Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bồi DƯỠNG NĂNG lực NGHIÊN cứu KHOA học CHO học VIÊN đào tạo GIẢNG VIÊN KHOA học xã hội NHÂN văn ở NHÀ TRƯỜNG QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.39 KB, 101 trang )

3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trước yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước đất nước, yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc, xây dựng quân đội và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong
nhà trường quân đội đòi hỏi phải coi trọng hoạt động NCKH.
Nghiên cứu khoa học ở nhà trường quân đội có vai trò quan trọng
góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn của đất nước, nghiên
cứu phát triển lý luận, xây dựng quân đội về chính trị, đấu tranh chống các
tư tưởng sai trái, thù địch, bảo vệ trận địa tư tưởng của Đảng, nâng cao chất
lượng giáo dục đào tạo, làm cơ sở nâng cao tri thức cho cán bộ, học viên,
khẳng định vị thế và uy tín của nhà trường quân đội.
Nghiên cứu khoa học là yêu cầu khách quan, là một trong hai nhiệm vụ chính
trị trọng tâm của các học viện, nhà trường, đối với tất cả các cấp học, bậc học. Bồi
dưỡng năng lực NCKH cho học viên nhằm vừa phục vụ trực tiếp cho học tập, vừa rèn
luyện phương pháp, kỹ năng nghiên cứu, nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực tư
duy, hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, NCKH và hình thành các phẩm chất cần thiết
khác của cán bộ trong thời gian học tập tại trường, làm cơ sở cho học viên sau khi ra
trường có năng lực NCKH, gắn lý luận với thực tiễn, hoàn thành mọi nhiệm vụ được
giao.
Học viên viên đào tạo giảng viên KHXHNV trong nhà trường quân đội là
lực lượng có vị trí, vai trò quan trọng trực tiếp tác động đến chất lượng, hiệu quả
giáo dục đào tạo và NCKH ở nhà trường quân đội. Lực lượng này sau khi ra
trường sẽ trở thành các giảng viên, cán bộ khoa học của quân đội ở các học viện,
nhà trường, là người trực tiếp giảng dạy, NCKH, hướng dẫn học viên NCKH và
sẽ là lực lượng chủ yếu đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ sau này.


4



Trong những năm qua nhà trường quân đội thường xuyên quan tâm
bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên nói chung, học viên đào tạo giảng
viên KHXHNV nói riêng. Vì vậy, hoạt động NCKH của học viên được đẩy
mạnh, chất lượng hoạt động NCKH được nâng lên, đã có nhiều công trình
NCKH của học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở các nhà trường quân đội
đạt giải cao trong hoạt động NCKH, phát triển công nghệ, “Tuổi trẻ sáng tạo”
của quân đội, quốc gia và được ứng dụng vào quá trình giáo dục đào tạo, nâng
cao chất lượng giáo dục đào tạo, NCKH của nhà trường quân đội.
Tuy nhiên, hoạt động bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào
tạo giảng viên KHXHNV ở nhà trường quân đội còn nhiều hạn chế và bất
cập như: chưa được tiến hành thường xuyên; tổ chức hoạt động NCKH vẫn
mang tính phong trào; chưa có những nội dung chuyên biệt; hình thức chưa
đa dạng; nội dung nghiên cứu chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu
nhiệm vụ. Dẫn tới, một số công trình chất lượng nghiên cứu chưa cao, hiệu
quả ứng dụng còn hạn chế. Năng lực NCKH của học viên đào tạo giảng
viên KHXHNV còn bộc lộ nhiều hạn chế như: còn lúng túng trong lựa
chọn đề tài nghiên cứu; triển khai nghiên cứu đề tài; sử dụng phương pháp
NCKH, trong tổ chức khảo sát thực tiễn, xử lý thông tin; trong triển khai
phân công lực lượng viết đề tài; trong phối hợp nghiên cứu. Vì vậy, “Bồi
dưỡng năng lực nghiên cứu khoa cho học viên đào tạo giảng viên khoa
học xã hội nhân văn ở nhà trường quân đội hiện nay ” là vấn đề có ý
nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những năm gần đây có nhiều công trình, đề tài, luận văn và các bài viết
của các tác giả trong và ngoài quân đội đề cập đến vấn đề xây dựng đội ngũ giảng
viên KHXHNV, năng lực NCKH của học viên nói chung và bồi dưỡng năng lực
NCKH của học viên trong các nhà trường quân đội nói riêng.



5

* Về xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học trong quân đội có các
công trình tiêu biểu như:
Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng: “Xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu
khoa học xã hội nhân văn trong quân đội hiện nay” do PGS, TS Vũ Quang Đạo
làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2007; Đề tài nhánh trong Chương trình KX-HV
03 của Học viện Chính trị quân sự về: “ Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên ở
Học viện Chính trị quân sự hiện nay” do TS Nguyễn Quang Phát làm chủ nhiệm,
nghiệm thu năm 2007; Đề tài cấp Học viện Chính trị quân sự: “Bồi dưỡng năng lực
giảng dạy của đội ngũ giảng viên trẻ khoa học xã hội nhân văn ở Học viện Chính
trị quân sự hiện nay” do TS, Nguyễn Xuân Trường làm chủ nhiệm, nghiệm thu
năm 2007; Đề tài cấp Đề tài cấp Học viện Chính trị quân sự: “Bồi dưỡng năng lực
nghiên cứu khoa học của giáo viên khoa học xã hội nhân văn ở Học viện Chính trị
quân sự hiện nay” do TS Phạm Xuân Mát làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2008.
Các công trình khoa học trên đã nghiên cứu làm sáng tỏ những nội
dung cơ bản liên quan đến hoạt động giáo dục, đào tạo, vai trò của NCKH,
xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học KHXHNV, mối quan hệ
giữa giáo dục, đào tạo và NCKH...Từ đó đặt ra những yêu cầu trong công
tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý hoạt động giáo dục, đào tạo, NCKH ở nhà
trường quân đội trong giai đoạn hiện nay. Đề xuất một số giải pháp cơ bản
xây dựng đội ngũ giảng viên KHXHNV, bồi dưỡng kiến thức, tư duy khoa
học, kỹ năng NCKH cho đội ngũ giảng viên KHXHNV ở các nhà trường
quân đội trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên trong các công trình trên chưa có công trình nào đề cập
đến hoạt động NCKH, bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên, nhất là học
viên đào tạo giảng viên KHXHNV trong nhà trường quân đội.
Một số luận văn tiêu biểu như: Võ Bá Dương (2003), “Xây dựng đội
ngũ giảng viên ở Trường sĩ quan Chỉ huy kỹ thuật thông tin hiện nay ”, luận



