượn diễn ra
rất chậm chạp và không tự giác. Mãi cho đến gần cuối thế kỷ thứ VI thì có
một sự gia tăng đột ngột trong quá trình du nhập các yếu tố của văn hóa
Trung Hoa voà Nhật Bản. Sự thật này chỉ có thể giải thích bởi hai lý do:

Một là: Có thể dân tộc Nhật lúc ấy mới đạt được một trình độ văn
hóa cho phép họ nhận thức ra và có đủ khả năng để tiếp nhận các nhân tố
ngoại lai một cách nhanh chóng và có ý thức.
Hai là: Mọi giá trị văn hóa, tự nó, đều có nhu cầu và khả năng lan
tỏa hay bành trướng, nhất là khi chúng đạt trình độ cao. Trong thời kỳ đó, ở
Trung Hoa, nhà Đường đã tạo ra một chế độ phong kiến đạt đến cực thịnh,
vì vậy khả năng lan tỏa của nó ra xung quanh dễ dàng hơn.
Những tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Hoa lúc
đầu thông qua vai trò của những thương gia, thợ thủ công hay tù binh dưới
dạng hành vi và nhân cách của các cá nhân đó hay qua những vật phẩm hưũ
hình có được trong các cuộc trao đổi. Dần dần những kiểu tiếp xúc đó trở
nên thứ yếu và thay bằng cuộc tiếp xúc tôn giáo. Điều cần thấy ở đây là, lúc
này Phật giáo cực thịnh ở Trung Hoa và Phật giáo trở thành công cụ
chuyển tải văn hóa quan thiết nhất từ đại lục sang Nhật Bản.
Sự xâm nhập của Phật giáo vào Nhật Bản cũng vậy, lúc đầu bằng
con đường dân gian. Những ảnh hưởng của Phật giáo lớn dần, gây chấn
động đến cả tầng lớp thống trị. Những chấn động đó đã tạo nên hai xu
hướng tư tưởng chủ yếu trong thị tộc Yamato đến mức gây nên những xung
đột giữa nhóm ủng hộ Phật giáo và phản đối Phật giáo. Sự thắng lợi của
(1)

Nhật Bản quá khứ và hiện tại, Nxb KHXH 1994, tr.23.

17


nhóm ủng hộ phật giáo diễn ra khoảng năm 587 đã mở đường cho sự tiếp
nhận nhanh hơn các tư tưởng của Trung Hoa nói chung và tín ngưỡng Phật
giáo nói riêng.. Nhờ sự nâng đỡ của chính quyền, nhiều phái đoàn người
Nhật được cử sang đại lục học hỏi tri thức và ở trong nước Phật giáo được

hỗ trợ, trở thành tôn giáo có vị thế còn lớn hơn cả Thần đạo.
Như vậy, có thể nói rằng, sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản
không thuần túy chỉ là sự bành trướng văn hóa của người Trung Hoa và
nếu giả định đó là sự bành trướng văn hóa mà thiếu sự nhiệt tình tiếp nhận
từ phía Nhật Bản thì khả năng bén rễ, tồn tại, phát triển của nó sẽ khó khăn
hơn nhiều. Điều này lại có cơ sở bởi, một mặt, khi văn minh nhà Đường có
dấu hiệu suy vi thì người Nhật cũng bắt đầu suy nghĩ lại. Đó là sự tái khẳng
định ngày càng mạnh mẽ tinh thần độc lập về văn hóa được biểu hiện qua
thái độ không còn chăm chú học hỏi hay thái độ quá sùng bái đối với mọi
yếu tố của văn minh Trung Hoa. Mặt khác, qua lịch sử nước Nhật ta thấy,
dân tộc đó có sự khôn ngoan đặc biệt trong tiếp nhận văn hóa ngoại lai. Họ
tiếp nhận rất nhiều yếu tố của ngoại lai song vẫn luôn tìm cách giữ gìn,
phát triển các nhân tố bản địa. Bằng chứng là, khi Phật giáo du nhập, có
cuộc đấu tranh giữa Thần - Phật. Cuộc đấu tranh đó tiếp tục diễn ra trong
các thời kỳ và cuối cùng Phật giáo bị bản địa hóa mặc dù có thời kỳ Phật
giáo trở thành trụ cột và chi phối mạnh mẽ các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
2.1.3. Một số đặc điểm chính của quá trình du nhập phật giáo ở
Nhật Bản
Theo quy luật của sự tiếp biến văn hóa, khi muốn bắt rễ vào một
khu vực nào đó, các hiện tượng văn hóa ngoại lai phải biến đổi cho phù
hợp với những yêu cầu của bản địa. Quá trình du nhập của Phật giáo vào
Nhật Bản cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Nó đã có nhiều biến
đổi đến mức làm cho một số yếu tố của phật giáo ở Nhật Bản đã có những
khác biệt khá căn bản với Phật giáo Ấn Độ hay với Phật giáo ở Trung Hoa.

