Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC VÀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.23 KB, 65 trang )

CHUYÊN ĐỀ 1: KHÁI LUẬN TRIẾT HỌC VÀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
1. Khái luận về triết học
1.1. Triết học và đối tượng của triết học
a. Khái niệm Triết học
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII-VI trước Công nguyên, theo tiếng Hy Lạp cổ, triết học
được ghép từ 2 từ “philos - tình yêu” và “sophia - sự thông thái”. Theo nghĩa đen, triết học là tình
yêu đối với sự thông thái.Người Trung Quốc hiểu triết học là sự hiểu biết sâu sắc. Người Ấn Độ
hiểu triết học (Dar’sana) là con đường suy ngẫm để đưa con người đến lẽ phải. Ngày nay triết học
được hiểu là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của
con người trong thế giới ấy.
Triết học ra đời phải có 2 điều kiện, một là điều kiện xã hội, tức là lao động xã hội có sự
phát triển, có sự phân công lao động xã hội, tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay. Khi có
đội ngũ lao động trí óc thì mới có điều kiện cho các nhà triết học ra đời. Hai là điều kiện về nhận
thức, tức là tư duy của con người phải đạt đến một trình độ khái quát hoá, trừu tượng hoá nhất
định.Nói khác đi, triết học ra đời từ thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
b. Đối tượng của triết học
Trong quá trình phát triển của mình, đối tượng triết học thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử.
Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, triết học bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực.Khi ấy, các
khoa học chưa phân ngành rõ rệt.Vì vậy, đã có quan niệm sai lầm cho rằng, triết học là khoa học
của các khoa học.
Thời kỳ trung cổ là thời kỳ thống trị của giáo hội Ki tô giáo triết học khi ấy có nhiệm vụ
chứng minh cho sự tồn tại của chúa trời, của thượng đế.Nói khác đi, triết học là “bộ môn” của
thần học.Triết học thời kỳ này chủ yếu là triết học kinh viện.
Thời kỳ phục hưng và cận đại, triết học gắn bó với khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm.
Đỉnh cao của nó là chủ nghĩa duy vật ở Anh, Pháp, Hà Lan. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nhìn
chung có tính siêu hình, máy móc và không triết để. Đêcáctơ coi triết học là methaphisica (siêu
hình học) với nghĩa là nền tảng thế giới quan của con người.
Triết học cổ điển Đức lại có tham vọng coi triết học là khoa học của các khoa học.Điển hình
cho tham vọng này là triết học của Hêghen.
Sự ra đời của triết học Mác đánh dấu sự đoạn tuyệt với quan niệm triết học là khoa học của
các khoa học và tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức cũng như những quy lụât


chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
1.2. Vấn đề cơ bản của triết học
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại là vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vấn đề này được gọi là vấn đề cơ bản của triết học bởi hai lẽ: thứ
nhất, nó nảy sinh cùng với sự ra đời của triết học và tồn tại trong tất cả các trường phái triết học
cho tới tận ngày nay; thứ hai, giải quyết vấn đề này là cơ sở để giải quyết tất cả các vấn đề triết
học khác còn lại và là tiêu chuẩn để xác định lập trường, thế giới quan của các nhà triết học cũng
như các học thuyết của họ.

1


Vấn đề cơ bản này có hai mặt.Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi giữa vật chất và ý thức (tồn tại
và tư duy), cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?Mặt thứ hai trả lời cho câu
hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? (ý thức có thể phản ánh được vật
chất hay không?).
2. Sự khác nhau cơ bản giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây
Có thể nói, các trào lưu triết học Phương Đông cũng như phương Tây đều tập trung xoay
quanh trả lời câu hỏi : Thế giới bắt đầu từ đâu, thế giới sẽ đi đến đâu? Bản chất của thế giới là gì?
Điều này cho thấy các nhà triết học đều mong muốn vượt qua ảnh hưởng của thế giới quan thần
thoại để giải đáp những gì diễn ra xung quanh và tác động lên đời sống con người, tuy nhiên
không phải vì bản thân tự nhiên mà vì chính con người, vì khẳng định vị trí con người trong thế
giới.
Khi lý giải về khả năng nhận thức của con người , các nhà triết học không chỉ xem con người
như là một bộ phận của vũ trụ mà con người còn luôn chứng tỏ sự hiện hữu vượt trội của mình
nhờ có năng lực nhận thức. Nhìn chung, do điều kiện hạn chế của lịch sử, những biến đổi nhanh
chóng trong đời sống xã hội cũng như bế tắc trong nhận thức đã đẩy các nhà triết học phương
Đông và phương Tây cổ đại ít nhiều lại gần hơn với những quan niệm duy tâm thần bí, coi thế
giới thần linh như một điểm tựa cuối cùng….Đó là nét giống nhau cơ bản giữa triết học phương
Đông và triết học Phương Tây cổ đại. Tuy vậy, sự khác biệt giữa triết học phương Đông và triết

học phương Tây là hết sức sâu sắc.
Mục đích của triết học
Mục đích của triết học phương Tây là nhận thức để cải tạo thế giới, triết học trở thành công cụ
giúp cho con người chinh phục tự nhiên.
Trong khi đó mục đích của triết học phương Đông lại chủ yếu nhằm xây dựng những con
người lý tưởng, khôi phục lại trật tự xã hội đã mất ( nho giáo) hay giải thoát con người ( phật
giáo), làm con người hòa đồng với thiên nhiên ( đạo giáo)…
Phương pháp tiếp cận của triết học
Triết học phương Tây thường đi từ thế giới quan, bản thể luận đến nhân sinh quan, nhận
thức luận, logic học, từ đó tạo nên một hệ thống tương đối hoàn chỉnh, chặt chẽ. Triết học
phương Tây nhìn chung có xu hướng đi từ thực thể ban đầu tạo nên thế giới như nước, lửa, không
khí, nguyên tử … Trong khi đó triết học phương Đông các nhà tư tưởng lớn lại đi từ nhân sinh
quan đến thế giới quan. Việc đề cập tới giới tự nhiên xét đến cùng cũng là nhằm để lý giải về con
người và xã hội loài người.
Đối tượng nghiên cứu của triết học
Triết học phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con người và
vũ trụ với công thức thiên địa nhân là một nguyên tắc “ thiên nhân hợp nhất”. Tức là lấy con
người làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu – tính chất hướng nội, nghiên cứu thế giới cũng chỉ
nhằm làm rõ con người. Vấn đề bản thể luận trong triết học phương Đông bị mờ nhạt. Phương
đông đặt trong tâm nghiên cứu mối quan hệ người với người và đời sống tâm linh, ít quan tâm
đến mặt sinh vật của con người, chỉ nghiên cứu mặt đạo đức thiện hay ác theo lập trường của giai
2


cấp thống trị. Cho nên nghiên cứu con người không phải là để giải phóng con người mà là để cai
trị con người, không thấy quan hệ người với người trong lao đông sản xuất.
Triết học phương Tây lại nhấn mạnh: Tách con người ra khỏi vũ trụ ( thế giới khách quan
), coi con người là chủ thể, còn thế giới là khách thể, con người cần nghiên cứu, chinh phục vũ trụ
- thế giới khách quan, tức là đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới – mang tính chất hướng ngoại.
Vấn đề con người chỉ được nghiên cứu để giải thích thế giới mà thôi. Cho nên phương Tây bàn

đậm nét về bản thể luận của vũ trụ, ít quan tâm đến mặt xã hội của con người, để cải tạo cái tự
nhiên – mặt sinh vật trong con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức, không chú ý
đến nguyên nhân kinh tế xã hội , cái gốc để giải phóng con người…Sau này triết học Mác – Lê
Nin đã khắc phục nhược điểm này của triết học phương Tây.
Sự khác nhau về phương pháp nhận thức
Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lý, phân tích mổ xẻ còn phương Đông thì ngả về
dùng trực giác.
Cái mạnh của phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ phát triển…
và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân lý vô hạn cùng. Phương Tây đi gần mãi đến
chân lý qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy luật… của toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ
cấp độ bản chất thấp đến mức độ bản chất cao hơn… cũng do vậy họ có xu hướng cô lập hoá ,
cách ly hoá, làm mất đi tính tổng thể. Do vậy triết học phương Tây thường dựa trên tư duy lý
tính, mang tính chất trừu tượng.
Triết học phương Đông ngược lại thường dùng trực giác, tức là đi thẳng đến sự hiểu biết,
vào cái sâu thẳm bản chất của sự vật, hiện tượng.Trực giác giữ được cái tổng thể mà tư duy phân
tích, mổ xẻ đạt đến.Nhưng nó có tiềm tàng nhược điểm là không phổ biến rộng được.Trực giác
mỗi người mỗi khác.Và không phải lúc nào trực giác cũng đúng.Thực ra 2 biện pháp kết hợp lẫn
nhau, nhưng ở đây nói về thiên hướng. Triết học phương Đông dựa trên tư duy cảm tính , sinh
động nhưng không đi sâu, mang tính chất hình tượng.
Triết học phương Tây có xu hướng tách chủ thể với khách thể để nhận thức cho khách
quan còn triết học phương Đông lại cho rằng người nhận thức và đối tượng nhận thức cùng hoà
hợp vào nhau (đặt cùng trong 1 hệ quy chiếu.) thì nhận thức sẽ dễ dàng.
Phương tiện nhận thức của triết học phương Tây là khái niệm, mệnh đề, biểu thức lôgíc để
đối tượng mô tả rõ ràng, thống nhất hơn thì trong triết học phương Đông lại là ẩn dụ, liên tưởng,
hình ảnh, ngụ ngôn… để không bị lưới giả về nghĩa do khái niệm che phủ. Nhưng điểm yếu của
triết học phương Đông chính là sự đa nghĩa, nhập nhằng khác biệt khi qua các phân tích khác
nhau.
Dạng tồn tại của triết học phương Đông và phương Tây
Ở phương Đông những tư tưởng triết học ít khi tồn tại dưới dạng thuần túy mà thường đan
xen với các hình thái ý thức xã hội khác. Cái nọ lấy cái kia làm chỗ dựa và điều kiện để tồn tại và

phát triển cho nên ít có những triết gia với những tác phẩm triết học độc lập. Có những thời kì
người ta đã lầm tưởng triết học là khoa học của các khoa học. Triết học trung quốc đan xen với
chính trị luân lý. Triết học Ấn Độ đan xen với tôn giáo nghệ thuật. Ở phương đông thì triết học
thường ẩn dấu đằng sau các khoa học.
3


