Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.94 KB, 12 trang )

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU

2

12

QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo nói chung và học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo nói riêng ra đời ở Trung
Quốc và đã có mặt ở nước ta từ hàng ngàn năm. Trải qua quá trình du nhập, tồn tại và phát
triển, học thuyết Nho giáo ở Việt Nam có những lúc thăng – trầm, thịnh – suy nhưng không thể
phủ nhận rằng nó đã thấm sâu vào đất Việt cũng như trong mọi mặt của đời sống người Việt.
Nước ta đang trên đà phát triển, cùng với sự chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt của đời
sống xã hội, cơ sở kinh tế - xã hội của Nho giáo về cơ bản đã không còn tồn tại. Song, Nho
giáo cũng không hoàn toàn mất đi bởi nó có vai trò và tầm ảnh hưởng nhất định đối với xã hội,
con người Việt Nam hiện đại. Nho giáo đem lại cho ta nhiều giá trị tích cực về mặt đạo đức đến
nay vẫn còn có ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt là những quan niệm về đạo làm người.
Hơn nữa, với những giá trị của hệ thống chuẩn mực đạo đức về đạo làm người này, nếu
được nhận thức, vận dụng trên cơ sở cải tạo và phát triển sẽ không chỉ góp phần xây dựng,
hoàn thiện đạo đức của mỗi cá nhân mà còn giúp mỗi người nhận thấy rõ trách nhiệm của mình
QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

1



TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

với gia đình và xã hội. Từ đó, mỗi cá nhân sẽ góp phần xây dựng, phát triển đất nước ngày
càng giàu đẹp hơn.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận
1.2.1. Mục đích
Mục đích của bài tiểu luận nhằm nghiên cứu những nội dung chủ yếu trong quan niệm về
đạo làm người của Nho giáo.
1.2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, tiểu luận cần tập trung làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất là, những điều kiện, tiền đề chủ yếu cho sự hình thành và phát triển tư tưởng của
Nho giáo về đạo làm người;
Thứ hai là, trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nho
giáo về đạo làm người.
1.3. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Cơ sở lý luận
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận của Triết học Mác – Lênin về xã hội, con người và kế
thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài này.
1.3.2. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận chủ yếu dựa vào phương pháp biện chứng duy vật của Triết học Mác – Lênin
kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phương pháp logic và lịch sử,
phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp đối chiếu – so sánh,…

PHẦN 2: NHO GIÁO VÀ QUAN NIỆM CỦA NHO GIA
VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của nho giáo
Nho giáo, còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết học xã
hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của ông

phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các
nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam.
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu
Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Đức Khổng Tử (sinh năm
551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá
các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo.

QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

2


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Thời Xuân Thu, Đức Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm
có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh
Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Đức Khổng
Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất
của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó,
cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời
Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh
Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của
Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến
Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước
đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh".
2.2. Mục tiêu của Nho giáo
Mục tiêu của Nho giáo là phát huy tính thiện của con người, khiến người dân biết bỏ ác
theo thiện, giúp mọi người đạt đến trình độ đạo đức cao nhất. Để làm được điều này mỗi người

phải không ngừng rèn luyện nhân cách và đạo đức của bản thân.
Sách Đại Học viết: "Đạo học lớn cốt để phát huy đức sáng, đức tốt đẹp của con người,
đổi mới khiến lòng dân bỏ cũ theo mới, bỏ ác theo thiện, khiến mọi người đạt đến mức độ đạo
đức hoàn thiện nhất. Có hiểu được phải đạt đến mức độ đạo đức hoàn thiện nhất thì mới kiên
định chí hướng. Chí hướng kiên định rồi, tâm mới yên tĩnh. Tâm yên tĩnh rồi, lòng mới ổn
định. Lòng ổn định rồi, suy nghĩ sự việc mới có thể chu toàn. Suy nghĩ sự việc chu toàn rồi,
mới có thể xử lý, giải quyết công việc được thỏa đáng. Vạn vật đều có đầu có đuôi, có gốc có
ngọn. Vạn sự đều có bắt đầu và kết thúc. Biết làm cái gì trước cái gì sau, tức là đã tiếp cận
nguyên tắc của đạo rồi".
Nho giáo chủ trương giáo hóa mọi tầng lớp trong xã hội từ bậc quân vương đến kẻ thứ
dân sao cho ai ai cũng thấm nhuần đạo học của thánh hiền, phát huy tính thiện sẵn có của bản
thân, tự mình sửa đổi, rèn luyện cho tốt đẹp hơn. Nho giáo khuyến khích người có học dạy cho
người ít học, người có đạo đức cảm hóa kẻ vô đạo, cải tạo xã hội, đem văn minh truyền bá
khắp nơi. Khổng Tử muốn đến đất Cửu Di để ở, có người nói "Ở đó quá lạc hậu, làm sao mà ở
được". Khổng Tử nói "Có người quân tử ở đó, làm gì còn lạc hậu nữa". Đây là tư tưởng nhập
thế của Nho gia, khác với tư tưởng xuất thế lánh đời của Phật gia hay Đạo gia. Khổng Tử nói:
"Đạo không thể xa lánh người. Nhưng có người muốn thực hành đạo mà lại xa lánh người, như
vậy thì không thể thực hành được đạo... Cho nên người quân tử dùng cái đạo lý vốn sẵn có ở
người để giáo dục người, lấy cải sửa làm chính, giáo dục mãi cho đến khi thành người mới thôi.

QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

3


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Cũng như ta trau chuốt cán rìu vậy, trau chuốt đến mức thành cán rìu mới thôi. Người ta có lỗi

mà biết sửa là được rồi, không xa lánh họ nữa".
Luân lý và đạo đức của Nho giáo bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của con người, từ
chính trị đến các vấn đề văn hóa - xã hội. Cũng giống như học thuyết chính trị, học thuyết
luân lý và đạo đức của Nho giáo lấy đạo Nhân làm gốc. Theo đạo đức và luân lý của Nho giáo
thì cái đạo làm người thông thường trong thiên hạ có năm bậc. Nó phản ánh năm mối quan hệ
phổ biến trong xã hội loài người. Đó là các mối quan hệ: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh
- em và bạn bè. Để có thể xử lý tốt năm mối quan hệ đó, con người cần phải có năm cái đức
thông thường - đó là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo như
nhân, lễ, nghĩa, trí, tín vừa là chuẩn mực để điều chỉnh hành vi của con người, vừa là những
biện pháp để bảo đảm cho chính trị, nhân nghĩa được thực hiện. Bởi vậy, Nho giáo không đưa
ra định nghĩa nào về khái niệm "Đạo làm người", nhưng qua các tác phẩm kinh điển, qua tư
tưởng của các Nho gia có thể thấy, khái niệm "Đạo làm người" đã được Nho giáo đi sâu khai
thác.
2.3. Đạo làm người trong Nho giáo
"Đạo làm người" là khái niệm được hình thành từ rất lâu, nhưng ngày nay, luận bàn về nó
không phải là một điều đã cũ, cổ hủ. Bởi lẽ, từ khi có con người và xã hội loài người thì những
mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với chính bản
thân mình luôn nảy sinh và do vậy, "Đạo làm người" luôn vận hành. Ngày nay, khi xã hội càng
phát triển, trình độ nhận thức của con người không ngừng được nâng cao, mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp thì "Đạo
làm người" lại càng được chú ý hơn bao giờ hết.
Khi bàn đến "Đạo làm người", Nho giáo nhấn mạnh đến “Đạo nhân”, "Đạo làm người".
Theo nghĩa đó, “Đạo làm người” được hiểu là nguyên tắc chính trị, là quy phạm đạo đức và
luân lý, là đạo lý trị quốc và xử thế của con người. Nói cách khác, đạo làm người được hiểu là
đường lối, nguyên tắc đạo đức mà con người có bổn phận gìn giữ và tuân theo trong đời sống.
Đó là nhân sinh quan, là quan niệm sống trong sạch, thuận theo lẽ phải.
Nguyên tắc chính trị là tư tưởng chỉ đạo việc trị quốc, bình thiên hạ, phản ánh hệ tư tưởng
của giai cấp cầm quyền. Quy phạm đạo đức, luân lý theo quan niệm của Nho giáo chính là tam
cương, ngũ thường, trung hiếu, tam tòng, tứ đức,… Đạo làm người của Nho giáo bao quát các
mối quan hệ trong xã hội ở một phạm vi rất rộng. Một người có đạo đức, có “đạo làm người” là

cơ sở để người đó thực hiện tốt mối quan hệ trong quan hệ với tự nhiên, trong ứng xử xã hội,
ứng xử với chính bản thân mình theo danh phận

QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

4


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Nho giáo gọi con người đạt được các chuẩn mực đó là “người quân tử”, “đấng trượng
phu”. Với Khổng tử, người quân tử không thuần túy chỉ địa vị xã hội của người đó, mà chủ yếu
chỉ phẩm chất đạo đức mà người đó đạt được. Ông cho rằng, “Tề Cảnh Công có một ngàn cỗ
xe bốn chỗ nhưng sau khi chết, dân không thấy có công đức gì mà khen. Bá Di và Thúc Tề chết
đói ở chân núi Thú Dương, nhưng đến nay dân hãy còn ca ngợi. “Thành bất dĩ phú, diệc chi dĩ
dị” (thật chẳng vì giàu, chỉ vì đức lạ). Có lẽ là nói về điều này chăng”1.
2.4. Đạo làm người và các mối quan hệ
2.4.1. Quan hệ của con người với bản thân
Nho giáo là học thuyết rất chú trọng đến đạo đức con người, trong đó có đạo đức trong
ứng xử với chính bản thân mình. Với nguyên tắc đạo đức này, Nho giáo coi trọng sự nghiêm
khắc trong việc tu thân, tích đức.
Theo Nho giáo, người quân tử đối với mình trước hết phải làm những việc khó, sau mới
được hưởng thành quả ( Nhân giả tiên nan; nhi hậu hoạch; khả vị nhân hỹ) (Luận ngữ, Ung giã,
20)2. Đến đời Tống, Phạm Trọng Yêm cho rằng, người khổ trước thiên hạ, vui sau thiên hạ là
người có nhân. Khác với những người bất nhân, người quân tử, nhân đức là người luôn vui vẻ
sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù đó là vinh hoa hay đói nghèo, túng thiếu. Họ không bị phú
quý, danh lợi, giàu sang làm lung lạc.
Khi đề cập đến mẫu người quân tử, Khổng Tử thường đưa ra những tiêu chuẩn khác

nhau, song chung quy lại, người quân tử phải đạt được chín điều sau: (1) Nhìn thì phải để ý
nhìn sao cho sáng; (2) Nghe thì phải lắng tai nghe cho rõ ràng; (3) Sắc mặt phải giữ cho ôn
hòa; (4) Tướng mạo thì phải giữ cho khiêm cung; (5) Nói năng phải giữ bề trung thực; (6) Làm
việc phải trọng sự kính cẩn; (7) Có điều nghi hoặc thì phải hỏi han; (8) Khi giận thì nghĩ đến sự
hoạn nạn có thể xảy ra; (9) Thấy lợi thì phải nghĩ tới điều nghĩa” (Luận ngữ, Quý thị, 10) 3.
Theo Khổng Tử, chín điều này phải có sự hài hòa với nhau mà ông gọi là “trung dung”. Để đạt
được những điều này, trước hết người quân tử phải rèn luyện được 5 đức cơ bản: Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín. Đây cũng là tư tưởng xuyên suốt đạo làm người của Nho giáo nói riêng, hệ thống
tư tưởng Nho giáo nói chung. Người quân tử, theo Nho giáo, phải biết giữ đức nhân của mình,
12Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2004, tr.513.
2
3Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2004, tr.312.
QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

5


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

có thể vì nhân mà sát thân chứ không thể vì thân mà hại nhân. Để gìn giữ đức nhân, người quân
tử phải tự kiềm chế mình để tuân theo lễ tiết của xã hội (Luận ngữ, Nhan Uyên, 1), để vững
vàng, trầm tư như núi trước mọi thử thách của cuộc đời (Luận ngữ, Ung Giã, 21). “Khắc kỷ
phục lễ vi nhân”, tức là điều gì không hợp với lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói, đừng
làm. Theo Khổng Tử, là người ai cũng có nỗi sợ hãi của mình, bản thân ông cũng nói nhiều đến
chữ “sợ” (úy); nhưng không có chỗ nào, ông khuyên người ta tham sống sợ chết cả. Ngược lại,
ông còn khuyên người có nhân và chí khí thì phải biết chọn cái chết một cách xứng đáng:

“Người có chí khí và người có đức nhân không tham sống mà hại người. Họ phải xả thân để
thành nhân”. Để đạt được tất cả những phẩm chất đạo đức đó, để hành động như một người
quân tử giúp đời, Khổng Tử cho rằng, người quân tử phải luôn lấy “tu thân” làm đầu. Tu thân
là cơ sở để xây dựng nhân cách cho mình, để hành đạo giúp đời (tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).
Nhân là đạo đức căn bản nhất của con người; nó bao hàm trong mình mọi đức tính. Do
vậy, người có nhân đồng nhất với người hoàn thiện nhất, người quân tử. “Người có đức nhân là
người phải nghiêm trang, tề chỉnh, rộng lượng, khoan dung, đức tín, lòng thành, siêng năng,
cần mẫn và biết thi ân với năm đức (cung, khoan, tín, mẫn, huệ) 4. Đó cũng là người biết yêu
người đáng yêu, biết ghét người đáng ghét. Người có đức nhân cũng là người có đức lễ, vì biểu
hiện ra bên ngoài của nhân là lễ (khắc kỷ phục lễ vi nhân). ở phạm vi quốc gia, lễ được hiểu là
việc tuân theo kỷ cương phép nước và các chuẩn mực đạo đức xã hội. Nghĩa được các nhà Nho
đặt trong mối quan hệ với lợi. Họ có xu hướng coi nhẹ lợi mà chỉ chú trọng nghĩa. Khổng Tử
cho rằng, “quân tử hiểu rõ về nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về lợi” 5. Do vậy, Khổng Tử hay khuyên
điều nghĩa, cho nghĩa là một điều căn bản để lập thân, việc gì hợp với nghĩa thì làm, không hợp
thì bỏ. Lễ, Tín và Nghĩa gắn bó chặt chẽ với nhau: “Người quân tử lấy nghĩa làm gốc, theo lễ
mà thực hiện, nói ra bằng lời khiêm tốn và hoàn thành bằng thái độ thành thực. Như vậy thật là
quân tử (Luận ngữ, Vệ Linh Công, 17) 6. Mạnh Tử còn bài xích lợi hơn, ông chỉ thấy có nghĩa
mà không có lợi. Nhà vua chỉ nói điều nhân nghĩa, hà tất phải nói tới lợi. Trí là trí tuệ, là tri
thức, hiểu biết của người quân tử, là cơ sở để hành sự. Người hoàn thành, đạt được việc tu thân
là người làm tròn, làm đúng phận sự của mình (chính danh). Trên cơ sở làm tròn phận sự của
4Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

2004, tr.516
5Giản Chi và Nguyễn Hiền Lê. Đại cương Triết học Trung Quốc, t.2. Nxb Thanh niên, Hà Nội,

2005, tr.452.
6Giản Chi và Nguyễn Hiền Lê. Đại cương Triết học Trung Quốc, t.2. Nxb Thanh niên, Hà Nội,

2005, tr.452.
7

Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2004, tr.485.
QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

6


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

mình mà mở rộng ra việc làm tròn phận sự, nhiệm vụ của mình đối với người khác trong mọi
mối quan hệ.
Yêu cầu của Nho giáo về tiêu chuẩn đạo đức để con người tu thân là rất toàn diện. Không
những đề cao tinh thần tu thân, bản thân Khổng Tử còn là một tấm gương về tu thân. Ông
muốn cả xã hội tu thân để tạo thành một “vương quốc của người quân tử”. Quan niệm của Nho
giáo về đạo làm người trong quan hệ đối với bản thân cho đến nay vẫn còn những giá trị nhất
định, giúp chúng ta rèn dũa bản thân, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, sống đúng danh phận của
mình.
2.4.2. Quan hệ của con người với người khác (với xã hội)
Trong xã hội, con người phải duy trì đồng thời nhiều mối quan hệ khác nhau, như quan hệ
kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ luân lý đạo đức, quan hệ tôn giáo, quan hệ gia đình..., trong
đó quan hệ kinh tế là cái đóng vai trò cơ bản. Nhưng ngay từ sơ kỳ, các nhà Nho đã không
quan tâm đến quan hệ kinh tế, cũng không quan tâm đến các quan hệ pháp luật, tôn giáo. Họ
tuyên bố: “Trong xã hội, mọi nghề nghiệp đều là thấp kém, duy chỉ có nghề đọc sách là cao
quý” (Vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao). Vì vậy, sự tập trung của các Nho gia chủ
yếu vào lĩnh vực chính trị, đạo đức, điều này phù hợp với đường lối đức trị, với quan niệm cho
rằng chính trị, đạo đức quyết định sự an nguy của triều đình, sự ổn định của xã hội.
Khổng Tử là người đầu tiên nêu lên mối quan hệ giữa con người với con người, giữa “kỷ”
(mình) và “nhân” (người). Với ông, nguyên tắc đối xử giữa người với người là xem người cũng