6

văn thạc sĩ Khoa học Chính trị, bảo vệ tại Học viện Chính trị quân sự;
Nguyễn Văn Tháp (2007)“ Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ khoa
học của Học viện Chính trị quân sự trong giai đoạn hiện nay” luận văn
thạc sĩ Khoa học Chính trị bảo vệ tại Học viện Chính trị quân sự.
Các luận văn ở góc độ tiếp cận khác nhau đã phân tích làm rõ cơ sở lý
luận, thực tiễn của vấn đề nghiên cứu, trong đó, đặc biệt đi sâu làm rõ một số quan
niệm, vị trí, vai trò, đặc điểm và những vấn đề có tính nguyên tắc xây dựng đội
ngũ giảng viên KHXHNV trong nhà trường quân đội. Trên cơ sở đó xác định
phương hướng, yêu cầu và những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng xây
dựng đội ngũ giảng viên KHXHNV trong các nhà trường quân đội nói chung và
đội ngũ giảng viên KHXHNV ở Học viện Chính trị quân sự (nay là Học viện
Chính trị) nói riêng dưới nhiều khía, cạnh cấp độ khác nhau và hướng tiếp cận,
nghiên cứu khác nhau. Làm rõ đặc điểm hoạt động NCKH của giảng viên ở Học
viện Chính trị quân sự, đồng thời đề ra những giải pháp cơ bản để giải quyết mối
quan hệ giữa nâng cao chất lượng giảng dạy và NCKH, đổi mới tổ chức hoạt động
sư phạm, đưa yếu tố khoa học xâm nhập sâu vào hoạt động giảng dạy các môn
KHXHNV và xây dựng đội ngũ giảng viên có năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu
cầu của quân đội nói chung và yêu cầu của các nhà trường quân đội nói riêng.
Một số bài viết của các tác giả Trần Danh Bích “Vai trò của lãnh
đạo, chỉ huy đối với hoạt động nghiên cứu khoa học ở Học viện Chính trị
quân sự”, trong cuốn sách “Một số vấn đề về công tác khoa học ở Học viện
Chính trị quân sự”, Nxb QĐND, Hà Nội 2000; Lê Quý Trịnh “Tạo bước
chuyển mới trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở Học viện theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội IX”, trong cuốn “Quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của
Đảng vào dạy-học và nghiên cứu khoa học”, Nxb. QĐND, Hà Nội 2002; Lê
Minh Vụ “ Quy trình đánh giá năng lực sư phạm quân sự của đối tượng
tuyển chọn đào tạo giảng viên hiện nay” Nxb. Chính trị-Hành chính, Hà



7

Nội, 2009. Đã làm rõ đặc điểm của hoạt động NCKH, mối quan hệ chặt chẽ
giữa hoạt động giáo dục đào tạo cán bộ chính trị với giảng viên KHXHNV.
Đi sâu nghiên cứu lĩnh vực khoa học quân sự và nghiên cứu các vấn đề lý
luận cơ bản trong lĩnh vực KHXHNV, nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo. Các tác giả đều khẳng định hoạt động khoa học ở HVCT quân sự là
một bộ phận đặc thù của hoạt động KHXHNV gắn liền với công tác tư
tưởng, lý luận của quân đội.
* Về bồi dưỡng năng lực, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa
học cho học viên
Đề tài khoa học cấp hệ Sau đại học: “Nâng cao chất lượng nghiên cứu
khoa học của học viên Hệ Đào tạo sau đại học ở học viện chính trị quân sự
hiện nay” do Thạc sĩ Dương Quang Bích làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2004;
Đề tài cấp khoa: “Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học cho học viên đào tạo
cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay” do Thạc sĩ
Nguyễn Văn Phúc làm chủ nhiệm, nghiệm thu năm 2009. Các đề tài đã đề cập
đến một số vấn đề lý luận, thực tiễn, đưa ra khái niệm về nâng cao chất
lượng NCKH của học viên đào tạo sau đại học và học viên đào tạo chính trị
viên ở HVCT, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao chất lượng NCKH cho học viên. Tuy nhiên, cho tới nay
chưa có công trình nào nghiên cứu về bồi dưỡng năng lực NCKH cho học
viên đào tạo giảng viên KHXHNV một cách hệ thống dưới góc độ khoa
học xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn của tác giả Nguyễn Văn Lan (2004), "Phát triển năng lực
nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường sĩ quan
Lục quân II hiện nay" luận văn thạc sĩ Triết học, bảo vệ tại Học viện
Chính trị quân sự đã phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn vấn đề phát triển

năng lực NCKH của học viên đào tạo bậc đại học ở Trường Sĩ quan Lục quân 2


8

đó là: quá trình không ngừng vươn lên chiếm lĩnh tri thức khoa học, nâng cao
phương pháp tư duy và khả năng vận dụng linh hoạt sáng tạo tri thức khoa học
vào phát triển và giải quyết đúng đắn những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh trong
quá trình học tập, rèn luyện ở trường cũng như trên cương vị công tác sau này.
Theo tác giả, cấu trúc năng lực NCKH bao gồm trình độ tri thức, phương pháp
tư duy và khả năng sáng tạo của con người được sử dụng trong việc phát hiện và
giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập, rèn luyện tại Trường Sĩ
quan Lục quân 2. Trên cơ sở cấu trúc tác giả đã đưa ra tính qui luật về phát triển
năng lực NCKH của học viên là phụ thuộc vào chất lượng giảng dạy của giảng
viên và nhân tố chủ quan của người học viên trong quá trình học tập tại nhà
trường. Từ đó, thấy được tình hình phát triển năng lực NCKH của học viên và đề
ra giải pháp để nâng cao năng lực NCKH cho học viên ở Trường Sĩ quan Lục
quân 2, đáp ứng tình hình nhiệm vụ của quân đội hiện nay.
Một số bài viết của các tác giả: Vũ Quang Đạo “Kết hợp chặt chẽ giữa
học tập và nghiên cứu khoa học - một phương thức gắn học với hành của học
viên ở Học viện Chính trị quân sự”, Tạp chí Giáo dục lý luận Chính trị quân sự,
số 6 (64) 2000; Lê văn Làm “ Phát huy tính độc lập suy nghĩ và sáng tạo trong
nghiên cứu khoa học của học viên ở Học viện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
Đảng IX”, trong cuốn “ Quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng vào dạy-học
và nghiên cứu khoa học”, Nxb.QĐND, Hà Nội 2002; Nguyễn Văn Điều “ Phát
huy vai trò nghiên cứu khoa học của đội ngũ chính trị viên trong tình hình mới”,
Thông tin khoa học xã hội và nhân văn quân sự, số 109 (01-02/2007); Nguyễn
Văn Phúc “Một số giả pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của học
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị”, Tạp chí giáo dục lý luận chính trị quân sự, số
(119) -2010. Đã tiếp cận nghiên cứu, luận giải một cách khá toàn diện về cơ sở,

nội dung, yêu cầu và giải pháp xây nâng cao chất lượng NCKH của học viên đào
tạo chính uỷ, chính trị viên ở HVCT và TSQCT. Đi sâu nghiên cứu lĩnh vực