Còn ở phương Tây ngay từ thời kỳ đầu triết học đã là 1 môn khoa học độc lập với các môn
khoa học khác mà các môn khoa học khác lại thường ẩn dấu đằng sau triết học. Thời kì trung cổ
là điển hình : Khoa học muốn tồn tại phải khoác áo tôn giáo, phải tự biến mình thành một bộ
phận của giáo hội.
Bước phát triển của triết học phương Đông và phương Tây
Lịch sử triết học phương Đông ít thấy những bước nhảy vọt về chất có tích vạch thời đại,
mà chỉ là sự phát triển cực bé, kế tiếp, xen kẽ. Các trường phái triết học phương Đông vẫn giữ
nguyên tên gọi và hình thức biểu hiện, nội dung có phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ,
thêm bớt hay đi sâu vào từng chi tiết, nhưng vẫn trên cơ sở nhân lễ chính danh, nhưng có cải biên
về một phương diện nào đó. Các nhà triết học phương Đông thì chỉ giới hạn trong khuôn khổ ủng
hộ hay bỏa vệ quan điểm hay một hệ thống nào đó để hoàn thiện và phát triển hơn là vạch ra sai
lầm và không đặt ra mục đích tạo ra thứ triết học mới. Những nhà tư tưởng ở giai đoạn lịch sử sau
thường cho mình là học trò,là kế tục sự nghiệp của những nhà sáng lập ra học thuyết giai đoạn
trước.
Ngược lại phương Tây : ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ, bên cạnh trường phái cũ lại có những
trường phái mới xuất hiện,có những trường phái còn phát huy tác dụng nhưng cũng có những
trường phái đã đi vào lịch sử, đồng thời có những trường phái ra đời có tính chất vạch thời đại
như cổ đại có trường phái Tales,Herales…triết học khai sáng Pháp, chủ nghĩa duy vật ở Anh, Hà
Lan, triết học cổ điển Đức….Tình hình đó phản ánh tính giai đoạn có ý nghĩa nhảy vọt trong sự
phát triển của lịch sử triết học phương Tây. Cuộc đấu tranh giữa duy tâm và duy vật mang tính
chất quyết liệt và triệt để hơn.
Sự phân chia, phân loại các trường phái triết học
Ở phương Đông đan xen các trường phái, yếu đố duy vật, duy tâm, biện chứng, siêu hình

không rõ nét. Sự phân chia chỉ xét về đại thể, còn đi sâu vào nội dung cụ thể thường là có mặt
duy tâm, có mặt duy vật, sơ kỳ là duy vật, hậu kỳ là nhị nguyên hay duy tâm.
Ở phương Tây, sự phân chia các trường phái rõ nét, các hình thức tồn tại lịch sử rất rõ rang
như duy vật chất phác thô sơ đến duy vật siêu hình, đến duy vật biện chứng. Hay biện chứng sơ
khai đến biện chứng duy tâm, đến biện chứng duy vật.
3. Các thời kỳ phát triển chủ yếu của triết học phương Tây và đặc điểm cơ bản của chúng
3.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Với gần một thiên niên kỷ tồn tại, triết học Hy Lạp đã để lại những dấu ấn đậm nét trên con
đường phát triển của triết học phương Tây, tạo nên những giá trị tinh thần to lớn, làm phong phú
thêm kho báu tư tưởng nhân loại. Nền triết học này có những đặc điểm sau:
triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận của giai cấp
chủ nô thống trị. Nó là công cụ để giai cấp này duy trì trật tự xã hội, củng cố vai trò của mình.
Cho nên ngày từ khi mới ra đời, triết học Hy Lạp cổ đại đã mang tinh giai cấp sâu sắc.
- mối liên hệ của triết học Hy Lạp cổ đại với thần thoại và các hình thức tôn giáo nguyên
thủy. Sự ra đời của triết học không có ý nghĩa kỷ nguyên thần thoại đã hoàn toàn kết thúc. Triết
học Hy Lạp ở những bước đi chập chững ban đầu, một mặt là khát vọng dùng lý trí của con
người để giải thích những vấn đề liên quan đến cuộc sống con người, mặt khác là một nỗ lực "tái
thiết lại thần thoại bằng phương tiện của lý trí".
4


tính chất bao trùm về mặt lý luận của triết học đối với tất cả các lĩnh vực của nhận thức,
không có đối tượng nghiên cứu riêng mà chủ yếu là nghiên cứu tri thức chung. Vì ra đời trong bối
cảnh trình độ nhận thức của con người chưa phát triển mấy, tri thức về mọi mặt chưa cao, nên
triết học đóng vai trò là dạng nhận thức phổ quát, thẩm chí là duy vật nữa, hy vọng lý giải những
vấn đề lý luận của các khoa học cụ thể mà vào thời kỳ này còn nằm trong tình trạng tản mản, sơ
khai, mang tính chất trực quan, thực nghiệm.
Tính đa dạng, muôn vẻ, sự phân cực quyết liệt làm nên đặc điểm tiếp theo của triết học Hy Lạp
cổ đại. Điều kiện địa lý đặc biệt của các thị quốc, sự thay thế nhau các trung tâm kinh tế, văn hóa,
quá trình giao lưu với văn hóa phương Đông…..liên tục tạo nên những sắc thái mới mẻ trong để

tài nghiên cứu và phong cách tư duy. Ngay từ mới lúc ra đời triết học Hy Lạp đã phân thành
những trường phái, những khuynh hướng, những cách tiếp cận khác nhau về bản nguyên và bản
tính thế giới, về ý nghĩa của tồn tại. Cuộc tranh luận thế giới quan giữa "đường lối Démocrite"
(tiêu biểu cho chủ nghĩa duy vật) và "đường lối Platon" (tiêu biểu cho chủ nghĩa duy tâm) phản
ánh những xung đột, những bất đồng giữa các lực lượng xã hội khác nhau, những thiên hướng
chính trị khác nhau.
- tính biện chứng chất phác, sơ khai, thể hiện trong việc lý giải tự nhiên, khám phá các quy
luật nhận thức, trong cá đối thoại và tranh luận nhằm đạt tới chân lý.
- sự ưu tiên nhận thức thế giới bên ngoài, tự nhiên hơn là những vấn đề con người. Giá trị
con người chủ yếu được bàn đến ở khía cạnh đạo đức.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại tiêu biểu thời kỳ này : Heraclitte, Democrite, Platon, Aritxtot ,
Xocrat.
3.2. Triết học kinh viện châu Âu thời trung đại
Điều kiện văn hóa, xã hội thời kỳ này
Từ thế kỷ thứ V đến thế kỷ thứ XI, nền kinh tế châu Âu là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp.
Xã hội phân ra làm hai giai cấp thống trị và bị trị. Cơ cấu xã hội phức tạp nên có nhiều lực lượng
xã hội phát triển, trong đó quan trọng nhất là lực lượng tôn giáo. Tôn giáo có vai trò thống trị
trong xã hội, đặc biệt là đạo cơ đốc.
Từ thế kỷ XII đến thể kỷ XV, nền kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương mại có sự
phát triển mới, dân sô tăng, vì vậy xã hội hình thành nhiều giai cấp trung gian. Chính sự phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội như vậy nên quy định nội dung và tính chất của triết học trung đại.
Nét đặc thù của triết học châu Âu trung đại là triết học kinh viện có xu hướng “ hướng ngoại”, có
nhiệm vụ chính là “đầy tớ của thần học”.
Thế kỷ XIX trở đi, cơ đốc giáo giữ vai trò thống trị trong xã hội, triết học của cơ đốc giáo hình
thành, biến thành phương tiện bảo vệ, cơ đốc giáo gọi là kinh viện. Triết học có xu hướng tách rời
đời sống thực tiễn, chỉ dựa vào uy tín của tôn giáo 1 cách mù quáng. Các vấn đề cơ bản mà triết
học kinh viện quan tâm : mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin.
Đặc điểm của triết học kinh viện châu Âu thời trung đại
Xuất phát từ những giáo điều chung của thần học, tuyệt đối tin tưởng vào cơ đốc giáo, dựa trên
lôgic hình thức, triết học kinh viện định ra những quy tắc giáo điều chung cho hoạt động của con

người tách rời thực tiễn. Chủ nghĩa kinh viện là cơ sở lí luận của trật tự xã hội phong kiến. Nội
dung quan điểm của triết học kinh viện không nhất quán: lúc đầu chịu ảnh hưởng quan điểm của
5


Platon, được thánh Augustin nhào nặn lại (giai đoạn sơ kì), sau chuyển sang chịu ảnh hưởng quan
điểm của Aristote qua tư duy của thánh Thomas ( giai đoạn chín muồi). Trong giai đoạn quá độ
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa đế quốc, triết học kinh viện được phục hồi và cách tân (chủ
nghĩa kinh viện mới trùng với chủ nghĩa Thomas mới) vào thế kỉ 16 - 17.
Cuộc tranh luận chính của triết học kinh viện xoay quanh vấn đề những khái niệm phổ biến
(chính là vấn đề cái phổ biến và cái đơn nhất).Triết học kinh viện phủ nhận quy nạp, coi trọng
diễn dịch (hình thức cơ bản của nó là tam đoạn luận) nhằm tạo ra những quy tắc chặt chẽ của tư
duy.Là "đầy tớ" của thần học, triết học kinh viện cản trở sự phát triển của khoa học tự
nhiên.Thành tựu của những nhà kinh viện trong lĩnh vực lôgic chính là dự báo trước một số vấn
đề của lôgic hiện đại, trong đó có lôgic toán. Những nhà nhân văn thời Phục hưng và đặc biệt là
những nhà triết học Ánh sáng đã nhạo báng triết học kinh viện như là những triết lí vô bổ "không
sinh đẻ", hay là "sự chơi chữ rỗng tuếch”. Triết học kinh viện là triết học của giai cấp phong kiến,
đã kìm hãm sự phát triển của khoa học và triết học duy vật.
Cuộc đấu tranh giữa hai phái Duy thực và Duy danh cũng là đặc trưng của tư tưởng triết học
Trung đại Tây Âu. Xét đến cùng, cuộc đấu tranh này phản ánh ít nhiều hai xu hướng triết học đối
lập nhau: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.
Phái Duy thực luận chứng về mặt triết học sự tồn tại có thật, duy nhất của cái chung; còn phái
Duy danh thì ngược lại, chứng minh cho sự tồn tại duy nhất, có thật của cái riêng. Phái Duy danh
có khuynh hướng duy vật, phái Duy thực lại có xu hướng duy tâm về triết học.
3.3. Chủ nghĩa nhân văn thời kỳ Phục Hưng
Chủ nghĩa nhân văn là trào lưu tư tưởng và văn hoá thời Phục hưng ở châu Âu. Đây là một
phong trào chống Thiên chúa giáo nhằm đề cao con người, giải phóng cá nhân khỏi sự đè nén
tinh thần của chế độ phong kiến, chống chủ nghĩa kinh viện và giáo hội, hướng con người vào
xây dựng cuộc sống thực tại.
Lịch sử ra đời của chủ nghĩa nhân văn được xác lập từ khi xuất hiện phong trào Phục

hưng.
Với tinh thần đấu tranh chống lại sự cai trị hà khắc của chế độ phong kiến, chủ nghĩa nhân
văn trở thành một trào lưu tư tưởng hiện thực với sức mạnh to lớn và có ý nghĩa sâu sắc.
Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng được kết tinh trong khẩu hiệu "Tự do
- Bình đẳng - Bác ái", từ hành vi muốn lật nhào chế độ phong kiến, đem Louis XVI ra chém đầu
trước quảng trường Louvere, lập nên nước Cộng hòa ở Pháp.
Chủ nghĩa nhân văn - đó là đỉnh cao của những lý tưởng, lý luận, quan điểm nhằm kêu gọi,
thức tỉnh và phục vụ cho lợi ích của loài người tiến bộ, đặc biệt là những người lao động, để giúp
con người tự khẳng định những giá trị cao đẹp, tài năng và nhân phẩm của bản thân. Từ những cơ
sở thực tiễn và lý luận ấy, nội dung chính của chủ nghĩa nhân văn Phục hưng gồm:
1. Thế giới do tự nhiên sinh ra, không phải do Chúa Trời tạo nên.
2. Con người là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên, chứ không phải do Chúa tạo ra từ "mẩu
đất" hay cái "xương sườn cụt".
3. Cuộc sống không phải là nơi đày ải mà là nơi con người có thể xây hạnh phúc dưới trần
thế, không phải đợi ngày mai lên thiên đàng.
4. Cuộc đời chứa đựng vô vàn cái đẹp mà con người là trung tâm của cái đẹp, vì thế con
người phải trở thành đối tượng của nghệ thuật..
6


