Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ vấn đề lý LUẬN về NĂNG lực đấu TRANH tư TƯỞNG lý LUẬN CHO đội NGŨ GIẢNG VIÊN KHOA học xã hội NHÂN văn các NHÀ TRƯỜNG QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.85 KB, 140 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau sự đổ vỡ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu vào thập kỷ cuối cùng
của thế kỷ XX, CNXH hiện thực tạm lâm vào thoái trào, ảnh hưởng bất lợi cho
phong trào cách mạng thế giới. Công cuộc đổi mới của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã giành được nhiều thành tựu, song cũng đang phải vượt lên những thách
thức và nguy cơ to lớn. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động trong và ngoài
nước đang ra sức tấn công một cách tinh vi và hiểm độc vào cách mạng nước ta
hòng lật đổ chế độ XHCN, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, làm biến đổi xã hội ta
theo quỹ đạo của CNTB. Kinh tế thị trường và toàn cầu hoá kinh tế với tất cả những
mặt trái của nó đang làm cho cuộc đấu tranh ý thức hệ diễn ra hết sức quyết liệt ở
nước ta và trên thế giới. Chưa bao giờ cuộc ĐTTT-LL lại diễn ra phức tạp, gay gắt
như lúc này. Trong cuộc ĐTTT-LL để bảo vệ sự trong sáng CNM-LN và TTHCM,
giữ vững độc lập dân tộc và định hướng XHCN, vai trò lãnh đạo của Đảng đòi hỏi
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải giữ vững niềm tin khoa học đối với mục
tiêu, lý tưởng mà chúng ta đã chọn, đề cao cảnh giác cách mạng trước các luận điệu
thù địch, không bị mất phương hướng chính trị ở thời điểm bước ngoặt - điều mà
V.I.Lênin coi là nguy hiểm, tệ hại nhất, là một sự tự sát chính trị.
Muốn vậy, đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng - lý luận của Đảng, trong đó
một lực lượng rất quan trọng là các giảng viên KHXH ở các nhà trường trong và
ngoài quân đội phải không ngừng nâng cao năng lực ĐTTT-LL trong giảng dạy,
nghiên cứu khoa học và hoạt động chính trị - xã hội. Năng lực đó giúp họ đủ sức
bảo vệ học thuyết khoa học và cách mạng là CNM-LN và TTHCM - thế giới quan,
phương pháp luận, hệ tư tưởng của những người mác xít, cơ sở lý luận đem lại sự
giác ngộ và niềm tin khoa học về CNXH và chủ nghĩa cộng sản, nền tảng lý luận
của Đảng ta. Năng lực đó giúp họ đủ sức phê phán, vạch trần những luận điệu xuyên
tạc, phủ nhận CNM-LN, TTHCM và CNXH hiện thực của các thế lực thù địch.
Đồng thời, năng lực đó cũng giúp cho giảng viên KHXH trang bị cơ sở lý luận và
thực tiễn cho học viên để họ đủ sức tự phân tích, phê phán những nhận thức mơ hồ,



không đúng đắn, biết vạch ra tính chất phản động của kẻ thù, ngăn ngừa và loại bỏ
những ảnh hưởng tiêu cực, sự dao động, bấp bênh về tư tưởng- chính trị trong quân
đội. Đương nhiên, đối tượng của ĐTTT-LL trước hết và chủ yếu là các thế lực
chống độc lập dân tộc và CNXH. Còn làm rõ đúng, sai về nhận thức, lý luận, tư
tưởng ở các NTQĐ là thuộc phạm trù đấu tranh tư tưởng nội bộ, là thực hiện
phương pháp gắn “Xây” với “Chống” trong quá trình giáo dục- đào tạo. Trong tình
hình kẻ thù đang ráo riết đẩy mạnh "DBHB", ra sức chống phá ta trên mặt trận tư
tưởng- lý luận, âm mưu phi chính trị hoá quân đội, hòng tạo nên “tự diễn biến” nội
bộ, loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và làm biến chất quân đội ta
thì cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - lý luận càng gay gắt và phức tạp. Nó đòi
hỏi năng lực ĐTTT-LL của đội ngũ giảng viên KHXH ở các NTQĐ phải được nâng
cao tương ứng và toàn diện.
Năng lực ĐTTT-LL không chỉ là trình độ khoa học mà còn là bản lĩnh chính trị,
nhiệt tình và trí tuệ, không chỉ là lý luận mà còn là thực tiễn, kinh nghiệm, sự từng
trải, nhất là từng trải trong đấu tranh chính trị. Năng lực này không tách rời đạo đức,
lý tưởng, lẽ sống của người cách mạng, nó gắn liền với phương pháp, hành động sáng
tạo để đấu tranh có hiệu quả với các quan điểm sai trái. Lòng trung thành với mục tiêu
lý tưởng XHCN, công cuộc đổi mới, sự nghiệp bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng đòi hỏi
đội ngũ giảng viên KHXH quân đội và những người làm công tác tư tưởng, lý luận ở
nước ta những năng lực như thế. Thực tế cho thấy, giảng viên KHXH ở các NTQĐ có
những mặt mạnh rất cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực công tác, tính
kỷ luật và trách nhiệm cao. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới của giáo dục- đào tạo và
cuộc ĐTTT-LL hiện nay thì năng lực công tác nói chung và năng lực ĐTTT-LL nói
riêng của đội ngũ này còn nhiều non yếu và bất cập. Do đó, nâng cao năng lực ĐTTTLL cho giảng viên KHXH ở các NTQĐ vừa là vấn đề lý luận, thực tiễn cơ bản và cấp
thiết hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nhà kinh điển của CNM-LN và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết
liên quan đến đề tài đấu tranh tư tưởng, vai trò của đấu tranh tư tưởng trong xây
dựng đảng và trong đấu tranh cách mạng; về quan điểm, thái độ, nội dung... và



phương pháp đấu tranh tư tưởng; về những phẩm chất và năng lực của người cộng
sản trong đấu tranh tư tưởng; về cách thức tổ chức tiến hành đấu tranh tư tưởng v.v...
Đó là những quan điểm lý luận và phương pháp luận rất cơ bản có giá trị làm cơ sở
và định hướng cho quá trình nghiên cứu đề tài.
Đảng ta và các nhà khoa học đã bàn về ĐTTT-LL với nhiều góc tiếp cận và
cấp độ khác nhau liên quan đến đề tài. Những năm gần đây, có Nghị quyết 09 của
Bộ chính trị “Về những định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”, ngày
18-2-1995; “Chỉ thị về tăng cường đấu tranh chống các luận điệu sai trái và hoạt
động tán phát tài liệu chống Việt Nam”, ngày 4-1-2002; Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của
công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, ngày 18-3-2002... Một số công
trình khoa học có liên quan với đề tài như: "Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”- Luận án Phó tiến sĩ của Trần Ngọc
Tuệ, Học viện Chính trị Quân sự, 1996; “Đặc thù của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng
ở nước ta hiện nay và sự tác động của nó đến quân đội”- Luận án Phó tiến sĩ của
Lê Bỉnh, Học viện Chính trị Quân sự, 1996; “Nâng cao chất lượng giáo dục
chính trị tư tưởng trong quân đội trước yêu cầu của cuộc đấu tranh tư tưởng ở
nước ta hiện nay”- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Cần, Học viện Chính trị
Quân sự, 2001... "Mấy ý kiến về sắc thái cuộc đấu tranh chính trị- tư tưởng hiện
nay ở nước ta”- Bài viết trong cuốn sách CNXH tương lai của dân tộc, Nxb Quân
đội nhân dân, 2002, của Phó giáo sư Hồ Kiếm Việt;Các bài viết đăng trong cuốn
sách “Đổi mới vì độc lập dân tộc và CNXH”- Nxb Quân đội nhân dân, 1996 như:
“Về cuộc ĐTTT-LL hiện nay ở nước ta", "Quân đội và cuộc đấu tranh đánh bại
chiến lược DBHB mới” của Giáo sư Trần Xuân Trường; “Chống chủ nghĩa cơ
hội xét lại- một nhiệm vụ cấp bách của cuộc đấu tranh hệ tư tưởng hiện nay" của
Phó giáo sư Lê Hồng Quang; “Suy nghĩ về CNXH đổi mới - phê phán chủ nghĩa
xét lại cơ hội hữu khuynh và giáo điều bảo thủ” của Phó tiến sĩ Lê Quang; “Đa
nguyên chính trị - con đường thủ tiêu CNXH” của Giáo sư Lê Xuân Lựu…
Sách "Báo chí trong đấu tranh chống DBHB" do Phó giáo sư, Tiến sĩ Vũ Hiền và