như mình, cái gì mình không muốn thì đừng làm cho người (thi chư kỷ nhi bất nguyên, diệc vật
thì ư nhân), mình muốn làm nên thì giúp người làm nên, mình muốn thành đạt thì giúp người
thành đạt (kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân). Với quan niệm về “kỷ” và “nhân”
này, Khổng Tử đã khẳng định tư tưởng đạo đức coi trọng con người của Nho giáo. Nguyên tắc
thứ hai mà Khổng Tử đề cao là “Trung dung”, “Trung hòa”. “Trung hòa là cái tính tự nhiên của
trời đất, trung dung là cái đức hạnh của người ta. Trung là giữa, là không thiên lệch về bên nào.
Dung là thường. Trung dung nghĩa là dùng đạo Trung làm lẽ sống thường ngày vậy” 7. Nghĩa là
đạo Trung dung đòi hỏi con người đừng thái quá về mình, cũng đừng thái quá về người. Nó
giống như mối tương quan giữa “văn” và “chất”: “Chất mà trội hơn văn thì thô kệch, văn mà
trội hơn chất thì phù phiếm, văn và chất đều hài hòa thì mới là quân tử (Luận ngữ, Ung giã,
16)8.

7
8Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

2004, tr.326.
QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

7


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Mạnh Tử đã khái quát mối quan hệ của con người trong xã hội thành 5 mối quan hệ cơ
bản, đó là: quân - thần (vua - tôi), phụ - tử (cha - con), phu - phụ (chồng - vợ), trưởng - ấu
(người lớn tuổi - người nhỏ tuổi, anh - em), bằng hữu (bạn bè). Cơ sở của mỗi mối quan hệ đã
được Mạnh Tử thuyết minh rõ ràng: “Cha con thì có tình thân ruột thịt, vua tôi thì có nghĩa,
chồng vợ thì có khách biệt, lớn tuổi và ít tuổi thì có thứ tự, bạn bè thì có điều tín” (phụ tử hữu

thân, quân thần hữu nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, bằng hữu hữu tín) 9. Mạnh Tử
gọi năm mối quan hệ đó là “nhân luân”, có nhà Nho gọi đó là “ngũ luân”. Đó là năm mối quan
hệ được coi là tiêu biểu cho các mối quan hệ xã hội lúc bấy giờ. Các mối quan hệ này dần dần
quy về 3 mối quan hệ. Đó là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, còn gọi là “Tam cương”.
Đây được coi là những mối quan hệ giường mối, làm trụ cột của xã hội phong kiến Trung Quốc
từ thời Hán trở đi.
Ở giai đoạn đầu, các nguyên tắc đối xử của nhà Nho còn mang tính hai chiều, yêu cầu
người dưới có nghĩa vụ đối với người trên và người trên cũng phải có nghĩa vụ với người dưới.
Nhưng về sau, khi chế độ phong kiến tập quyền được xác lập, tính đẳng cấp được đề cao,
nguyên tắc ứng xử dần chuyển sang yêu cầu khắt khe với người dưới, đòi hỏi người dưới phải
phục tùng vô điều kiện đối với người trên. Trong mối quan hệ giữa vua và bề tôi, nguyên tắc
đạo đức của Nho giáo, về cơ bản, là quân nhân thần trung. Cả quân và thần đều phải đáp ứng
những yêu cầu sau:
Thứ nhất, phải chính danh. Đứng trước thực trạng xã hội rối ren, Khổng Tử cho rằng, đó
không phải là nguyên nhân một sớm một chiều, mà là một quá trình bắt nguồn từ sự sa đọa của
các thế lực cầm quyền, làm cho “danh” không được “chính”, tức là “danh” không phù hợp với
“thực”. Vì vậy, ông yêu cầu vua trước hết phải “chính danh”. Chính danh là “vua cho ra vua”,
nếu danh bất chính thì lời nói không đúng đắn, dẫn đến việc làm sai, khi đó người với người
trong xã hội không kính trọng nhau, không còn hòa khí, luật pháp lỏng lẻo và người dân sẽ mất
nơi tin cậy, nhờ vả (Luận ngữ, Tử Lộ, 3). Khi dân không còn trông cậy, nhờ vả, thì dân sẽ
không còn tin ở bậc cầm quyền, lúc đó dù muốn hay không thì xã tắc cũng khó tránh bề suy
sụp.
Thứ hai, phải có sự tôn trọng của cả hai phía với nhau. Khổng Tử yêu cầu: “Nhà vua sai
khiến bề tôi thì dựa vào điều lễ, bề tôi phụng sự nhà vua thì dựa vào điều trung” (Quân sử thần
dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung) (Luận ngữ, Bát dật, 19) 10
9Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