Bốn đặc trưng trên - những nội dung làm nên bản chất của chủ nghĩa nhân văn (về thế giới tự
nhiên, con người, cuộc sống và vẻ đẹp của con người)
Như vậy, chúng ta có thể thấy, chủ nghĩa nhân văn Phục hưng là cuộc cách mạng diễn ra trên
lĩnh vực văn hoá và tư tưởng. Nghĩa là chủ nghĩa nhân văn đã chuẩn bị tiền đề tư tưởng, thực hiện
"cuộc cách mạng" trong nhận thức để con người thực hiện cuộc cách mạng xã hội trong thực tiễn.
3.4. Đặc điểm và những khuynh hướng cơ bản của triết học Tây Âu thời cận đại
Kinh tế tư bản chủ nghĩa đang trên đà phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi khoa học phải thoát
khỏi xiềng xích của tôn giáo, thần học và triết học kinh viện. Vì vậy triết học duy vật có điều kiện
phát triển mạnh mẽ. Khoa học cũng có bước phát triển vượt bậc, nhiều phát minh sáng chế ra đời
như sự phát hiện ra sự tuần hoàn của máu; phát hiện ra tính chất sóng và hạt của ánh sáng; sáng

chế ra kính thiên văn, hàn thử biểu... Những phát minh, sáng chế này đã hậu thuẫn cho triết học
duy vật biện chứng ra đời.
Thời kỳ cận đại của châu Âu cũng là thời kỳ chủ nghĩa thực dân kiểu cũ hình thành. Chủ
nghĩa tư bản đã thực hiện chiến tranh xâm lược thuộc địa để mở rộng lãnh thổ và thị trường, khai
thác tài nguyên thiên nhiên ở các vùng đất thuộc địa, chiến tranh tôn giáo nảy sinh. Tất cả những
điều này đã đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi các nhà tư tưởng phải giải quyết. Trên
cơ sở đó đã thúc đẩy sự phát triển của triết học.
Từ những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và sự phát triển khoa học đó đã ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển của triết học. Triết học Tây Âu thời kỳ thế kỷ XVII – XVIII về cơ bản
có những đặc điểm sau:
- Nhìn chung ở Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII, triết học duy vật có xu thế phát triển rực rỡ, là
thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp tư sản đang lên, đang còn tiến bộ, cách mạng chống lại giai
cấp phong kiến lỗi thời, lạc hậu. Tuy nhiên, khi cách mạng tư sản thành công thì triết học duy vật
có xu hướng nhường chỗ cho triết học duy tâm, triết học chủ quan, không thể biết. Điều này thể
hiện rõ ở thế kỷ XVII tư tưởng triết học duy vật thể hiện rõ nét trong các nhà triết học như: Tômát Hốp-xơ (1588 – 1679), Giôn Lốc-cơ (1632 – 1704), Bê-kê-nít Xpi-nô-za (1632 – 1677), Gôphrít Vin-hem Lép-nít (1646 – 1716)... Nhưng đến cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII thì tư
tưởng triết học duy tâm, triết học chủ quan, không thể biết lại phát triển mạnh, thể hiện ở các đại
biểu như: Gioóc Béc-cơ-ly (1685 – 1753), Đa-vít Hi-um (1711 – 1776)...
- Triết học duy vật thời kỳ này khác với triết học duy vật thời kỳ Hy Lạp cổ đại ở nhiều
điểm. Nhưng về cơ bản tựu chung ở hai điểm nổi bật:
+ Nếu phép biện chứng là phương pháp cơ bản, chủ yếu trong nhận thức luận của triết học
duy vật cổ đại thì phương pháp siêu hình là phương pháp chủ yếu trong nhận thức luận của triết
học duy vật thời kỳ này.
+ Một số luận điểm của triết học duy vật thời kỳ này đã được chứng minh bằng những
thành tựu của khoa học thực nghiệm đương thời chứ không còn là những phỏng đoán như thời Hy
Lạp cổ đại.
- Triết học duy vật thời cận đại có xu hướng đi đến chủ nghĩa vô thần, nhất là ở cuối thế kỷ
XVII – đầu thế kỷ XVIII. Nguyên nhân của xu hướng này là do giai cấp tư sản đang lên muốn
phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa cần có sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Nhưng trở ngại
lớn nhất của sự phát triển khoa học kỹ thuật của giai đoạn này là chủ nghĩa duy tâm tôn giáo và
7



triết học kinh viện. Bởi vậy, để giải phóng khoa học, giai cấp tư sản phải đấu tranh chống lại tôn
giáo, chống lại chủ nghĩa duy tâm, chống triết học kinh viện thời kỳ Trung cổ.
- Triết học thời kỳ này đi sâu nghiên cứu lý luận nhận thức và chia thành hai trường phái cơ
bản: Duy cảm và duy lý.
+ Triết học duy cảm chính là sự tìm tòi của các nhà triết học trên con đường nhận thức
chân lý, các nhà triết học duy vật đồng thời là các nhà hoạt động xã hội, tiêu biểu như: Tô-mát
Hốp-xơ (1588 – 1679), Giôn Lốc-cơ (1632 – 1704), các nhà triết học duy vật Pháp... Họ đã đề
cao cảm giác trong nhận thức.
+ Triết học duy lý: tuyệt đối hóa vai trò của lý tính trong nhận thức, các nhà triết học duy
lý vừa là các nhà triết học duy vật, vừa là các nhà khoa học (toán học), với các đại biểu tiêu biểu
như: Bê-kê-nít Xpi-nô-za (1632 – 1677), người Hà Lan; Gô-phrít Vin-hem Lép-nít (1646 –
1716), người Đức...
- Triết học thời kỳ này đi sâu nghiên cứu vấn đề con người. Con người đã được đề cập đến
cả trong mối quan hệ với tự nhiên và cả trong mối quan hệ giữa con người với con người. Do sự
phát triển của kinh tế tư bản (nền kinh tế dựa trên sự khai thác, chinh phục tự nhiên, cũng như đêy
là nền kinh tế dựa trên quan hệ hàng hóa) nó đã đặt ra những vấn đề phải trả lời về mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, cũng như mối quan hệ giữa con người với con người. Đồng thời,
đây là thời kỳ diễn ra và thắng thế của cách mạng tư sản, nhất là sau khi cách mạng tư sản thành
công, xã hội công dân được hình thành và con người với tư cách là một công dân trong xã hội,
một chủ thể trong xã hội có tư cách pháp nhân được đặt ra và phải giải quyết.
- Triết học trong thời kỳ này có nhiều điểm tiến bộ, nhưng vẫn còn hạn chế nhất định. Hạn
chế cơ bản nhất là tính siêu hình máy móc. Điều này có nhiều nguyên nhân, nhưng tựu trung có
ba nguyên nhân cơ bản:
+ khoa học thời kỳ này mới đang ở dạng tích lũy, thu thập chứng cứ; khoa học lý luận
chưa phát triển, chủ yếu vẫn là khoa học thực nghiệm và đặc biệt là sự phát triển hơn cả của cơ
học đã dẫn đến sự ảnh hưởng mạnh mẽ của cơ học đến triết học.
+ Do ảnh hưởng của nền kinh tế thủ công, nền kinh tế dựa trên phương pháp sản xuất đơn
lẻ, tách biệt giữa các khâu trong quá trình sản xuất đã làm cho cách nhìn nhận của con người về

thế giới và về chính bản thân con người cũng mang tính đơn lẻ, rời rạc...
+ giai cấp tư sản để bảo vệ lợi ích của mình đã muốn đưa cách nhìn siêu hình vào trong xã
hội để có cơ sở khẳng định chủ nghĩa tư bản là sự bất biến, vĩnh cửu, là sự tột cùng của sự phát
triển.
- Triết học thời kỳ này có những tư tưởng tiến bộ về mặt xã hội, đặc biệt là các nhà triết học
duy vật Pháp thế kỷ XVIII, đã thể hiện tinh thần đấu tranh chống lại xã hội phong kiến, chống lại
thói mê tín, đạo đức giả; các nhà triết học đã ca ngợi tự do, bình đẳng, bác ái. Tuy nhiên, hạn chế
chung của triết học thời kỳ này nói chung, chủ nghĩa duy vật nói riêng là chủ nghĩa duy vật chưa
triệt để, vẫn duy tâm trong việc giải thích các vấn đề lịch sử, xã hội, tinh thần. Mặc dù vậy, triết
học thời kỳ này cũng đã đóng vai trò to lớn trong cuộc đấu tranh chính trị - xã hội, thúc đẩy sự
phát triển của triết học sau này.
3.5. Triết học cổ điển Đức và giá trị lịch sử của nó
Điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội
8


Đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản được thiết lập và phát triển mạnh mẽ ở
hầu hết các nước Tây Âu. Thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp đã tạo ra bước nhảy đột
biến trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khẳng định tính ưu việt hơn hẳn chủ nghĩa tư bản
so với tất cả các xã hội trước đó. Trong khi đó nước Đức vẫn ì ạch trong chế độ phong kiến, xu
hướng phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa đã bị chế độ phong kiến quan liêu cản trở. Giai cấp
Tư sản nằm mơ về cách mạng tư sản Pháp nhưng lại không dám hành động.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội ở trong nước thì sự phát triển của khoa học, đặc biệt
là sự phát triển của khoa học tự nhiên đã đặt ra nhiều vấn đề phải xem xét lại. Các phát minh
khoa học đã chứng tỏ rằng phương pháp tư duy siêu hình, tự biên không thể phát hiện ra bản chất
của sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên và thực tiễn trong xã hội đang diễn ra ngày càng phức
tạp.
Bối cảnh chính trị - xã hội và sự phát triển của khoa học ở Tây Âu và nước Đức lúc đó chứng
tỏ sự hạn ché và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc lý giải bản chất của các hiện
tượng tự nhiên và thực tiễn xã hội đang diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Nó đòi hỏi

cần có cách nhìn mới về bản chất các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại cũng như
cần có quan niệm mới về khả năng và vai trò của con người.
Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp Tư sản Đức cuối thế kỉ XVIII
đầu thế kỉ XIX. Như tình trạng nước Đức lúc bấy giờ trong tư tưởng và hệ thống của các triết gia
Đức có tính hai mặt. Do các nhà triết học phần lớn xuất thân từ tầng lớp thượng lưu, gắn bó mật
thiết phong trà quý tộc về lợi ích kinh tế, địa vị chính trị, vì thế một mặt họ mong muốn đất nước
thống nhất, phồn vinh nhưng một mặt họ sợ sức manh của quần chúng lao động mà thỏa hiệp với
các quý tộc phong kiến dẫn đến tư tưởng bảo thủ, cải lương về mặt chính trí - xã hội. mâu thuẫn
với tính cách mạng và tính khoa học
Triết học cổ điển Đức đặc biệt đề cao vai trò, vị trí tích cực của con người. Kế thừa và phát
huy những tư tưởng thời kỳ Phục Hưng và cận đại, các nhà triết học cổ điển Đức đã khẳng định
con người là chủ thể, là sản phẩm của hoạt động tự nó, cho nó và vì nó cho nên thực tiễn cao hơn
lý luận, lịch sử chỉ là phương thức tồn tại của con người. Cá nhân có thể làm chủ được vận mệnh
của mình và cao hơn là tư tưởng con ngời trong bản chất xã hội => đã làm một bước rẽ trong việc
hình thành và phát triển của triết học, đó là lấy con người làm nền tảng, xuất phát điểm của mọi
vấn đề triết học.
Trong triết học cổ điển Đức thực tiễn và khoa học đã đặt ra yêu cầu là cần phải có phương
pháp tư duy để phản ánh chân thực về tồn tại mà lại thể hiện được tinh thần cách mạng của thời
đại. Các nhà triết học Đức đã tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong di sản triết học truyền
thống để xây dựng lên phép biện chứng của mình. Lần đầu tiên phép biện chứng tồn tại là một
phương pháp nhận thức có tính đồng kết, được biểu hiện chặt chẽ qua hệ thống các khái niệm
phạm trù. Mặc dù là phép biện chứng duy tâm nhưng vẫn được nhà sáng lập chủ nghĩa MácLênin đánh giá cao. Đó là một trong những cơ sở lý luận được triết học Mác đề ra.
Giá trị lịch sử của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức mạng lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử nhân
loại, nó đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người. Coi con người là chủ thể hoạt động, là
vấn đề nền tảng - xuất phát điểm của mọi vấn đề triết học.
9



Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã tạo ra những thành
quả kì diệu trong lịch sử triết học. Một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là
nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức
và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính
mình tạo ra. Nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người - tự
nhiên như một quá trình phát triển biện chứng. Tuy từ lập trường duy tâm nhưng các nhà triết
học cổ điển Đức đã xây dựng lên các hệ thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng,
logic biện chứng, học thuyết về các quá trình phát triển mà nổi trội nhất đó là phép biện chứng.
Có thể nói triết học cổ điển Đức đã phát triển một cách vượt bậc về mọi mặt trong lịch sử triết
học phương Tây. Triết học cổ điển Đức là một trong những tiền đề lí luận cơ bản của triết học
Mac và toàn bộ chủ nghĩa Mac-Lenin nói chung. Những hạn chế của triết học cổ điển Đức đã
được triết học Mac kế thừa, khắc phục và nâng lên ở trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại.
Một số triết gia tiêu biểu cho triết học cổ điển Đức : Imanuel Kant, Johann Gottlieb Fichte,
Friedrich Wilhelm Joseph Schelling, Georg Vinhem Phridich Hegel, Ludwid Feuerbach…
3.6. Một số trào lưu triết học phương Tây phi mác – xít hiện đại
Đến giữa thế kỷ XIX, với việc giai cấp tư sản nhiều nước Châu Âu lần lượt giành được
chính quyền. Từ sau đó, triết học đã dần xa rời truyền thống duy vật và biện chứng của triết học
Anh, Pháp , Đức, trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Nó chuyển hướng sang chủ nghĩa duy tâm
và phép siêu hình nên không còn đưa ra được một thế giới quan tích cực, giàu sức sống như nó đã
từng thể hiện trong mấy thế kỷ trước. Từ đầu thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai,
triết học phương Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều trường phái, nhưng xoay quanh
hai trào lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghiã nhân bản phi duy lý. Trào lưu
duy khoa học và trào lưu phi duy lý dường như đối lập nhau, nhưng trên thực tế lại bổ sung nhau,
vì chúng đều cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội tư bản, đều là phản ánh mâu thuẫn
trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Một số trường phái triết học tiêu biểu :
3.6.1. Chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản
phi duy lý. Triết học hiện sinh đặt lên vị trí hàng đầu tính đặc thù độc đáo của tồn tại con người.
Tính độc đáo này không thể nhận thức bằng khái niệm và cũng không thể diễn đạt qua ngôn ngữ.

Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học rất phức tạp. Quan điểm của những đại biểu
triết học này thường có sự khác nhau rất lớn. Nhưng tất cả những người theo chủ nghĩa hiện sinh
đều coi sự hiện sinh của cá nhân là nội dung cơ bản trong triết học của mình, đều coi hiện sinh là
sự cảm thụ chủ quan, sự thể nghiệm tâm lý có tính chất phi lý tính của cá nhân.
Về mặt bản thể luận, các nhà hiện sinh phân biệt hai khái niệm: hữu thể và hiện hữu (hiện
sinh). Hữu thể là khái niệm chỉ một cái gì đó (một vật, một người) đang tồn tại, đang có mặt,
nhưng chưa là một cái gì đó cụ thể cả, chưa có diện mạo, chưa có cá tính, tức là chưa hiện hữu.
Còn hiện hữu (hiện sinh) là một khái niệm chỉ một cái gì đó không những là đang có mặt (tồn tại)
mà còn là đang sống đích thực với diện mạo riêng.
Do đó, hiện sinh không phải là giới tự nhiên hoặc sự vật, mà là con người. Bởi vì chỉ có con
người mới có thể hiểu được sự tồn tại của bản thân và của sự vật khác, chỉ có con người mới hiện
10


sinh. Do đó, nhiệm vụ của triết học không phải tìm xem vật chất có trước ý thức như thế nào mà
là tìm xem bản thể của hiện sinh là gì? Nghĩa là phải xem xét bản chất con người trong hoạt đông
phi ký tính như thế nào. Thực chất, đây là bản thể luận duy tâm chủ quan.
Về mặt nhận thức luận, chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, những tri thức thu được bằng khoa học
dựa trên lý tính là hư ảo. Người ta càng dựa vào lý tính và khoa học thì càng khiến mình bị chi
phối, từ đó bị tha hoá.Theo họ, để đạt đến hiện sinh chân chính thì chỉ có thể dựa vào cảm thụ chủ
quan vào trực giác phi lý tính. Chỉ có trong cuộc sống đau khổ, cô đơn, tuyệt vọng, sợ hãi… con
người mới có thể trực tiếp cảm nhận được sự tồn tại của mình. Như vậy, nhận thức luận của chủ
nghĩa hiện sinh là nhận thức luận duy tâm chủ quan phi lý tính.
Về đạo đức, chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức quyết định luận trong đạo đức, phủ
nhận sự tồn tại phổ biến của những nguyên tắc đạo đức. Chủ nghĩa hiện sinh đề cao sự lựa chọn
tự do cá nhân. Tự do cá nhân là tuyệt đối. Rõ ràng, quan điểm về tự do của chủ nghĩa hiện sinh là
quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Về quan điểm lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt đối, cho rằng
chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh của cá nhân,
hơn nữa là phương thức hiện sinh không chân thực. Chính sự tồn tại của xã hội đã bóp chết cái cá

nhân, cái hiện sinh chân chính của cá nhân.Động lực phát triển của xã hội là ở hiện sinh của các
cá nhân.
Chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng của con người trước tình trạng bất ổn về xã hội trong thời
kỳ khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa tư bản như lo sợ chiến tranh, không tin vào khoa học,
đau khổ, phiền não, tuyệt vọng vì thế nó có ảnh hưởng mạnh mẽ rộng rãi đối với thế giới phương
Tây.
3.6.2. Chủ nghĩa Phơrớt
Chủ nghĩa Phơrớt cũng là một trường phái có ảnh hưởng rất lớn của trào lưu chủ nghĩa
nhân bản phi duy lý do nhà bệnh học tinh thần, nhà tâm lý học người Áo - Phơrớt sáng lập. Học
thuyết và phương pháp của Phơrớt có ý nghĩa thế giới quan và nhân sinh quan triết học, có ảnh
hưởng rộng lớn đối với các trường phái của chủ nghĩa nhân bản triết học phương Tây hiện đại.
Chủ nghĩa Phơrớt hình thành vào đầu thế kỷ XX, đặc biệt chú trọng giải thích đời sống nội
tâm của con người, giải thích các bệnh tinh thần.
Lý luận về vô thức là bộ phận quan trọng trong hệ thống phân tích tâm lý đầu tiên của
Phơrớt. Ông chia quá trình tâm lý của con người thành ba bậc: Ý thức, tiềm thức và vô thức. Sự
suy nghĩ của con người thường tiến hành giữa trạng thái vô thức và ý thức. Ý thức là tâm lý nhận
biết của con người. Còn vô thức là hiện tượng tâm lý nằm ngoài phạm vi của lý trí, do bản năng,
thói quen và dục vọng của con người gây ra. Tiềm thức là yếu tố trung gian, ở giữa ý thức và vô
thức, hoạt động theo nguyên tắc của tính hiện thực. Theo ông, ý thức không phải là thực chất của
hoạt động tâm lý mà chỉ là một thuộc tính không ổn định của hoạt động tâm lý. Vô thức mới là
căn cứ của hành vi con người.
Phơrớt có cống hiến quan trọng trong việc đề xuất việc nghiên cứu vai trò của vô thức
trong hệ thống phân tích tâm lý nhưng ông sai lầm là đã khuếch đại tác dụng của vô thức đối với
hành vi của con người, không đánh giá đúng vai trò của ý thức và các điều kiện xã hội.