18


Những biến đổi đó lúc đầu được tạo nên bởi nền tảng kinh tế xã hội cũng

như những yêu cầu của cư dân Nhật Bản, của văn hóa Nhật Bản nhưng đến
lượt nó, nhiều khi lại trở thành những định hướng cho sự phát triển của văn
hóa Nhật Bản về sau. Vì lẽ ấy, mặc dù tồn tại trong những điều kiện của
một xã hội hiện đại nhưng văn hóa Nhật Bản vẫn giữ được những yếu tố
như nhân ái, mềm mại của đạo Phật, cứng nhắc đến tàn nhẫn của võ sĩ đạo,
thực dụng như khổng giáo và mộng mơ siêu thoát của thiền, tư tưởng trọng
lợi ích vật chất và yêu cái đẹp da diết, một tư duy khoan hòa nhưng lại chứa
đầy những duy lý v.v...
Nghiên cứu quá trình du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản có thể
rút ra một số đặc điểm chủ yếu như sau:
1. So với các nước trong khu vực, thời điểm du nhập Phật giáo vào
Nhật Bản có muộn hơn. Theo các nguồn sử liệu còn lưu lại, khoảng thế kỷ
VI Phật giáo đã từng có mặt ở Nhật Bản. Việc du nhập Phật giáo vào Nhật
Bản chủ yếu từ hai con đường: Trung Quốc và Triều Tiên (Phật giáo có
mặt ở Triều Tiên sớm hơn ở Nhật Bản chừng 150 năm). Cuốn "Lịch sử
Phật giáo thế giới" (tập I)(1) có dẫn lại sách "Phù Tang lược ký" cho biết:
"Tháng 2 năm thứ 16 sau khi Kế Thể Thiên Hoàng tức vị (năm thứ 3 liên
hiệu Phổ Tông Vũ Đế nhà Lương, năm 522) một người Hán là Tư Mã Đạt
đến Nhật Bản làm nhà cỏ ở bản Điền Nguyên, quận Cao Thị nước Đại Hòa,
bầy tượng phật lễ bái"(1). Cũng theo nguồn sử liệu trên thì vào tháng 10 năm
522 (năm thứ 13 đời Khâm Minh, Thiên Hoàng) có Thánh Minh Vương ở
nước Bách Tế trên bán đảo Triều Tiên đã sai Cơ Thị Đạt dẫn đầu một đoàn
người đến tặng một pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng và có cờ phướn,
kinh luân"(2). Giới nghiên cứu ở Nhật Bản quen gọi hai con đường du nhập
Phật giáo: Tư truyền và Công truyền để phân biệt Phật giáo được dân gian
truyền vào và chính phủ truyền vào.
Lịch sử Phật giáo thế giới, Tập I, Nxb Hà Nội 1996.
Lịch sử Phật giáo thế giới, Tập I, Nxb Hà Nội 1996, tr.493.
(2)
Lịch sử Phật giáo thế giới, Tập I, SĐD, 1996.