9

khoa học quân sự và nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản trong lĩnh vực
KHXHNV, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Các tác giả đều khẳng định
hoạt động khoa học ở HVCT và TSQCT là hoạt động có vị trí, vai trò quân trọng
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, NCKH ở nhà trường quân đội.
Như vậy, vấn đề nâng cao chất lượng NCKH, bồi dưỡng năng lực NCKH
trong nhà trường quân đội, của đội ngũ giảng viên, học viên đào tạo Chính trị viên, sĩ
quan chỉ huy cấp phân đội, học viên đào tạo sau đại học được đầu tư nghiên cứu và
đạt được những kết quả quan trọng, có những đóng góp về khoa học. Tuy nhiên, cho
đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu
về bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở nhà
trường quân đội dưới góc độ khoa học Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy,
luận văn không trùng lặp với các công trình đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Mục đích: Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn năng
lực NCKH và bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp cơ bản bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo
giảng viên KHXHNV ở nhà trường quân đội hiện nay.
* Nhiệm vụ: Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực NCKH
và bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở
nhà trường quân đội. Đánh giá đúng thực trạng bồi dưỡng năng lực NCKH
choG8 học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở nhà trường quân đội. Đề xuất
những giải pháp cơ bản bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng
viên KHXHNV ở nhà trường quân đội hiện nay.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: bồi dưỡng năng lực NCKH cho

học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở nhà trường quân đội.


10

* Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoạt động bồi dưỡng
năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở HVCT và
TSQCT.
Đối tượng điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến chủ yếu là học viên
đào tạo giảng viên KHXHNV; giảng viên, cán bộ khoa học, cán bộ quản lý
giáo dục đào tạo và quản lý khoa học; đội ngũ cán bộ đơn vị quản lý học
viên; đồng thời kết hợp thu thập tài liệu về học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV và hoạt động NCKH của học viên đào tạo giảng viên KHXHNV
ở HVCT và TSQCT.
Số liệu, tài liệu phục vụ cho luận văn được giới hạn từ năm 2000 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu luận văn
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
giáo dục đào tạo, NCKH; các Nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương,
chỉ thị, hướng dẫn của Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng tham mưu, quy định của
Bộ Giáo dục-Đào tạo về công tác giáo dục, đào tạo, NCKH trong các học viện,
nhà trường quân đội.
Cơ sở thực tiễn là toàn bộ hoạt động giáo dục, đào tạo, NCKH của
HVCT và TSQCT; năng lực NCKH và hoạt động bồi dưỡng năng lực NCKH
cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở HVCT và TSQCT hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của
các chuyên ngành KHXHNV và phương pháp của Khoa học xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tập trung vào một số phương pháp

cơ bản sau:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết


11

Phân tích, tổng hợp, khái quát hoá và hệ thống hoá các nguồn tài liệu

liên quan đến lĩnh vực bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo
giảng viên KHXHNV ở nhà trường quân đội hiện nay , nhằm khai thác có
hiệu quả các thông tin cần thiết, cập nhật và hướng nghiên cứu mới để xây
dựng cơ sở lý luận, thực tiễn của đề tài. Sử dụng phương pháp lôgic-lịch
sử, so sánh, tổng kết thực tiễn nhằm đánh giá một cách toàn diện, hệ
thống quá trình bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng
viên KHXHNV trong những năm qua, rút ra những vấn đề có tính nguyên
tắc, những yêu cầu, những kinh nghiệm và những định hướng trong bồi
dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV trong
những năm tới.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát thực tiễn: Thông qua hoạt động giảng dạy, NCKH,
quan sát, theo dõi hoạt động bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo
giảng viên KHXHNV, kết quả NCKH, chất lượng các sản phẩm NCKH của học
viên ở HVCT và TSQCT bằng nhiều hình thức, thời điểm khác nhau.
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Tiến hành khảo sát bằng 200
mẫu phiếu in sẵn, với 100 học viên, 100 giảng viên và cán bộ quản lý học
viên ở HVCT và TSQCT. Nội dung tìm hiểu thực trạng năng lực NCKH và
hoạt động bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV.
Phương pháp toạ đàm: Tiến hành trao đổi với một số giảng viên
KHXHNV trực tiếp giảng dạy cho học viên, cán bộ quản lý học viên và một số

nhóm học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở HVCT và TSQCT các năm,
thuộc các khoá đào tạo. Nhằm tìm hiểu về hoạt động NCKH, những thuận lợi,
khó khăn, kết quả và hạn chế vướng mắc về cơ chế, chính sách, quản lý, chỉ
đạo hoạt động khoa học nói chung, NCKH của học viên nói riêng.


12

Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Gặp gỡ, xin ý kiến của một số
đồng chí cán bộ chủ trì Phòng đào tạo, Phòng Khoa học, công nghệ và
môi trường, Phòng Chính trị, một số giảng viên và cán bộ khoa học có
kinh nghiệm ở HVCT và TSQCT về năng lực NCKH và bồi dưỡng năng
lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV hiện nay.
Sử dụng phương pháp thống kê toán học: Để đo lường, phân tích và xử
lý các số liệu điều tra, đánh giá chính xác vấn đề nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần quan trọng làm sáng tỏ những
vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn năng lực NCKH của học viên; bồi
dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở nhà
trường quân đội hiện nay. Trên cơ sở đó giúp cho các cấp uỷ, cán bộ chủ
trì, đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học ở các nhà trường quân đội định
hướng cho công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực toàn
diện, nhất là năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV
ở nhà trường quân đội hiện nay.
Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy,
học tập, NCKH ở các nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương, (4 tiết), danh mục tài liệu
tham khảo và phần phục lục.



