Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

ĐỀ TÀI :Đánh giá mức độ phù hợp của quy định pháp luật bảo vệ môi trường ô nhiễm không khí của pháp luật bảo vệ môi trường việt nam với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.79 KB, 16 trang )

Bài thuyết trình nhóm 8
ĐỀ TÀI :Đánh giá mức độ phù hợp của quy định pháp luật bảo vệ môi trường ô
nhiễm không khí của pháp luật bảo vệ môi trường việt nam với các cam kết quốc
tế mà Việt Nam là thành viên.

Mục Lục:
1.
2.
3.
4.

Cơ sở lý luận.
Thực trạng ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam.
Các cam kết quốc tế mà việt nam là thành viên.
Đánh giá sự phù hợp giữa pháp luật bảo vệ môi trường việt nam và cam kết
quốc tế.
• Kết quả đạt được.
• Hạn chế.
• Các giải pháp khắc phục.
• Chuyên much thông tin của bạn.

Phần Nội Dung.
1. Cơ sở lý luận.
*Khái niệm ô nhiễm môi trường không khí.






Không khí là hỗn hợp khí gồm có nitơ chiếm 78,9%, oxy chiếm khoảng


0,95%, acgong chiếm 0,93%, dioxit cácbon chiếm 0,32% và một số khí
hiếm khác như neeon ,heli,meetan.Trong điều kiện bình thường của độ
ẩm tuyệt đối, hơi nước chiếm gần 1-3% thể tích không khí.
Ô nhiễm không khí là sự có mặt của các vật thể lạ hoặc một sự biến đổi
quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí trong sạch
hoặc gây ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu,giảm tầm nhìn xa.
Dưới góc độ pháp lý, ô nhiễm không khí là sự thay đổi tính chất không
khí, vi phạm tiêu chuẩn không khí mà pháp luật đã quy định.

* Nguồn gây ô nhiễm không khí.
Có thể chia làm 2 loại như sau: Nguồn tự nhiên và nguồn nhân tạo .


*Nguồn tự nhiên:








Núi lửa: Núi lửa phun ra những nham thạch nóng và nhiều khói
bụi gồm nhiều sunfua ,meetan và các loại khí khác. Không khí
chưa bụi lan tỏa đi rất xa vì nó được phun lên rất cao.
Cháy rừng: Các đám cháy rừng và đồng cỏ bởi các quá trình tự
nhiên xảy ra do sấm chớp, cọ sát giữa thảm thực vật khô như tre
và cỏ.Các đám chày này thường lan truyền rộng, phát thải nhiều
bụi và khí.
Bão bụi gây nên do gió mạnh và bão mưa bào mòn đất xa mạc

đất trồng và gió thổi tung lên thành bụi. Nước biển bốc hơi cùng
với sóng biển tung bọt mang theo bụi muối lan truyền vào không
khí.
Các quá trình phân hủy ,thối rữa xác động vật.

*Nguồn nhân tạo:
Nguồn gây ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng nhưng chủ yếu là do hoạt động công
nghiệp, đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và hoạt động của các phương tiện giao
thông.Nguồn ô nhiễm công nghiệp do 2 quá trình sản xuất gây ra:




Quá trình đốt nhiên liệu thải ra khí độc đi qua các ống của các
nhà máy vào không khí.Do thoát hơi rò rỉ thất thoát trên dây
chuyên sản xuất sản phẩm và các đường ống dẫn tải. Nguồn thải
của quá trình sản xuất này cũng có thể hút và thải ra ngoài băng
hệ thống thông gió.
Các ngành công nghiệp chủ yếu gây ô nhiễm môi trường không
khí bao gồm: nhiệt điện vật liệu xây dựng hóa chất và phân bón,
dệt và giấy,luyện kim thực phẩm,các xí nghiệp cơ khí,các nhà
máy thuộc công nghiệp nhẹ, giao thông vận tải bên cạnh đó còn
do sinh hoạt của con người.