(1)
(1)

19


Qua nghiên cứu thời điểm và con đường du nhập Phật giáo vào
Nhật Bản có thể thấy rằng, Phật giáo được du nhập muộn hơn một số nước
trong khu vực, hơn nữa Phật giáo trên con đường truyền bá đã từng bị khúc
xạ qua nhiều nước trung gian vì vậy nó không còn nguyên vẹn như Phật
giáo chính gốc. Điều căn bản hơn là ở chỗ Phật giáo ở Nhật Bản bị chi phí
mạnh bởi các yếu tố tín ngưỡng và bản địa vốn đã có truyền thống ở Nhật
Bản đó là tục thờ Kami (biểu tượng thần linh của Thần đạo). Điều này cũng
cho thấy trong lịch sử tồn tại của Phật giáo ở Nhật Bản luôn và luôn có sự
giằng co thậm chí là xung đột trong đời sống tín ngưỡng của cá nhân và
trên bình diện xã hội giữa một bên là Phật và bên kia là Thần. Nếu so sánh
với Phật giáo ở Việt Nam ta thấy Phật giáo được du nhập vào Việt Nam sớm
hơn vào Nhật Bản khoảng 6 thế kỷ. Ở Việt Nam ngoài con đường du nhập
Phật giáo trực tiếp từ phía các cao tăng Ấn Độ còn có các cao tăng của Trung
Hoa. Tuy nhiên các cao tăng của Trung Hoa khi truyền Phật giáo vào Việt
Nam thì tính chất Phật giáo Ấn Độ cũng rõ rệt hơn. Mặt khác, Phật giáo vào
Việt Nam chủ yếu bằng con đường dân gian nên sự xung đột giữa nó và tín
ngưỡng bản địa ít quyết liệt. Có thể nói, nó được du nhập một cách tương đối
hòa bình.
2. Phật giáo du nhập vào Nhật Bản trong bối cảnh người Nhật đã có
một truyền thống tín ngưỡng khá vững chắc: tín ngưỡng về thần (Kami).
Kami là đối tượng của sự thờ cúng trong thần đạo đã tồn tại từ thời cổ đại.
"Đây là những thực thể mờ ảo, tồn tại không hình dạng, thiếu hẳn tính
người và giống với sự biểu hiện quyền lực lạnh lùng. Tất cả được coi như
là cao hơn ởbên trên con người bằng kiến thức và quyền lực, giữa những

quyền lực đời sống và nằm ngoài sự kiểm soát của con người" (1). Kami có
nhiều loại nhưng tựu trung có 4 đặc điểm chung.
- Kami không có hình dạng riêng nhưng có thể được mời gọi đến
với những hình thức mới thích hợp.
(1)

Bách Khoa thư Nhật Bản, Hà Nội 1995, tr.183.

20


- Kami là thực thể trừu tượng, có thể mang phúc hay chuốc họa cho
con người tùy thuộc vào thái độ đối xử của con người đối với Kami.
- Kami có thế giới riêng nhưng vẫn có thể viếng thăm thế giới loài
người và sử dụng vào những mục đích của họ.
- Kami là thế lực ban phát cho con người những lợi ích vật chất mà
không đại diện cho một thứ chân lý tối hậu.
Nhìn nhận những đặc trưng của Kami như đã chỉ ra ta thấy, về thực
chất, Thần đạo có những khác biệt căn bản với Phật đạo. Điểm căn bản
nhất là ở chỗ, Kami là trừu tượng trong khi Phật là cụ thể. Tôn sùng, thờ
cúng Kami sẽ được đền đáp trong khi Phật chủ trương chính con người tự
chịu trách nhiệm về kết quả cuả hành động của bản thân mà không trông
chờ bất kỳ một sự ban phát nào. Kami là thế lực ban phát trong khi Phật đại
diện cho chân lý tối hậu, Thần đạo không đủ và được một hệ thống các giá
trị đạo đức được xem là chân lý. Vì những lẽ trên nên ở buổi đầu du nhập,
Thần đạo và Phật giáo luôn chứng tỏ những sự xung khắc và sự xung khắc
đó kéo dài cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, mặc dù
xung khắc nhưng Phật giáo đã góp phần bổ sung, bù đắp cho những lỗ
hổng về nhận thức mà Thần đạo không thể có, do đó xuất hiện xu hướng
hồn dung, vay vượn lẫn nhau giữa Thần và Phật là một thực tế trong đời