11


Trong lý luận về nhân cách, Phơrớt đưa ra ba khái niệm “cái ấy”, “cái tôi” và “cái siêu
tôi”. Trạng thái tâm lý của người bình thường là người giữ được sự cân bằng giữa ba cái. Những

người mắc bệnh tâm thần là do mối quan hệ cân bằng giữa ba cái đó bị phá hoại.
Thuyết tính dục: tính dục là xung đột vĩnh hằng, ngay cả khi bị ý thức và tiền ý thức áp
chế, nó vẫn tìm cách bộc lộ ra, có khi bằng hệ thống ngụy trang xâm nhập vào hệ thống ý thức.
Do đó, về tâm lý thường có hiện tượng nằm mơ và những bệnh tâm thần khác. Nguyên nhân của
nhiều loại bệnh tâm thần là do bản năng tính dục bị đè nén. Bản năng tính dục của con người là
cơ sở duy nhất cho các hoạt động của con người.
Là một nhà khoa học, Phơrớt đã tiếp thu truyền thống duy vật của khoa học tự nhiên cổ
điển và của thuyết tiến hoá. Tuy nhiên trong thế giới quan triết học của ông bộc lộ những yếu tố
duy tâm khi ông đã sinh vật hoá những cái thuộc về tâm lý của con người, tự nhiên hoá những cái
thuộc về loài người, tâm lý hoá những cái thuộc về xã hội, và tuyệt đối hoá cái tâm lý trong đời
sống của con người. Có thể xem đó cũng là những sai lầm của chủ nghĩa Phơrớt.
3.6.3. Chủ nghĩa thực dụng
Chủ nghĩa thực dụng là một trường phái triết học phương Tây hiện đại đề cao kinh nghiệm
và hiệu quả, ra đời vào cuối thế kỷ XIX ở nước Mỹ. Giữa các đại biểu chủ yếu của chủ nghĩa thực
dụng có nhiều điểm khác nhau, nhưng nói chung, triết học của họ đều giới hạn trong phạm vi kinh
nghiệm, coi tri thức là công cụ để thích ứng với hoàn cảnh, coi chân lý là cái “có ích”. Chủ nghĩa
thực dụng thể hiện một cách nổi bật phương thức tư duy và phương thức hành động vì mục đích
tìm kiếm lợi nhuận của xã hội Mỹ. Vì vậy, nó trở thành một trong những trường phái triết học có
ảnh hưởng lớn nhất ở nước Mỹ từ đầu thế kỷ XX đến nay.
Nguyên tắc căn bản trong phương pháp luận của chủ nghĩa thực dụng là lấy hiệu quả, công
dụng làm tiêu chuẩn. So với các trường phái triết học phương Tây khác, chủ nghĩa thực dụng đã
phản ánh trực tiếp lợi ích và nhu cầu thực tế của giai cấp tư sản, nên nó đã gây ảnh hưởng tương
đối rộng lớn ở xã hội phương Tây. Một đặc điểm làm cho chủ nghĩa thực dụng khác với triết học
truyền thống là nó đã đi vào triết học từ phương pháp. Người đại biểu chủ yếu của nó đã có lúc đã
quy triết học chỉ còn là vấn đề phương pháp, tuyên bố chủ nghĩa thực dụng không phải là lý luận
triết học có hệ thống mà chỉ là lý luận về phương pháp.
Về nhận thức luận: Chủ nghĩa thực dụng nói đến một phương thức tư duy đặc thù. Phương
thức tư duy đó không xem xét khái niệm ở bản thân khái niệm mà đi sâu nghiên cứu xem khi
được sử dụng thì nó sản sinh ra hậu quả gì.Khái niệm và lý luận không phải là sự giải đáp về thế
giới.

Chủ nghĩa thực dụng đã sử dụng khái niệm “kinh nghiệm” để lẩn tránh vấn đề cơ bản của
triết học. Đối với người theo chủ nghĩa thực dụng thì “kinh nghiệm” không có tính chủ quan,
cũng không có tính khách quan mà là “kinh nghiệm thuần tuý” hoặc “kinh nghiệm nguyên thuỷ”.
Thực chất là họ đi theo con đường kinh nghiệm luận duy tâm của Beccơli. Như vậy, chủ nghĩa
thực dụng đã tuyệt đối hoá tác dụng của ý chí con người nên rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan
và chủ nghĩa duy ý chí.
Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng : Muốn xét một quan niệm có phải là chân
lý hay không, thì không cần phải xem nó có phù hợp với thực tế khách quan hay không, mà phải
xem nó có đem lại hiệu quả hữu dụng hay không. Hữu dụng và vô dụng đã trở thành tiêu chuẩn
để phân biệt chân lý và sai lầm. Quan niệm này không có căn cứ vì cái này hữu dụng với người
12


này nhưng lại vô dụng với người kia. Vậy không thể có chân lý đúng với người này và không
đúng với người kia trong cùng một thời điểm được.
3.6.4. Chủ nghĩa thực chứng
Chủ nghĩa thực chứng có ảnh hưởng lớn và lâu nhất trong các trường phái theo chủ nghĩa
duy khoa học.
Các nhà triết học thực chứng cho rằng chỉ có các hiện tượng hoặc sự kiện, mới là “cái thực
chứng”, do đó họ không thừa nhận bất cứ cái gì ngoài hiện tượng, không thừa nhận bản chất của
sự vật. Theo họ, những “khoa học” nào mà không “thực chứng” được thì không phải là triết
học.Từ đó, họ đi đến kết luận con người không cần tới triết học, vì triết học không phải là khoa
học.Điều này đồng nghĩa với việc họ phủ định triết học Mác-Lênin.
Chủ nghĩa thực chứng có những hình thức khác nhau của mình trong sự phát triển:
- Chủ nghĩa thực chứng mới: Chủ nghĩa thực chứng mới, hoặc triết học phân tích được hình
thành vào đầu thế kỷ XX coi nhiệm vụ phân tích hình thức và phân tích lôgíc là nội dung chủ yếu
của triết học.
- Giữa thập kỷ 20 của thế kỷ XX, xuất hiện chủ nghĩa thực chứng lôgíc, trường phái này phủ
nhận các vấn đề chủ yếu thường được nghiên cứu trong triết học truyền thống. Theo họ, triết học
chỉ còn nhiệm vụ tiến hành sự phân tích kết cấu lôgíc đối với tất cả mọi mệnh đề khoa học dựa

trên các tài liệu thực chứng (kinh nghiệm).
- Trước và sau chiến tranh thế giới thứ hai, trong triết học phân tích lại xuất hiện phái ngôn
ngữ học thường ngày.Trường phái này lại quy triết học thành sự phân tích ngôn ngữ tự nhiên, phủ
định ý nghĩa thế giới quan của triết học.
Như vậy, các triết gia thuộc trào lưu chủ nghĩa duy khoa học chủ trương xây dựng triết học
theo mô hình "các khoa học thực chứng". Theo họ, triết học không nên nghiên cứu những vấn đề
như bản chất của sự vật, các quy luật chung của thế giới, v.v mà đi tìm phương pháp khoa học có
hiệu quả nhất, đáng tin cậy nhất mới là nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu triết học.
Chủ nghĩa duy khoa học đã có công đi sâu nghiên cứu và tiếp thu nhiều thành quả trong toán
học và trong các khoa học tự nhiên hiện đaị, trong đó có những nhân tố tích cực, hạn chế của nó
là phủ nhận ý nghĩa thế giới quan của triết học, tức là phủ nhận bản chất triết học. Vì vậy, chủ
nghĩa duy khoa học không thể mở ra một con đường mới cho triết học.
3.6.5. Chủ nghĩa Thomas mới
Vào cuối thế kỷ XIX một hình thái mới của triết học Thiên Chúa giáo đã xuất hiện ở phương
Tây. Bắt nguồn từ học thuyết của Thánh Thomas ở Akvinô thuộc Italia. Hệ thống triết học tôn
giáo này lấy Chúa làm nòng cốt, lấy đức tin làm tiền đề, lấy thần học làm căn cứ, và gọi là Chủ
nghĩa Thomas mới.
Về nhận thức luận: chủ nghĩa Thomas mới một mặt thừa nhận tính khách quan của nhận thức
và tính đúng đắn của các phán đoán khoa học, mặt khác lại cho rằng sự tồn tại hữu hạn của thế
giới hiện thực phải có phần của sự tồn tại vô hạn của Chúa. Từ đó rút ra kết luận là tri thức lý tính
phù hợp với đức tin của con người.
Về triết học tự nhiên: lấy “hình thức” và “vật chất” theo tinh thần triết học của Arixtốt làm cơ
sở nghiên cứu tự nhiên. Đối tượng nghiên cứu cũng chính là đối tượng của đức tin và thần
học.Bởi vì Chúa là hình thức tối cao, là hình thức của các hình thức cho nên việc nghiên cứu của
khoa học tự nhiên là quá trình không ngừng phát hiện ra Chúa, khẳng định Chúa và không phủ
13


nhận Chúa.Vậy là khoa học và thần học đã hợp tác rất hoà thuận để phát hiện và chứng minh sự
tồn tại vĩnh hằng của Chúa.

Về lý luận chính trị xã hội: Chủ nghĩa Tôma mới phủ nhận sự tồn tại của các giai cấp, chủ
trương thuyết tính người trừu tượng, coi cuộc sống trần thế là tạm thời, cuộc sống tương lai ở
thượng giới mới là vĩnh hằng. Muốn cứu rỗi con người phải dựa vào đức tin của Chúa.
Chủ nghĩa Thomas mới cũng giống như chủ nghĩa Thomas thời trung cổ, vẫn lấy Chúa làm
nguyên tắc tối cao, làm điểm xuất phát và điểm kết của mọi sự vật. Chỗ khác nhau giữa hai chủ
nghĩa đó là: để thích ứng với nhu cầu thời đại, chủ nghĩa Thomas mới đã thừa nhận ở mức độ
nhất định vai trò của khoa học, đã đi sâu hơn vào nhận thức luận và triết học tự nhiên để luận
chứng cho sự nhất trí giữa tri thức và đức tin, khoa học và thần học.

