Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Quan niệm của nho giáo về gia đình và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.46 KB, 15 trang )

Quan niệm của Nho giáo về gia đình và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay


Đặng Thị Hồng Hạnh


Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị
Luận văn ThS. ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Thị Lan
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Tìm hiểu một cách có hệ thống quan niệm Nho giáo về gia đình. Phân tích
nội dung của quan niệm đó để thấy được những giá trị và hạn chế của nó. Đánh giá
những ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với gia đình truyền thống Việt Nam
trong lịch sử. Từ đó chỉ ra được ý nghĩa của việc phát huy tính tích cực, hạn chế mặt
tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình Việt
Nam hiện nay.

Keywords. Triết học phương Đông; Nho giáo; Gia đình; Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức được giai cấp phong kiến Trung Quốc lấy
làm hệ tư tưởng thống trị. Khi du nhập vào Việt Nam, Nho giáo cũng được giai cấp phong
kiến Việt Nam sử dụng làm hệ tư tưởng thống trị và có ảnh hưởng to lớn, lâu dài đến mọi mặt
đời sống của dân tộc ta. Trong đó, quan niệm và khuôn mẫu của Nho giáo về gia đình với
những yêu cầu chặt chẽ về đạo đức thực sự có tác dụng xây dựng và giữ gìn nền nếp của các


gia đình, dòng họ, góp phần ổn định trật tự xã hội và định hướng lý tưởng cho hành động của
mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, trong gần một thế kỷ trở lại đây, sự thâm nhập của chủ nghĩa đế quốc và của nền
văn minh công nghiệp đã tác động mạnh mẽ đến gia đình truyền thống, làm thay đổi sâu sắc
nhận thức và thái độ ứng xử của mỗi con người về gia đình. Những nhà cách tân Trung Quốc,
Nhật Bản, Việt Nam bắt đầu lên án những điều không hợp lý, thiếu nhân đạo trong các quan hệ
gia đình kiểu Nho giáo. Ở Trung Quốc, Đàm Tự Đồng, Khang Hữu Vi đã từng nhiều lần lên án
sự bất bình đẳng trong đạo lý “luân thường” của Nho giáo. Lỗ Tấn là người lên tiếng mạnh
nhất đối với cái đạo lý trong gia đình Nho giáo. Ông coi chủ trương “vô cải” của Nho giáo (3
năm không thay đổi đạo cha) là “căn bệnh làm cho con cái thụt lùi”. Ở Việt Nam, sau khi Pháp
xoá bỏ chế độ khoa cử Nho học năm 1919, đặc biệt là từ sau Cách mạng tháng Tám, Nho giáo
đã bị đánh đổ cùng với cơ sở chính trị - xã hội của xã hội cũ, thì quan niệm về gia đình theo
Nho giáo không còn điều kiện thuận lợi để tồn tại trước sức tiến công của chế độ mới và quan
niệm mới xã hội chủ nghĩa về gia đình.
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc đổi mới, mở cửa và giao lưu kinh tế, văn hoá với thế giới đã tạo cho Việt Nam đạt được
những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Điều đó đang thúc đẩy Việt Nam
chuyển mình mạnh mẽ từ truyền thống sang hiện đại, trong đó có lĩnh vực gia đình. Những
chuẩn mực của gia đình truyền thống đã bị mai một và phần nào không còn phù hợp với xã
hội hiện đại. Sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường tới gia đình đã làm cho lối sống, nếp
sống, các mối quan hệ trong gia đình và đặc biệt là suy nghĩ của từng cá nhân thay đổi theo
nhiều hướng khác nhau. Những nét đẹp mới của gia đình hiện đại như vai trò bình đẳng, tính
chủ động, tích cực của các thành viên trong gia đình, chức năng gia đình được xã hội hoá và
nâng cao góp phần tích cực vào sự phát triển của xã hội… Nhưng bên cạnh đó, nhiều hiện
tượng nhức nhối về đạo đức, văn hoá gia đình đã xuất hiện như: cha mẹ vô trách nhiệm, đối
xử tàn ác với con cái, con cái ngược đãi ông bà, cha mẹ, anh em bất hoà, vợ chồng mâu
thuẫn… khiến các giá trị gia đình bị xâm phạm nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát
triển của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Trước nguy cơ các nét đẹp về trật tự và đạo đức
của gia đình truyền thống bị mất mát bởi các tác động của cuộc sống hiện đại, khuynh hướng
nuối tiếc các tập quán gia đình tốt đẹp mà Nho giáo đã tạo dựng, hy vọng phục hồi trở lại các

trật tự gia đình cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ… cũng trở nên ngày một
mạnh mẽ.
Trước thực trạng trên, nhiều vấn đề bức thiết về gia đình đang được đặt ra như: “Gia đình
Việt Nam sẽ biến đổi ra sao và có vai trò như thế nào trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước?”; “Những gì đã và đang diễn ra đối với các nước phương Tây có phải là hình
ảnh tương lai của gia đình Việt Nam hay không?”; “Làm thế nào để có sự đánh giá đúng đắn
học thuyết Nho giáo về vấn đề gia đình?”… Nhiều nghiên cứu gần đây đã khẳng định đạo
đức gia đình Nho giáo vẫn còn nhiều điều hữu ích mà ta đã vội lãng quên hoặc bỏ đi rất cần
được nuôi dưỡng trở lại để giáo dưỡng trẻ thơ, tạo dựng gia đình nề nếp, góp phần làm lành
mạnh xã hội.
Như vậy, một hiện thực là cho đến nay, chúng ta chưa có sự thống nhất trong việc đánh
giá học thuyết Nho giáo về vấn đề gia đình. Đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều đề tài nghiên
cứu về Nho giáo, về gia đình ở những khía cạnh khác nhau một cách chuyên sâu nhưng đời
sống hiện thực đòi hỏi chúng ta phải đánh giá một cách toàn diện và khoa học quan niệm của
Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của nó trong việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, chúng tôi chọn đề tài: “Quan niệm của Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của
nó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay” nhằm làm sáng tỏ vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Quan niệm về gia đình là một bộ phận của học thuyết Nho giáo vì vậy các công trình
nghiên cứu về Nho giáo đều ít nhiều bàn đến vấn đề này. Tuy nhiên có nhiều cách nhìn nhận
khác nhau, có thể khái quát thành 2 khuynh hướng chính sau:
Khuynh hướng thứ nhất: Phủ nhận giá trị của học thuyết Nho giáo nói chung với xã hội
mới, trong đó có quan niệm về gia đình. Khuynh hướng này là phổ biến trước thời kỳ đổi mới
Khuynh hướng thứ hai: Cho rằng Nho giáo có những mặt tích cực và hạn chế nên cần
thiết phải phê phán, lọc bỏ những hạn chế và kế thừa phát huy những hạt nhân hợp lý trong
quá trình xây dựng xã hội mới. Khuynh hướng này đã xuất hiện từ lâu nhưng chỉ trở nên phổ
biến từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới. Điều này được thể hiện khá rõ trong: “Nho
giáo ở Việt Nam” (GS. Vũ Khiêu), “Nho giáo xưa và nay” (Quang Đạm), “Đến hiện đại từ
truyền thống” (GS. Trần Đình Hượu),… và một số bài viết trên các tạp chí.
Như vậy, nghiên cứu về Nho giáo và gia đình không phải là lĩnh vực mới, có thể kể đến