13

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG NĂNG
LỰC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHO HỌC VIÊN ĐÀO TẠO
GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN Ở NHÀ TRƯỜNG
QUÂN ĐỘI
1.1. Năng lực nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng năng lực nghiên
cứu khoa học cho học viên đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở
nhà trường quân đội
1.1.1. Học viên đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn và
hoạt động nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giảng viên khoa học
xã hội nhân văn ở nhà trường quân đội
* Quan niệm về học viên đào tạo giảng viên KHXHNV
Học viên, sinh viên là danh từ chỉ những người đang học trong các nhà
trường quân sự và dân sự. Sinh viên là danh từ sử dụng rộng rãi chỉ những người
đang học ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp dạy nghề... còn học viên là danh
từ chỉ đối tượng người học trong nhà trường quân đội ở tất cả các cấp học, bậc học
đang học tập, rèn luyện, NCKH theo mô hình, mục tiêu đào tạo của quân đội. Với
phương pháp tiếp cận này có thể quan niệm: học viên đào tạo giảng viên KHXHNV
ở nhà trường quân đội là: những sĩ quan, hạ sỹ quan, được tuyển chọn chặt chẽ về
lai lịch chính trị, phẩm chất, năng lực, xu hướng nghề nghiệp, năng khiếu sư phạm;
đã trúng tuyển qua các kì thi, đang được đào tạo tại các nhà trường quân đội theo
mô hình, mục tiêu đào tạo người giảng viên KHXHNV, sau khi ra trường đáp ứng
yêu cầu của người giảng viên KHXHNV ở nhà trường quân đội.
Đối tượng học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở nhà trường quân
đội hiện nay gồm đào tạo giảng viên cấp phân đội và giảng viên cấp trung
đoàn. Học viên đào tạo giảng viên KHXHNV cấp phân đội là những hạ sĩ
quan, chiến sĩ là học viên đã học hết năm thứ nhất chương trình đào tạo chính



14

trị viên ở Học viện Chính trị quân sự (hiện nay ở Trường Sĩ quan Chính trị)
được lựa chọn về lai lịch chính trị, phẩm chất, năng lực, kết quả học tập, xu
hướng nghề nghiệp làm giảng viên KHXHNV, phải qua đợt thi tuyển, những
đồng chí trúng tuyển sẽ đào tạo theo chương trình 4 năm, khi tốt nghiệp sẽ
được phong quân hàm sĩ quan, được điều động về các trường sĩ quan, các
trường quân sự của các quân khu, quân đoàn làm giảng viên KHXHNV.
Học viện đào tạo giảng viên KHXHNV cấp trung đoàn, là những sĩ
quan, đã được đào tạo cơ bản tại các trường sĩ quan, trong đó một bộ phận đã
là giảng viên KHXHNV ở các nhà trường quân, một bộ phận là cán bộ chính
trị cấp phân đội, trợ lý cơ quan chính trị cấp trung đoàn và tương đương
(riêng đào tạo giảng viên chuyên ngành CTĐ, CTCT phải qua chức vụ chính
trị viên tiểu đoàn và tương đương) được lựa chọn về phẩm chất chính trị, đạo
đức, phẩm chất nghề nghiệp sư phạm quân sự, có năng lực công tác tốt, có
nguyện vọng trở thành người giảng viên KHXHNV, có độ tuổi phù hợp với
Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Những sĩ quan này trải qua đợt thi
tuyển theo quy định của Bộ Quốc phòng. Sau khi trúng tuyển, được đào tạo 2
năm tại HVCT, khi ra trường sẽ được điều về làm giảng viên KHXHNV ỏ các
Học viện, các trường sĩ quan trong quân đội.
Các chuyên ngành đào tạo giảng viên KHXHNV ở HVCT và TSQCT
gồm có: Triết học Mác-Lênin; Kinh tế chính trị Mác-Lênin; Chủ nghĩa xã hội
khoa học; Tâm lý học quân sự; Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam; CTĐ,CTCT;
Tư tưởng Hồ Chí Minh; Sư phạm quân sự... Số lượng học viên của các chuyên
ngành đào tạo giảng viên KHXHNV phụ thuộc vào chỉ tiêu chiêu sinh hàng
năm của Bộ Quốc phòng. Căn cứ vào mô hình, mục tiêu đạo giảng viên
KHXHNV cấp phân đội và cấp trung đoàn mà các nhà trường xác định nội
dung, chương trình đào tạo cho phù hợp.



15

Như vậy, chất lượng đầu vào của học viên đào tạo giảng viên KHXHNV
cấp trung đoàn và cấp phân đội có chênh lệch khá lớn về tuổi quân, tuổi đời, trình
độ học vấn, năng lực sư phạm, năng lực NCKH, kinh nghiệm cuộc sống, hoạt động
quân sự, nhất là kinh nghiệm nghề nghiệp giảng viên KHXHNV. Điều đó sẽ tác
động trực tiếp đến kết quả học tập, NCKH của học viên trong thời gian học tập tại
trường. Vì vậy, trong thời gian học tập tại trường, học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV sẽ được nhà trường quân đội được trang bị hệ thống kiến thức rất cơ
bản, toàn diện, gồm các môn lý luận cơ bản, các môn cơ sở và chuyên ngành, các
môn quân sự, ngoại ngữ, tin học... truyền thụ những kinh nghiệm nghề nghiệp sư
phạm quân sự, bồi dưỡng, nâng cao trình độ sư phạm, năng lực NCKH... đủ sức
hoàn thành nhiệm vụ người giảng viên KHXHNV sau khi ra trường.
Trong thời gian học tập tại trường, học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV được giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, phẩm
chất đạo đức cách mạng, phẩm chất tâm lý, phẩm chất nghề nghiệp sư phạm
quân sự, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống phẩm chất nhân cách nhà giáo,
cán bộ, sĩ quan quân đội... thực sự chuẩn mực, làm tấm gương cho học viên
noi theo sau khi ra trường.
Với cương vị là học viên đào tạo giảng viên KHXHNV, dù là học viên
đào tạo giảng viên cấp phân đội hay cấp trung đoàn đều phải thực hiện tốt chức
trách, nhiệm vụ của người quân nhân, người học viên, trong đó nhiệm vụ chính
trị trung tâm là học tập và NCKH. Đây là một đặc điểm về nhiệm vụ của học
viên đào tạo giảng viên KHXHN. Bởi vì, hoạt động giảng dạy và NCKH là
nhiệm vụ song hành trong hoạt động nghề nghiệp của người giảng viên
KHXHNV, hoạt động NCKH trước hết phục vụ cho công tác giảng dạy, nâng
cao chất lượng bài giảng, biên soạn giáo khoa, giáo trình, tài liệu học tập,
hướng dẫn học viên NCKH, xây dựng luận văn tốt nghiệp... thực hiện nhiệm

vụ NCKH của khoa, nhà trường quân đội, quốc gia.