sống tín ngưỡng của người Nhật Bản. Bách khoa toàn thư Nhật Bản khẳng
định: "Đạo Phật đã cung cấp cho người Nhật toàn bộ khái niệm về đạo
đức... Đạo Phật đã đưa đến cho văn hóa Nhật Bản những từ về lòng thương
xót, anh minh, lòng từ bi, lòng nhân ái..." (1). So sánh vấn đề này với bối
cảnh Phật giáo du nhập vào Việt Nam, ta thấy cả hai cuộc du nhập đó có
những tương đồng nhưng cũng có nhiều dị biệt. Sự tương đồng thể hiện ở
chỗ, Phật giáo là một tôn giáo ngoại lai nên tất yếu phải có những phản ứng
từ phía bản địa. Thêm nữa cả Việt Nam và Nhật Bản đều là những quốc gia
nông nghiệp và tín ngưỡng bản địa đều có những khiếm khuyết cần phải

(1)

Bách khoa toàn thư Nhật Bản, HN 1995, tr.191.

21


được bổ sung. Ngoài những tương đồng trên những dị biệt sau đây là căn
bản:
- Việt Nam là quốc gia bị đô hộ.
- Xã hội Nhật Bản đang trong quá trình tan rã của chế độ thị tộc còn
Việt Nam quá trình đó căn bản đã hoàn thành.
- Tín ngưỡng của người Việt là đa thần mà chủ yếu là thần tự nhiên.
- Khẳng định sự tồn tại của Phật giáo chỉ là một trong những tín
ngưỡng của người Nhật phải thông qua vai trò của chính quyền. Còn ở Việt
Nam chủ yếu bằng con đường dân gian.
Chính những dị biệt đó làm cho sự du nhập của Phật giáo vào Nhật
Bản có phần khó khăn và sự đụng độ của nó với Thần đạo thêm phần quyết
liệt.
3. Trong bối cảnh về văn hóa, tín ngưỡng của Nhật Bản, Phật giáo

muốn bắt rễ phải tự biến đổi mà nhiều biến đổi đã trở nên khác lạ so với
Phật giáo chính gốc. Trước hết, muốn bắt rễ, Phật giáo không thể du nhập
bằng hệ thống lý luận trừu tượng mà phải là dưới hình thức nào đó của ma
thuật, về những lời hứa sẽ bảo vệ toàn bộ xứ sở về sự sẵn sàng cứu giúp
của các Bồ tát. Do đó một điều tự nhiên là trong hai thế kỷ tôn giáo mới
này được hiểu một cách đơn thuần như luôn luôn tìm kiếm, mong đợi từ
những vị thần trong shin tô"(2). Cũng vì tính chất đó mà triều đình nhanh
chóng chấp nhận Phật giáo vì nó mang lại mùa màng tốt tươi, vạn vật sinh
sôi và khuyến khích cho sự giàu có của đất nước. Để đi vào lòng người
thuộc mọi đối tượng, Phật giáo ở Nhật Bản luôn chủ trương hai khuynh
hướng. Đối với dân chúng chiếm số đông, nó thường xuyên cung cấp
những dịch vụ thiết thân như chữa bệnh hay là tìm ra đối lứa hợp nhau...
hoặc chăm sóc người chết, vỗ về người sống bằng các nghi lễ cầu hồn
nhằm tạo sự an tâm về sự quấy rối của linh hồn khi có người chết. Khuynh
(2)

Bách khoa toàn thư Nhật Bản, H. 1995, tr.191.