một số công trình tiêu biểu sau:
Về Nho giáo:
- Công trình “Chu dịch quốc âm dẫn giải” và “Khổng học đăng” là những tác phẩm bàn
về Nho giáo của Phan Bội Châu, một đại diện lớn nhất cho thế hệ các nhà Nho yêu nước đầu
thế kỷ XX. Ở những tác phẩm này Phan Bội Châu đã đứng ở vị trí một nhà Nho có tư tưởng
tiến bộ mà giải thích những kinh điển chủ yếu của Nho giáo. Phan Bội Châu đã sớm nhận ra
nhiều điểm hạn chế của đạo hiếu trong Nho giáo đã trói buộc bao thế hệ các thanh niên trong
việc thực hiện “trung quân, ái quốc” . Đặc biệt, trong “Khổng học đăng” ông đã giải thích rõ
động cơ, mục đích và cả phương pháp học tập đạo thánh hiền hướng theo tinh thần trung
quân, ái quốc, giải phóng con người khỏi những suy nghĩ và khuôn khổ hạn hẹp của đạo hiếu.
- “Nho giáo” của Trần Trọng Kim là một tác phẩm khá đồ sộ, về nội dung của tác phẩm
này như chính tác giả đã nói “tựa cái bản đồ vẽ cái nền Nho giáo cũ, thì dẫu hay dở thế nào
mặc lòng, cốt nhất là phải vẽ cho đúng” [42, tr.10], đặc biệt tác giả còn khẳng định cách học
Nho giáo là phải hiểu cái tinh thần và nghĩa lý của Nho giáo, phải theo thời mà biến đổi cho
hợp thời - có thể thấy phương pháp tiếp cận này là có cơ sở hợp lý.
- “Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam” của GS. Phan Đại Doãn - Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia - Hà Nội (1999) đề cập đến một số vấn đề, trong đó GS phân tích ảnh hưởng của
Nho giáo đối với gia đình truyền thống Việt Nam tương đối sâu sắc
- “Nho giáo Trung Quốc” của Nguyễn Tôn Nhan - Nhà xuất bản Văn hoá thông tin
(2005) cho chúng ta cái nhìn toàn diện về sự ra đời và phát triển của Nho giáo qua các triều
đại phong kiến Trung Quốc và khái quát diện mạo Nho giáo ở Việt Nam
- “Nho giáo và gia đình” - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - Hà Nội (1995) của GS Vũ
Khiêu phân tích các tư liệu Nho giáo bàn về gia đình một cách khá toàn diện.
Ngoài ra còn phải kể đến một số tác phẩm tiêu biểu khác như:
- “Đạo Nho và văn hoá Phương Đông” - Nhà xuất bản Giáo dục (2002) của Hà Thúc
Minh.
- “Sự tái sinh của truyền thống: Cách tiếp cận mới về Nho giáo” - Thẩm Thanh Tùng
(Nguyễn Tài Thư dịch) - Nhà xuất bản Phương Đông - Cà Mau (2005).
- “Nho giáo xưa và nay” - Nhà xuất bản Văn hoá - Hà Nội (1994) của tác giả Quang Đạm.
- “Nho giáo và phát triển ở Việt Nam” - Nhà xuất bản Khoa học Xã hội - Hà Nội (1997) -

Vũ Khiêu.
- “Đến hiện đại từ truyền thống” của GS Trần Đình Hượu - Nhà xuất bản Văn hoá - Hà
Nội (1995).
Về gia đình, tiêu biểu là đề tài: “Vai trò của gia đình trong sự hình thành và phát triển
nhân cách con người Việt Nam” (Mã số KX 07-09) thuộc chương trình Khoa học Công nghệ
Nhà nước: “Con người Việt Nam: mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội (Mã số KX
07) do GS Lê Thi làm chủ nhiệm đề tài.
- “Gia đình Việt Nam thời mở cửa” - Nguyễn Thị Oanh - Nhà xuất bản Trẻ (1998).
- Hội thảo khoa học: “Gia đình Việt Nam, các nguồn lực, các trách nhiệm trong sự đổi
mới của đất nước và vấn đề xây dựng con người do Trung tâm Nghiên cứu Khoa học về Phụ
nữ tổ chức tháng 4 năm 1995.
Bên cạnh đó, nhiều luận án tiến sỹ cũng bàn về Nho giáo và gia đình ở những khía cạnh
khác nhau, tiêu biểu là:
- “Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó đối với
xã hội ta ngày nay” - Luận án Tiến sỹ Triết học: 5.01.01/Nguyễn Văn Bình - H, 2001 (Thư
viện quốc gia).
- “Quan niệm Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa của nó với việc giáo dục con
người ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Luận án Tiến sỹ Triết học:
5.01.02/Nguyễn Thị Nga - H, 1999 (Thư viện quốc gia).
- “Quan niệm Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người” - Luận án Tiến
sỹ Triết học: 62.22.80.01/Nguyễn Thị Tuyết Mai - H, 2005 (Thư viện quốc gia).
- “Sự biến đổi chức năng xã hội hoá của gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại”
- Luận án Phó tiến sỹ khoa học kinh tế: 5.01.09/Lê Ngọc Văn (Thư viện quốc gia).
- “Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ hiện nay” - Luận án Tiến sỹ Triết học:
5.01.03/Dương Thị Minh - H, 2003 (Thư viện quốc gia).
Ngoài ra, các tạp chí: Lý luận chính trị, Nghiên cứu lý luận, Triết học, Hán Nôm, Xưa và
nay, Đông Nam Á… cũng có nhiều bài viết phản ánh những khía cạnh khác nhau về Nho
giáo, gia đình và ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với gia đình Việt Nam hiện nay,
tiêu biểu là:
- Nguyễn Đình Chú “Hiện nay với Nho giáo” - Tạp chí Hán Nôm số 1/2005.

- Minh Anh “Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở Việt Nam
hiện nay” - Tạp chí Triết học Số 10/2005.
- Minh Anh “Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo” - Tạp chí Triết học Số
8/2004.
- Phan Đại Doãn “Nho giáo Việt Nam” - Tạp chí Xưa và nay Số 229-230/2005.
- Chương Thâu “Về việc nghiên cứu và ứng dụng Nho giáo, Đạo giáo ở Trung Quốc hiện
nay” - Tạp chí Triết học Số 5/2006.
- Tử Hoàn “Nho giáo với gia đình Việt Nam truyền thống” - Tạp chí Đông Nam Á Số
12/2004.
- Lê Văn Quán “Bước đầu tìm hiểu luân lý đạo đức trong truyền thống văn hoá Nho giáo”
- Tạp chí Hán Nôm Số 2/2004.
- Lã Minh Hằng “Bàn về công, dung, ngôn, hạnh trong các sách gia huấn nôm” - Tạp chí
Hán Nôm/2007.
Tuy nhiên, theo sự tìm hiểu của chúng tôi có thể nói rằng cho đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu chuyên sâu và có tính hệ thống quan niệm của Nho giáo về gia đình và ý
nghĩa của nó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Những thành tựu nghiên cứu
và những gợi ý của các tác giả nói trên là những tài liệu tham khảo để tôi viết luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn nhằm trình bày một quan niệm đầy đủ của Nho giáo về gia đình và nêu lên ý
nghĩa của quan niệm đó đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Một là: Tìm hiểu một cách có hệ thống quan niệm Nho giáo về gia đình. Phân tích nội
dung của quan niệm đó để thấy được những giá trị và hạn chế của nó.
Hai là, phân tích và đánh giá những ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với gia đình
truyền thống Việt Nam trong lịch sử. Từ đó chỉ ra được ý nghĩa của việc phát huy tính tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về gia đình, ảnh hưởng và ý nghĩa của nó

đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay. Vì vậy đối tượng nghiên cứu của luận văn
là những nội dung tư tưởng của Nho giáo bàn về gia đình và những quy tắc trong quan hệ gia
đình, những quan niệm cơ bản về gia đình của xã hội phong kiến, những quan điểm của Nhà
nước ta về gia đình thông qua các văn kiện của Đảng. Ngoài những tư liệu chính yếu đó, các
quan điểm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề trên cũng là đối tượng tham
khảo của luận văn.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước là kim chỉ nam cho việc phân
tích, đánh giá những quan niệm của Nho giáo về gia đình và mức độ ảnh hưởng của nó.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp logíc kết hợp với lịch sử, theo quan điểm lịch sử - cụ thể
của khoa học lịch sử triết học để nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương
pháp khác như: hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp… nhằm tái hiện lại một cách chân thực
và đánh giá khách quan những quan niệm của Nho giáo về gia đình.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào việc hệ thống hóa quan niệm của Nho giáo về gia đình, chỉ ra ảnh
hưởng và ý nghĩa của nó đối với gia đình Việt Nam hiện nay. Từ đó, luận văn góp phần vào
việc xây dựng một quan niệm đúng đắn về gia đình và làm lành mạnh hoá các quan hệ trong
gia đình theo yêu cầu đạo đức mới trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc kế thừa, phát huy những
giá trị tích cực của Nho giáo về gia đình trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá hiện nay.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập môn Lịch sử triết học Phương Đông.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm 2 chương, 4
tiết:
Chương 1. Quan niệm của Nho giáo về gia đình.
Chương 2. Ý nghĩa của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình

Việt Nam hiện nay.

Chương 1
QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH
Thời kỳ lịch sử Cổ - Trung đại, Trung Quốc là một trong những trung tâm văn minh lớn
của thế giới. Giai đoạn này, Trung Quốc có nhiều phát minh vĩ đại như phát minh ra chữ viết,
giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn học… Cùng với Ấn Độ và các dân tộc phương Đông
khác, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều trường phái triết học lớn, là chiếc nôi của
nhiều nhà tư tưởng. Trong lịch sử cũng như hiện tại việc đánh giá vai trò của triết học, tôn
giáo Trung Quốc đối với sự phát triển của các nước chịu ảnh hưởng Hán hóa vẫn được nhiều
người quan tâm bàn luận. Trong bối cảnh xã hội như vậy, các nhà tư tưởng có tâm huyết đua
nhau tìm kiếm nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm ổn định trật tự xã hội. Đây là thời
kỳ tư tưởng triết học Trung Quốc phát triển nở rộ, nhiều triết thuyết xuất hiện như: Nho gia,
Pháp gia, Đạo gia, Mặc gia,… Người ta gọi đó là thời kỳ “bách hoa tề phóng, bách gia tranh
minh” (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng).
1.1. Quá trình hình thành và phát triển quan niệm của Nho giáo về gia đình
1.1.1. Quan niệm của Nho giáo Tiên Tần về gia đình (Thế kỷ VI trước Công nguyên -
Thế kỷ III trước Công nguyên)
Trong học thuyết Nho giáo, gia đình là một phạm trù lớn, chứa đựng nhiều nội dung thâm
thúy, ý nghĩa sâu xa có nhiều ảnh hưởng đến những phạm trù khác về đạo đức và cuộc sống
con người. Coi gia đình là cơ sở của xã hội, Nho giáo nêu cao nguyên lý thiên hạ quốc gia và
dẫn giải rằng: gốc của thiên hạ là nước, gốc của nước là nhà, gốc của nhà là bản thân. Nho giáo
xây dựng nên những mối quan hệ chặt chẽ trong gia đình.
Nho giáo rất chú trọng yếu tố giáo dục gia đình, coi giáo dục gia đình là toàn bộ giáo dục
xã hội. Khổng Tử quan niệm, đạo đức gắn liền với chính trị, chính trị chẳng qua là sự mở
rộng của đạo đức. Trong học thuyết của ông, đạo đức gắn liền với chính trị, quan hệ chặt chẽ
với chính trị, bởi vì nó dựa trên cơ sở huyết thống, lấy huyết thống để xác định liều lượng
đậm nhạt của nhân ái.
Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ trong gia đình
và phát triển chúng thành những quan hệ trong toàn xã hội, trong việc xây dựng những tình

cảm và đức tính tốt trong gia đình, từ đó vun đắp chúng trở thành những tình cảm và đức tốt
trong đạo thờ vua, trị nước.
Cũng từ quan điểm huyết thống, Nho giáo đòi hỏi sự gắn bó chặt chẽ giữa những thành
viên trong cùng một gia đình, một dòng họ. Nho giáo kêu gọi họ yêu thương đùm bọc lẫn
nhau, khuyến khích nhau giữ gìn danh dự và phát huy truyền thống của gia đình, của dòng
họ.
Gia đình trở thành hòn đá tảng của lâu đài phong kiến. Từ đạo đức trong gia đình đến
chính trị ngoài xã hội đều có liên quan đến nhau.
Có thể nói, toàn bộ giáo dục gia đình theo Nho giáo nhằm tạo nên “phụ phụ tử tử, huynh
huynh đệ đệ” (cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em). Trong mối quan hệ cha con, anh
em ấy thì “phụ từ tử hiếu, huynh lương đệ đễ” (cha nhân từ, con có hiếu, anh rộng lượng, em
kính trọng). Như vậy, Khổng Tử và các nhà Nho thời Tiên Tần đã đề ra nghĩa vụ, bổn phận
đạo đức từ hai phía, có đi có lại. Tư tưởng ấy càng được Nho giáo suy tôn và củng cố bền
vững bằng những thuyết giáo về mặt tình cảm, huyết thống và bằng sự nối liền hai chữ Hiếu -
Trung.
Tóm lại, Nho giáo thời Tiên Tần rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo Hiếu trong gia đình.
Bởi lẽ, trong các phạm trù đạo đức của Nho giáo thì Nhân giữ vai trò là trung tâm. Từ Nhân mà
phát sinh ra các đức khác và các đức khác bị quy tụ cả về với nó. Nhân có nội dung phong phú,
nghĩa sâu rộng nhưng nghĩa chính là lòng thương người. Nhưng lòng thương người phải được
thể hiện trước hết từ trong phạm vi gia đình, sau đó mới mở rộng ra họ hàng, làng, nước. Từ
Khổng Tử đến Mạnh Tử và Tuân Tử đều đòi hỏi nghĩa vụ đạo đức trong gia đình phải mang
tính hai chiều. Bề trên phải gương mẫu, làm gương tốt cho kẻ dưới, kẻ dưới phải có bổn phận,
nghĩa vụ đối với người trên. Ví dụ, trong quan hệ cha - con thì cha phải hiền từ, con phải hiếu
thảo. Quan hệ cha con yêu cầu cả trách nhiệm làm cha làm mẹ và nghĩa vụ hiếu thảo của con
cái. Tuy nhiên, cùng với thời gian và sự phát triển của xã hội, những quan niệm đạo đức gia
đình thời Nho giáo tiên Tần cũng có nhiều thay đổi.
1.1.2. Sự phát triển của quan niệm Nho giáo về gia đình
Do sự vận động và phát triển của chế độ phong kiến Trung Hoa, cùng với yêu cầu củng
cố và phát triển nền chính trị phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế, quan niệm của
Nho giáo về gia đình cũng có những bước phát triển mới. Điển hình là quan niệm về gia đình,