2004, tr.698.
10Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
2004, tr.253.

QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

8


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Kế thừa quan điểm này của Khổng Tử, Mạnh Tử còn mạnh mẽ hơn, khi ông khuyên Tề
Tuyên Vương rằng: “Nếu nhà vua xem bề tôi như tay chân thì bề tôi xem nhà vua như lòng dạ
của mình; nếu nhà vua xem bề tôi như chó ngựa thì bề tôi xem nhà vua như người dưng trong
nước; nếu nhà vua xem bề tôi như cỏ đất thì bề tôi xem nhà vua như kẻ thù” (quân chi thị thần
như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc tâm; quân chi thị thần như khuyển mã, tắc thần thị quân
như quốc nhân; quân chi thị thần như thủ giới, tắc thần thị quân như khấu thù) (Mạnh Tử, Ly
Lâu hạ)11.
Thứ ba, cả vua và bề tôi đều được Khổng Tử coi là người cầm quyền; họ phải đạt được cả
nhân đạo và thiên đạo. Bởi lẽ, một ông vua đồng thời cũng phải là người thầy của dân, phải là
người nhân đức nhất trong những người nhân đức. Người làm chính trị mà có đức nhân thì như
đứng vào vị trí của sao Bắc đẩu, vị trí mà tất cả các ngôi sao khác đều phải hướng đến (Luận
ngữ, Vi chính, 1). Vua phải đảm bảo cho dân được no ấm, phải xây dựng được lực lượng quân
sự hùng hậu và đặc biệt, phải có được lòng tin của dân. Không những thế, vua phải làm cho
dân giàu và biết giáo hóa dân 12. Vua sáng còn là người biết trọng dụng người đức độ, tài năng,
phải biết rộng lượng đối với bề tôi của mình. Vua phải là người hết lòng vì dân chúng. Mạnh tử
đã khuyên các bậc vua chúa: “Ngài vui cái vui của dân thì dân cũng vui cái vui của mình, ngài
lo cái lo của dân thì dân cũng lo cái lo của mình. Vì thiên hạ mà vui, vì thiên hạ mà lo, thế mà
không làm vương thì chưa có vậy” (Mạnh Tử, Lương Huệ Vương). Ngoài ra, vua còn phải thực
hiện chính sách điền địa công bằng, phân minh, giảm tô thuế cho dân, cải thiện đời sống nhân
dân. Đó cũng là nhiệm vụ trọng yếu của người cai trị đất nước. Nho giáo khuyên vua không
nên lạm dụng hình phạt để ép dân đi vào tôn ti trật tự, mà nên bằng đức hạnh, lễ nghĩa, vì đức

hạnh có sức mạnh cảm hóa con người và làm cho con người biết hổ thẹn khi làm sai: “Dắt dẫn
(dân) bằng chính pháp, sửa trị dân bằng hình phạt, thì dân chỉ tạm tránh khỏi được tội lỗi, chứ
không có lòng hổ thẹn. Nếu dắt dẫn bằng đạo đức, sửa trị bằng lễ giáo, thì dân không những
cólòng hổ thẹn mà còn cảm hóa quy phục” 13. Đức hạnh và lễ tiết ở đây chính là những tiêu
chuẩn về đức tính, là những quy định về giao tiếp, lễ nghi mà con người phải có, phải tuân
theo.
Trong đạo làm tôi, Khổng Tử đề cao chữ “Trung”, nhấn mạnh lòng biết ơn, sự phục tùng,
tinh thần phục vụ hết lòng hết sức của bề tôi đối với vua, với quốc gia. Theo ông, người làm
11Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên). Lịch sử triết học. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội, 2004, tr.35.
12Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

2004, tr.429.
13Ngữ văn Hán Nôm, tập 1: Tứ thư. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,