16

Trong thời gian học tập tại trường, học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV phải thực hiện tốt nhiệm vụ NCKH, góp phần vào thực hiện
nhiệm vụ NCKH của nhà trường. NCKH của học viên là yêu cầu trong mô
hình, mục tiêu đào tạo người giảng viên KHXHNV, là nhiệm vụ mà cấp uỷ,
tổ chức đảng phải lãnh đạo học viên hoàn thành tốt. Hoạt động NCKH
không chỉ là nhiệm vụ mà còn là thời cơ, điều kiện thuận lợi để người học
viên trau dồi tri thức, rèn luyện kỹ năng, tích luỹ kinh nghiệm NCKH, là cơ
sở thực tiễn quan trọng để hoàn thành nhiệm vụ NCKH sau này trên cương
vị người giảng viên KHXNHV.
Trong quá trình đào tạo tại nhà trường quân đội, học viên đào tạo giảng
viên KHXHNV được trang bị, bồi dưỡng kiến thức, lý luận rất cơ bản, trong đó
có cả lý luận, phương pháp NCKH. Đây là điều kiện rất thuận lợi để học viên
tham gia vào hoạt động NCKH, nâng cao năng lực NCKH và các kỹ năng
khác một cách cơ bản, toàn diện và chuyên sâu. NCKH của học viên thực chất là
quá trình vận dụng những kiến thức, hệ thống lý luận cơ bản, cơ sở và lý luận
chuyên ngành nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Vì vậy, nếu không
nắm được kiến thức, lý luận cơ bản, cơ sở và chuyên ngành thì không thể tiến
hành NCKH có hiệu quả, nhất là nghiên cứu KHXHNV.
Tất nhiên, hệ thống kiến thức, lý luận cơ bản, cơ sở và chuyên ngành
trang bị cho học viên theo một quy trình đào tạo, được thiết kế trong chương
trình đào tạo toàn khoá. Vì vậy, cùng với quá trình đào tạo, năng lực NCKH của
học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ngày càng được nâng lên, kết quả NCKH
ngày càng cao hơn. Riêng với học viên đào tạo giảng viên KHXHNV cấp trung
đoàn, hệ thống kiến thức, lý luận cơ bản cơ sở, chuyên ngành được bổ sung, phát
triển trong thời gian làm giảng viên ở các nhà trường quân đội, đồng thời còn

được tích luỹ thêm kinh nghiệm thực tiễn NCKH trong quá trình hoạt động. Vì


17

vậy, học viên đào tạo giảng viên KHXHNV cấp trung đoàn có năng lực NCKH
cao hơn học viên đào tạo giảng viên KHXHNV cấp phân đội.
Tham gia NCKH của học viên đào tạo đào tạo giảng viên KHXHNV
là một nhiệm vụ đồng thời là phong trào thi đua sôi nổi của học viên, đây là
nét đặc thù hoạt động NCKH ở các nhà trường quân đội. Thực tiễn cho thấy
nếu kết hợp tốt giữa nhiệm vụ với phong trào bằng các hình thức tổ chức phù
hợp, xây dựng thái độ, trách nhiệm, động cơ NCKH của học viên sẽ tác động
tích cực đến chất lượng NCKH của học viên, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục đào tạo, tạo ra khí thế thi đua sôi nổi, thường xuyên ở đơn vị.
Tuy nhiên, NCKH là hoạt động sáng tạo, khám phá chân lý khoa học,
vì thế NCKH đối với học viên đào tạo giảng viên KHXHNV vẫn là vấn đề mới
và khó, nhất là đối học viên đào tạo giảng viên KHXHNV cấp phân đội. Bởi lẽ,
hoạt động NCKH phải có điều kiện và môi trường, năng lực NCKH phải được
trải nghiệm củng cố và phát triển trong thực tiễn hoạt động khoa học. Vì thế,
khi về trường đào tạo giảng viên KHXHNV, mặc dù đã được trang bị một
lượng kiến thức lý luận cơ bản, nhưng chưa đạt đến độ sâu sắc, hơn nữa kinh
nghiệm thực tế, sự trải nghiệm trong cuộc sống xã hội và hoạt động quân sự
chưa nhiều, nhất là chưa tiếp xúc nhiều với hoạt động NCKH, chưa có kinh
nghiệm trong NCKH. Vì vậy, trong quá trình tổ chức bồi dưỡng năng lực
NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV cần tính đến đặc điểm này.
* Đặc điểm hoạt động NCKH của học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV ở nhà trường quân đội
Thứ nhất, luôn gắn liền với thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện và các
nhiệm vụ khác được giao
Trong quá trình đào tạo ở nhà trường quân đội, nhiệm vụ, nội dung và

thời gian học tập của học viên được kế hoạch hoá cụ thể và quản lý chặt chẽ
phản ánh ở lịch huấn luyện hàng ngày, hàng tuần, học kỳ, năm học và mang


18

tính pháp lệnh. Nội dung học tập gồm nhiều môn, lượng kiến thức cần ghi nhớ
xử lý rất lớn. Hình thức dạy học đa dạng, với những mục tiêu, yêu cầu cao và
cách thức tiến hành phong phú; quản lý chất lượng, thời gian, kỷ luật học tập
chặt chẽ tạo nên ở người học viên luôn có sự căng thẳng về trí tuệ và thể lực.
Trong khi đó học viên đào tạo giảng viên KHXHNV vừa phải tham gia xây
dựng đơn vị và tham gia nhiều hoạt động khác như: các hoạt động thi đua, văn
hoá văn nghệ, thể thao, hành quân rèn luyện, lao động tăng gia sản xuất cải
thiện đời sống, đồng thời sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ khác trên giao như
sẵn sàng chiến đấu, phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạt lật đổ, cứu hộ,
cứu nạn, phòng chống thiên tai…Các chế độ trong ngày được duy trì một cách
chặt chẽ theo đúng điều lệnh, điêu lệ của quân đội.
Trong khi đó hoạt động khoa học của học viên cần có thời gian nhất
định để triển khai nhiệm vụ, thu thập tư liệu, tài liệu, xử lý thông tin, để tư duy,
suy ngẫm, để có sáng tạo, đóng góp mới về khoa học. Không chủ động dành
một quỹ thời gian cần thiết để thực hiện quy trình, nội dung NCKH thì sẽ rất
khó hoàn thành nhiệm vụ với chất lượng cao, đảm bảo tiến độ.
Hai là, trong môi trường sư phạm, có sự giúp đỡ của giảng viên,
cán bộ khoa học
Trong nhà trường quân đội hoạt động NCKH diễn ra sôi nổi, rộng
khắp, luôn gắn liền với phong trào học tập và các phòng trào thi đua, các cuộc
thi... Do đó, đã tạo ra bầu không khí tâm lý thoả mái, mọi người đều tự
nguyện, hăng hái và có trách nhiệm trong NCKH.
Quá trình NCKH của học viên thường xuyên đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của đảng uỷ các hệ, tiểu đoàn; sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chính

trị, cơ quan quản lý giáo dục đào tạo, Phòng Khoa học, công nghệ và môi
trường, đặc biệt luôn được đội ngũ giảng viên ở các khoa KHXHNV, cán bộ
khoa học trong nhà trường định hướng, giúp học viên thực hành nhiệm vụ
NCKH. Đội ngũ cán bộ quản lý ở các đơn vị có kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ


19

đạo, tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch NCKH cho học viên, thường xuyên
phối hợp với phòng khoa học công nghệ môi trường và các khoa giáo viên để
hợp đồng với cán bộ, giảng viên hướng dẫn khoa học cho học viên.
Thứ ba, điều kiện cơ sơ vật chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho NCKH
được nâng lên đáng kể, ngày càng hiện đại
Hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và
công nghệ, được sự đầu tư của Nhà nước, Bộ Quốc phòng, cơ sở vật
chất, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho giáo dục đào tạo và NCKH ở
nhà trường quân đội được nâng lên và ngày càng hiện đại, góp phần quan
trọng trong việc cung cấp thông tin, khai thác các nguồn tư liệu, tài liệu
tham khảo đa dạng, phong phú và cập nhật, trong việc trao đổi thông tin
khoa học, rút ngắn thời gian nghiên cứu, trong việc xã hội hoá và ứng
dụng kết quả NCKH một cách nhanh chóng, hiệu quả. Hiên nay, với sự
phát triển của máy vi tính, thư viện điện tử, mạng thông tin nội bộ
(LAN), mạng thông tin khoa học quân sự của Bộ Quốc phòng
(MISTEN), Internet...tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động NCKH
cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV.
Đồng thời, trong điều kiện kinh tế thi trường, các ấn phẩm khoa học
nói chung, KHXHNV nói riêng được phát hành rộng rãi với sự đa dạng,
phong phú về thể loại, cả trong nước và ngoài, cho phép học viên có thể
tiếp cận rất nhanh chóng các kết quả nghiên cứu mới nhất để có thể tiếp
thu, vận dụng trong quá trình NCKH của mình.

Thư tư, chủ yếu là nghiên cứu ứng dụng, khả năng xã hội hoá rất cao
Chịu sự chi phối bởi mô hình, mục tiêu đào tạo, đặc điểm của học viên
đào tạo giảng viên KHXHNV và tính chất hoạt động NCKH của nhà trường
quân đội, do đó hoạt động NCKH của học viên đào tạo giảng viên KHXHNV
chủ yếu là nghiên cứu ứng dụng, thực chất là vận dụng các kiến thức lý luận
được trang bị trong nhà trường để giải quyết những vấn đề thực tiễn trong


20

hoạt động giáo dục đào tạo, xây dựng nhà trường, hoặc những vấn đề đặt ra
trong quân đội, trong xã hội liên quan đến lý luận chuyên ngành.
Chính vì thế hình thức NCKH của học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV chủ yếu là đề tài cấp hệ, (cấp tiểu đoàn), một số ít đề tài cấp cơ sở,
hội thảo, toạ đàm khoa học, viết bài báo khoa học, tiểu luận, chuyên đề khoa
học, luận văn tốt nghiệp. Vì vậy, khả năng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào
nhiệm vụ học tập, xây dựng đơn vị rất cao.
Thứ năm, hoạt động NCKH của học viên được đảm bảo từ nguồn kinh phí
của nhà trường
Nghiên cứu khoa học của học viên nói chung, học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV nói riêng không nằm trong danh mục sử dụng kinh phí nhà nước, mà
do từng nhà trường quân đội tự cân đối, đảm bảo từ kinh phí khoa học chung của
nhà trường, sự hỗ trợ của các hệ, tiểu đoàn quản lý học viên từ quỹ vốn của đơn
vị và phần lớn do các nhóm đề tài tự trang trải bằng kinh phí của các thành viên.
Ngoài việc sử dụng cơ sở hệ thống thư viện, công nghệ thông tin và hệ thống
dịch vụ in ấn...ban đề tài và các thành viên tự đảm bảo kinh phí. Đây cũng là một
vấn đề đang đặt ra đối với hoạt động NCKH của học viên, cũng như bồi dưỡng
năng lực NCKH của học viên đào tạo giảng viên KHXHNV hiện nay và trong
những năm tới.
1.1.2. Năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo giảng viên

khoa học xã hội nhân văn ở nhà trường quân đội
* Quan niệm năng lực NCKH của học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV
- Quan niệm chung về năng lực và năng lực nghiên cứu khoa học
Năng lực theo Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa: là “ Khả năng, điều
kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”, “ Là


21

phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người hoàn thành một hoạt động nào
đó với chất lượng cao.” [40, tr.639].
Bàn về năng lực lao động của con người, C. Mác viết: "Chúng tôi
hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất
và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống và được
người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào
đó"[27, tr.251]. Tư tưởng trên của C. Mác là cơ sở phương pháp luận cho
việc nhận thức đúng đắn về bản chất của năng lực và năng lực nghiên cứu
khoa học của mỗi con người.
Các quan niệm trên tuy góc độ tiếp cận có khác nhau, phụ thuộc vào phạm
vi, chức năng của từng bộ môn khoa học, nhưng đều thống nhất cho rằng: Năng
lực là tổng hợp những tính chất hay phẩm chất cá nhân phù hợp với những yêu
cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định, là điều kiện đảm bảo hoàn thành
hoạt động đó nhanh chóng thành thạo và đạt kết quả cao.
Theo hướng tiếp cận trên có thể quan niệm: Năng lực là tổng hoà các yếu tố
tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng hoạt động, là điều kiện nội tại, căn bản trong mỗi con
người đảm bảo cho con người hoạt động thực tiễn với chất lượng, hiệu quả cao.
Năng lực bao giờ cũng gắn với con người và hoạt động của con người;
là trình độ thực tế, là khả năng của con người, hoặc một tập thể người trong
hoạt động. Kết quả hoạt động thực tiễn của cá nhân hay tập thể là cơ sở đánh

giá năng lực của cá nhân hay tập thể đó.
Năng lực là một cấu trúc, chức năng của nhân cách, qui định những
phẩm chất lĩnh hội trí thức và thực hiện những hoạt động nhất định của con
người. Năng lực gắn liền với phẩm chất về trí nhớ, tính nhạy cảm, trí tuệ, tính
cách của cá nhân. Các cấp độ của năng lực: thiên hướng, năng khiếu, tài năng,
thiên tài. Năng lực của mỗi con người tức là nhân cách của người đó xét về mặt
hiệu suất hoạt động của họ. Con người chưa bắt đầu thực hiện hành động thì