các mối quan hệ trong gia đình, đạo đức gia đình thời Hán và thời Tống.
Quan niệm của Nho giáo thời Hán (Hán Nho) về gia đình (thế kỷ III trước công nguyên -
đầu thế kỷ III sau công nguyên)
Xét trên phương diện nhân văn, những quan hệ và yêu cầu đạo đức Nho giáo qua bàn tay
“chế biến” của Đổng Trọng Thư thời Hán (hay còn gọi là Hán Nho) so với Nho giáo thời
Khổng Tử, thậm chí cả với thời Mạnh Tử, là một bước thụt lùi nghiêm trọng. Nếu Nho giáo
Tiên Tần còn đề cập đến đạo đức gia đình với tính chất hai chiều, dựa trên thực tại quan hệ xã
hội giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng thì Nho giáo thời Hán dựa trên cơ sở thần bí
hóa các quan hệ xã hội đó, đòi hỏi con cái phải tuyệt đối phục tùng cha mẹ, vợ phải tuyệt đối
phục tùng chồng. Do vậy, Trung, Hiếu của Nho giáo thời Hán được thần bí hóa và đẩy đến
mức tuyệt đối thành ngu Trung, ngu Hiếu.
Quan niệm của Nho giáo thời Tống về gia đình (thế kỷ X - thế kỷ XIII)
Tóm lại, qua nghiên cứu sự hình thành và phát triển của Nho giáo qua các thời kỳ, chúng
ta thấy rằng tư tưởng Hán Nho về gia đình và đạo đức gia đình không hề bị Tống Nho phủ
nhận mà được tích hợp lại và thậm chí còn được cải biến lên một trình độ mới với việc đưa ra
cơ sở lý học siêu hình cho những mối quan hệ và giá trị đạo đức này. Nho giáo từ đời nhà
Hán về sau đã trở thành hệ tư tưởng thống trị của giai cấp phong kiến Trung quốc, nhằm bảo
vệ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Mặc dù bản thân Nho giáo mang nhiều yếu tố bảo thủ,
tiêu cực, tuy nhiên, đó là một học thuyết giàu sức sống đã tồn tại hàng nghìn năm, nên không
thể phủ nhận những giá trị mang tính phổ biến và chứa đựng nhiều tư tưởng triết học.
1.2. Những nội dung cơ bản của Nho giáo về gia đình
1.2.1. Tôn ti trật tự trong gia đình
Nho giáo quy định rất rõ tôn ti trật tự trong gia đình. Trong đó, người gia trưởng đứng
đầu gia đình là người có quyền lực và trách nhiệm lớn lao nhất trong sự duy trì, phát triển gia
đình. Trong gia đình nhiều thế hệ, vị trí người gia trưởng thuộc về người cụ, người ông hay
người cha thuộc ngành trưởng. Những người thuộc ngành thứ đều phải tuân theo ý chí quản
lý gia đình của người gia trưởng. Tôn ti trật tự gia đình này tuân thủ các quy định về trưởng -
thứ, nam - nữ, nội - ngoại hết sức chặt chẽ tạo nên chế độ gia trưởng tông tộc trên phương
diện gia đình. Với tôn ti trật tự này, vai trò, quyền lực của người nam, người gia trưởng trong
gia đình được đề cao tuyệt đối (tôn), người phụ nữ, người vợ giữ vị trí thấp, phụ (ti) trong gia

đình (nam tôn nữ ti). Từ tôn ti trật tự gia đình mở rộng tới tộc họ rồi tới quốc gia là theo một
trật tự như nhau, khiến cho sự ổn định, trật tự trong quan hệ gia đình đảm bảo cho sự ổn định,
trật tự trong quan hệ xã hội của một xã hội theo Nho giáo.
1.2.2. Gia đạo và các chuẩn mực đạo đức
Đạo cha - con
Đây là mối quan hệ cụ thể gần gũi nhất của bất kỳ gia đình nào trong xã hội.
Đạo hiếu, vấn đề nhớ ơn tổ tiên
Bàn về đạo hiếu, Khổng Tử nói nhiều, và tuy nội dung còn giản dị, mộc mạc, nhưng ý
nghĩa rất sâu sắc. Đến Mạnh Tử và chính Tăng Tử mới là người phát triển nội dung đạo hiếu
một cách cụ thể và cặn kẽ.
Hiếu là đạo ứng xử của con cái đối với cha mẹ, đồng thời là đạo ứng xử đối với các thế hệ
bề trên trong gia đình.
Tóm lại, trong Nho giáo, Đạo hiếu và vấn đề nhớ ơn tổ tiên có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Làm người con có hiếu không chỉ biết đối xử đúng mực với ông bà, cha mẹ khi còn
sống mà cả khi qua đời; biết lo ma chay chu đáo, trang trọng, giữ gìn trông nom cho mồ yên
mả đẹp; lo tổ chức cúng giỗ tổ tiên đầy đủ, đàng hoàng; ghi nhớ công ơn của ông bà, cha
mẹ,… Chính lòng hiếu thảo sẽ giúp con người trong sáng, đẹp đẽ, thanh cao hơn; biết sống
đẹp, sống tốt giữa cuộc đời và thực sự trở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội.
Đạo chồng - vợ
Cuộc sống vợ chồng là sự bắt đầu của cuộc sống gia đình, là cơ sở rất quan trọng cho sự
phát triển của xã hội. Quan hệ này là trung tâm của ngũ luân, là nền tảng của các mối quan hệ
xã hội khác vì có vợ chồng mới sinh con đẻ cái, hình thành quan hệ cha con, anh em… từ đó
mở rộng ra ngoài hình thành các mối quan hệ họ hàng, vua tôi và bạn hữu. Trong quan hệ vợ
chồng các nhà nho đặc biệt đề cao vai trò của người chồng, người được coi là người chủ gia
đình, là trụ cột trong gia đình và xã hội, hạ thấp vai trò của người vợ, vì vậy người vợ luôn ở
địa vị phụ thuộc, không có vai trò độc lập.
Đạo anh - em
Khổng Tử, Mạnh Tử và các nhà nho đều cho rằng anh em ruột thịt trong một nhà phải
yêu thương nhau, có thứ tự trên dưới, có trước có sau: “anh nên anh, em nên em”, “trưởng ấu
hữu tự”, “huynh đệ tương thân”. Họ yêu cầu “làm em mộ nhân nghĩa nên thờ anh”, anh bảo

em phải nghe, làm anh phải thương mến, khoan dung độ lượng với em, quan tâm, chăm sóc
em. Trên dưới phải thuận hòa, vui vẻ bảo ban nhau.
Nho giáo quan niệm đạo vợ chồng, đạo cha con, đạo anh em là ba nội dung chính của gia
đạo góp phần củng cố sức mạnh và vị thế của gia đình, tông tộc trong xã hội. Mặc dù nhấn
mạnh đạo vợ chồng là gốc của gia đình nhưng trên thực tế, Nho giáo coi trọng đạo cha con và
đạo anh em hơn. Điều này xuất phát từ quan điểm gia trưởng tông tộc của Nho giáo. Những
quan niệm này về gia đình và đạo đức gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển khuôn
mẫu gia đình Nho giáo, từ đó, ảnh hưởng sâu rộng đối với các phương diện khác của xã hội
phong kiến.