Phó giáo sư, Tiến sĩ Trần Quang Nhiếp đồng chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội,
2000.
Nhìn chung, các tài liệu, Nghị quyết và công trình khoa học đó đã đề cập tới
nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến đề tài như: tính cấp thiết, bản chất, đặc điểm
và tính chất của cuộc ĐTTT-LL; đánh giá thực trạng ĐTTT-LL ở nước ta, xác định
phương hướng, nhiệm vụ và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả cuộc đâú
tranh này; xác định vai trò của quân đội trong cuộc ĐTTT-LL... với nhiều “lát cắt”
khác nhau. Song, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu có hệ thống, chuyên
sâu về Năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ nhân dân Việt
Nam hiện nay. Vì vậy, đề tài luận án là một công trình khoa học độc lập.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về năng lực
ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ nhân dân Việt Nam, từ đó, đề xuất
một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH
ở các NTQĐ hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Làm rõ thực chất và những nhân tố cấu thành năng lực ĐTTT-LL của giảng
viên KHXH ở các NTQĐ.
- Phân tích vai trò năng lực ĐTTT-LL và một số đặc điểm phát triển năng lực
đó ở đội ngũ giảng viên KHXH trong các NTQĐ.
- Đánh giá thực trạng và chỉ ra nguyên nhân thực trạng năng lực ĐTTT-LL
của giảng viên KHXH ở các NTQĐ hiện nay.
- Luận giải tính tất yếu khách quan và yêu cầu nâng cao năng lực ĐTTT-LL
của giảng viên KHXH ở các NTQĐ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực ĐTTT-LL của
giảng viên KHXH ở các NTQĐ hiện nay.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là năng lực ĐTTT-LL của giảng
viên KHXH ở các NTQĐ, trong đó chủ yếu là giảng viên các khoa học Mác - Lênin,

TTHCM, Lịch sử đảng và Công tác đảng, công tác chính trị. Khái niệm “các nhà
trường quân đội” dùng trong luận án này bao gồm các học viện, trường đại học đào


tạo sĩ quan quân đội...(không kể các nhà trường như: trường quân sự quân khu, quân
đoàn, tỉnh thành; trường cao đẳng, trung cấp, nghiệp vụ, chuyên môn kỹ thuật sơ cấp
v.v.). Thời gian chủ yếu trong những năm đổi mới đất nước từ 1986 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm của CNM-LN, TTHCM,
Đảng Cộng sản Việt Nam về năng lực, về công tác tư tưởng, lý luận, về năng lực
ĐTTT-LL của người cách mạng.
Luận án cũng dựa vào các văn kiện, nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung
ương, Bộ Quốc phòng về công tác nhà trường, về xây dựng đội ngũ cán bộ giảng
dạy ở các NTQĐ, nhất là giảng viên KHXH, về vai trò của giảng viên KHXH
trong ĐTTT-LL; tham khảo và kế thừa có chọn lọc các công trình khoa học trong
và ngoài nước có liên quan.
Cơ sở thực tiễn của luận án là hoạt động của giảng viên KHXH, trực tiếp
nhất là giáo dục- đào tạo, nghiên cứu khoa học và ĐTTT-LL; những báo cáo tổng
kết của các cơ quan chức năng về các vấn đề liên quan đến luận án; các kết quả
điều tra, khảo sát của tác giả luận án về hoạt động và những kinh nghiệm ĐTTTLL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ những năm qua; những đòi hỏi của thực
tiễn về nâng cao năng lực ĐTTT-LL của giảng viên KHXH đáp ứng với tình hình
mới.
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Tác giả chú trọng sử dụng các phương pháp nghiên
cứu: kết hợp logíc- lịch sử, phân tích, tổng hợp, thu thập tư liệu, điều tra xã hội
học, thống kê, so sánh và vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học liên
nghành, các khoa học kề cận khác.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận giải khái niệm, thực chất và những yếu tố cơ bản cấu thành năng lực
ĐTTT-LL của giảng viên KHXH ở các NTQĐ.

- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực ĐTTT-LL của
giảng viên KHXH ở các NTQĐ hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án


Luận án góp phần cung cấp cơ sở cho nhận thức sâu sắc quan điểm của Đảng
và quân đội ta về tính cấp thiết, yêu cầu, nhiệm vụ cuộc ĐTTT-LL hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc
bồi dưỡng, nâng cao năng lực ĐTTT-LL cho giảng viên KHXH.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về
những vấn đề có liên quan ở các NTQĐ.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
được kết cấu thành 3 chương (7 tiết).
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG LÝ LUẬN CỦA GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI Ở CÁC NHÀ
TRƯỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. Thực chất năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận của giảng viên khoa
học xã hội ở các nhà trường quân đội
1.1.1. Năng lực và năng lực đấu tranh tư tưởng - lý luận của giảng viên
khoa học xã hội ở các nhà trường quân đội
Khái niệm năng lực
Năng lực theo nghĩa thông thường là biểu hiện của lao động, nói lên

khả

năng của con người hoàn thành một công việc nào đó. Theo từ điển tiếng
Việt: Năng lực là: “1. khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó. 2. Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả
năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao.”[74,tr.565]. Tâm lý

học, đạo đức học đặt thuật ngữ năng lực trong quan hệ với thuật ngữ phẩm chất để
phản ánh những thuộc tính của nhân cách, trong đó, năng lực đồng nghĩa với “tài”
(thuật ngữ sử dụng đi đôi với đức), là khả năng nhận thức những hoạt động nhất
định và thực hiện có hiệu quả những hoạt động đó. Như vây, năng lực bao giờ
cũng là của một chủ thể cụ thể: một cộng đồng, một tổ chức hay một con người. Về
mỗi con người mà xét, hiếm có hoặc khó có con người có năng lực toàn diện với ý
nghĩa hiểu biết sâu sắc “bách khoa” và tác động có hiệu quả cải biến mọi đối tượng


tự nhiên, xã hội và tư duy. Hơn nữa, năng lực còn được phân thành các cấp độ
(thấp, cao) khác nhau như: năng lực thông thường, tài năng và thiên tài. Năng lực
thông thường có tính phổ biến ở mỗi người lao động trong từng lĩnh vực, ngành,
nghề. Tài năng được xếp vào năng lực vượt trội, có ở một số người, đặc biệt, mà
cao nhất là thiên tài, có ở rất ít người. Ngoài ra khi nói người có năng lực hạn chế,
hoặc không có năng lực là nói người đó kém hoặc không có khả năng hoàn thành
được công việc phụ trách. Theo quan điểm triết học mác xít, luận án này bàn về
năng lực chung của con người từ mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể con người
với khách thể đối tượng của hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người; trên
cơ sở đó, vạch ra bản chất, vai trò và đặc trưng của năng lực con người. Với cách
tiếp cận này, năng lực được hiểu như là khả năng, điều kiện chủ quan bên trong
để con người thực hiện có hiệu quả hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới nhằm
phục vụ cuộc sống của mình. Mỗi bước tiến của con người trong quá trình vươn
lên làm chủ tự nhiên, cải tạo xã hội và hoàn thiện nhân cách là mỗi nấc thang
đánh dấu sự phát triển của năng lực “Người”.
Đương nhiên, để hành động cải tạo thế giới và cải tạo bản thân, con người
phải nhận thức. Muốn nhận thức được con người cũng phải có năng lực. Khi Mác
viết: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song
vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”[46, tr. 12] là nhằm vạch ra vai trò của thực tiễn để
chống chủ nghĩa duy tâm các loại, chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực
của con người, không thừa nhận hoặc coi nhẹ vai trò của thực tiễn, chứ không phải