22

năng lực còn ở dạng tiềm tàng. Khi bắt đầu hoạt động thì năng lực tiềm tàng sẽ
trở thành năng lực hiện thực. Năng lực chỉ tồn tại trong mối quan hệ với hoạt
động nhất định. Có thể phân năng lực thành 2 loại là năng lực chung (thoả mãn
đồng thời nhiều dạng hoạt động) và năng lực riêng (thích ứng với một hoạt
động nhất định). Trong đó năng lực riêng là năng lực chuyên môn, thường gắn
với từng chủ thể, ngành nghề, lĩnh vực nhất định như: năng lực lãnh đạo của
Đảng; năng lực quản lý của Nhà nước; năng lực giảng dạy, NCKH của giảng
viên, học viên. Tức là phân chia năng lực phải dựa theo ngành nghề, chức
danh, theo công việc của mỗi người, hoặc một tổ chức cụ thể.
Do đó, còn có thể hiểu: Năng lực nghiên cứu khoa học là tổng hợp
khả năng về trình độ tri thức, phương pháp tư duy và sự sáng tạo của chủ
thể sử dụng trong việc phát hiện và giải quyết có hiệu quả những vấn đề
nghiên cứu theo ngành nghề chuyên môn và cương vị, chức trách được đảm
nhiệm.
- Quan niệm về năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo
giảng viên KHXHVNV
Năng lực NCKH của học viên đào tạo giảng viên KHXHNV là một
năng lực cụ thể trong năng lực của học viên, được hình thành và phát triển
trong quá trình đào tạo tại nhà trường, gắn liền với sự hình thành, phát triển

năng lực sư phạm và các năng lực khác. Năng lực NCKH của học viên được
quy định bởi mô hình, mục tiêu đào tạo, chức trách, nhiệm vụ của người học,
thời gian đào tạo tại trường, điều kiện cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động
khoa học. Như vậy, năng lực NCKH của học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV được giới hạn khi họ đang học tập tại trường, theo đó yêu cầu về
năng lực NCKH phải phù hợp với đặc điểm, trình độ của đối tượng và yêu
cầu nhiệm vụ giáo dục đào tạo theo mô hình, mục tiêu đã xác định.


23

Vì vậy, có thể quan niệm: Năng lực NCKH của học viên đào tạo
giảng viên KHXHNV ở nhà trường quân đội là tổng hợp các yếu tố tri
thức, năng lực tư duy khoa học, kỹ năng nghiên cứu, phản ánh trình độ,
khả năng thực tế trong hoạt động NCKH, gắn với cương vị, chức trách,
nhiệm vụ trong thời gian học tập tại trường.
Như vậy, năng lực NCKH của học viên đào tạo giảng viên
KHXHNV ở nhà trường quân đội là sản phẩm tổng hợp, sự kết tinh của
cả tri thức (bao gồm cả tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm), tư duy
khoa học được rèn luyện hình thành những kỹ năng NCKH đảm bảo cho
học viên có đủ trình độ, khả năng thực tế tham gia vào các hình thức
hoạt động NCKH, hoàn thành nhiệm vụ NCKH của học viên, của đơn vị
giao cho. Sau khi ra trường, năng lực NCKH của học viên sẽ được được
bổ sung, hoàn thiện và phát triển gắn với cương vị người giảng viên
KHXHNV, người cán bộ KHXHNV trong quân đội.
* Những yếu tố cấu thành năng lực NCKH của học viên đào tạo
giảng viên KHXHNV
Một là, tri thức. Tri thức là cơ sở, nền tảng của năng lực, dựa trên
kho tàng tri thức của nhân loại mà loài người có năng lực để nhận thức và
cải tạo thế giới, phục vụ cho lợi ích của con người. Khẳng định vai trò của

tri thức C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “ Một dân tộc muốn đứng vững
trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” [28,
tr.589]. Tri thức tổng hợp gồm: Tri thức lý luận khoa học; tri thức thực
tiễn... mà người học viên đào tạo giảng viên KHXHNV tích luỹ được trong
cuộc sống; là nền tảng để hình thành, phát triển năng lực NCKH của họ. Vốn
tri thức hiểu biết toàn diện, ngày càng sâu sắc và được cập nhật, bổ sung
thường xuyên sẽ là tiền đề giúp cho học viên có khả năng thích nghi với mọi


24

điều kiện, hoàn cảnh và phát triển năng lực NCKH đáp ứng sự vận động,
phát triển không ngừng của thực tiễn.
Tri thức lý luận, đó là hệ thống những tri thức sâu sắc của người học
viên đào tạo giảng viên KHXHNV về bản chất, quy luật của các sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy, là cơ sở để họ nghiên cứu, khám phá
những tri thức mới. Tri thức lý luận, trước hết là chủ nghĩa Mác-Lênin là
nền tảng lý luận, thế giới quan, phương pháp luận...đồng thời còn bao gồm
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam;
các thành tựu nghiên cứu lý luận mác xít trên thế giới về KHXNHV. Trong
tri thức lý luận bao gồm thành tựu lý luận của các bộ môn KHXHNV,
KHXHNV quân sự. Trên cơ sở vốn tri thức đó mà người học viên vận dụng
vào thực tiễn NCKH, để thực hiện nghiệm vụ nghiên cứu đặt ra.
Tri thức thực tiễn, là những hiểu biết được hình thành trực tiếp trong
thực tiễn cuộc sống, lao động, học tập, công tác và trải nghiệm xã hội của
người học viên đào tạo giảng viên KHXHNV, đó là tri thức về các lĩnh vực
của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quân sự, an ninh,
đối ngoại, bao gồm cả các kinh nghiệm thực tiễn được khái quát, tổng kết
trên các lĩnh vực đó. Chính qua những hoạt động thực tiễn ấy làm cho họ
hiểu sâu sắc hơn về thế giới, xã hội, tình hình quân đội, là cơ sở làm nảy

sinh những sáng kiến và khởi nguồn của sự sáng tạo.
Hai là, năng lực tư duy khoa học
Năng lực tư duy khoa học là quá trình phản ánh hiện thực một cách gián
tiếp, khái quát, ở đó con người sử dụng ngôn ngữ và các hình thức thao tác tư
duy để phân tích, tổng hợp, xử lí các tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại.
Tư duy khoa học hướng tới sự nhận thức bản chất, các quy luật vận động phát
triển của sự vật, hiện tượng và tìm tòi khám phá tri thức.