22


hưóng thứ hai là: phục vụ những người coi thế giới này là ảo và chất đầy sự
đau khổ. Với loại người này Phật giáo cung cấp cho họ phương tiện để làm
thay đổi nhận thức - tập Thiền. Có thể nói: "Vì tập tục thờ thần cũ, cho nên
Phật giáo Nhật Bản thời kỳ đầu đặc biệt coi trọng việc cầu mong công đức.
Các sử gia gọi đây là Phật giáo cầu mong" (1). "Họ không tha thiết tìm hiểu
kinh nghĩa mà chỉ mong mượn chú nguyện để kéo dài tuổi thọ, trừ tai, chữa
bệnh, cầu mưa, giữ nước. Họ vẫn lễ Phật với tâm lý cầu thần, cầu xin đời
sống hiện thực được bình yên như ý"(2).
Qua đây có thể thấy rằng Phật giáo ở Nhật Bản rất đậm tính thực

dụng và có màu sắc nhập thế.
4. Phật giáo vào Nhật Bản trong điều kiện xã hội đang ở giai đoạn
xã hội thị tộc, mỗi thị tộc chỉ thờ thần của thị tộc mình. Bởi vậy đối với thờ
cúng của Thần đạo hết sức đa dạng có những thần ngự trong các đối tượng
tự nhiên như cây cối, núi non, mặt trời, nhưng cũng có những vị thần phụ
trách một số nghề thủ công chuyên ban phát năng lực cho những ngư dân
hay những thợ săn có những vị thần còn sống như những chuyên gia về tôn
giáo hay những người bằng sự rèn luyện khổ hạnh đã đạt đến khả năng hòa
nhập và hóa thân thành các Kami. Có những vị thần bảo hộ cho cá nhân,
gia đình, dòng tộc nhưng cũng có những Kami có khả năng sáng tạo ra các
hòn đảo hay bảo hộ cho hoàng gia. Lại nữa. Có những Kami khi được thờ
cúng có khả năng thay đổi tính chất, từ thần phá phách trở thành thần có ích
sẵn sàng giúp đỡ nhân loại...
Rõ ràng, sự đa dạng của các Kami là sự biểu hiện của lối tư duy
phong phú khá phổ biến của người phương Đoong hay của nhân loại trước
khi tín ngưỡng độc thần xuất hiện. Cố nhiên khi đối tượng thờ cúng đa
dạng, hỗn tạp thì niềm tin cũng đa dạng và hỗn tạp. Tình hình này là sự
phản ánh thực tế phân biệt giữa các thị tộc trên quần đảo Nhật Bản, nó
không tạo cơ sở tinh thần cho sự thống nhất của quốc gia. Trong bối cảnh
(1)

, (2) Lịch sử Phật giáo thế giới, Tập I, Nxb Hà Nội 1996, tr.506 - 507.

23


đó, Phật giáo du nhập nhanh chóng được hoàng gia và người dân chấp
nhận. Sự kiện vĩ đại này đã tạo ra cơ sở cho sự thống nhất về đức tin và từ
sự thống nhất về đức tin đã tạo điều kiện cho sự thống nhất về quốc gia. Vì
lẽ ấy, các thiên hoàng của Nhật Bản không chỉ là lãnh tụ về chính trị mà