không coi trọng nhận thức (nhất là nhận thức lý luận), bởi hành động có hiệu quả
đến mức nào trước hết phụ thuộc vào mức độ đúng đắn của nhận thức. Nhận thức
không phải do lực lượng siêu nhiên phú cho, cũng không phải bẩm sinh đã có sẵn,
mà từ cơ sở là thực tiễn. Nhưng không phải cứ có thực tiễn thì có nhận thức đúng,
bởi nhận thức có quy luật riêng buộc con người phải tuân thủ nếu muốn tránh sai
lầm. Đó là phép biện chứng của quá trình nhận thức, là lôgíc biện chứng. Năng lực
nhận thức khoa học của con người cao hay thấp phụ thuộc vào khả năng tư duy
hợp quy luật đó. Hơn nữa, nhận thức là nhằm mục đích thực tiễn. Hiệu quả thực
tiễn như thế nào là phụ thuộc phần lớn vào trình độ nhận thức, nhất là trình độ lý


luận. Với ý nghĩa đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi lên trang đầu cuốn “Đường
cách mệnh” câu nói của V.I.Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có
cách mệnh vận động” [55, tr. 259] .
Mục đích của con người không chỉ nhằm nhận thức, giải thích thế giới, mà
quan trọng hơn là cải tạo thế giới. Do đó, họ còn phải có khả năng hành động biến
nhận thức thành hiện thực, đúng như Mác viết: “nói chung, tư tưởng căn bản
không thể thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những
con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [45, tr. 181]. Trong thực tiễn, con người
theo mục đích xác định mà vạch ra kế hoạch cho mỗi hoạt động của mình, huy
động mọi khả năng hiện có và sẽ tạo ra, sử dụng các công cụ, phương tiện, tiến
hành cải tạo thế giới theo đúng quy luật khách quan. Như vậy, năng lực của con
người phải bao hàm cả khả năng nhận thức và khả năng hành động để cải biến hiện
thực. Nhưng để quá trình này thu được kết quả cao, con người phải sáng tạo,
không nhận thức và hành động một cách thụ động, máy móc. Đặc trưng sáng tạo là
dấu hiệu tiêu biểu để nhận biết năng lực. Nói tới năng lực là nói tới năng lực
người, Mác nhấn mạnh “Những lực lượng bản chất người” của con người. Năng
lực gắn với lao động, hoạt động, nỗ lực của chủ thể và chi phối của môi trường,
hoàn cảnh. Ngoài ra còn gắn với vai trò của yếu tố di truyền.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình, thuyết sinh lý thường đồng nhất năng lực người

với bản năng, với cái vô thức bất biến của nó, đồng nhất tính chỉnh thể của năng
lực với một yếu tố cấu thành nó. Chủ nghĩa duy tâm tôn giáo đồng nhất năng lực
với tinh thần, thượng đế hoá năng lực người. Triết học mác xít coi năng lực của
con người là khả năng thể hiện mình trong bối cảnh nhất địnH. là thuộc tính bản
chất của con người. C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu

sức lao động hay năng lực lao

động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể,
trong một con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”[49,tr.251]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng:
“Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do
công tác, do luyện tập mà có...”[57, tr. 280]. Như vậy, năng lực người và sự phát


triển của nó luôn gắn liền với hoạt động sống của con người và được biểu hiện cụ
thể trong các hoạt động đó. Không có năng lực tách rời hoạt động thực tiễn.
Triết học Mác- Lênin khái quát, năng lực là sức mạnh của con người trong
hoạt động cải tạo hiện thực, mang tính cụ thể và phong phú. Có thể phân năng lực
thành hai dạng chính là năng lực cải biến tự nhiên và năng lực cải biến xã hội.
Năng lực cải biến tự nhiên là những khả năng của con người để sử dụng và chinh
phục tự nhiên phục vụ cho mình. Năng lực cải biến xã hội là năng lực thúc đẩy xã
hội phát triển theo tiến bộ lịch sử, từ thấp lên cao. Giữa năng lực cải biến tự nhiên
và năng lực cải biến xã hội có mối quan hệ biện chứng, không tách rời nhau. Đã có
thời kỳ con người mắc sai lầm trong giải quyết mối quan hệ đó và đã phải trả giá.
Ngày nay, con người đang phải xem lại thái độ của chính mình trong ứng xử với tự
nhiên, không còn là chinh phục tự nhiên theo kiểu chỉ khai thác, chiếm đoạt nữa
mà là hài hoà, đồng thuận với tự nhiên, bảo vệ môi trường, cái “thân thể vô cơ”
của mình như Mác nói.
Nhưng tính phức tạp của xã hội là ở chỗ lực cản đối với xây dựng xã hội mới,

cải tạo xã hội cũ cũng chính là con người. Đó là các lực lượng lỗi thời, bảo thủ.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp bóc lột, áp bức thống trị lạc hậu là lực cản tiến
bộ xã hội trên các lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hoá xã
hội...). Do đó, lực lượng tiến bộ để thúc đẩy lịch sử phát triển chẳng những phải có
năng lực xây dựng xã hội mới mà còn phải có năng lực chống lại sự chống phá của
các thế lực bảo thủ, lạc hậu, phản cách mạng.
Do hoạt động thực tiễn, năng lực con người rất phong phú, sống động nên có
thể xem năng lực trong mối quan hệ với tư cách và đạo đức, gắn với các mối quan
hệ cụ thể như với công việc, với con người và với chính mình. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói về tư cách người công an cách mệnh:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tuỵ.


Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo [58, tr. 406].
Người còn nhắc lại lời dạy của V.I.Lênin:
Đối với nhân dân, phải yêu kính quần chúng, gần gũi quần chúng, tin
tưởng lực lượng vĩ đại và đầu óc thông minh của quần chúng, học hỏi quần
chúng...để đoàn kết và lãnh đạo quần chúng.
Đối với kẻ địch, ...thì phải kiên quyết, dũng cảm chống lại, nhất định
không nhượng bộ, không tha thứ.
Đối với công việc, phải thấy trước, lo trước, tính trước. Phải cân nhắc
kỹ những điều thuận lợi và khó khăn, để kiên quyết vượt qua khó khăn... Bất
kỳ việc to, việc nhỏ đều phải rất cẩn thận, không hấp tấp, không rụt rè. Bại
không nản, thắng không kiêu. Tuyệt đối tránh chủ quan, nông nổi... [62, tr. 3].
Trong hoạt động thực tiễn, con người đã thể hiện cả sức mạnh vật chất (thể
chất, sức lực) và tinh thần (cảm xúc, ý chí, trí tuệ...). Các yếu tố vật chất, tinh thần

đó không tách biệt, cô lập với nhau mà quan hệ biện chứng quy định sức mạnh của
con người. Châm ngôn Phương Tây có câu "một tinh thần lành mạnh trong một
thân thể cường tráng” là phản ánh sức mạnh nội tại đó của con người. Con người
vận dụng tổng hợp các sức mạnh cả vật chất và tinh thần, tạo thành năng lực hoàn
chỉnh để hoạt động thực tiễn có hiệu quả; đồng thời qua đó, năng lực luôn được bổ
sung, phát triển ngày càng hoàn thiện. Đó là đặc trưng bản chất của năng lực con
người (chủ thể). Con người với tư cách là cộng đồng người trong quan hệ với giới
tự nhiên và tồn tại xã hội. Trong hiện thực, chủ thể con người đó có thể là một cá
nhân, một nhóm, một tổ chức, một giai cấp, một dân tộc hoặc cả loài người.
Ở các chủ thể này, năng lực nói trên không phải thuần tuý được tạo nên một
cách biệt lập ở mỗi con người, cũng như mỗi tập thể người, tách rời với người
khác, tập thể khác. Trái lại, mỗi người, mỗi tập thể người tiếp thu kiến thức và kinh
nghiệm của người khác, của tập thể khác để tăng cường sức mạnh của mình về
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Năng lực là sản phẩm của quá trình phát
triển xã hội - lịch sử người, chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con
đường giáo dục- đào tạo và tập nhiễm xã hội. Hơn nữa, con người trong nhận thức
và hành động đã rất sáng tạo, biết chế tạo và sử dụng các công cụ, phương tiện
ngày càng phát triển: từ những mảnh tước đến những chiếc rìu ghè đẽo bằng đá; từ