2004, tr.244-245.
QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

9


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

tôi, làm quan trước hết phải là người có đức trong mọi hành động, có thái độ đúng ở mọi nơi,
mọi lúc, chứ không phải khi nhận chức tước mới là làm quan. Khi chứng kiến cảnh xã hội có
chiến tranh, huynh đệ tương tàn, Mạnh Tử đã phê phán những kẻ làm quan mà không đúng
danh phận của mình, chỉ biết hùa theo điều ác của vua, phò vua chỉ biết sửa soạn binh đao đi
đánh chiếm nước khác, gây chiến tranh. Ông kết tội: “Hùa theo điều ác của vua mà không can
ngăn là tội nhỏ, xúi giục điều ác của vua là tội lớn. Những quan đại phu thời nay đều xúi giục

điều ác của vua, cho nên bảo rằng quan đại phu thời nay là người có tội lớn” 14. Với lời kết tội
này, ông đã nêu lên tư tưởng về “Đạo làm quan”: “Khi thiên hạ có đạo thì đem đạo theo thân
mà ra làm quan. Khi thiên hạ không có đạo thì đem thân theo đạo mà lui về ở ẩn” (Mạnh Tử,
Tân tâm hạ). Ông cũng thẳng thắn nói: “Thà ở bậc dưới là dân, không chịu đem mình là người
hiền mà thờ ông vua vô đạo” (Mạnh Tử, Cáo Tử hạ). Từ đó, ông đã nêu ra ba trường hợp nên
ra làm quan và ba trường hợp nên từ quan (Sở tựu tam, sở khứ tam). Thứ nhất, làm quan khi
thấy có thể hành đạo được. Thứ hai, làm quan vì giao tế có lễ. Thứ ba, làm quan khi vua biết
trọng dụng, nuôi dưỡng. Khi ra làm quan rồi, thì phải trung với vua, hết lòng hết sức thờ vua,
nhưng cũng không vì vậy mà biến mình thành kẻ “ngu trung”. Người làm tôi trung còn là
người biết can gián vua, khi vua làm điều trái đạo; không những thế, còn có thể phế truất ngôi
vua, khi thấy vua là kẻ vô đạo.
Bên cạnh quan hệ vua tôi, trong gia đình cũng có nhiều mối quan hệ, nhưng mối quan hệ
mà Nho giáo quan tâm nhất, coi là cơ bản nhất, làm rường cột cho các mối quan hệ khác là mối
quan hệ giữa cha và con, giữa thế hệ trước và thế hệ sau. Tiêu chuẩn trong mối quan hệ này,
theo Khổng Tử, là “Phụ từ tử hiếu”. Nho giáo giai đoạn sau đã đẩy mối quan hệ này lên mức
tuyệt đối là “Phụ sử tử sự” (Cha quyết, con phục tùng). Để ổn định gia đình, vai trò của người
cha “từ” cũng rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là sự phục tùng của người con. Do vậy,
Nho giáo đặc biệt đề cao Hiếu, khi coi Hiếu là nguồn gốc của mọi đức hạnh. Nếu Khổng Tử
coi đạo Hiếu là một loại ý thức luân lý của con cái đối với cha mẹ, thì đến Tông thánh Tăng Tử
(ông Thánh của đạo Hiếu) đã phát triển đạo Hiếu lên thành một khái niệm trừu tượng, phổ biến,
một nguyên tắc của mọi đức khác, là phẩm chất vĩnh hằng của con người, là cơ sở của mọi
đường lối chính trị tốt đẹp. Phạm trù trung tâm trong học thuyết Nho giáo là Nhân, thì Hiếu
được coi là gốc rễ của Nhân.
Hiếu cũng có quan hệ chặt chẽ với Trung. Theo Nho giáo, xã hội là sự mở rộng mối quan
hệ cha con ra cả nước, cả thiên hạ là quan hệ vua – tôi và mở rộng đạo làm con, đạo Hiếu ra
phạm vi ấy là đạo làm tôi, đạo Trung. Đạo Hiếu trong quan niệm của Nho giáo có nhiều nội
dung sâu sắc và mang đậm tính nhân văn.
14Doãn Chính. Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại. Sđd., tr.253

QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI


10


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Trong mối quan hệ vợ - chồng, Nho giáo đòi hỏi phải có sự hòa thuận. Điều đó có nghĩa
là, trong một gia đình thì người chồng phải biết thương yêu vợ con, chăm lo cho vợ con và là
chỗ dựa của vợ con. Ngược lại, người vợ phải biết chăm lo, vun vén cho gia đình mình và gia
đình nhà chồng, phải biết nghe theo chồng một cách vô điều kiện. Nho giáo đề cao việc gia
đình hòa thuận, coi thuận vợ thuận chồng là cái gốc của xã hội thái bình. Nhưng mặt khác, Nho
giáo lại phản đối sự dân chủ trong gia đình. Với Nho giáo, gia đình là một cái nước nhỏ, trong
đó người chồng là chúa tể của người vợ, chồng nói thì vợ phải theo. Do vậy, có thể nói, trong
gia đình Nho giáo, thực tế người vợ không có một chút quyền hành nào. Họ chỉ là người chịu
sự chỉ bảo, sai khiến của chồng và con. Để được khen là tiết hạnh, là thục nữ, họ phải tự ép
mình tuân theo những quy định khắt khe trong tứ đức tam tòng của Nho giáo: khi còn ở nhà thì
chịu sự sai khiến của cha; đi lấy chồng chịu sự sai khiến của chồng; chồng chết chịu sự sai
khiến của con.
Trong mối quan hệ anh – em, Nho giáo đòi hỏi phải có đễ. Điều đó có nghĩa là, anh em

trong một nhà phải có tình thân mật. Là anh thì phải biết bao bọc, chở che cho em, phải biết
nhường nhịn em; là em thì phải biết kính trọng anh, nghe lời anh. Về thực chất, quan hệ anh em trong Nho giáo cũng giống như quan hệ cha - con. Bởi lẽ, xã hội của Nho giáo là xã hội của
quyền huynh thế phụ. Trong xã hội đó, anh là người có quyền thay cha giải quyết mọi công
việc đối nội cũng như đối ngoại của gia đình.
Trong mối quan hệ bạn bè, Nho giáo đề cao đức tín và đòi hỏi mọi người phải giữ chữ tín
trong giao tiếp. Nho giáo quan niệm đức tin là nền tảng của trật tự xã hội. Bạn bè mà không có
lòng tin thì cũng không còn tình bạn, chính quyền mà không được dân chúng tin thì chính
quyền sớm muộn cũng sẽ đổ. Vì thế, khi được Tử Cống hỏi về cách cai trị, Khổng Tử cho rằng,

muốn cai trị tốt, nhà cầm quyền cần phải có ba điều kiện - đó là: một, lương thực phải có đủ để
nuôi dân; hai, binh lực phải đủ để bảo vệ dân và ba, phải có được lòng tin cậy của dân đối với
mình. Tử Cống lại hỏi tiếp: trong ba điều ấy, nếu bất đắc dĩ mà phải bỏ bớt, thì nên bỏ ra điều
nào trước. Khổng Tử đáp: bỏ binh lực. Tử Cống lại hỏi: còn lại hai điều là lương thực và lòng
tin, nếu bất đắc dĩ mà phải bỏ bớt, thì nên bỏ điều nào trước. Khổng Tử trả lời: bỏ lương thực.
Bởi lẽ, theo Khổng Tử: “từ xưa đến nay, trong nước nếu thiếu lương thực thì xảy ra nạn chết
đói; chớ dân mà không tin nhà cầm quyền thì chính phủ phải đổ”.

KẾT LUẬN
QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

11


TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

GVHD: TS. LÊ KIM CHÂU

Qua việc tìm hiểu về Nho giáo và quan niệm của Nho gia về đạo làm người, bài tiểu luận
đã làm rõ được những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Nho giáo về đạo làm người. Nếu tiếp
thu và phát triển những tư tưởng, quan niệm đó, mỗi cá nhân sẽ hoàn thiện nhân cách hơn góp
phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển. Đồng thời, những quan niệm đó đã đóng góp
một phần quan trọng vào lịch sử văn hiến của nước ta, làm cho văn minh Việt Nam trở nên
phong phú, đa dạng hơn và đóng góp phần không nhỏ vào vào văn minh của thế giới.
Chúng em xin chân thành cảm ơn TS. Lê Kim Châu đã hướng dẫn chúng em hoàn thành
bài tiểu luận và tiếp thu thêm nhiều kiến thức bổ ích .

QUAN NIỆM CỦA NHO GIA VỀ ĐẠO LÀM NGƯỜI

12




×