còn là lãnh tụ về tôn giáo. Nơi ở của thiên hoàng cũng là nơi ở của thần
linh và chỉ sau năm 1945 khi nước Nhật bại trận thì thiên hoàng mới trở lại
tư cách như con người.
Đề cập đến một vài đặc điểm của Phật giáo ở Nhật Bản buổi đầu du
nhập như trên, chúng tôi muốn so sánh với quá trình du nhập của Phật giáo
vào Việt Nam. Điều dễ nhận thấy là, cũng xuất phát từ Phật giáo, song khi
vào Nhật Bản, vào Việt Nam... thì đã có những khác biệt. Nếu như ở Nhật
Bản, Phật giáo được tiếp nhận để phục vụ cho lợi ích thực dụng của người
dân, phục vụ cho sự thống nhất quốc gia và được chấp nhận từ phía thế lực
cầm quyền thì ở Việt Nam Phật giáo chủ yếu được tiếp nhận bằng con
đường dân gian. Vì lẽ ấy, tính nhập thế của Phật giáo ở Nhật Bản lớn hơn
tính nhập thế của Phật giáo ở Việt Nam. Người Nhật Bản tiếp nhận Phật
giáo không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần mà còn tìm được sự thỏa
mãn những nhu cầu thực tế như chữa bệnh, học hành hay chí ít cũng là tìm
được sự phù hợp cho hạnh phúc đôi lứa...
Phật giáo ở Nhật Bản tiếp nhận trên nền tàng Thần đạo - một tín
ngưỡng không chỉ có tính thực dụng cho người dân mà còn có tính thực dụng
cho kẻ cầm quyền nên có sự hỗn dung Thần - Phật mang yếu tố trội là Thần.
Người Việt Nam chấp nhận Phật giáo trên nền tảng tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên (tất nhiên có cả thờ thần tự nhiên) vì vậy tính quyền lực ở
phương diện chính trị có phần ít đậm đặc. Vì vậy người Nhật rất trọng chữ
"Trung", còn Việt Nam lại thờ chữ "Hiếu". Từ suy nghĩ như vậy, chúng tôi
thấy rất đồng tình với tác giả bài "Nghĩ về cấu trúc văn hóa Nhật Bản";
"Quá trình nhập ngoại của người Nhật bao giờ cũng trải qua hai giai đoạn:
sau một thời kỳ làm thợ (bắt chước) là thời kỳ làm thầy (cải tiến). Sự phát
triển rực rỡ của Thần học Nhật Bản là một minh chứng. Bởi vậy, càng tiếp
24


thu những yếu tố ngoại sinh, thì bản sắc văn hóa Nhật càng óng chuốt và

nổi thêm sâu sắc". Hy vọng rằng, người Việt Nam trong quá khứ cũng đã
từng làm được như người Nhật Bản thì ngày nay cũng có thể làm được điều
kỳ diệu đó sao cho vẫn tồn tại một vớc dáng văn hóa Việt Nam trong dòng
thác của toàn cầu hóa.
III. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO Ở NHẬT BẢN

Kể từ khi du nhập đến nay, Phật giáo ở Nhật Bản đã có lịch sử tồn
tại khoảng 1.500 năm. Trong khoảng thời gian đó, Phật giáo trải qua nhiều
biến cố, gắn chặt với sự phát triển của xã hội Nhật Bản. Theo cách phân kỳ
phổ thông, có thể chia sự phát triển đó thành các thời kỳ chính như sau:
3.1. Phật giáo thời kỳ Nại Lương (Nara) (645 - 794)
Sau những cuộc đấu tranh quyết liệt với Thần đạo, Phật giáo được
sự hậu thuẫn của tập đoàn do Tô Ngã Đạo Mục (Soganoiname) và sau đó là
Thái tử Thánh Đức (Shoutoku taishi) bắt đầu thắng thế.
Trong thời kỳ Nại Lương, Phật giáo phát triển mạnh mẽ và khá đa
dạng. Lúc này ở Nhật có 6 trường phái Phật giáo chủ yếu bao gồm:
- Tam Luận tông.
- Pháp tướng tông.
- Thành thục tông.
- Câu xá tông.
- Luật tông.
- Hoa nghiêm tông.
1. Tam Luận tông
Đây là tông phái do vị sa môn nước Triều Tiên tên là Huệ Quan du
nhập vào Nhật Bản năm 33 đồi suy cổ Thiên Hoàng. Huệ Quan trụ trì ở
chùa Nguyên Hưng. Dưới trướng của Huệ Quan có nhiều đệ tử tài giỏi như
Phúc Long, Trí Tạng, Đạo Tử...

25



×