\

CHUYÊN ĐỀ 3: MỐI QUAN HỆ TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC
1. Triết học và khoa học thời cổ đại. Triết học tự nhiên : vai trò lịch sử và hạn chế của nó
Thời kỳ cổ đại do trình độ nhận thức còn ở điểm xuất phát, các tri thức khoa học còn tản
mạn, sơ khai, nên triết học hầu như là dạng lý luận duy nhất, bao trùm, giải quyết các vấn đề về
tự nhiên, xã hội lúc ấy thực ra chỉ là những phác thảo sơ lược, chưa cụ thể, hoàn thiện. Tính bao
trùm ấy của tri thức triết học khiến nó được xem như “môn khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các
14


môn khoa học khác”. Quan niệm này tồn tại khá lâu trong lịch sử và Ph. Ăngghen đã gọi hệ thống
Hegel là “cái thai đẻ non cuối cùng” .
Thời cổ đại Hy Lạp, triết học có khuynh hướng nghiêng về thảo luận bản thể, bản tính thế
giới, thể hiện chủ nghĩa lý tính, hướng về khoa học ngoại tại , khách quan. Vì vậy, triết học Hy
Lạp cổ đại đã chứa đựng mầm mống của tất cả thế giới quan duy vật. Triết học duy vật mộc mạc
và phép biện chứng tự phát là tương ứng với trình độ ban đầu của khoa học tự nhiên, những kiến
thức khoa học về tự nhiên, dưới hình thức những dự kiến, những phát kiến rời rạc, chưa có hệ
thống, đang hòa lẫn trong kho tàng các kiến thức triết học. Thời kỳ này, triết học không độc lập
với các tri thức khoa học mà thực chất là đồng nhất với chúng để hình thành môn khoa học tổng
hợp. Các nhà triết học đầu tiên ở Hy Lạp cũng đồng thời là những nhà khoa học tự nhiên. Triết

học duy vật mộc mạc và biên chứng tự phát cổ đại Hy Lạp được gọi là triết học tự nhiên.
Triết học tự nhiên xuất hiên từ thời cổ đại và trên thực tế được coi là hình thức lịch sử đầu
tiên của triết học [phương Tây].Triết học tự nhiên thịnh hành ở phương Tây vào lúc khoa học thực
nghiệm chưa phát triển cao, không đủ để tìm ra quy luật của các hiện tượng tự nhiên. Chính vì vậy
mà trên thực tế, triết học tự nhiên là mang tính tư biện (speculation): những giải thích của nó về thế
giới chủ yếu là dựa trên những phỏng đoán, giả định, nhưng cũng đưa ra những giả thuyết, chứa
đựng nhiều tư tưởng tích cực có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của khoa học.
Bức tranh đầu tiên về thế giới đầu tiên này , về căn bản là tính đúng đắn. Nó được tạo ra
trên những kết luận về trạng thái của các sự vật và hiện tượng xảy ra trong tự nhiên. Nhưng bức
tranh mới chỉ nêu lên những hiểu biết về cái toàn thể, mà chưa nêu lên được những hiểu biết chi
tiết , những biểu tượng cụ thể của các sự vật, hiện tượng. Nó nêu lên được trạng thái vận động,
liên hệ, tác động và chuyển hóa lẫn nhau trong giới tự nhiên, nhưng không nêu lên được vì chính
cái gì đó đang vận động, liên hệ, tác động và chuyển hóa lẫn nhau.
Do trình độ hiểu biết về tự nhiên còn ít ỏi và rời rạc, mang tính trực quan là chính, chưa
cho phép tiến hành những khái quát khoa học dưới sự chỉ đạo của tư tưởng triết học, để rút ra
những yếu tố vật lý có tính chất nguyên lí, lí luận liên kết thành hệ thống, cho phép giải thích
đúng đắn sự đa dạng của các hiện tượng trong tự nhiên và tiên đoán những diễn biến trong tương
lai => trong một thời gian dài,mặc dù triết học đã có những tư tưởng thiên tài nhưng chưa đem lại
kết quả cụ thể nào cho khoa học.
Triết học tự nhiên: vai trò lịch sử và hạn chế của nó
Khi mới ra đời, đối tương nghiên cứu của triết học là mọi lĩnh vực tri thức. đây cũng là nguyên
nhân dẫn đến quan niệm cho rằng “ Triết học là khoa học của các khoa học”. Thời kỳ này triết
học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, đặt nền móng cho sự phát triển về sau không chỉ với triết
học mà còn đối với hoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Sự ra đời và phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại có một số đặc điểm như: gắn hữu cơ với
khoa học tự nhiên, hầu hết các nhà triết học duy vật đều là các nhà khoa học tự nhiên; sự ra đời
rất sớm chủ nghĩa duy vật mộc mạc, thô sơ và phép biện chứng tự phát; cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm biểu hiện qua cuộc đấu tranh giữa đường lối triết học của
Đêmôcrít và đường lối triết học của Platôn, đại diện cho hai tầng lớp chủ nô dân chủ và chủ nô
quý tộc; về mặt nhận thức, triết học Hy Lạp cổ đại đã theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy giác.


15


Nhìn chung, bên cạnh những giá trị lịch sử to lớn, triết học tự nhiên thời kỳ này vẫn mang tính
chất sơ khai, tư biện, các khoa học vẫn chỉ là thứ yếu bên dưới bị chi phối bởi triết học.
- Một số triết gia tiêu biểu:
+ Hêraclit (520 - 460 tr. CN)
Hêraclit là nhà biện chứng nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại
+ Đêmôcrít (khoảng 460 - 370 tr. CN)
Đêmôcrít là đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại. Nổi bật trong triết học duy
vật của Đêmôcrít là thuyết nguyên tử.
+ Arixtốt (384 - 322 tr. CN)
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác coi Arixtốt là bộ óc bách khoa nhất trong số các nhà tư
tưởng cổ đại Hy Lạp. Triết học của ông cùng với triết học của Đêmôcrít và Platôn làm nên
giai đoạn phát triển cao nhất của triết học Hy Lạp.
Là bộ óc bách khoa, Arixtốt đã nghiên cứu nhiều ngành khoa học: triết học, lôgíc học, tâm
lý học, khoa học tự nhiên, sử học, chính trị học, đạo đức học, mỹ học.
2. Triết học và khoa học thời kỳ Phục hưng và cận đại
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là sự phát triển mạnh mẽ nhanh chóng của khoa học, đặc
biệt là khoa học tự nhiên. Mối quan hệ triết học và khoa học có sự đổi chiều. Khoa học tự nhiên
từ chỗ trước kia chỉ có vai trò phụ thuộc, bị dẫn dắt bởi triết học, thì giờ đây càng ngày càng độc
lập hơn trong lĩnh vực nghiên cứu của mình, hơn nữa còn tác động quyết định đến khuynh
hướng phát triển của triết học và phương pháp tư duy. Cụ thể như sau:
- Do khoa học phát triển mạnh mẽ nên phản bác được phần nào các quan điểm duy tâm thần
thánh để giải thích thế giới bằng phương pháp khoa học. Đây là nguyên nhân và động lực dẫn đến
sự phát triển của khuynh hướng duy vật.
- Đặc điểm khoa học tự nhiên thời kỳ này là khoa học thực nghiệm (trừ cơ học đạt trình độ lý
thuyết), sử dụng tư duy siêu hình máy móc. Điều này được lý giải do thời kỳ đầu của nghiên cứu
khoa học thì công việc chính là sưu tập, thu thập tài liệu dẫn đến phải chia nhỏ giới tự nhiên

thành các bộ phận và xem xét các sự vật, sự việc trong sự tách rời, không có mối liên hệ với các
sự vật khác. Mặt khác, do cơ học phát triển mạnh mẽ, đạt đến trình độ cao nên có ảnh hưởng đến
tư duy của triết học: các nhà triết học thời kỳ này có tham vọng dùng nguyên lý cơ học để giải
thích toàn bộ sự đa dạng của thế giới ở tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội...
Thời kỳ Phục Hưng
Thời kì Phục hưng của các nước Tây Âu là giai đoạn lịch sử quá độ từ xã hội phong kiến
sang xã hội tư bản (thế kỷ XV – XVI).
Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học, kĩ thuật.
Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, khoa học kĩ thuật và tư tưởng thời kì Phục hưng cũng
đạt được sự phát triển mạnh mẽ. Các nhà tư tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo
lý Trung cổ. Thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich đã giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan
tôn giáo, thần học. Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trước một cuộc cách
mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra
16


Trong thời đại Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học duy vật, vận dụng
nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học Trung cổ. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật
chống chủ nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc thù là khoa học chống tôn
giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh viện. Cuối cùng, sự chuyên chính của
giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung cổ đã không ngăn được sự phát triển bước
đầu của khoa học thực nghiệm và triết học duy vật – tiền đề cho những thành tựu mới và những
đặc điểm mới của triết học trong các thế kỷ tiếp theo.
Thời kỳ cận đại
Sự phát triển của lực lượng sản xuất mới làm cho quan hệ sản xuất phong kiến trở nên lỗi
thời và mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt là nguyên nhân
chính của những cuộc cách mạng thời kì này.
Khoa học tự nhiên rất phát triển, phương thức sản xuất TBCN dần thay thế phương thức sản
xuất phong kiến. Các cuộc cách mạng tư sản nổ ra ở khắp nơi, tiêu biểu là cuộc cách mạng tư sản
Pháp. Nó tạo đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát triển mà trước hết là khoa

học tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt tới trình độ là cơ sở cổ điển. Đặc điểm của khoa học tự nhiên
thời kì này là khoa học tự nhiên - thực nghiệm, chia nhỏ giới tự nhiên để tiến hành sưu tập, thu
thập tài liệu, về cơ bản coi chúng là bất biến nên tư duy siêu hình được sử dụng phổ biến.
Hạn chế đặc thù của TK 15-16 là tư duy siêu hình. Tư duy triết học bị ảnh hưởng bởi những
thanh tựu của cơ học, dẫn đến việc các nhà triết học mong muôn giải thích giới tự nhiên bằng cá
thành tựu của cơ học. Đó là nguyên nhân chủ yếu làm cho triết học duy vật thời kỳ này mang
nặng tính máy móc siêu hình.
3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên hiện đại
- Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã đem đến một quan điểm mới, tích cực về
mối quan hệ giữa triết học và khoa học. Triết học và khoa học là những lĩnh vực nhận thức khác
nhau, chúng có đặc điểm và đối tượng nghiên cứu riêng. Mối quan hệ giữa triết học với khoa học
là mối quan hệ biện chứng, thống nhất của các mặt đối lập.
- Trong mối quan hệ giữa triết học duy vật và khoa học tự nhiên, một mặt, các khoa học cụ
thể đem đến cho triết học chất liệu sống, căn cứ vào đó các nhà triết học nêu lên và luận chứng
các quan điểm của mình phù hợp (dù không bao giờ có tính tuyệt đối) với những biến đổi của lịch
sử và góp phần cũng những lĩnh vực tri thức khác dự báo, gợi mở những vấn đề của tương lai.
- Trong mối quan hệ giữa triết học duy vật và khoa học tự nhiên, một mặt, các khoa học cụ
thể đem đến cho triết học chất liệu sống, căn cứ vào đó các nhà triết học nêu lên và luận chứng
các quan điểm của mình phù hợp (dù không bao giờ có tính tuyệt đối) với những biến đổi của
lịch sử và góp phần cũng những lĩnh vực tri thức khác dự báo, gợi mở những vấn đề của tương
lai.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng đóng vai trò lớn với các nhà khoa học trong việc tìm thấy
cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của triết học. Nắm được phương pháp biện chứng, nhà
khoa học sẽ có một công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu bất kì lĩnh vực khoa học nào và ngược
lại, trong bất kì lĩnh vực khoa học nào người nghiên cứu muốn đạt đến chân lý thì cũng phải áp
dụng phương pháp biện chứng. Tuy vậy, phương pháp biện chứng cũng chỉ là phương pháp khái
quát và chung nhất, cần phải được cụ thể hoá, cá thể hoá cho từng khoa học cụ thể.
17



- Chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng đã góp phần
giúp cho các nhà khoa học nhìn nhận được sự vật đúng như chúng vốn có, nhờ đó giúp các nhà
khoa học sớm phát hiện ra được sự thật và xây dựng các lý thuyết phản ánh sự vật một cách chính
xác hơn, tránh các sai lầm phiến diện, giản đơn hay máy móc trong công tác nghiên cứu của
mình. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn trong gian đoạn hiện nay khi khoa học ngày càng
phát triển mạnh mẽ và có sự phân ngành sâu sắc.
- Đến giữa thế kỷ XIII, khoa học tự nhiên chuyển sang giai đoạn mới cao hơn, giai đoạn
tổng hợp, trở lại nghiên cứu giới tự nhiên với tính cách là một chỉnh thể, toàn bộ, liên tục, vĩnh
viễn vận động và phát triển, liên hệ, tác động lẫn nhau không ngừng.
- Thời kì hiện đại với sự bùng nổ của khoa học với rất nhiều những phát minh quan trọng.
trong đó có Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, Thuyết cấu tạo tế bào và Thuyết tiến
hóa của các loài được coi là 3 phát minh vĩ đại nhất của thế kỷ XIX. Nhờ 3 phát minh này cùng
với nhiều thành tựu khoa học khác giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về triết học và khoa học tự
nhiên hiện đại.
- Khoa học và triết học là hai lĩnh vực nhận thức hoàn toàn khác nhau. Đó là những hình
thái ý thức xã hội đặc thù phản ánh các lĩnh vực khác nhau của thế giới. Chúng xuất hiện, tồn tại,
vận động và phát triển trên cơ sở của những điều kiện kinh tế - xã hội, và chịu sự chi phối của
những quy luật nhất định. Đồng thời, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
- Khoa học là một căn cứ chủ yếu và quan trọng của triết học. Trong mối quan hệ giữa triết
học duy vật và khoa học tự nhiên, một mặt, các khoa học cụ thể đem đến cho triết học chất liệu
sống, căn cứ vào đó các nhà triết học nêu lên và luận chứng các quan điểm của mình phù hợp (dù
không bao giờ có tính tuyệt đối) với những biến đổi của lịch sử, và góp phần cùng những lĩnh vực
tri thức khác dự báo, gợi mở những vấn đề của tương lai
- Quan hệ giữa triết học và khoa học không hoàn toàn đồng nhất nhưng cũng không hoàn
toàn loại trừ nhau. Tùy từng giai đoạn phát triển mà mặt này hay mặt kia nổi trội. Quan hệ giữa
triết học với khoa học tự nhiên, với các khoa học chuyên biệt nói chung trải qua quá trình lịch sử
lâu dài.Và đứng trước những đổi thay lớn lao của cách mạng khoa học – công nghệ, đặc biệt là
khoa học tự nhiên hiện đại, thì nhà khoa học không còn có thể chỉ dừng lại ở những vấn đề
chuyên môn hẹp của mình, họ không chỉ vấp phải những vấn đề phương pháp luận mà cả những

vấn đề triết học do chính lĩnh vực của mình đặt ra và buộc họ phải suy nghĩa để giải quyết. Lâu
nay một số người quan tâm đến triết học đã có sự ngộ nhận rằng, triết học là một khoa học chỉ
thuộc về nội dung của phạm trù khoa học xã hội – nhân văn. Nhưng ngược dòng thời gian, chúng
ta biết rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học và khoa học tự nhiên đã không tách rời nhau và
được gọi bằng một tên chung: Triết học tự nhiên, bắt đầu từ khoa học tự nhiên. Nhưng như chính
C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định, việc khôi phục triết học tự nhiên theo nghĩa đen của nó
(triết học là “khoa học của mọi khoa học”) vào thời kỳ nửa sau của thế kỷ XIX là điều không thể.
Bởi vì, khoa học triết học và các khoa học cụ thể hiện nay đã tồn tại trong môi trường mới với
những yêu cầu mới được đặt ra từ cuộc sống và từ vấn đề học thuật. Tuy vậy, mối liên hệ giữa
triết học và khoa học tự nhiên không vì thế mà giảm đi ảnh hưởng tác động lẫn nhau. Đặc biệt là
mối quan hệ giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên là mối quan hệ qua lại,
nương tựa lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Có thể nói rằng, từ khi chủ nghĩa duy vật
18


biện chứng ra đời thì mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên mới thật sự bước sang một
giai đoạn mới.
4. Quan điểm của chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan
hệ giữa triết học và khoa học
4.1. Quan điểm chủ nghĩa thực chứng về triết học và khoa học
Chủ nghĩa thực chứng là một khuynh hướng nhận thức luận của triết học và xã hội
học cho rằng phương pháp khoa học là cách thức tốt nhất để lý giải các sự kiện của tự nhiên, xã
hội và con người. Khái niệm này được phát triển ở đầu thế kỷ 19 bởi nhà triết học và xã hội học
người Pháp, Auguste Comte.
Quan điểm của chủ nghĩa thực chứng về triết học và khoa học
Các nhà triết học thực chứng cho rằng, chỉ có các hiện tượng hoặc sự kiện, mới là "cái thực
chứng", do đó họ không thừa nhận bất cứ cái gì ngoài hiện tượng, không thừa nhận bản chất của
sự vật, họ muốn lẩn tránh vấn đề cơ bản của triết học, muốn loại trừ vấn đề thế giới quan ra khỏi
triết học truyền thống. Auguste Comte cho rằng, triết học phải lấy các sự vật "thực chứng", "xác
thực" làm căn cứ.

Một số nhà triết học đã cho rằng, chính việc nghiên cứu các phương pháp đó mới là nhiệm vụ,
nội dung chủ yếu của triết học. Thậm chí có nhà triết học còn cho rằng, việc toán học hóa, logic
học hóa triết học mới là lối thoát của triết học hiện đại.
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, trong triết học phân tích đã xuất hiện một chi phái lớn: Chủ
nghĩa kinh nghiệm logic, hoặc còn gọi là chủ nghĩa thực chứng logic.
Chủ nghĩa thực chứng logic sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là của logic toán
lý từ đầu thế kỷ XX đến nay, đem tất cả các tri thức quy thành các mệnh đề có thể dùng logic
toán để biểu thị. Trên cơ sở đó, triết học chỉ còn nhiệm vụ tiến hành sự phân tích kết cấu logic đối
với tất cả mọi mệnh đề khoa học dựa trên các tài liệu thực chứng (kinh nghiệm). Nếu chủ nghĩa
thực chứng logicquy nhiệm vụ triết học thành sự phân tích logic, thì trường phái ngôn ngữ luôn
luôn quy triết học thành sự phân tích ngôn ngữ tự nhiên, cả hai đều phủ định ý nghĩa thế giới
quan của triết học. Chủ nghĩa thực chứng logic chỉ tiến hành phân tích logic ở trạng thái tĩnh đối
với lý luận khoa học.
Chủ nghĩa duy khoa học đã có công đi sâu nghiên cứu và tiếp thu nhiều thành quả trong toán
học và trong các khoa học tự nhiên hiện đại, nêu ra nhiều vấn đề mới cho triết học, mở ra nhiều
hướng mới cho sự phát triển triết học duy vật và phép biện chứng.
Tất nhiên, trào lưu triết học này có một mâu thuẫn, do đó cũng là sai lầm không thể khắc phục
được: do muốn phá vỡ một số công thức của triết học truyền thống, nên đã cực đoan phủ nhận ý
nghĩa thế giới quan của triết học, tức là phủ nhận bản thân triết học. Vì vậy chủ nghĩa duy khoa
học không thể mở ra một con đường mới thực sự đúng đắn cho sự phát triển của triết học.
4.2. Sự tương tác giữa triết học duy vật biện chứng và khoa học
- Phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là một bộ phận
của học thuyết triết học do Karl Marx đề xướng. Đặc trưng của phương pháp duy vật biện chứng
là coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối
quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa
duy vật kết hợp với phép biện chứng.
19


Quan điểm của triết học duy vật biện chứng và khoa học

Triết học và khoa học luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển của khoa học tự
nhiên vào thế kỷ XIX đã lật đổ quan niệm cũ siêu hình và vạch rõ phép biện chứng khách quan
vốn có của mọi hiện tượng, quá trình trong tự nhiên. Triết học duy vật biện chứng tìm thấy ở
khoa học tự nhiên những cơ sở khoa học vững chắc để khái quát nên những nguyên lý, quy luật
chung nhất của mình, còn khoa học tự nhiên lại tìm thấy trong triết học duy vật biện chứng thế
giới quan, phương pháp luận đúng đắn, sắc bén để đi sâu nghiên cứu giới tự nhiên.
Triết học khái quát những kết quả nghiên cứu của khoa học tự nhiên, rút ra những kết luận có
ý nghĩa về mặt thế giới quan và phương pháp luận chung, giúp cho các nhà khoa học tự nhiên
xác định phương hướng và phương pháp nghiên cứu của mình. Đồng thời triết học duy vật biện
chứng cũng chỉ rõ sự phát triển của khoa học không thể thiếu được vai trò của triết học, bởi triết
học tác động đến phương pháp tư duy của con người. Sự phát triển của triết học tương ứng với sự
phát triển của khoa học tự nhiên.
Khoa học triết học và các khoa học cụ thể hiện nay đã tồn tại trong môi trường mới với những
yêu cầu mới được đặt ra từ cuộc sống và từ vấn đề học thuật. Tuy vậy, mối liên hệ giữa triết học
và khoa học tự nhiên không vì thế mà giảm đi ảnh hưởng tác động lẫn nhau. Phép biện chứng
chính là cơ sở phương pháp luận đối với khoa học tự nhiên, giúp các nhà khoa học khắc phục
những hạn chế trong khi tiếp cận với các vấn đề lý luận chung.
Như vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng nói chung, phép biện chứng duy vật nói riêng đã góp
phần giúp cho các nhà khoa học nhìn nhận được sự vật đúng như chúng vốn có, nhờ đó giúp nhà
khoa học sớm phát hiện ra được sự thật và xây dựng các lý thuyết phản ánh sự vật một cách chính
xác hơn, tránh được các sai lầm phiến diện, giản đơn hay máy móc, giáo điều trong công tác
nghiên cứu của mình. Điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà khoa
học đã có sự phân ngành ngày càng sâu sắc, khi mà khoa học tự nhiên đã và đang đi vào những
lĩnh vực chuyên môn rất hẹp và do đó dễ nhìn sự vật một cách phiến diện. Đây cũng là vấn đề hết
sức quan trọng trong bối cảnh của việc tổng hợp tri thức khoa học ngày nay.