Tiểu kết chương 1
Như vậy, qua nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển quan niệm của Nho giáo về
gia đình cũng như một số nội dung cơ bản về gia đình theo quan niệm Nho giáo, có thể thấy
rằng Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức nhằm củng cố xây dựng, duy trì trật tự xã
hội bằng đường lối đức trị dựa trên cơ sở xây dựng, củng cố và phát triển gia đình gia trưởng.
Những quan niệm của Nho giáo về gia đình đã phần nào phản ánh nhận thức của một thời
đại, lập trường của một giai cấp, tồn tại xã hội cũng như đời sống tinh thần của một giai đoạn
lịch sử nhất định. Chính vì vậy, trên thực tế quan niệm của Nho giáo về gia đình có nhiều hạn
chế cần phải vượt bỏ, nhưng mặt khác, trong đó cũng chứa đựng nhiều tư tưởng phản ánh
được sự vận động nội tại của chính quá trình tồn tại và phát triển của gia đình trong lịch sử.
Vì vậy ở đó cũng chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý đáng được kế thừa và phát huy.

Chương 2
Ý NGHĨA CỦA QUAN NIỆM NHO GIÁO VỀ GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với gia đình truyền thống Việt Nam
Nho giáo ảnh hướng sâu rộng trong nền văn hóa Việt Nam thời phong kiến. Khu Văn
Miếu - Quốc Tử Giám ở Hà Nội, Huế và một số địa phương như là kỷ vật thiêng liêng, ngưng
tụ lại một nền văn hóa truyền thống được mọi người Việt Nam trân trọng, tự hào đã thể hiện
một tinh thần chủ động tiếp nhận Nho giáo của các nhà nước Lê, Nguyễn và các tầng lớp xã

hội trước đây.
Có thể thấy rằng vị trí của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam là một vấn đề có ý
nghĩa phương pháp luận quan trọng đối với việc nghiên cứu truyền thống tư tưởng của dân
tộc cũng như sự ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam, đối với gia đình Việt Nam. Việc
xem xét một cách khách quan những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của Nho giáo đối với gia
đình truyền thống Việt Nam là cơ sở cho việc kế thừa và phát huy những giá trị của Nho giáo
đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại.
2.1.1. Ảnh hưởng tích cực
Trước hết cần thấy rằng trong lịch sử dân tộc, khi chiếm được địa vị quan trọng trong hệ
tư tưởng dân tộc, Nho giáo đã thể hiện rõ vai trò can thiệp vào cơ cấu xã hội phong kiến từ
Trung ương đến địa phương.
Nho giáo vào Việt Nam đề cao chữ Hiếu, đề cao lễ nghĩa, tiết hạnh, bảo vệ gia đình, gia
tộc, tông tộc.
Trong hôn nhân, bộ luật đề cao tình nghĩa vợ chồng, không cho phép bội ước sau khi kết
hôn, bảo vệ quyền lợi vật chất cũng như tinh thần của người phụ nữ.
Nho giáo coi trọng nguồn gốc, dòng giống, coi gia đình gắn chặt với họ hàng, coi tuyệt tự,
mất dòng giống là tội lỗi với tổ tiên, là sự bất hạnh lớn nhất. Xây dựng gia đình êm ấm không
chỉ là để cho bản thân và các thành viên khác có hạnh phúc mà còn là việc quan trọng để xây
dựng xã hội.
Có thể nói Nho giáo đề cao gia đình hơn bất cứ một học thuyết nào khác. Quan hệ gia
đình theo Nho giáo là quan hệ đặc biệt chặt chẽ, phải được tái sinh, tái lập, và mở rộng, theo
trách nhiệm nghĩa vụ, và đồng thời giữ gìn trật tự kỷ cương, Ngũ luân là “quân thần hữu
nghĩa, phu phụ hữu biệt, trưởng ấu hữu tự, huynh đệ hữu cung, bằng hữu hữu tín”. Đó là
nguyên tắc, nguyên lý bất dịch; cũng như nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là ngũ thường không thay
đổi.
2.1.2. Những mặt hạn chế
Có thể nói rằng trong xã hội phong kiến Việt Nam với nền sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự
cấp, mỗi gia đình là một đơn vị sản xuất khép kín… nên trách nhiệm của gia đình đối với
việc tái tạo sức lao động, truyền thụ kinh nghiệm, giáo dục, sinh hoạt văn hóa là rất lớn.
Nguyên tắc tôn ti trật tự được giai cấp phong kiến sử dụng triệt để trong việc phân định các

mối quan hệ trong gia đình. Điều này được thể hiện trước hết trong mối quan hệ cha - con. Ở
vị trí người con (đặc biệt là con gái) phải luôn nghe theo sự dạy bảo, ý kiến, hay những quyết
định của cha mẹ. Xã hội phong kiến nhìn nhận mối quan hệ này theo hướng một chiều, thụ
động: cha mẹ bảo sao con nghe vậy, dù đúng, dù sai. Nếu thấy cha mẹ sai mà cãi lại hoặc làm
trái lời là bất hiếu.
Có thể nói rằng, người vợ trong gia đình giống như một thứ công cụ để sai bảo, một kiểu
nô lệ, họ không có cuộc sống cho mình, phải hy sinh bản thân cho người khác.
Gia đình Nho giáo là kiểu gia trưởng phụ quyền, đề cao gia trưởng quyền và nam quyền.
Nho giáo coi thường phụ nữ, thậm chí coi phụ nữ là thấp hèn nhất.
Lịch sử cho chúng ta thấy, nhiều khi tồn tại xã hội đã mất đi nhưng ý thức xã hội do nó
sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Điều này được thể hiện rõ nét trong những quan niệm truyền
thống, tập quán, tâm lý… Lênin cho rằng sức mạnh của tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ
có một sức mạnh ghê gớm. Việt Nam đã đánh đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi giặc ngoại
xâm, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1986 thực hiện đổi mới cho đến nay, xã hội có
nhiều biến động lớn lao tạo ra những bước phát triển tiến bộ vượt bậc trên mọi lĩnh vực xã
hội, trong đó có lĩnh vực gia đình và giới. Tuy nhiên, nhiều ảnh hưởng tiêu cực của Nho giáo
đối với xã hội nói chung và với gia đình nói riêng vẫn là điều khiến chúng ta trăn trở.
2.2. Phát huy các giá trị của Nho giáo về gia đình trong gia đình Việt Nam hiện nay
2.2.1. Thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay
2.2.1.1. Một số yếu tố tác động đến gia đình Việt Nam hiện nay
Ngoài những đặc điểm của gia đình truyền thống Việt Nam dưới ảnh hưởng của Nho giáo
như đã trình bày ở trên, gia đình Việt Nam hiện nay còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố
sau:
Thứ nhất: Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước về mặt kinh tế đã tạo ra những điều kiện
mới, ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình Việt Nam hiện nay.
Hai là, tình hình quốc tế trong những năm qua đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển
của gia đình Việt Nam.
Như vậy, trong quá trình mở cửa và giao lưu quốc tế, bên cạnh những kết quả to lớn đạt
được về mặt kinh tế, những tư tưởng phương Tây đã xâm nhập vào nước ta mang theo trong
mình nó những giá trị và hạn chế, tác động mạnh mẽ đến các mặt của đời sống xã hội.