chiếc cối xay gió, những động cơ hơi nước, điện lực đến điều khiển tự động; từ
cung nỏ, mũi lao, lưỡi kiếm đến tên lửa, vũ khí tinh khôn. C.Mác đã nói một cách
hình tượng là các phương tiện, công cụ đó tựa như kéo dài các giác quan của con
người trong nhận thức và cải biến hoàn cảnh sống. Vì thế, năng lực của cá nhân
bao giờ cũng có tính cá thể và tính xã hội. Năng lực cá nhân mang tính hữu hạn
còn năng lực xã hôi mang tính vô hạn.
Năng lực tồn tại dưới hai dạng chính: dạng tiềm năng (tích luỹ) và dạng hiện
thực (động năng). Dạng tiềm năng bao gồm hệ thống những yếu tố chủ quan của
chủ thể như: Tố chất, tâm sinh lý, tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, quan
điểm, lập trường, tình cảm, ý chí... mà chủ thể tích luỹ được. Dạng hiện thực là

tổng hợp những yếu tố tiềm năng được huy động cho hoạt động của chủ thể. Dạng
này phụ thuộc trực tiếp vào dạng tiềm năng. Dạng tiềm năng càng phong phú, đầy
đủ, chất lượng cao thì càng có điều kiện huy động cho hoạt động thực tiễn có hiệu
quả. Tuy nhiên, không phải chủ thể nào có tiềm năng tốt thì đương nhiên hoạt động
thực tiễn tốt. Năng lực ở dạng hiện thực tốt hay không còn phụ thuộc vào những
điều kiện chủ quan và khách quan khác. Nếu chủ thể có nhiều “tiềm năng” nhưng
không hành động hoặc hành động trái quy luật thì không cải biến được hiện thực,
như thế cũng ngang với không có năng lực. Do đó, dạng hoạt động thực tế quyết
định chất lượng hoạt động của chủ thể, đồng thời có tác dụng bổ sung, hoàn thiện
dạng tiềm năng. Sự tác động qua lại đó là quá trình nâng dần cấp độ phát triển của
năng lực người. Cụ thể hoá năng lực tương ứng với các dạng hoạt động phong phú
của con người trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... mà có năng lực
kinh tế, năng lực chính trị, năng lực văn hoá, năng lực ĐTTT-LL v.v.
Con người khác con vật ở chỗ có ý thức, có nhân tính. Do đó, năng lực gắn với
bản chất “Người” của con người. Trình độ “Người” càng cao thì khả năng nhận thức
và hành động của họ càng lớn. Suy rộng ra, năng lực không đứng độc lập mà đi liền
với phẩm chất trong cấu trúc nhân cách như cách nói của Hồ Chí Minh: Đức- Tài,
Hồng- Chuyên, Chính trị (là linh hồn)- Chuyên môn (là thể xác)... Năng lực phải thể
hiện qua hành động, đo bằng hiệu quả, phát triển thành phương pháp - trình độ - nhu
cầu sáng tạo, dẫn tới năng lực văn hoá.


Tóm lại, năng lực là tổng hoà các yếu tố vật chất và tinh thần tạo cho con
người (cộng đồng, cá nhân) khả năng nhận thức và hành động trong cải biến hoàn
cảnh sống (tự nhiên và xã hội) của mình.
Năng lực ĐTTT-LL
Trước khi làm rõ Năng lực ĐTTT-LL, cần bàn về khái niệm ĐTTT-LL.
Trong Từ điển Chính trị vắn tắt, đấu tranh tư tưởng là một trong những
hình thức đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Giai cấp
công nhân vũ trang bằng CNM-LN chống mọi biểu hiện của hệ tư tưởng tư sản.

Trong nội bộ phong trào công nhân: biểu hiện giữa CNM-LN với sự xuyên tạc
hữu khuynh, tả khuynh CNM-LN, tức là chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại...
[100, tr. 121]
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, đấu tranh tư tưởng là: Đấu tranh trên lĩnh
vực hình thái ý thức; một trong những hình thức đấu tranh giai cấp quan trọng...
Bất cứ lúc nào, nhất là trong điều kiện diễn ra cuộc đấu tranh giữa CNXH và
CNTB trên phạm vi toàn thế giới, các chính đảng vô sản cầm quyền tại các nước
XHCN, cũng như các đảng cộng sản và công nhân trên toàn cầu đều không thể coi
nhẹ đấu tranh tư tưởng, công tác lý luận [101, tr. 763].
Lý luận mác xít chỉ rõ, trong xã hội có giai cấp tất yếu có đấu tranh giai cấp,
trong đó có đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh văn hoá... Đấu tranh tư
tưởng diễn ra suốt quá trình đấu tranh giai cấp, đi cùng đấu tranh kinh tế, chính trị,
văn hoá... Dưới chủ nghiã tư bản, cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra quyết liệt, phức
tạp. Đấu tranh ý thức hệ là đấu tranh tư tưởng, luôn luôn gắn liền với đấu tranh lý
luận. Đảng ta nêu thuật ngữ “tư tưởng, lý luận” là cụ thể hoá thuật ngữ hệ tư tưởng,
nhằm chỉ ra cuộc đấu tranh tư tưởng ở nước ta bao gồm đấu tranh trên các quan
điểm, học thuyết lý luận.
Để chống lại các thế lực phản động, bảo thủ, trước hết phải chống lại chúng
trên mặt trận tư tưởng - lý luận. Giai cấp tư sản đã từng làm cuộc cách mạng văn
hoá (Thời kỳ phục hưng ở Châu âu), thực chất là đấu tranh tư tưởng để chuẩn bị
tiền đề cho cuộc cách mạng chính trị, giành chính quyền, lật đổ chế độ phong kiến.


C.Mác và Ph.Ăngghen đã tự giải phóng mình khỏi hệ tư tưởng tư sản, xây
dựng hệ tư tưởng độc lập cho giai cấp công nhân và đấu tranh chống hệ tư tưởng tư
sản ảnh hưởng trong phong trào công nhân. V.I.Lênin còn nhấn mạnh: “Không có
gì quan trọng bằng... bảo vệ những cơ sở lý luận và những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác đang bị những phe đối lập nhất xuyên tạc bằng cách gieo rắc ảnh
hưởng tư sản vào “những bạn đường” khác nhau của chủ nghĩa Mác”[36, tr. 104].
Cuộc ĐTTT-LL mà Đảng và nhân dân ta đang tiến hành là một hình thức của

đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực hình thái ý thức xã hội chống lại những quan điểm,
tư tưởng tư sản và các quan điểm lạc hậu, phản khoa học, phản động, nhằm bảo vệ
CNM-LN, TTHCM và đường lối, quan điểm của Đảng. Quá trình đấu tranh đó vừa
chống kẻ thù giai cấp và dân tộc, trong nước và ngoài nước với các lý luận nguỵ
biện, mị dân, chia rẽ nhân dân với Đảng ; đồng thời cũng khắc phục tư tưởng tiêu
cực nảy sinh trong Đảng như chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng. Kết quả
cuộc đấu tranh này đúng như đánh giá của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh: “Cuộc đấu
tranh trên mặt trận lý luận chống lại các quan điểm sai trái, thù địch đã góp phần bảo
vệ sự lãnh đạo của Đảng, chế độ và đường lối đổi mới, giữ vững định hướng XHCN,
làm thất bại một bước âm mưu DBHB của các thế lực thù địch” [52, tr.1]
Trong xã hội ta, năng lực ĐTTT-LL tồn tại và phát triển ở các thành viên với
tính cách là chủ thể trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào hoạt động ĐTTT-LL. Chủ
thể ĐTTT-LL đó là toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Tuy nhiên, họ có sự khác
nhau về trình độ do các yếu tố khách quan và chủ quan chi phối. Năng lực ĐTTTLL của cán bộ, đảng viên, nòng cốt là đội ngũ cán bộ công tác tư tưởng- lý luận
trực tiếp quyết định hiệu quả cuộc ĐTTT-LL đó.
Từ những phân tích trên, có thể quan niệm: Năng lực ĐTTT-LL của chủ thể
là tổng hoà những khả năng phát hiện, phê phán, ngăn chặn và khắc phục ảnh
hưởng của các quan điểm, tư tưởng phản động và sai trái; thực hiện có hiệu
quả việc bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo CNM-LN, TTHCM, quan điểm,
đường lối của Đảng, tạo ra sự thống nhất ý chí và hành động của cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta.