(CHUYÊN ĐỀ 2.3: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của cách tiếp cận hình
thái kinh tế - xã hội trong nhận thức phát triển xã hội)
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Hình thái kinh tế - xã hội

1.1. Khái niệm hình thái kinh tế xã hội
Là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng
về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với
20


một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là
các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội
và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
1.2. Cấu trúc hình thái kinh tế xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các
mặt cơ bản là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Mỗi
mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau.
“Khi phân tích những hình thái kinh tế, người ta không thể dùng kính hiển vi hay
những chất phản ứng hóa học được. Sức trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó”.C.Mác

Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
- Lực lượng sản xuất: là toàn bộ các lực lượng được con người sử dụng trong quá trình
sản xuất ra của cải vật chất. Nó bao gồm người lao động với một thể lực, tri thức, kỹ năng lao
động nhất định và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức
lao động của con người kết hợp với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, tạo thành lực
lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất. Nó thể hiện năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra
của cải vật chất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, lực lượng sản xuất hàng đầu là “người lao động”.
Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất. Bằng thể lực tri thức và kỹ năng
lao động của mình, người lao động sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác
động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với người lao động, công cụ
lao động là yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất.

Công cụ lao động là yếu tố động nhất trong tư liệu sản xuất, nó không ngừng được cải tiến và
hoàn thiện trong quá trình lao động sản xuất. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công
cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển của công cụ lao động và
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế
trong lịch sử.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của một hình thái kinh tế - xã hội. Hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
- Quan hệ sản xuất: là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất (sản
xuất và tái sản xuất xã hội). Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ
trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất. Trong ba mặt
của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản,
đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ tổ chức quản lý sản xuất
và quan hệ phân phối sản phẩm. Trong lịch sử có hai loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất:
sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản
xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất.
21


Dó đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu
công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộn
đồng. Dó đó, quan hệ giữa người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ
chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó do quan hệ sở hữu quy định và phải thích ứng với quan
hệ sở hữu. Tuy nhiên, có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở
hữu làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó tác động đến thái độ của con người trong

lao động sản xuất và đồng thời nó cũng tác động trở lại quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và
quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng
với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Trong hai mặt đó, lực lượng sản xuất là nội dung,
thường xuyên biến đổi, phát triển; quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, tương đối ổn
định. Sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất góp phần tạo nên sự vận động, phát triển, thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế- xã hội.
- Cơ sở hạ tầng: là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã
hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể, trừ xã hội nguyên thủy, đều bao gồm quan hệ
sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã
hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chỉ đạo, chi phối các
quan hệ sản xuất khác, quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế- xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ
tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy
nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Như vậy, xét trong phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất hợp
thành cơ sở kinh tế của xã hội, tức cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng
tương ứng.
- Kiến trúc thượng tầng: là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo
hội, các đoàn thể xã hội… được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Trong kiến trúc thượng tầng có nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có đặc điểm riêng, có quy luật
phát triển riêng, nhưng chúng liên hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Tất cả các yếu tố đều
hình thành, phát triển trên cơ sở hạ tầng, song yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ
sở hạ tầng. Có những yếu tố như chính trị, pháp quyền có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn
các yếu tố như triết học, tôn giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp.
Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp. Đó chính là cuộc đấu
tranh về mặt chính trị, tư tưởng giữa các giai cấp đối kháng, trong đó, đặc trưng là sự thống trị về
mặt chính trị- tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong chính trị, nhà nước đóng vai trò quan trọng
nhất. Nó tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống

trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh tế- xã hội,
chúng thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó, có sở hạ tầng quyết
định kiến trúc thượng tầng; song kiến trúc thượng tầng cũng có tác động tích cực trở lại cơ sở hạ
tầng.
22


1.3. Sự phát triển của hình thái kinh tế xã hội (Bao gồm cả các loại hình thái kinh tế xã hội)
Hình thái kinh tế xã hội được xem như là một cơ thể, một hệ thống hoàn chỉnh luôn luôn
vận động và phát triển. Trong đó, các mặt của hình thái kinh tế - xã hội tác động qua lại với nhau
tạo nên các quy luật vật động, phát triển khách quan của xã hội. Chính sự tác động của các quy
luật khách quan đó mà hình thái kinh tế xã hội tuy là phạm trù xã hội nhưng lại có khuynh hướng
phát triển như một quy luật tự nhiên, nó vận động phát triển từ thấp đến cao. Xã hội loài người đã
phát triển qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau.
Lịch sử phát triển của xã hội là lịch sử vận động, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các
hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao. Sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
là do sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất, giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Nguồn gốc sâu xa của sự thay thế nhau giữa
các hình thái kinh tế xã hội nằm ở chỗ:
• Sự phát triển của lực lượng sản xuất gây nên sự thay đổi của quan hệ sản xuất
Sản xuất vật chất luôn luôn được tiến hành bằng một phương thức sản xuất nhất định. Mỗi
xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất quyết
định tất cả các mặt của đời sống xã hội. Sự vận động, phát triển, thay thế lẫn nhau của các
phương thức sản xuất quyết định sự phát triển của xã hội từ thấp đến cao. Phương thức sản xuất
lại là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng: sự vận động, phát triển của phương thức sản xuất do sự tác động qua lại một cách biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tồn tại không tách rời nhau, thống nhất biện chứng
với nhau trong phương thức sản xuất nhất định. Sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng

tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất bắt nguồn từ đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã
hội là phải không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất
trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn
lịch sử đó.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, làm cho quan
hệ sản xuất biến đổi phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là trạng thái mà trong đó, quan hệ sản xuất là “hình
thức phát triển” của lực lượng sản xuất.
Song, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định lại làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó
quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát
triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu sẽ dẫn đến thay thế quan
hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản
xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc
lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp
23


với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu, hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
• Sự thay đổi của quan hệ sản xuất(với tư cách là cơ sở hạ tầng) sẽ làm cho kiến trúc thượng
tầng thay đổi.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội
nhất định. Cơ sở hạ tầng của mỗi xã hội cụ thể, trừ xã hội nguyên thủy, đều bao gồm quan hệ sản

xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội
tương lại. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi phối các
quan hệ sản xuất khác, quy định xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Bởi vậy, cơ sở hạ
tầng của một xã hội cụ thể được đặc trung bởi quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội đó. Tuy
nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ thuật...cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo
hội, các đoàn thể xã hội...được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định. Trong kiến trúc thượng
tầng có nhiều yếu tố, mỗi yếu tố có đặc điểm riêng, có quy luật phát triển riêng, nhưng chúng liên
hệ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Tất cả các yếu tố đều hình thành, phát triển trên cơ sở hạ
tầng, song yếu tố khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng. Có những yếu tố như
chính trị, pháp quyền có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng; còn các yếu tố như triết học, tôn
giáo, nghệ thuật chỉ quan hệ gián tiếp.
Vai trò của sơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ mỗi cơ sở hạ tầng sẽ
hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng với nó. Tính chất của cơ sơ hạ tầng quyết
định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng cũng
thay đổi theo.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai chiều. Nếu kiến
trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh
mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển; ngược lại, nó sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, kìm hãm tiến bộ xã
hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội,
chúng thống nhất biệ chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Tuy kiến trúc thượng tầng có tác
động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được xu hướng phát triển
khách quan của xã hội. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn,
bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng
tầng mới tiến bộ để thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.
• Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên
Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp nhau. Trên cơ
sở phát hiện ra các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội, C.Mác đã đi đến kết luận

các hình thái kinh tế xã hội vậng động, phát triển theo quy luật khách quan chứ không theo ý
muốn chủ quan của con người
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là ở sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định làm thay đổi
quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay
đổi theo, và do đó mà các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ hình
thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn.
24


Tuy nhiên, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật
chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện phát triển cụ thể của mỗi dân tộc, như về điều kiện tự
nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về tác động quốc tế...Vì vậy, lịch sử phát triển nhân
loại vừa tuân theo những quy luật chung, vừa rất phong phú, đa dạng.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra theo con
đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, một
hoặc một số hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Các loại hình thái kinh tế xã hội
 Hình thái kinh tế - xã hội công xã nguyên thủy.
Đây là hình thái KTXH đầu tiên và sơ khai nhất trong lịch sử loài người. Một số đặc trưng
nổi bật của hình thái này là:
- Tư liệu lao động thô sơ, chủ yếu sử dụng đồ đá, thân cây làm công cụ lao động
- Cơ sở kinh tế là sự sở hữu chung về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động
- Là xã hội chưa có giai cấp, Nhà nước và pháp luật
- Quan hệ sản xuất là quan hệ bình đẳng, cùng làm cùng hưởng thụ.
 Hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ.
Khi chế độ thị tộc tồn tại trong công xã nguyên thủy tan rã và hình thành nên xã hội có Nhà
nước, và cuộc cách mạng xã hội đầu tiên trong lịch sử loài người đã hình thành nên hình thái
KTXH chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của hình thái này là đã thay thế chế độ công hữu (sở hữu
chung) về từ liệu sản xuất sang chế độ tư hữu chủ nô, thay thế xã hội không có giai cấp thành xã

hội có giai cấp đối kháng (chủ nô – nô lệ), thay thế chế độ tự quản thị tộc bằng trật tự có nhà
nước của giai cấp chủ nô. Giai cấp chủ nô dùng bộ máy cai trị của mình bóc lột tàn nhẫn sức lao
động của nô lệ, nô lệ trong xã hội này được coi như một công cụ lao động biết nói. Hình thái này
cũng tạo ra kiểu nhà nước đầu tiên: Nhà nước chủ nô.
 Hình thái kinh tế - xã hội phong kiến.
Giai cấp thống trị mới trong hình thái này là giai cấp quý tộc – địa chủ, giai cấp bị trị là
nông nô. Phương pháp bóc lột sức lao động trong xã hội chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng hình
thức bóc lột địa tô – người nông dân được giao đất đai và canh tác trên thửa ruộng của mình, đến
kỳ hạn nộp tô thuế cho địa chủ. So với hình thái chiếm hữu nô lệ, hình thức lao động trong thời
kỳ phong kiến đã tiến bộ hơn nhiều, tuy phải nộp tô thuế nhưng nông dân vẫn có thể được giữ lại
phải của cải dư thừa của mình. Đồng thời nhiều tầng lớp, giai cấp mới đã xuất hiện trong xã hội.
 Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa
Xuất hiện đầu tiên ở châu Âu, phôi thai và phát triển trong lòng xã hội phong kiến châu Âu
và chính thức xác lập như một hình thái KTXH đầu tiên ở Anh và Hà Lan vào thế kỷ 17. Adam
Smith (1723-1790) là người có đóng góp to lớn nhất xây dựng một hệ thống lý luận tương đối
hoàn chỉnh về chủ nghĩa tư bản tự do hay tự do kinh tế. Những nét đặc trưng cơ bản của hình thái
KTXH tư bản chủ nghĩa:
- Quyền sở hữu tư nhân và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo vệ và coi như quyền
thiêng liêng của con người.
- Cá nhân dùng sở hữu tư nhân để kinh doanh trong điều kiện thị trường tự do: mọi sự phân
chia của cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế.
25


×