2.2.1.2. Một số đặc điểm của gia đình ở Việt Nam hiện nay
Cùng với sự biến đổi của xã hội, gia đình Việt Nam cũng đang trải qua những biến động
lớn. Trên cơ sở khái quát những đặc điểm của gia đình Việt Nam hiện nay sẽ có phương
hướng kế thừa và phát huy những yếu tố tích cực của gia đình truyền thống cho phù hợp với
điều kiện lịch sử mới.
* Đặc điểm 1: Hôn nhân vẫn luôn được coi trọng
Đặc điểm 2: Số lượng gia đình hạt nhân tăng nhanh
Số lượng gia đình Việt Nam hiện nay đang tăng rất nhanh năm 1979 mới chỉ có 9,7 triệu
hộ, năm 1989 lên tới gần 13 triệu hộ và hiện nay khoảng 20 triệu hộ. Số lượng gia đình tăng
nhanh như vậy là do rất nhiều nguyên nhân nhưng có lẽ trực tiếp nhất là quá trình hạt nhân
hoá gia đình đang diễn ra mạnh mẽ. Điều này có thể được giải thích qua một số nguyên nhân
sau:
Thứ nhất, do điều kiện xã hội trong những năm gần đây thay đổi nhanh chóng, nhiều gia
đình đã có điều kiện kinh tế để xây dựng nhà riêng.
Thứ hai, do chính sách chia ruộng đất và di dân đi các vùng kinh tế mới của Đảng trong
quá trình đổi mới.
Thứ ba, do tâm lý của thế hệ trẻ ngày nay khi xây dựng gia đình thường muốn ra ở riêng,
độc lập với bố mẹ để tự do làm ăn kinh tế.
Đặc điểm 3: Việc thực hiện các chức năng của gia đình Việt Nam hiện nay có nhiều biến
đổi
Thứ nhất: Chức năng tái sản xuất con người.
Thứ hai: Chức năng kinh tế
Thứ ba: Chức năng giáo dục
Thứ tư: chức năng tiêu dùng
Thứ năm: Chức năng cân bằng tâm sinh lý.
2.2.1.3. Một số vấn đề đặt ra
Trước hết, trong lĩnh vực hôn nhân của đời sống gia đình đã xuất hiện những hiện tượng
hôn nhân không dựa trên tình yêu chân chính.
Thứ hai, cần phải kể đến quy mô gia đình Việt Nam còn lớn và tỷ lệ sinh hiện nay vẫn
còn ở mức cao.

Thứ ba, mặt trái của nền kinh tế thị trường đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến gia đình Việt
Nam.
Thứ tư, quá trình mở cửa và giao lưu quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều loại hình văn hoá
nước ngoài ồ ạt xâm nhập vào nước ta.
Thứ năm, là tình trạng lệch chuẩn trong việc xây dựng gia đình văn hoá hiện nay.
Thứ sáu, nạn bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình đang là một vấn đề
nan giải.
Thứ bảy, tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng và đang trở thành một vấn đề nhức nhối đối
với toàn xã hội.
2.2.2. Phát huy mặt tích cực của quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng
gia đình Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, quan hệ vợ chồng
Thứ hai, quan hệ giữa cha mẹ và con cái
Thứ ba, quan hệ giữa anh chị em với nhau
Ngoài những nội dung cơ bản nêu trên, để xây dựng gia đình Việt Nam hiện đại cần kế
thừa và phát huy những giá trị đạo đức khác trong gia đình văn hóa truyền thống Việt Nam
dưới ảnh hưởng của Nho giáo. Cụ thể là:
Tư tưởng tu thân và quan điểm coi trọng giáo dục gia đình và truyền thống gia đình của
Nho giáo.
Tư tưởng coi trọng tình nghĩa
Lễ phép, khoan thứ và kiệm ước.
Tiểu kết chương 2
Qua nghiên cứu ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với gia đình truyền thống Việt
Nam có thể thấy rằng: quan niệm của Nho giáo về gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến gia
đình Việt Nam truyền thống. Tuy nhiên, người Việt Nam đã tiếp nhận Nho giáo một cách chủ
động nhằm phục vụ việc củng cố và xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền
hùng mạnh. Vì vậy gia đình Việt Nam truyền thống ngoài những ảnh hưởng của quan niệm
Nho giáo còn thể hiện cái văn hoá tinh thần truyền thống Việt Nam. Từ việc nhìn nhận một
cách khách quan những ảnh hưởng tích cực và hạn chế của quan niệm Nho giáo đối với gia
đình truyền thống Việt Nam cũng như qua nghiên cứu thực trạng gia đình Việt Nam hiện nay,

chúng ta sẽ có thái độ đối xử hợp lý với di sản Nho giáo, là cơ sở để xây dựng gia đình Việt
Nam hiện đại. Cụ thể là, một mặt, cần khắc phục triệt để những hạn chế của nó, mặt khác cần
chỉ rõ những hạt nhân hợp lý để kế thừa và phát huy trong điều kiện xã hội mới, đó là cách
làm hoàn toàn biện chứng và khoa học.

KẾT LUẬN
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức, xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước
Công nguyên với vai trò sáng lập của Khổng Tử (551-479 TrCN) và được bổ sung, hoàn hiện
qua nhiều giai đoạn lịch sử Trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh nhưng tiêu biểu hơn
cả là dưới triều đại nhà Hán và Tống. Do Nho giáo đáp ứng được yêu cầu của trật tự xã hội
và các tập đoàn phong kiến thống trị nên đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của bao triều
đại phong kiến Trung Quốc cũng như nhiều nước Phương Đông trong hàng ngàn năm lịch sử.
Nho giáo chủ yếu bàn về chính trị, luân lý, đạo đức. Khi vào Việt Nam, Nho giáo đã có ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt. Trên chặng đường dài của lịch sử dân
tộc, có lúc Nho giáo giữ vai trò thúc đẩy, có lúc nó kìm hãm sự phát triển kinh tế, văn hoá,
chính trị của con người Việt Nam. Nhưng dù thúc đẩy hay kìm hãm, nó đều góp phần làm
nên truyền thống tư tưởng, văn hoá dân tộc; góp phần vào bước tiến của xã hội và con người
Việt Nam. Quan niệm về gia đình của Nho giáo là một trong những vấn rất cơ bản và khá
quan trọng, nội dung của nó có sự thay đổi theo sự vận động của xã hội. Điều này dễ nhận
thấy là quan niện về gia đình và những mối quan hệ trong gia đình thời kỳ Khổng - Mạnh còn
mang nhiều giá trị hợp lý nhất định, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo thì đến các triều đại
Hán, Tống, về sau, những phần tiêu cực, lạc hậu lại được khuếch trương nhằm phục vụ trực
tiếp cho chế độ phong kiến tập quyền đương đại.
Có thể nói, Nho giáo là một học thuyết chuộng gốc, nhớ nguồn nên rất coi trọng vấn đề
gia đình và giáo dục trong gia đình nhằm xây dựng một xã hội lý tưởng “Đại đồng”. Từ mục
đích đó, Nho giáo đã nêu cao vai trò của việc giáo dục con người tuân theo những chuẩn mực
xã hội. Mặt khác, gia đình lại là một tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời
người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách nên giáo dục đạo
đức trong gia đình theo những chuẩn mực của Nho giáo có những yếu tố hợp lý: Nho giáo đã
nêu cao được vai trò tích cực của của các chuẩn mực đạo đức trong gia đình nhằm góp phần