Hoạt động ĐTTT-LL đòi hỏi chủ thể phải có năng lực tương ứng, phù hợp
với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đồng thời qua cuộc ĐTTTLL, năng lực của chủ thể không ngừng phát triển.
Năng lực ĐTTT-LL của chủ thể phụ thuộc vào các yếu tố: tính đảng, tính
khoa học và tính nghệ thuật được kết tinh trong nó và thể hiện ra trong cuộc đấu
tranh đó.
Tính đảng là một trong những đặc trưng cơ bản của năng lực ĐTTT-LL. Nó
thể hiện ở sự kiên định, ở tinh thần kiên quyết tiến công đánh bại các quan điểm

sai trái.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định:
“Những tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của
giai cấp thống trị” [47, tr. 625], bất cứ quan điểm lý luận nào, một học thuyết nào
cũng đều mang dấu ấn của giai cấp, phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định (trong
xã hội có giai cấp). Khi xã hội loài người phát triển đến giai đoạn TBCN, cuộc đấu
tranh giai cấp trở lên quyết liệt nhất. Giai cấp tư sản dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để
bảo vệ cho lợi ích của mình, duy trì và bảo vệ chế độ tư hữu - nguồn gốc nảy sinh áp
bức, bóc lột. Hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đóng vai trò chủ đạo, chi phối toàn bộ tư
tưởng xã hội, luôn bênh vực, bảo vệ chế độ tư bản, công kích quyết liệt vào các tư
tưởng đối địch. Giai cấp công nhân phát triển thành một lực lượng tiên tiến, có hệ tư
tưởng độc lập, đứng lên tập hợp tất cả các giai tầng bị áp bức, bóc lột, đấu tranh nhằm
lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và chế độ TBCN, xoá bỏ mọi nguồn gốc nảy
sinh chế độ người bóc lột người. Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đánh dấu bằng
sự ra đời của chủ nghĩa Mác đã trở thành học thuyết soi đường cho cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại giai cấp tư sản. Vì thế, nó vấp phải
sự chống phá quyết liệt của hệ tư tưởng và giai cấp tư sản, nhất là giới lý luận gia tư
sản. Đúng như V.I.Lênin nhận xét, học thuyết của Mác đã gây ra sự cừu địch mạnh
nhất và lòng căm thù trong toàn thế giới khoa học tư sản, giới khoa học này xem chủ
nghĩa Mác như một môn phái có hại. Thực tiễn lịch sử cho thấy, trong một xã hội có
giai cấp và đấu tranh giai cấp thì không thể có một KHXH “vô tư”. Toàn bộ khoa học
chính trị, xã hội của giai cấp tư sản, của các thế lực phản động đều bênh vực, bằng
cách này hay cách khác cho chế độ nô lệ làm thuê, chế độ áp bức bóc lột; còn Chủ


nghĩa Mác thì quyết liệt tuyên chiến với chế độ nô lệ, chế độ áp bức bóc lột ấy.
Trong xã hội có giai cấp, không thể có hệ tư tưởng phi giai cấp; đòi hỏi KHXH “phi
tính đảng” là sự “khờ dại, ngây thơ”. V.I.Lênin còn nói rõ hơn, chỉ có hệ tư tưởng tư
sản hoặc hệ tư tưởng XHCN, không có hệ tư tưởng trung gian, “thứ ba” nào cả. Mọi
sự coi nhẹ tư tưởng XHCN đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản [35, tr. 45,

50].
Tính đảng của CNM-LN, của KHXH mác xít thể hiện ý chí, nguyện vọng và
bảo vệ quyền lợi cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tính đảng đó hoàn
toàn đối lập với tính đảng trong các KHXH tư sản. Tính đảng khác nhau đó phản
ánh lợi ích của hai giai cấp cơ bản có lợi ích, địa vị khác nhau, hoàn toàn đối lập
nhau; giữa một bên là giai cấp, tầng lớp bị áp bức, bóc lột, với bên kia là giai cấp
thống trị, bóc lột. Tuy vậy, khác với tính đảng tư sản, tính đảng của KHXH của
giai cấp công nhân, đặc biệt là CNM-LN thống nhất với tính khách quan khoa học,
biết vận dụng, kế thừa và phát triển những thành tựu khoa học tiến bộ của nhân
loại, những tinh hoa văn hoá mà loài người đã tạo ra, ngày nay, tiếp tục tiếp thu
những thành tựu khoa học của các học giả tư sản. Chủ nghĩa Mác ra đời trên cơ sở
thừa kế trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong
kinh tế chính trị và trong CNXH không tưởng. TTHCM là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo CNM-LN vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân
loại… Chính điều đó làm cho KHXH của giai cấp công nhân, nhất là CNM-LN,
TTHCM vượt lên, trở thành những khoa học đúng đắn, đầy đủ và cách mạng nhất.
Do vậy, trong khi giai cấp tư sản che giấu tính đảng của hệ tư tưởng tư sản thì các
Đảng Cộng sản công khai tính đảng của hệ tư tưởng của mình. Đảng Cộng sản
Việt Nam công khai tính đảng đó, đòi hỏi đảng viên kiên định CNM-LN và
TTHCM, đấu tranh không khoan nhượng với hệ tư tưởng tư sản, các khuynh
hướng cơ hội hữu khuynh và tả khuynh.
Tính chiến đấu trên mặt trận tư tưởng - lý luận là biểu hiện tính đảng trong
năng lực ĐTTT-LL của người cộng sản. Tính chiến đấu trong năng lực ĐTTT-LL
đòi hỏi chủ thể phải đấu tranh bền bỉ, kiên quyết, không khoan nhượng chống


những tư tưởng thù địch, để bảo vệ sự trong sáng của CNM-LN, TTHCM, bảo vệ
đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản. Tính chiến đấu là một yêu cầu cơ bản,
cốt lõi của hoạt động ĐTTT-LL, đồng thời là một trong những chuẩn mực đánh giá

chất lượng và hiệu quả ĐTTT-LL của chủ thể, là thước đo trình độ năng lực
ĐTTT-LL.
Như vậy, tính đảng là một yêu cầu đặc biệt quan trọng trong năng lực ĐTTTLL của chủ thể, và được thể hiện tập trung ở ý thức, quan điểm, lập trường chính
trị tiến bộ, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, hướng tới sự phát triển tốt đẹp hơn,
cao hơn, hoàn thiện hơn, vì con người và vì xã hội. Bồi dưỡng tính đảng phải là
một nội dung vô cùng quan trọng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, giảng viên
KHXH và hoạt động ĐTTT-LL. Cho nên, điểm quyết định để có năng lực ĐTTTLL là phải có tính đảng.
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL được thể hiện ở chiều sâu tri thức
khoa học và phương pháp lôgíc chặt chẽ. Năng lực ĐTTT-LL đó dựa trên cơ sở
CNM-LN, là học thuyết mang bản chất khoa học và cách mạng. Thế giới quan,
phương pháp luận mác xít đòi hỏi mọi vấn đề phải được giải quyết trên cơ sở tôn
trọng khách quan, bảo đảm tính lịch sử, cụ thể với quan điểm biện chứng; phù hợp
với quy luật vận động, phát triển của hiện thực xã hội và thời đại; vận dụng đúng
đắn và sáng tạo các quy luật; bảo đảm tính khoa học và nghệ thuật trong tuyên
truyền, luận chứng khoa học và thuyết phục để quần chúng hiểu và hành động theo
lý luận Mác- Lênin; biết huy động những kiến thức các khoa học khác (tâm lý, sư
phạm...) vào hoạt động ĐTTT-LL v. v.
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL thể hiện trong sử dụng hệ thống kiến
thức đã được kiểm chứng (chân lý), bằng cả lý luận và thực tiễn; tạo sự tin cậy về
khoa học và làm tăng tính thuyết phục trong việc bảo vệ CNM-LN, TTHCM, quan
điểm, đường lối của Đảng; vạch trần và đánh bại các quan điểm sai trái, phản
động. Điều đó có nghĩa là trong quá trình ĐTTT-LL phải sử dụng những kiến thức
khoa học, quan điểm chính thống của Đảng để lý giải hoặc phân tích các sự kiện và
hiện tượng của đời sống xã hội.