2.Hiện trạng ô nhiễm không khí.
Hiện trạng ô nhiễm không khí ở Việt Nam và trên thế giới hiện nay, loài người
bắt đầu phải gánh chịu những thảm hoạ khủng khiếp do không khí gây ra. Trái
đất đang nóng dần lên do các hoạt động của con người đã thải quá nhiều khí



CO2, SO2, NO2, ... rồi hiện tượng hiệu ứng nhà kính xảy ra, mưa axit, nhiều lỗ
thủng tầng ôzôn xuất hiện ... Tất cả các thảm hoạ đó đều có nguyên nhân là do
các hoạt động của con người.Việt Nam là một bộ phận của thế giới nên cũng
chịu những tác động chung đó. Hơn nữa, nước ta đang phát triển, quá trình
công nghiệp hoá và đô thị hoá tăng nhanh khiến không khí nước ta ngày càng bị
ô nhiễm nặng hơn, nhất là ở các khu đô thị, khu công nghiệp và các làng nghề.
Có thể điểm qua một số vấn đề nổi cộm về ô nhiễm không khí ở nước ta như sau :
_ Ô nhiễm bụi : Theo số liệu quan trắc và phân tích cho thấy: Ở hầu hết các đô thị
nước ta đều bị ô nhiễm bụi, có những nơi tới mức báo động, điển hình là các khu
dân cư cạnh đường giao thông lớn, ở gần các nhà máy, xí nghiệp.Nồng độ bụi
trong các khu dân cư cạnh các nhà máy, xí nghiệp hoặc gần đường giao thông
lớn đều vượt trị số tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 3 lần. Ở những nơi diễn ra
việc xây dựng nhà cửa, đường sá thì nồng độ này vượt tiêu chuẩn cho phép từ
10 đến 20 lần. Ví dụ, nồng độ bụi ở một số nơi bị ô nhiễm tương đối nặng như:
Vĩnh Yên (0,7 -1,23 mg/m3), Phúc Yên ( 0,99-1,33 mg/m3), thị trấn Hoà Mạc –
Hà Nam (1,31 mg/m3). Trong hoạt động công nghiệp khai thác than như ở
Quảng Ninh đã thải ra lượng bụi dao động từ 10 – 200 mg/m3 (Báo cáo hiện
trạng môi trường quốc gia 2005)
*Ô nhiễm khí SO2 , NO2 trong không khí là nguyên nhân chính gây ra mưa axit.
* Ô nhiễm mùi thường xảy ra ở hai bên bờ kênh rạch thoát nước trong đô thị do
sự thối rữa các chất hữu cơ, vi sinh vật và rác thải tạo ra các khí ô nhiễm như
H2S, NH3, CH4 ..
*Việt Nam trong quá trình đô thị hóa nhanh.
Bảo vệ môi trường đô thị ngày càng có tầm quan trọng trong phát triển bền
vững quốc gia, bởi vì dân số đô thị ngày càng đông, các hoạt động phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia ngày càng tập trung trong các đô thị.Năng lượng
tiêu thụ ở các đô thị có thể chiếm tới 3/4 tổng năng lượng tiêu thụ của quốc gia,
chính vì thế các vấn đề ô nhiễm không khí trầm trọng thường xảy ra ở các đô thị,
đặc biệt là thường xảy ra ở các đô thị lớn.
Ở nước ta trong thời gian khoảng ¼ thế kỷ qua, quá trình đô thị hóa tương đối

nhanh do quá trình với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.


*Hoạt động giao thông vận tải.
Theo đánh giá của các chuyên gia, ô nhiễm không khí ở đô thị do hoạt động giao
thông gây ra chiếm tỷ lệ khoảng 70% và theo số liệu thống kê: Hà Nội có hơn 1,7
triệu xe máy và TP.HCM có khoảng 3,8 triệu xe máy.Những con số này gia tăng
đáng kể với tốc độ tăng trung bình 10-15%/1 năm.Lượng benzen trong không khí
tại các trục giao thông chính của TP.HCM đã lên mức báo động đỏ với nồng độ
trung bình là 33,6 micro gam/m3 cao gấp 6,72 lần tiêu chuẩn của tổ chức y tế thế
giới .

