Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

ÁO DÀI VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH ( 1 )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.5 KB, 6 trang )

Chiếc áo dài và lịch sử hình thành
Đến nay vẫn chưa ai xác định được chính xác nguồn gốc của chiếc áo dài đã gắn bó
với người phụ nữ Việt Nam từ lúc nào. Theo các nhà khảo cổ, hình ảnh chiếc áo dài
với hai tà phất phơ trong gió đã được tìm thấy trong các hình ảnh khắc trên các cổ vật
như mặt trống đồng Ngọc Lũ, Hòa Bình, Hoàng Hạ, trên tháp đồng Đào Thịnh vào
khoảng ba ngàn năm về trước. Theo truyền thuyết thì Hai Bà Trưng đã mặc áo dài hai
tà giáp vàng, che lọng vàng khi cưỡi voi ra trận. Sau này, vì tôn kính Hai Bà nên phụ
nữ Việt đã tránh mặc áo hai tà và thay vào đó áo tứ thân.
Chiếc áo dài có tà thật rộng vào những năm mới bắt đầu
Nhưng đến ngày nay, chiếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng quê đồng bằng sông
Hồng và áo tứ thân chỉ còn là trang phục của các đoàn nghệ thuật dân tộc. Chiếc áo
dài đã trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam lại có lịch sử hoàn toàn khác. Một
câu hỏi được nhiều người đặt ra: chiếc áo dài Việt Nam đã có từ bao giờ?
Sau đó là tà hẹp hơn một chút với phần tay nối gọn gàng
Lịch sử còn ghi cuộc chiến Trịnh, Nguyễn phân tranh kéo dài gần hai trăm năm. Ở
miền Bắc vua Lê, chúa Trịnh trị vì. Ở miền Nam, các chúa Nguyễn miệng vẫn nói
thuần phục nhà Lê song thực chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ của Đàng trong để
củng cố địa vị cho sự nghiệp 'vạn đại dung thân". Năm 1847, trong dân gian miền
Nam bỗng lưu truyền một câu sấm: "Bát đại thời hoàn Trung đô" Có nghĩa là 'tám đời
phải trở lại Trung đô" (tức là trở lại với Kinh đô Thăng Long). Câu sấm ấy làm cho
Nguyễn Phúc Khoát giật mình. Nếu kể từ chúa Tiên (tức Nguyễn Hoàng) truyền đến
đời ông thì đúng tám đời. Nguyễn Phúc Khoát lo lắng vì gần hai trăm năm đánh nhau
với quân Trịnh, chịu đựng biết bao gian khổ ác liệt để mở mang bờ cõi xuống tận Cà
Mau mà giờ đây lại phải trở lại Trung đô nạp mình cho quân Trịnh thì quả là một đại
họa. Suốt ngày đêm, ông ăn không ngon, ngủ không yên. Cuối cùng ông đã triệu tập
quần thần lại để bàn phương cách thoát nạn. Một phương cách tốt nhất hiện nay, theo
các quần thần, là phải xưng vương và dựng một tân đô. Nhưng muốn thực sự có một
vương quốc mới để đổi mạng trời thì phải thay đổi lễ nhạc, thay đổi văn hóa và việc
quan trọng nhất để thay đổi văn hóa là thay đổi trang phục. Nguyễn Phúc Khoát đã
đồng ý và giao cho quan đại phu thực hiện công việc này.
Áo dài chiết eo thập niên 1960 - 1970


Từ đó Phúc Khoát lên ngôi với niên hiệu là Võ Vương, lấy Phú Xuân làm đô thành.
Trong triều đổi lễ nhạc, ngoài dân gian thay đổi phong tục. Để phân biệt với phụ nữ
miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống như đàn
ông. Chủ trương của Võ Vương đã gây ra một cuộc khủng hoảng về trang phục ở Phú
Xuân. Quần chúng phụ nữ không tán thành và tỏ ý phản đối quyết liệt. Phản đối
nhưng không thay đổi được "ý vương", từ đó phụ nữ Miền Nam phải mặc quần hai
ống. Với con mắt phong kiến, Võ Vương thấy phụ nữ mặc quần hai ống trông "khêu
gợi" quá, ông bèn triệu triều thần nghiên cứu tham khảo chiếc áo dài của người Chăm
(giống như áo dài của phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài
của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam.
Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chăm và có xẻ nách. Cũng như văn hóa
Việt Nam phát triển ở Huế, chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam có đủ cả hai yếu tố của
phương Bắc và phương Nam.
Trần Lệ Xuân với áo cổ tim nổi tiếng một thời
Trãi qua năm tháng chiếc áo dài ngày ấy gắn bó với người phự nữ Việt làm tôn thêm
vẻ đẹp của phụ nữ phương Bắc cũng như phương Nam, nên nó đã được chấp nhận và
trở thành một tài sản văn hóa của người phụ nữ Việt Nam.
Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị mặc đều may theo thể
năm thân. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo.
Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay Áo may nối phía dưới
khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm,... ngày
xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi
tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng,
trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm.
Áo dài tà ngắn gọn gàng những năm 1980
Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng
phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ
châu Âu. Thời kỳ này, gấu Áo dài thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm.
Từ đây và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với
áo dài. Quần đen dành cho những phụ nữ đã lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài

đã bắt đầu xuất hiện, nhưng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương
Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta. Tay áo vẫn may nối. Thời đó, Hà Nội đã có các nhà
may nổi tiếng như Cát Tường ở phố Hàng Da và một số ở khu vực Hàng Trống, Hàng
Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường đã tung ra một kiểu áo mới có tên gọi là Le
Mur mang mẫu dáng rất Âu hoá. Áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may, không
nối sống bên dưới, nhưng cổ áo khoét hình trái tim; có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và
một cái nơ ở trước cổ; vai áo may bồng, tay nối ở vai; khuy áo may dọc trên vai và
sườn bên phải. Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có giới nghệ sỹ hay ăn
chơi "thời thượng" lúc đó mới dám mặc. Nhưng chỉ đến khoảng năm 1943 thì loại áo
này đã bị lãng quên.
Áo dài của các Mệ xứ Huế
Đến khoảng những năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết eo. Các nhà may
lúc đó đã cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là
phần mông để áo ôm theo thân dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ
áo cao lên trong khi gấu được hạ thấp xuống.
Vào những năm 1960, áo dài được thay đổi nhiều nhất vì cái nịt ngực được sử dụng
ngày càng phổ biến hơn, nên áo dài phải được may chiết eo, thậm chí người phụ nữ
mặc rất chật để tôn ngực. Eo áo cắt cao lên để hở cạp quần; gấu áo cắt ngang thẳng
và dài gần đến mắt cá chân, cổ áo khoét tròn.

×