Đồng thời, tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL đòi hỏi phải quán triệt quan
điểm lịch sử cụ thể, quan điểm biện chứng để xem xét, đánh giá các vấn đề ĐTTTLL. Nghĩa là chủ thể khi phân tích, đánh giá bất cứ một vấn đề cụ thể nào phải đặt
nó trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định; chỉ rõ quá trình vận
động, biến đổi và phát triển của nó; tìm ra bản chất và phải vạch rõ con đường,

cách thức giải quyết phù hợp, đạt kết quả cao. Để bảo vệ và phát triển CNM-LN
trong bối cảnh mới, chúng ta cần khẳng định tính cách mạng, khoa học của lý luận
mác xít, những giá trị đích thực, căn bản, mang tính định hướng dẫn đường của
CNM-LN; chỉ rõ những nhận thức và vận dụng lệch lạc, sai lầm CNM-LN góp
phần làm nảy sinh khủng hoảng CNXH hiện thực; sự vận dụng sáng tạo CNM-LN
trong thời đại hiện nay; những tri thức mới của thời đại cần tiếp tục bổ sung, phát
triển CNM-LN. Làm được điều đó là “sự hồi sinh và phát triển ngọn đuốc cách
mạng và sáng tạo của Mác, Ănghen, Lênin trong thời đại mới, vừa kiên trì những
tư tưởng bất diệt của CNM-LN, vừa không rơi vào bảo thủ, giáo điều hoặc phản
bội nó”[6, tr. 6].
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL có nội dung phản ánh đúng đắn hiện
thực khách quan. Cho nên, chủ thể của nó phải hết sức coi trọng việc phát hiện,
nhận thức sâu sắc những quy luật vận động, phát triển của thế giới khách quan, đặc
biệt trong việc vận dụng các quy luật ấy. Bảo đảm cung cấp căn cứ khoa học, làm
cho mọi người hiểu được các quy luật vận động và phát triển của xã hội; thấy được
tính đúng đắn của CNM-LN, TTHCM và đường lối của Đảng, con đường đi lên
CNXH của đất nước; chỉ rõ tính chất sai lầm, phản khoa học, phản động của các
quan điểm phi vô sản. Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL càng cao thì càng
giác ngộ, phát huy cao độ tính tự giác của quần chúng, vì thế càng có khả năng
đánh bại các quan điểm sai trái, bảo vệ và phát triển CNM-LN, TTHCM, đường lối
của Đảng; phục vụ tốt sự nghiệp giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động.
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL cũng thể hiện ở sự xác thực. Sự xác
thực là một tiêu chuẩn quan trọng của hoạt động ĐTTT-LL, tuyên truyền, thuyết
phục quần chúng. Trong đấu tranh với các quan điểm sai trái phản động, những


người Cộng sản phải nói lên sự thật, phải phân tích sâu sắc, chỉ rõ đúng sai trong
các quan điểm đó một cách khách quan. Đồng thời cũng phải dũng cảm nhìn
thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, chỉ cho nhân dân những giá trị và những

khiếm khuyết cần bổ sung của lý luận; những thuận lợi và khó khăn, những thành
công và thất bại, những ưu điểm và thiếu sót của sự nghiệp cách mạng; khắc phục
thói “tô hồng” làm cho quần chúng say sưa với thành tích, thắng lợi mà không
thấy hết khó khăn, khuyết điểm; mặt khác, kiên quyết chống lại hiện tượng “bôi
đen”, khuyếch trương quá mức sai lầm, khuyết điểm, khó khăn tạm thời mà
không thấy hoặc phủ nhận thành tích thắng lợi, gây hoang mang, dao động cho
quần chúng. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: “…giai cấp vô sản cần biết sự thật, và
chẳng có gì tai hại hơn cho sự nghiệp của họ bằng những lời dối trá có vẻ đẹp đẽ
và êm tai của bọn tiểu tư sản”[37, tr. 112].
Tính khoa học của năng lực ĐTTT-LL còn đòi hỏi chủ thể phải nghiên cứu
đặc điểm của đối tượng tiếp nhận tuyên truyền, nắm vững quy luật của quá trình
nhận thức, sử dụng các hình thức, phương pháp thích hợp, nhằm giữ vững trận địa
chính trị - tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta; ngăn chặn, hạn chế và
đi đến loại bỏ tác hại của các quan điểm sai trái. Tiến hành hoạt động ĐTTT-LL
một cách khoa học cần phải vận dụng những thành tựu mới của khoa học tâm lý,
khoa học sư phạm, tổng kết kinh nghiệm ĐTTT-LL của Đảng, tiếp thu nghiêm túc
những bài học về ĐTTT-LL của các Đảng Cộng sản anh em, học hỏi các tấm
gương ĐTTT-LL của các lãnh tụ cách mạng, tạo cơ sở khoa học vững chắc cho
phát triển năng lực ĐTTT-LL. Toàn bộ việc luận giải, phê phán các quan điểm sai
trái, phản động phải bảo đảm sự lôgíc chặt chẽ, không mâu thuẫn và dựa trên
chứng cứ khoa học, không bao giờ được áp đặt.
Năng lực ĐTTT-LL mang tính nghệ thuật sâu sắc. Điều đó thể hiện trong các
hoạt động của chủ thể, khi họ sử dụng ngôn ngữ, hình thức, phương pháp đấu
tranh; thực hiện các giao tiếp, ứng xử, tổ chức lực lượng... Những công việc đó
ngoài yêu cầu về tính đảng, tính khoa học còn phải có tính nghệ thuật, gây thiện
cảm, đồng tình, ủng hộ với chủ thể, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
ĐTTT-LL.


Tính nghệ thuật của năng lực ĐTTT-LL đặt ra yêu cầu rất cao cho chủ thể.

Bởi vì đối tượng đấu tranh là những quan điểm tư tưởng sai trái và những lực
lượng đại biểu của các quan điểm đó, là công tác tuyên truyền, giác ngộ đối với
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Đối tượng đó thể hiện sự phát triển cao
về mọi mặt, đặc biệt là trình độ nhận thức và tư duy lý luận; là sự phức tạp về nội
dung phản ánh và hoạt động… Chủ thể vừa phải đứng vững trên lập trường giai
cấp, bảo đảm tính khoa học cao, vừa phải đạt đến trình độ nhuần nhuyễn, hấp dẫn
trong lựa chọn và thể hiện nội dung, phương pháp đấu tranh. Đó là nghệ thuật vận
dụng tổng hợp các đơn vị kiến thức và sắp xếp chúng trong ĐTTT-LL, làm toát lên
bản chất vấn đề, thu hút sự đồng tình với chủ thể. Để ĐTTT-LL, chủ thể cần sử
dụng các kiến thức khoa học, các bài học thực tiễn phong phú; nhưng sử dụng cái
gì và sử dụng như thế nào là cả một nghệ thuật.
Tính nghệ thuật trong năng lực ĐTTT-LL tập trung nhất là vấn đề phương
pháp. Chủ thể phải nắm vững và làm chủ các phương pháp khoa học, vận dụng
thành thục và sáng tạo trong quá trình ĐTTT-LL. Phương pháp gắn liền với lý luận
và thực tiễn, là trình độ khoa học đúng đắn, trung thực, chứ không phải là mỹ
thuật, thủ thuật, tiểu xảo, tránh những khiên cưỡng, giả tạo dẫn đến những phản
cảm trong quan hệ với đối tượng.
Tính nghệ thuật của năng lực ĐTTT-LL thể hiện rõ trong việc sử dụng ngôn
ngữ phân tích, luận chiến. Sử dụng ngôn ngữ trong ĐTTT-LL vô cùng quan trọng,
là phương tiện chuyển tải những hiểu biết, nội dung, ý định của chủ thể đến đối
tượng tiếp nhận. Dùng ngôn ngữ trong sáng, có tính khái quát và giàu hình tượng;
câu văn ngắn gọn, chặt chẽ, súc tích; diễn đạt mạch lạc, sâu sắc và gợi cảm không
những chuyển tải đầy đủ nội dung, ý định mà còn nâng cao hiệu quả thuyết phục
của chủ thể đến đối tượng tiếp nhận. Sử dụng ngôn ngữ mang tính nghệ thuật cao
có tác dụng cảm hoá to lớn trong hoạt động ĐTTT-LL. Vì vậy, chủ thể ĐTTT-LL
cần hết sức chú ý học tập, rèn luyện nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ, phục vụ
đắc lực cho cuộc ĐTTT-LL; khắc phục lối sử dụng ngôn ngữ tuỳ tiện, diễn đạt dài
dòng, không chặt chẽ, thiếu sự khái quát.