Xét các nguồn thải gây ra ô nhiễm không khí trên phạm vi toàn quốc (bao gồm
cả khu vực đô thị và khu vực khác), theo ước tính cho thấy, hoạt động giao thông
vận tải đóng góp tới gần 85% lượng khí CO, 95% lượng VOCs(Volatile Organic
Compounds). Trong khi đó, các hoạt động công nghiệp là nguồn đóng góp
khoảng 70% khí SO2. Đối với NO2, hoạt động giao thông và hoạt động sản xuất
công nghiệp có tỷ lệ đóng góp xấp xỉ nhau .Trong khi chất lượng nhiên liêu chưa
tố,chứa nhiều tạp chất tác động đến môi trường cụ thể là hàm lượng Benzen
trong xăng quá cao 5% so với 1%, hàm lượng lưu huỳnh trong diesel cao 0,5-1%
so với 0.05% cùng với lượng than tiêu thụ trung bình 250 nghìn tấn/ 1 năm
,xăng dầu 250 nghìn tấn/1 năm, đã thải ra 1 lượng lớn bụi , SO2 ,CO2,NO2, gây
tác động xấu đến tác động không khí.
* Hoạt động xây dựng sửa chữa công trình cùng với đường sá mất vệ sinh
Nước ta đang diễn ra quá trình đô thị hóa mạnh nên ở tất cả các đô thị đều có
nhiều công trường xây dựng đang hoạt động :xây dựng, sửa chữa nhà
cửa,đường xá, vận chuyển nguyên vật liệu,…. và phát sinh rất nhiều bụi, bao gồm
cả bụi nặng và bụi lơ lửng, làm cho môi trường không khí đô thị bị ô nhiễm bụi
nặng nề. Rác thải không được thu gom hết, đường xá mất vệ sinh, tồn đọng lớp
bụi dày trên mặt đường, xe chạy cuốn bụi lên và khếch tán bụi ra khắp phố

phường.
Và hệ quả là mỗi năm, con người thải vào môi trường trái đất 700 triệu tấn
bụi,600 nghìn tấn khí độc, 20 tỉ tấn CO2, 1.53 triệu tấn SiO2.


- Ô nhiễm không khí đang là vấn đề “thảm họa” của nhân loại khi mỗi năm có
hàng triệu người chết vì nguyên nhân này.Theo thông tin mới nhất được công
bố gần đây của Tổ chức Y tế thế giới thì cứ 8 người chết trên thế giới mỗi ngày
thì có 1 người chết vì ô nhiễm không khí, làm cho tổng số người chết trên thế
giới lên đến 7 triệu người riêng trong năm 2012 và tại Việt Nam trung bình mỗi
năm có 16.000 người chết do ô nhiễm không khí gây nên . Ngoài ra thì nó còn
gây nên các bệnh về đường hô hấp , viêm phế quản,viêm abidanh của con nhười
trên toàn thế giới…….
=> Đây thực sự là vấn đề đáng lo ngại mà tổ chức y tế thế giới (WTO) vừa cảnh
báo, và nó là 1 bài toán toàn cầu đặt ra với tất cả các quốc gia trên thế giới đặc
biệt là đối với môi trường ô nhiễm do giao thông ,xây dựng ,sinh hoạt (đun nấu)

3.Các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên:

Công ước viên 1985, Công ước về bảo vệ tầng ozon. Việt Nam trở thành
thành viên ngày 26/4/1994.

Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozon(ký kết 1987).
Việt Nam trờ thành thành viên vào ngày 26/1/1994.