25

Trong hoạt động NCKH, yêu cầu về tư duy khoa học đòi hỏi học viên
phải am hiểu quy luật phát triển của tư duy và sử dụng thành thạo phương pháp
thao tác tư duy để biến những nhận thức cảm tính thành tri thức lý luận, từng
bước tiếp cận chân lí, khắc phục những nhận thức lệch lạc; không ngừng phát
triển tư duy sáng tạo trong NCKH.
Năng lực tư duy khoa học ảnh hưởng quyết định đến năng lực NCKH của
người học viên đào tạo giảng viên KHXHNV. Nó giúp cho người học viên sử
dụng có hiệu quả kho tàng tri thức, sớm hình thành kỹ năng NCKH. Năng lực
tư duy khoa học được hình thành, phát triển trong quá trình học tập, bồi
dưỡng tại trường, quá trình trực tiếp tham gia vào hoạt động NCKH và sau
khi ra trường tiếp tục được củng cố, phát triển.
Ba là, kỹ năng nghiên cứu khoa học
Là khả năng vận dụng thành thạo những kiến thức, kinh nghiệm đã
được tích luỹ để tổ chức tiến hành có hiệu quả các hoạt động NCKH trong
thực tiễn, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ NCKH. Đây là một trong những yếu
tố quan trọng cấu thành năng lực NCKH và quyết định chất lượng hiệu quả
NCKH của học viên.
Kỹ năng phát hiện vấn đề nghiên cứu là yếu tố hết sức quan trọng cấu
thành năng lực NCKH của học viên đào tạo giảng viên KHXHVNV ở các nhà

trường quân đội, là khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng, trực giác, phán đoán
quan sát đối tượng nghiên cứu, là sản phẩm quan trọng, kết tinh tổng hợp của
tư duy khoa học, của nhãn quan chính trị đúng đắn và sự nhạy bén, sắc sảo
của người học viên đào tạo giảng viên KHXHVNV. Đây là những yếu tố hết
sức quan trọng trong hoạt động NCKH của học viên.
Kỹ năng lựa chọn và triển khai vấn đề nghiên cứu. Trước hết là lựa chọn
được chủ đề phù hợp với sở thích, trình độ và khả năng của bản thân sẽ bảo đảm
quá trình nghiên cứu đạt chất lượng, hiệu quả cao. Triển khai nghiên cứu là một
trong những kỹ năng có vai trò quan trọng góp phần quyết định chất lượng, hiệu


26

quả của cả quá trình NCKH. Vì vậy, đòi hỏi học viên phải nắm vững thứ tự các
bước cũng như cách thức triển khai nghiên cứu: từ việc xác định nội dung
nghiên cứu đến dự định điều tra, khảo sát và phương pháp tiến hành khảo sát.
Kỹ năng thu thập, xử lí thông tin, viết và trình bày một đề tài góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả NCKH. Việc thu thập, xử lí thông tin
giúp học viên có được cái nhìn tổng quát về thực trạng của vấn đề một cách
chính xác, có tính khái quát và tổng hợp cao, phục vụ làm sáng tỏ vấn đề
đang nghiên cứu. Kỹ năng viết, trình bày đề tài khoa học cũng hết sức quan
trọng, với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ viết là chủ yếu. Do đó, kỹ năng viết,
trình bày một đề tài khoa học theo bố cục rõ ràng, dễ hiểu làm nổi bật cái
mới của đề tài cũng hết sức quan trọng.
Kỹ năng công bố kết quả và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học
vào thực tế. Công bố kết quả nghiên cứu khoa học là trình bày, đăng tải các
sản phẩm nghiên cứu khoa học của học viên trên các tạp chí, hoặc ấn phẩm
khoa học. Công khai các kết quả đã nghiên cứu của tác giả là hình thức ra
mắt, giới thiệu những thành tựu khoa học mới đã tìm kiếm, phát hiện, đồng
thời khảng định quyền tác giả đối với công trình nghiên cứu của mình. Qua

đây giúp những người cùng lĩnh vực chuyên môn tham khảo, đồng thời có
thể lấy những kết quả đó vào vận dụng trong hoạt động thực tiễn, tránh sự
trùng lặp một vấn đề tối kị trong hoạt động NCKH.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “ Thực tiễn là cơ sở của nhận
thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của nhận thức, là tiêu chuẩn để
kiểm tra chân lý” [4, tr.264]. Một công trình khoa học chỉ có giá trị khi được áp
dụng vào để cải tạo hiện thực, được thực tiễn kiểm nghiệm và đánh giá... Thực tế
các đề tài, chuyên đề mà học viên đào tạo giảng viên KHXHVNV lựa chọn
nghiên cứu là những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn cuộc sống ở từng đơn vị, nội
dung đề cập tới các mặt hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo rèn


27

luyện học viên và các mảng hoạt động CTĐ,CTCT ở đơn vị. Do đó, sau khi
nghiệm thu các đơn vị trong nhà trường quân đội đưa vào ứng dụng một cách
chặt chẽ, nghiêm túc sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo bồi
dưỡng tay nghề hoạt động CTĐ,CTCT cho học viên ở các nhà trường quân đội.
Như vậy, cấu thành năng lực nghiên cứu khoa học của học viên đào tạo
giảng viên KHXHVNV bao gồm tổng hợp nhiều thành tố, trong đó những thành
tố cơ bản là tri thức tổng hợp; năng lực tư duy khoa học và kỹ năng trong thực
hành nghiên cứu.
1.1.3. Những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học
cho học viên đào tạo giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở nhà trường quân đội
hiện nay
* Quan niệm về bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo
giảng viên KHXHNV
Bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV là
yêu cầu khách quan trong quá trình đào tạo ở các nhà trường quân đội. Là hoạt
động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của các chủ thể hoạt động, nhằm nâng

cao nhận thức, bồi dưỡng kỹ năng, phương pháp NCKH cho học viên. Theo
hướng tiếp cận này có thể quan niệm:
Bồi dưỡng năng lực NCKH cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV ở nhà
trường quân đội là tổng thể các hoạt động của chủ thể tác động trực tiếp vào ý thức,
nhận thức nhằm nâng cao tri thức tổng hợp, năng lực tư duy khoa học, trang bị
phương pháp, rèn luyện tác phong nghiên cứu, hình thành phát triển kỹ năng NCKH
cho học viên đào tạo giảng viên KHXHNV, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ NCKH
theo mô hình, mục tiêu đào tạo trong thời gian đào tạo tại trường, góp phần thực hiện
tốt chức trách, nhiệm vụ người giảng viên, cán bộ khoa học sau khi ra trường.


×