ổn định xã hội. Đây cũng là một đặc điểm đặc thù của triển lý phương Đông so với các học
thuyết triết học phương Tây. Tuy nhiên, ra đời và tồn tại trong bối cảnh lịch sử đó, Nho giáo
không tránh khỏi những hạn chế nhất định, đó là đề cao thái quá vấn đề đạo đức và tiêu chí
hàng đầu để xem xét con người là ở phẩm chất đạo đức mà không quan tâm đến lĩnh vực lao
động sản xuất và các lĩnh vực khác. Do vậy, nội dung giáo dục đạo đức trong gia đình nặng
về giáo dục nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận mà ít chú ý tới phát triển khả năng sáng tạo
cũng như tự do cá nhân của mỗi người.
Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ đầu Công nguyên, trong suốt hơn hai nghìn năm tồn
tại trong đó trên năm trăm năm giữ vai trò là hệ tư tưởng thống trị, Nho giáo đã có đủ thời
gian và điều kiện thấm sâu, bám rễ vào mọi lĩnh vực của đời sống tinh thần dân tộc và ảnh
hưởng của nó đặc biệt sâu sắc trong gia đình, làng xã Việt Nam. Tuy nhiên, Nho giáo đã
được “Việt hoá” cho phù hợp với bản sắc văn hoá Việt Nam. Nho giáo nói chung và quan
niệm về gia đình nói riêng, một mặt cũng có những nhân tố tích cực nhất định, góp phần làm
phong phú thêm truyền thống dân tộc như tình cảm vợ chồng, cha con, anh em, thờ cúng tổ
tiên,… nhưng mặt khác, những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu của nó cũng gây ra những tác hại
xấu đến nhiều mặt của đời sống đạo đức gia đình, mà ngày nay những tàn dư tư tưởng ấy còn
để lại nhiều hậu quả nặng nề, gây trở ngại cho việc xây dựng gia đình văn hoá mới, cản trở
công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Có thể nói, dưới sự tác động của kinh tế thị trường, gia đình Việt Nam đã có nhiều biến
đổi hơn so với trước kia. Bên cạch những mặt tích cực đó là sự tự do, bình đẳng, dân chủ, tôn
trọng lợi ích cá nhân giữa các thành viên trong gia đình lại là những biểu hiện xuống cấp về
đạo đức, những tệ nạn xã hội như ma tuý, mại dâm, cờ bạc, rượu chè, lối sống hưởng lạc gấp
gáp,… đã và đang xâm nhập vào các gia đình. Trước thực trạng đó, việc kế thừa và phát huy
những giá trị đạo đức trong gia đình theo quan niệm Nho giáo có một ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Điều này thể hiện đúng tinh thần của Chỉ thị số 49-CT/TW, ngày 21 - 2 - 2005 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam: Trong thời gian tới, nếu chúng ta không quan
tâm củng cố, ổn định và xây dựng gia đình, những khó khăn và thách thức sẽ tiếp tục làm suy
yếu gia đình, suy yếu động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Gia
đình không được chuẩn bị đầy đủ năng lực để thích ứng với xu thế tiến bộ, gia đình sẽ không
thực hiện được chức năng vốn có của mình, không thực hiện được vai trò hạt nhân của xã

hội. Do đó, đề cao giá trị văn hoá gia đình và xây dựng gia đình văn hoá là mục tiêu vừa có
tính chiến lược, vừa có tính cấp bách trong sự nghiệp xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc và phù hợp với quy luật phát
triển tất yếu của xã hội.
Nhận thức được sâu sắc điều đó, hơn lúc nào hết chúng ta phải quan tâm hơn nữa đến
thiết chế gia đình, xây dựng gia đình Việt Nam xứng đáng là nền tảng của xã hội. Để thực
hiện điều đó không có cách nào khác là chúng ta phải biết kế thừa những giá trị của truyền
thống dân tộc trong đó có ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo về gia đình. Về điều này,
chúng ta phải học cách kế thừa của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể nói rằng, Hồ Chí Minh là
người thầy vĩ đại trong việc đánh giá cũng như kế thứa những giá trị của Nho giáo. Việc kế
thừa và phát huy hạt nhân hợp lý của Nho giáo luôn gắn liền với tư tưởng sáng tạo, gắn liền
với thực tế tình hình xã hội mới cũng như những yêu cầu xã hội mới. Đó là nguyên tắc không
thể bỏ qua trong quá trình kế thừa những giá trị truyền thống nói chung, quan niệm Nho giáo
về gia đình nói riêng.
Như vậy, qua nghiên cứu quan niệm của Nho giáo về gia đình và ý nghĩa của nó đối với
việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay, tác giả hy vọng rằng những kết quả trên sẽ có giá
trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong việc phát huy tính tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
quan niệm Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng gia đình Việt Nam hiện nay theo tiêu
chí: no ấm - bình đẳng - tiến bộ - hạnh phúc, góp phần định hướng giá trị trong quá trình
chuyển đổi từ xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với
việc phát huy vai trò động lực của gia đình Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá hiện nay.


References
1. Lê Ngọc Anh (2002), “Vấn đề giáo dục đạo đức và nếp sống văn hoá gia đình truyền
thống trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, (1).
2. Lê Ngọc Anh (2004), ““Nhân” trong Luận ngữ của Khổng Tử”, Tạp chí Triết học,
(11).
3. Minh Anh (2004), “Về học thuyết luân lý và đạo đức của Nho giáo”, Tạp chí Triết học,

(8).
4. Minh Anh (2005), “Tư tưởng Nho giáo về gia đình và việc xây dựng gia đình mới ở
Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, (10).
5. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu Văn kiện Đại hội IX
của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đỗ Thị Bình (1997), “Gia đình ở đô thị trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,
Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (3).
7. Nguyễn Văn Bình (2001), Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng
và ý nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay, Luận án tiến sỹ triết học: 5.01.01, Hà Nội
(Thư viện quốc gia).
8. Doãn Chính (1997), Đại cương Lịch sử Triết học Trung Quốc, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
9. Doãn Chính, Nguyễn Sinh Kế (2004), “Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam”,
Tạp chí Triết học, (9).
10. Trương Chính (1994), Cha ông chúnh ta đã tiếp thu những gì tích cực ở các ý thức hệ
phong kiến Trung Quốc, Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Đình Chú (2005), “Hiện nay với Nho giáo”, Tạp chí Hán Nôm, (1).
12. Đoàn Trung Còn (dịch giả, 1950), Luận ngữ, Tứ thơ, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
13. Đoàn Trung Còn (dịch giả, 1950), Mạnh Tử (thượng), Tứ thơ, Nxb. Trí Đức Tòng Thơ
Sài Gòn.
14. Đoàn Trung Còn (dịch giả, 1996), Mạnh Tử - Tập hạ, Tứ thơ, Nxb. Thuận Hoá, Huế.
15. Đoàn Trung Còn (dịch giả, 1996), Đại học, Trung dung, Tứ thơ, Nxb. Thuận Hoá,
Huế.
16. Hoàng Tăng Cường (2006), Triết lý Nho giáo về quan hệ cá nhân - xã hội, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
17. Phan Đại Doãn (1999), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
18. Phan Đại Doãn (2005), “Nho giáo Việt Nam”, Tạp chí Xưa và nay, (229-230).
19. Nguyễn Đăng Dung (1998), Nho giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.

20. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung
ương khoá VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đề tài KX 07-79 (1994), Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình, Nxb. Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
26. Trần Văn Giàu (1993), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb.
Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Lã Minh Hằng (2007), “Bàn về công, dung, ngôn, hạnh trong các sách gia huấn nôm”,
Tạp chí Hán Nôm.
28. Trương Mỹ Hoa (1996), Gia đình Việt Nam ngày nay, NXb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
29. Ngô Công Hoàn (1993), Tâm lý học gia đình, Trường Đại học sư phạm Hà Nội I.
30. Tử Hoàn (2004), “Nho giáo với gia đình truyền thống”, Tạp chí Đông Nam Á, (12).
31. Khuất Thu Hồng (1996), Gia đình truyền thống - Một số tư liệu nghiên cứu xã hội học,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
32. Trần Đình Hượu (1992), Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam, Nxb.
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
33. Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
34. Nguyễn Khánh, Trương Mỹ Hoa (1995), Gia đình Việt Nam, các trách nhiệm, các
nguồn lực trong sự đổi mới của đất nước, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Vũ Ngọc Khánh (1998), Văn hoá gia đình Việt Nam, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
36. Vũ Khiêu (1991), Đại học Trung dung Nho giáo, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Vũ Khiêu, Đào Duy Anh (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
38. Vũ Khiêu (1995), Nho giáo và gia đình, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

39. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Nguyễn Linh Khiếu (1999), “Gia đình và một số vấn đề đặt ra ở Việt Nam hiện nay”,
Tạp chí Triết học, (3).
41. Nguyễn Thị Khoa (1997), “Đạo đức gia đình trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí
khoa học về phụ nữ, (2).
42. Trần Trọng Kim (2008), Nho giáo, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
43. Lê Ngọc Lân, Nguyễn Thanh Tâm (1999), “Tìm hiểu một số đặc điểm trong quan hệ
gia đình hiện nay”, Tạp chí Khoa học về phụ nữ, (1).
44. Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi (1994), Tuân Tử, Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
45. Nghiêm Sỹ Liêm (2000), “Vai trò người phụ nữ trong quan hệ gia đình ở nước ta hiện
nay”, Tạp chí nghiên cứu lý luận, (3).
46. Luật Hôn nhân và Gia đình (2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2009), Quan niệm Nho giáo về con người, về giáo dục và đào
tạo con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Hà Thúc Minh (2002), Đạo Nho và văn hoá Phương Đông, Nxb. Giáo dục, Thành phố
Hồ Chí Minh.
49. Dương Thị Minh (2003), Gia đình Việt Nam và vai trò người phụ nữ hiện nay, Luận án
Tiến sỹ Triết học: 5.01.03, Hà Nội (Thư viện quốc gia).
50. Lại Quang Mừng (1996), Gia đình Việt Nam trong điều kiện của nền kinh tế vận động
theo cơ chế thị trường hiện nay, Luận văn thạc sỹ Khoa học Triết học, Hà Nội.
51. Đỗ Hoài Nam, Trịnh Khắc Mạnh (2006), Nho giáo ở Việt Nam: Kỷ yếu hội thảo quốc
tế, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
52. Nguyễn Tôn Nhan (2005), Nho giáo Trung Quốc, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
53. Nguyễn Thị Nga (1999), “Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con người và ý nghĩa
của nó với việc giáo dục con người ở Việt Nam trong thời kỳ CNH-HĐH”, Luận án
tiến sỹ triết học: 5.01.02, Hà Nội (Thư viện quốc gia).
54. Nguyễn Thị Nga, Hồ Trọng Hoài (2002), Quan niệm của Nho giáo về giáo dục con
người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Nguyễn Thị Oanh (1998), Gia đình Việt Nam thời mở cửa, Nxb. Trẻ.
56. Lê Văn Quán (2004), “Bước đầu tìm hiểu luân lý đạo đức trong truyền thống văn hoá

Nho giáo”, Tạp chí Hán Nôm, (2).
57. Nguyễn Thị Kim Quỳ (1995), Gia đình và địa vị người phụ nữ trong xã hội - Cách
nhìn Việt Nam và Hoa Kỳ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
58. “Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân” (2002), Tạp chí Khoa học Chính trị, (2).
59. Đoàn Kim Thắng, Dương Chí Thiện (2002), “Giáo dục giới tính và sức khoẻ sinh sản
của trẻ vị thành niên”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, (3).
60. Chương Thâu (2006), “Về việc nghiên cứu và ứng dụng Nho giáo, Đạo giáo ở Trung
Quốc hiện nay”, Tạp chí Triết học, (5).
61. Lê Thi (1990), Một vài nét nghiên cứu về gia đình Việt Nam, Hà Nội.
62. Lê Thi (1994), Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
63. Trần Thị Minh Thi (2002), “Nạo phá thai của nữ sinh viên qua nghiên cứu một số
trường hợp trên địa bàn Hà Nội hiện nay”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ, (2).
64. Chu Thị Thoa (2002), “Bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ nông thôn”, Tạp chí
Khoa học Chính trị, (2).
65. Nguyễn Tài Thư (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
66. Thẩm Thanh Tùng, Nguyễn Tài Thư dịch (2005), Sự tái sinh của truyền thống: Cách
tiếp cận mới về Nho giáo, Nxb. Phương Đông, Cà Mau.
67. Lê Ngọc Văn (1998), Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hoá, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
68. Lê Ngọc Văn (1998), “Những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học về Phụ nữ, (1).
69. Lê Ngọc Văn (2001), “Mức sinh và phúc lợi gia đình”, Tạp chí Khoa học về Phụ nữ,
(4).
70. Nguyễn Khắc Viện (1993), Bàn về Đạo Nho, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
71. Nguyễn Khắc Viện (1996), Tâm lý gia đình, Nxb. Trẻ.
72. Nguyễn Hữu Vui (1998), Lịch sử triết học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
73. www.giadinh.net.vn (website Báo Gia đình và Xã hội)
74. www.goplp.gov.vn (website Tổng cục dân số - KHHGĐ)
75. www.gso.gov.vn (website Tổng cục thống kê)

76. www.vientriethoc.com.vn (website Viện Triết học)
77. www.hannom.org.vn (website Tạp chí Hán nôm)




×