Công ước khung về thay đổi khí hậu của liên hợp quốc(ký kết tại Newyork,
UNFCCC, 1992). Việt Nam trở thành thành vên ngày 16/11/1994.

Nghị định thư Kyoto năm 1997 công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến
đổi khí hậu. VIệt Nam đã ký nghị định thư kyoto vào ngày 3/12/1998 và phê

chuẩn vào ngày 25/9/2002.
* Đối với công ước viên, 1985 và nghị định thư Montreal về bảo vệ tầng
ozon:
- Ngày 22/3/1985 các quốc gia đã cùng nhau kí kết một văn bản thỏa thuận về
trách niệm của các nước trong việc giảm phát thải các chất có hại đến sự bình
ổn của tầng ozon.


Công ước ra đời trong khi bối cảnh khí hậu thay đổi tầng ozon bị suy yếu và
với tư cách 1 công ước khung.Với mục đích hạn chế sự phát thải của các chất khí
có hại đến tầng ozon công ước viên thiết lập sự kiểm soát không đặc thù về các
chất làm suy giảm tầng ozon thay vì xác lập 1 cam kết chung cho các thành viên
để bao vệ tầng ozon.
Việt Nam cũng đã tham gia và kí kết vào ngày 26/4/1994 với tư cách là thành
viên của công ước thì Việt Nam có các quyền và nghã vụ cơ bản sau:

Việt Nam cần có biện pháp thích hợp để bảo vệ sức khỏe con người và môi
trường đó là các biện pháp được nhấn mạnh là ngăn ngừa để kiểm soát cũng
như việ hạn chế để sử dụng một số hóa chất hay chất khí có thể làm suy giảm
tầng ozon.

Việt Nam cần bảo đảm với các quốc gia khác trong việc nghiên cứu khoa
học, quan trắc môi trường có hệ thống liên quan tới tầng ozon, sự biến đổi tầng
ozon, những chất làm ảnh hưởng đến tầng ozon cũng như những chất thay thế.
Hai năm sau nghị định thư montreal năm 1987 về các chất làm suy giảm tầng
ozon đã được ban hành.Nghị định đã đưa ra một kế hoạch đặc biệt cho việc
giảm sản xuất và tiêu thụ các chất làm suy yếu tầng ozon trong 10 năm tới nghị
định đã đặt ra 3 giai đoạn giảm khí nhà kín với mục tiếu giảm 50% khí thải vào
năm 1999 vào giảm đến 0% năm 2000 và các bên cần phải duy trì mức độ phát
thải của mình như đã cam kết.

Công ước viên về bảo vệ tầng ozon 1985 và nghị định thư montreal về các chất
làm suy giảm tầng ozon 1987 và đang được ghi nhận là một sự thành công của
cộng đồng quốc tế trong việc chống lại một thảm họa môi trường toàn cầu tạo
ra do sự biến đổi khí hậu do tầng ozon bị phá hủy gây nên.Đến nay đã có rất
nhiều quốc gia phê chuẩn công ước viên nhằm bảo vệ tầng ozon.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức phê chuẩn và tham gia công ước Viên
Bảo về tầng ozon và nghị định thư Montreal từ tháng 1 năm 1994.
* Công ước khung về thay đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc.
Hiện tượng biến đổi khí hậu có nguồn gốc từ việc thải quá mức khí nhà kín do
các hoạt động kinh tế, xã hội của con người vào khí quyển. Nguyên nhân của việc


tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính chủ yếu là do quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, do việc đốt than và dầu trong các mục đích dân dụng công
nghiệp và cũng do lượng ô tô cũng như xe gắn máy tăng lên cùng với nạn tăng
dân số đặc biệt ở các vùng đô thị. Nhằm ngăn chặn những hiểm họa do biến đổi
khí hậu gây ra tại hội nghị thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về môi trường và
phát triển họp tại Rio De Janeiro, Brazin tháng 6 năm 1992, 162 quốc gia trong
đó có Việt Nam đã ký công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí
hậu.Công ước này là cam kết của các quốc gia nhằm vạch ra khuôn khổ cho hoạt
động kiểm soát và cắt giảm phát thải khí nhà kính nhằm ổn định nồng đọ khí
nhà kính trong khí quyển để ngăn chặn các tác động nguy hiểm của nó tới hệ
thống khí hậu.
Các nước tham gia ký kết công ước viên và nội dung chủ yếu của nó gồm:
Hình thành các chính sách quốc gia về biện pháp tương ứng nhằm làm giảm việc
khí hậu thay đổi bất lợi bằng cách hạn chế các chất khí có thể gây hiệu ứng nhà
kín thiết lập thi hành những chương trình quốc gia chứa đựng những biện pháp
làm giảm nhẹ sự thay đổi bằng cách ứng phó với những chất khí do con người
gây ra.
Hợp tác giữa các quốc gia nhằm ứng phó với sự thay đổi của khí hậu trao đổi

thông tin nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, giáo dục đào tạo và
truyền bá đại chúng.
Các nước phát triển sẽ cung cấp nguồn tài chính mới và bổ sung để đáp ứng
toàn bộ chi phí cho các nước đang phát triển khi các nước này thực hiện nghĩa
vụ nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ.
Các nước cam kết phải thực hiện nghĩa vụ giáo dục, đào tọa về nhận thức của
công chúng trao đổi thông tin về nhận thức của công chúng về thay đổi khí hậu
và ảnh hưởng của nó.
* Nghị định thư Kyoto 1997.
Nghị định thư Kyoto là 1 thỏa thuận quốc tế liên quan đến công ước khung của
Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu(UNFCCC).Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định
thư Kyoto tháng 9 năm 2002.Các điểm chính của nghị định thư Kyoto là thiết lập


các mục tiêu ràng buộc đối với 37 nước công nghiệp phát triển và cộng đồng
châu Âu để giảm phát thải khí nhà kính (GHG).
Mục tiêu chính được đặt ra nhằm là “cân bằng lại lượng khí thải trong môi
trường ở mức độ có thể ngăn chặn những tác động nguy hiểm cho sự tồn tại và
phát triển của con người vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường”.
Các nước thành viên cũng đã thiết lập cơ chế “phát triển sạch” nhằm khuyến
khích các nước công nghiệp tăng cường đầu tư vào các nước đang phát triển với
nhiều dự án bền vững, hướng tới mục tiêu giảm bớt lượng khí thải.
Bản điều lệ cũng đề cập tới hàng loạt những vấn đề khác nhằm vận hành và
giám sát việc triển khai nghị định thư Kyoto, như cách tính lượng khí thải,
hướng dẫn thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu ,hay những biện pháp sử dụng đất
nông nghiệp để hấp thụ khí CO2.
Trong điều lệ, các bên cam kết hạn chế lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính tới
năm 2012, đề ra 1 cơ chế về quyền mua bán lượng khí thải gây hiệu ứng nhà
kính theo quy định….. Trong thời gian họp các nước thông qua các biện pháp
trừng phạt đối với những nước vi phạm nghị định thư.

Các cam kết này là cam kết giữa các quốc gia với nhau không phải là cam kết
giữa người dân của quốc gia này với người dân của quốc gia khác mà việc thực
hiện hành vi này chính là do người dân.Do đó nhà nước ta đã nội lực hóa các
điều ước quốc tế ở trong nước này thành các văn bản quy phạm pháp luật để
điều chỉnh như sau:
* Luật bảo vệ môi trường 2014:
Điều 62. Quy định chung về bảo vệ môi trường không khí
1. Các nguồn phát thải khí vào môi trường phải được đánh giá và kiểm soát.
2. Tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ phát thải khí tác
động xấu đến môi trường có trách nhiệm giảm thiểu và xử lý bảo đảm chất
lượng môi trường không khí theo quy định của pháp luật.
Điều 63. Quản lý chất lượng môi trường không khí xung quanh


Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm theo dõi, đánh
giá chất lượng môi trường không khí xung quanh và công bố công khai thông
tin; trường hợp môi trường không khí xung quanh bị ô nhiễm thì phải cảnh báo,
xử lý kịp thời.
Điều 64. Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
1. Nguồn phát thải khí phải được xác định về lưu lượng, tính chất và đặc điểm
của khí thải.
2. Việc xem xét, phê duyệt dự án và hoạt động có phát thải khí phải căn cứ vào
sức chịu tải của môi trường không khí, bảo đảm không có tác động xấu đến con
người và môi trường.
3. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lớn
phải đăng ký nguồn gây ô nhiễm, đo đạc, thống kê, kiểm kê và xây dựng cơ sở dữ
liệu về lưu lượng, tính chất, đặc điểm khí thải.
4. Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguồn phát thải khí công nghiệp lưu
lượng lớn phải lắp đặt thiết bị quan trắc khí thải tự động, liên tục và được cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cấp phép xả thải.

* Các văn bản hướng dẫn:
- Nghị định 179/2013/NĐ-CP .Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực môi trường cụ thể :



Điều 15. Vi phạm về thải bụi , khí thải có chứa các thông số môi trường
không nguy hại vào môi trường.
Điều 16. Vi phạm về thải bụi, khí thải có chứa các thông số môi trường
nguy hại vào môi trường

- Thông tư 32/2013/ TT –BTNMT ngày 25/10/2013 quy định quy chuẩn kĩ
thuật quốc gia về môi trường.
-Thông tư 30/2009/ TT-BGTVT ngày 19/11/2009 Quy định kĩ thuật quốc gia về
khí thải xe mô tô, gắn máy sản xuất, láp ráp và nhập khẩu mới.


-Thông tư 16/2009 /TT-BTNMT ngày 07/10/2009 quy định quy chuẩn kĩ thuật
quốc gia về môi trường.
-Thông tư số 25/2009/TT-BTNMT ngày 26/11/2009 quy định quy chuẩn kĩ
thuật quốc gia về môi trường.
-Thông tư số 42/2010/TT-BTNMT ngaỳ 29/12/2010 quy định quy chuẩn quốc
gia về môi trường
Do đó theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống quy chuẩn kĩ
thuật môi trường khí của Việt Nam gồm 2 loại quy chuẩn kĩ thuật chính.
1.


Quy chuẩn kĩ thuật về chất lượng môi trường không khí xung quanh.
QCVN: 05/2009/BTNMT Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về chất lượng không

khí xung quanh.



QCVN: 06/2009/BTNMT Quy chuẫn kĩ thuật quốc gia về một số chất độc
hại trong không khí xung quanh.

2.Quy chuẩn kĩ thuật về khí thải.
-Quy chuẩn kĩ thuật về khí thải đối với nguồn thải tĩnh







QCVN: 34/2010/BTNMT Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về khí thải
nghiệp lọc hóa dầu đối với bụi và các chất vô cơ.
QCVN: 19/2009/BTNMT Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về khí thải
nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ.
QCVN: 20/2009/BTNMT Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về khí thải
nghiệp đối với một số chất hữu cơ.
QCVN: 21/2009/BTNMT Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về khí thải
nghiệp sản xuất phân bón hóa học.
QCVN: 22/2009/BTNMT Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về khí thải
nghiệp nhiệt điện.
QCVN: 23/2009/BTNMT Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về khí thải
nghiệp sản xuất xi măng.

công

công
công
công
công
công

-Quy chuẩn kĩ thuật về khí thải đối với nguồn thải động ( khí thải từ các
phương tiện giao thông ).




QCVN: 04/2009/BGTVT Quy chuẩn kĩ thuật quốc gia về khí thải xe mô tô,
gắn máy sản xuất, láp ráp và nhập khẩu mới.