Tính đảng, tính khoa học và tính nghệ thuật của năng lực ĐTTT-LL luôn có
sự thống nhất, quan hệ biện chứng tác động thúc đẩy lẫn nhau. Cả ba đặc tính này
xét đến cùng chính là trình độ trí tuệ khoa học, đạo đức, động cơ, lập trường, quan
điểm chính trị. Tổng hợp những cái đó là năng lực văn hoá chính trị như cách nói
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc thù hoạt động ĐTTT-LL đã đòi hỏi rất cao tính
đảng mác xít, tính khoa học và tính nghệ thuật. Hơn nữa, trong các KHXH và hoạt
động ĐTTT-LL có sự thống nhất biện chứng giữa tính đảng với tính khoa học và
tính nghệ thuật. Cơ sở của sự thống nhất biện chứng đó là sự phù hợp giữa mục
đích của các KHXH và hoạt động ĐTTT-LL với các quy luật phát tiển xã hội, với
ý nguyện của quần chúng nhân dân lao động và khát vọng lâu đời của nhân loại.
Quan niệm đối lập, tuyệt đối hoá hoặc tách rời tính đảng với tính khoa học và tính
nghệ thuật là của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, siêu hình. Thiếu tính đảng trong
năng lực ĐTTT-LL thì hoạt động ĐTTT-LL không chỉ mắc sai lầm về chính trị,
mà còn sai lầm về phương diện khoa học, và thiếu đi tính hấp dẫn, thuyết phục.
Nhưng chỉ có tính đảng mà thiếu tính khoa học và nghệ thuật thì năng lực ĐTTTLL không thể bền vững, khi đó hoạt động ĐTTT-LL chỉ như kiểu “hô khẩu hiệu”,
ít khả năng thuyết phục và kém hiệu quả. Ngược lại, năng lực ĐTTT-LL có tính
đảng và tính khoa học nhưng thiếu tính nghệ thuật thì hoạt động ĐTTT-LL của chủ
thể dễ rơi vào khô khan, cứng nhắc, khó gây thiện cảm, đồng tình, ủng hộ của
người tiếp nhận. Do đó, năng lực ĐTTT-LL của chủ thể chỉ thực sự vững mạnh khi
mang đầy đủ tính đảng, tính khoa học và tính nghệ thuật, có sự thống nhất biện
chứng của chúng.
Giảng viên KHXH ở các NTQĐ nhân dân Việt Nam với ĐTTT-LL.
Giảng viên KHXH ở các NTQĐ là người được đào tạo chuyên sâu về KHXH
(trình độ đại học trở lên) và nghiệp vụ sư phạm, có đủ phẩm chất và năng lực đảm
trách công việc giảng viên KHXH; được giao nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục và
nghiên cứu khoa học về một hoặc một số bộ môn thuộc KHXH ở các NTQĐ.
Ngoài ra, xét về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc điểm hoạt động, giảng viên
KHXH ở các NTQĐ được coi là “trí thức”, được xã hội và quân đội tôn vinh là
“nhà giáo” và thuộc loại hình “cán bộ chính trị” (theo Luật Sĩ quan). Bình thường,



giảng viên KHXH ở các NTQĐ còn được gọi với một số tên khác: nhà giáo, giáo
viên, giáo sư, phó giáo sư, thỉnh giảng… Về mặt thuật ngữ, khái niệm, các cách
gọi trên có nhiều điểm khác nhau. Theo Luật giáo dục, có sự khác nhau giữa giáo
viên và giảng viên. Giáo viên là người dạy học ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp. Còn giảng viên là người dạy ở cơ sở giáo
dục đại học và sau đại học [43, tr. 43, 44].
Điều lệ Nhà trường xác định: “nhà giáo là những người làm nhiệm vụ giảng
dạy và giáo dục trong trường quân đội. Nhà giáo phải đạt những tiêu chuẩn của cán
bộ về trình độ chỉ huy quản lý theo quy định của Bộ Quốc phòng; trình độ học vấn
và chuyên môn, nghiệp vụ nhà giáo theo quy định của luật giáo dục”[8, tr. 26].
Trong các văn bản hướng dẫn, quy định hoạt động của các NTQĐ do Bộ Tổng
Tham mưu (Bộ Quốc phòng) biên soạn, giáo viên là những người làm công tác
giảng dạy ở các nhà trường chuyên môn kỹ thuật trung cấp (dưới đại học); giảng
viên là những người làm công tác giảng dạy ở các học viện, trường sĩ quan (cao
đẳng, đại học). Hệ thống tổ chức NTQĐ gồm:
1. Các học viện, trường sĩ quan, trường đại học, cơ sở đào tạo sau đại học.
2. Các nhà trường quân khu, quân đoàn;
3. Các trường quân sự tỉnh, thành phố;
4. Các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề;
5. Các trường lớp thiếu sinh quân. [9, tr. 12,13]
Luận án chủ yếu nghiên cứu hai loại trường là: học viện và trường sĩ quan,
trường đại học. Hai loại trường này có đặc thù: học viện có học viên nhiều tuổi
hơn, đào tạo đại học và sau đại học, cả sĩ quan sơ cấp và chủ yếu là trung, cao
cấp...; trường sĩ quan, trường đại học có học viên trẻ hơn, chỉ đào tạo đại học và sĩ
quan cấp phân đội - sơ cấp...Về cơ bản, giảng viên ở các học viện có tuổi đời, tuổi
quân, quân hàm, học vấn cao hơn ở các trường sĩ quan... Khái niệm giảng viên
KHXH ở trong luận án này chỉ đối tượng giảng dạy ở các học viện, trường sĩ quan,
trường đại học. Nằm trong hệ thống giáo dục- đào tạo chung của cả nước, giảng
viên KHXH ở các NTQĐ cũng có nhiều trình độ: giảng viên, giảng viên chính,

giảng viên cao cấp, phó giáo sư, giáo sư.


Mặt khác, KHXH được phân thành nhiều môn (các nhà trường quân đội đang
giảng dạy từ 24- 27 chuyên ngành KHXH [41, tr. 55]) nên năng lực và nhiệm vụ
ĐTTT-LL của giảng viên KHXH không giống hệt nhau. Do đặc thù chuyên ngành,
các môn Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, TTHCM...
đòi hỏi ĐTTT-LL rất cao. Tác giả luận án chủ yếu đề cập đến giảng viên các môn
khoa học này. Song không vì thế mà xem nhẹ ĐTTT-LL ở các môn Dân tộc học,
Tâm lý học, Giáo dục học...
Tuy có những điểm khác biệt nhất định, giảng viên KHXH ở các NTQĐ đều
là một bộ phận của đội ngũ làm công tác tư tưởng- lý luận và giáo dục- đào tạo cán
bộ về KHXH, có nhiệm vụ ĐTTT-LL. Việc tham gia ĐTTT-LL của giảng viên
KHXH gắn liền với hoạt động của họ tại các NTQĐ.
Giảng viên KHXH ở các NTQĐ tham gia vào nhiều hoạt động như: giảng
dạy, nghiên cứu khoa học, ĐTTT-LL, các hoạt động lãnh đạo chỉ huy; các giao
tiếp ứng xử trong và ngoài quân đội. Tuy nhiên, chức năng cơ bản nhất của họ
là giáo dục- đào tạo. Việc ĐTTT-LL cũng chủ yếu thực hiện trong quá trình giáo
dục - đào tạo. Ở đây, tác giả tập trung đề cập hoạt động của giảng viên này theo
chức trách nhiệm vụ chủ yếu của họ.
Hoạt động chủ yếu, cơ bản nhất của giảng viên KHXH là giáo dục- đào tạo
cán bộ, sĩ quan đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội về chính trị. Họ truyền thụ cho
học viên những tri thức KHXH, trang bị thế giới quan, nhân sinh quan, phương
pháp luận của CNM-LN, TTHCM, quan điểm đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước; giáo dục nguyên tắc và nghiệp vụ CTĐ, CTCT đáp ứng
yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng bản lĩnh chính trị, nhân cách đạo đức và kỹ năng công
tác theo chức trách từng loại cán bộ. Do đó, hoạt động của giảng viên KHXH ở các
NTQĐ mang đậm tính chính trị sâu sắc trong đặc thù lĩnh vực quân sự, biểu hiện
tập trung là quán triệt sâu sắc cho cán bộ, học viên quân đội nguyên tắc: quân sự
phục tùng chính trị, đường lối quân sự phục tùng đường lối cách mạng của Đảng,

Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt các lực lượng vũ trang nhân dân;
“kiên quyết đập tan mọi luận điệu của các thế lực thù địch đang ra sức kích động
“phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang, làm biến chất Đảng và quân đội ta hòng gây


ra “tự diễn biến” từ trong nội bộ...”[69, tr 5]; đồng thời cũng chống các luận điệu
xuyên tạc của kẻ thù đối với bạo lực cách mạng, coi hoạt động vũ trang cách mạng
là không có tính nhân văn, làm sáng tỏ tính nhân văn của CNM-LN và TTHCM về
đấu tranh cách mạng và chiến tranh cách mạng.
Tính nhân văn trong hoạt động của giảng viên KHXH ở các NTQĐ được thể
hiện ở việc truyền bá cho quân nhân tư tưởng yêu thương, quý trọng, bảo vệ tự do
và nhân phẩm của con người; đấu tranh, ngăn chặn, đi đến xoá bỏ những hành vi
áp bức, bóc lột con người, xâm lược, nô dịch dân tộc và mọi bất công khác nhằm
xây dựng xã hội công bằng, ấm no, tự do, hạnh phúc; đồng thời, chăm lo giáo dục,
bồi dưỡng phát triển toàn diện cả đức, trí, thể, mỹ, giác ngộ lý tưởng độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH.
Giảng viên KHXH ở các NTQĐ còn định hướng, thuyết phục, cảm hoá học
viên hoạt động thực tiễn theo những chuẩn mực giá trị xã hội cao cả, góp phần làm
lành mạnh môi trường xã hội, các quan hệ xã hội trong và ngoài quân đội. Trong
mối quan hệ với học viên, người giảng viên KHXH luận giải bản chất khoa học và
mục đích tốt đẹp của các KHXH vì sự giải phóng toàn diện con người. Sự hiểu biết
sâu sắc về kiến thức, nghệ thuật sư phạm, nhất là bản lĩnh chính trị, đạo đức trong
sáng của giảng viên KHXH là cơ sở vững chắc để thuyết phục, tích cực hoá về ý
thức và hành động của người học viên.
Như vậy, hoạt động của giảng viên KHXH ở các NTQĐ rất phong phú,
nhưng cơ bản vẫn là “xây” và “chống”. “Xây” là nhằm trang bị CNM-LN,
TTHCM, quan điểm đường lối của Đảng, những tri thức KHXH, bồi dưỡng phẩm
chất và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh về mọi mặt,
trước hết là có phẩm chất chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, có kỹ năng
lãnh đạo, chỉ huy đáp ứng yêu cầu của cách mạng và của quân đội. Hoạt động

“chống” là phê phán, vạch trần những quan điểm tư tưởng sai lầm, phản động của
các thế lực thù địch, những tư tưởng tiêu cực (chủ nghĩa cá nhân, quan liêu...) từ
trong nội bộ chúng ta, loại bỏ những nhận thức và hành vi lệch lạc, những tác động
tiêu cực từ nhiều phía đến người học viên; chủ động ngăn ngừa những khuynh


hướng và điều kiện phát sinh nhận thức và hành vi không đúng đắn, có hại. Hoạt
động “xây” và “chống” diễn ra đồng thời, đan xen và có quan hệ biện chứng.
Để “chống” có hiệu quả, giảng viên KHXH ở các nhà trường quân đội phải
xác định chính xác và đầy đủ đối tượng ĐTTT-LL. Đối tượng đó (cũng cho cả giới
lý luận nước nhà) là kẻ địch ở bên ngoài, kẻ địch ở bên trong và ở chính trong nội
bộ Đảng, nội bộ quân đội và nhân dân ta.
Kẻ địch ở bên ngoài là các thế lực thù địch, là các trào lưu tư tưởng- lý luận
của bọn tư sản đế quốc, là những âm mưu DBHB...
Kẻ địch ở bên trong là chủ nghĩa cá nhân, là nạn tham nhũng và tệ quan liêu.
Theo Bác Hồ, chủ nghĩa cá nhân, nạn tham nhũng là những căn bệnh nguy hiểm,
từ đó sinh ra các bệnh khác như: tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, mất
dân chủ, hẹp hòi... mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một
bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại
từ trong phá ra [57, tr. 238 và 239]. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi cuộc vận động nâng
cao ý thức trách nhiệm, tăng cường giáo dục, quản lý chống chủ nghĩa cá nhân,
tham ô, lãng phí, quan liêu là một cuộc cách mạng nội bộ, một cuộc đấu tranh gay
go giữa cái tốt và cái xấu, cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa đạo đức cách mạng là
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và kẻ địch là nạn tham ô, lãng phí, quan liêu
[66, tr. 578].
V.I.Lênin cũng đã chỉ rõ kẻ địch ở bên trong (mà chúng ta thấy rất đúng với
tình hình hiện nay): “Theo tôi, hiện giờ có ba kẻ thù chính đang dứng trước mỗi
người, bất kể người đó làm việc gì, ở cương vị nào... Trước mặt họ ba kẻ thù chính
ấy là: kẻ thù thứ nhất- tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ thù thứ hai- nạn mù
chữ; kẻ thù thứ ba- nạn hối lộ”[39, tr. 217].

Về kẻ địch ở bên trong, Đảng ta đã chỉ rõ trong Nghị quyết Trung ương năm
(khoá IX) về nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận. Đó là: “tạo sự thống nhất
cao hơn nữa trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân”; “chống chủ nghĩ cá nhân,
tư tưởng cơ hội, thực dụng, chặn đà suy thoái về đạo đức lối sống”; “Các tổ chức
đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị- xã hội nắm chắc diễn biến tư tưởng ở từng


địa bàn, đối tượng, có phương án kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể
xảy ra; đề phòng nguy cơ “tự diễn biến” từ trong nội bộ”[18, tr. 135, 136, 137].
Đối tượng ĐTTT-LL còn ở chính trong nội bộ Đảng, nội bộ quân đội và nhân
dân ta để khẳng định đường lối đúng, xem xét lại những quyết sách sai, sửa chữa
khuyết điểm, khám phá chân lý, phát triển lý luận, tìm ranhững con đường, những
cách thức, những biện pháp tốt nhất để giành thắng lợi.
V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã từng thể hiện sự mẫu mực về cuộc
ĐTTT-LL trong nội bộ. V.I.Lênin đã vạch rõ những sai lầm để khẳng định chính
sách kinh tế mới (NEP), để thanh đảng, để xây dựng pháp luật Xô Viết. Người
viết: “Chế độ trưng thu lương thực thừa ở nông thôn, cách giải quyết những nhiệm
vụ xây dựng ở thành thị...đứng về mặt đường lối và chính sách của chúng ta mà
xét...là một sự thất bại rất nặng nề và một sự rút lui rất nghiêm trọng”[39, tr. 119].
V.I.Lênin đã từng chỉ ra nhiệm vụ cho các nhà giáo dục chính trị: “Khi chúng ta
hát: “Đấu tranh này là trận cuối cùng”, thì đáng tiếc rằng câu hát đó có điểm chưa
được đúng, - đáng tiếc rằng đây chưa phải là trận chiến đấu cuối cùng của chúng
ta”[39, tr. 205]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: “Đảng phải luôn xét lại
nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì
những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hoá ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy
của nhân dân đối với Đảng”[57, tr. 250].
Cố tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ đã thể hiện mẫu mực về cuộc đấu tranh nội
bộ, ĐTTT-LL qua tác phẩm “Tự chỉ trích”. Đồng chí nêu rõ: “chỉ trích của người
cách mạng tìm tòi những lầm lỗi của mình, nghiên cứu phương pháp để sửa đổi, để
tiến lên; có thứ chỉ trích của người cách mạng vạch mặt nạ bọn phản động; có thứ

chỉ trích thân mật những chỗ nhu nhược của bạn đồng minh; có thứ chỉ trích
nghiêm khắc kẻ long lay, dụ dự để mong kéo họ về mình”[11, tr. 640].
Nhiều Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu cao tinh thần đấu
tranh trong nội bộ Đảng ta để Đảng tiếp tục vững bước tiến lên giành thắng lơị mới
như: Nghị quyết Đại hội Đảng VI...Nghị quyết Đại hội Đảng IX...Ví dụ: Đảng ta
có hẳn Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng hiện nay (Nghị quyết Trung ương
sáu (lần 2) khoá VIII). Trong đó chỉ ra trong Đảng đang bộc lộ những yếu kém,


×