4. Đánh giá sự phù hợp của pháp luật bảo vệ môi trường không khí trong
pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam với các cam kết quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
* Kết quả đạt được:
+ Việt Nam là một trong những nước được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về
kết quả triển khai Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ôzôn .
kể từ khi Việt Nam phê chuẩn Nghị định thư Montreal năm 1994 đến nay, Việt
Nam đã ban hành nhiều chính sách để hạn chế việc tiêu thụ các chất làm suy
giảm tầng ôzôn. Hai văn bản quan trọng liên quan đến lĩnh vực này đã được Việt
Nam ban hành là Nghị định về cấm nhập khẩu các thiết bị làm lạnh sử dụng khí
gas lạnh CFC và Thông tư liên tịch của hai Bộ Công Thương và Tài nguyên-Môi
trường về việc xuất nhập khẩu và tạm nhập-tái xuất các chất làm suy giảm tầng
ôzôn theo quy định của Nghị định thư.
Để giúp Việt Nam triển khai sâu rộng Nghị định thư này, năm 2006 Quỹ đa
phương về ôzôn thông qua Ngân hàng Thế giới đã tài trợ cho Việt Nam 6,3 triệu

USD để triển khai các dự án hỗ trợ chuyển giao công nghệ và kỹ thuật cho các
doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, sửa chữa tủ lạnh, điều hòa không khí trên ôtô những thiết bị thường sử dụng chất làm suy giảm tầng ôzôn. Thông qua các dự
án này, Quỹ đa phương cũng đã hỗ trợ kỹ thuật và tăng cường năng lực quản lý
cho các cơ quan nhà nước trong việc kiểm soát các chất làm suy giảm tầng ôzôn.
Với những nỗ lực trên, lượng chất chính làm suy giảm tầng ôzôn tiêu thụ ở Việt
Nam như CFC 11, CFC 12 đã giảm nhanh chóng, từ 500 tấn vào những năm 90
xuống còn 75 tấn hiện nay. Lượng tiêu thụ các chất khác làm suy giảm tầng ôzôn
chỉ còn 2.300 tấn.
+ Ngoài Nghị định thư Montreal, Việt Nam cũng đã tham gia Nghị định thư
Kyoto về giảm phát thải khí nhà kính, nhằm ngăn chặn tình trạng trái đất ấm
lên.


Thành quả chính của Nghị định thư Kyoto là xác định những chỉ tiêu giảm phát
thải của các nước công nghiệp và thành lập ba cơ chế linh hoạt để các bên tham
gia Nghị định thư có thể cùng nhau phối hợp thực hiện mục tiêu chung, đó là:Cơ
chế cùng thực hiện (JI); Cơ chế phát triển sạch (CDM); Buôn bán phát thải quốc
tế (IET).
Tháng 3 năm 2003, theo yêu cầu của Nghị định thư Kyoto và Thỏa thuận bổ
sung Marrakech, Việt Nam đã thành lập Cơ quan quốc gia về CDM thuộc Văn
phòng Ozone và biến đổi khí hậu, trực thuộc Bộ Tài nguyên và môi trường. Hiện
nay, Việt Nam đã phê duyệt 105 dự án CDM và 15 dự án CDM được quốc tế công
nhận. Các dự án này đã đem lại những hiệu quả rõ rệt. Kết quả thu được từ các
dự án CDM ở nước ta trong thời gian qua là hết sức thiết thực. Điển hình là Dự
án tăng hiệu quả sử dụng năng lượng trong lĩnh vực nồi hơi công nghiệp và Dự
án thu gom khí đồng hành mỏ Rạng Đông của nhà thầu JVPC (Nhật). Dự án
trong lĩnh vực nồi hơi công nghiệp có mục tiêu giảm tiêu thụ năng lượng của nồi
hơi công nghiệp, nâng cao hiệu suất nồi hơi với chi phí đầu tư thấp, nhờ đó giảm
phát thải khí CO2 trong lĩnh vực công nghiệp. Kết quả cụ thể thu được từ dự án
này là giảm được khoảng 150 nghìn tấn CO2 mỗi năm, nhờ tăng cường được

hiệu suất trung bình của nồi hơi công nghiệp từ 45% lên 60%.

Trong thời gian qua, theo tinh thần của Nghị quyết số 60/2007/NQ-CP ngày 03
tháng 12 năm 2007 của Chính phủ, Bộ TN&MT đã phối hợp với các bộ, ngành
liên quan xây dựng Chương trình Mục tiêu Quốc gia Ứng phó với Biến đổi khí
hậu (CTMT). Chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết
định 158/QĐ-TTg ngày 02/12/2008 và trở thành định hướng và chiến lược cơ
bản quốc gia để ứng phó với BĐKH.

Ngày 05/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 2193/QĐ-TTg
về Phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu trong đó nêu rõ, mục tiêu
chung của chiến lược là phát huy năng lực của toàn đất nước, tiến hành đồng
thời các biện pháp thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu, nhằm mục tiêu phát
triển bền vững.


Ngày 30/8/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1183/QĐ-TTg
về Phê duyệt Chương tình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu giai
đoạn 2012 - 2015. Theo đó, Mục tiêu chung của Chương trình là từng bước hiện
thực hóa Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, tăng cường nhận thức và năng
lực thích ứng với biến đổi khí hậu, định hướng giảm phát thải khí nhà kính, xây
dựng nền kinh tế carbon thấp, tích cực cùng cộng đồng quốc tế bảo vệ hệ thống
trái đât.
* Hạn chế:.
Nhìn chung, sau nhiều năm thực hiện các điều ước quốc tế về biến đổi khí
hậu, Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong công tác thực thi các điều ước quốc
tế và còn nhiều điểm cần khắc phục, cụ thể là:
+ Thiếu công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường và khí hậu, mặc dù đã có
một số chính sách khuyến khích áp dụng và phát triển công nghệ mới.
Nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí

hậu còn hạn chế, đặc biệt là việc ứng dụng các công nghệ này cho lĩnh vực nông
nghiệp và lâm nghiệp, một trong các nguồn phát thải khí nhà kính chủ yếu ở Việt
Nam trong giai đoạn này.
+ Các luật và văn bản dưới luật chỉ sơ lược đề cập đến vấn đề biến đổi khí hậu và
có rất ít công cụ pháp luật để thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Vẫn những
điểm bất cập về khung pháp lý; về cơ chế chính sách phối hợp, về các hoạt động
ưu tiên trong ứng phó với biến đổi khí hậu.
+ Một số quy định về hành vi vi phạm còn rộng, chưa có tính răn đe đối với tổ
chức, cá nhân có hành vi vi phạm có mức độ nghiêm trọng, khối lượng xả thải
lớn và chưa hợp lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm ở mức độ ít
nghiêm trọng, chưa đảm bảo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, chưa
đảm bảo công bằng trong quá trình xử phạt.Ngoài ra, mức xử phạt quy định
một số hành vi còn thấp, chưa tương xứng với hành vi vi phạm, chưa đảm bảo
tính răn đe, phòng ngừa ô nhiễm và thực tế, nhiều doanh nghiệp chịu nộp phạt
thay cho việc xử lý ô nhiễm…


+ Các dự án CDM của Việt Nam được đăng ký với quốc tế chưa nhiều, chưa thu
hút được nhiều các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các dự án CDM
tại Việt Nam.
Thách thức ở hiện tại và sau này là thúc đẩy các hành động về khí hậu càng
nhanh càng tốt không chỉ ở bên trong mà còn ở bên ngoài các cuộc đàm phán
chính thức về BĐKH. Ở cấp độ quốc tế, một Thỏa thuận khí hậu toàn cầu có tính
ràng buộc pháp lý gặp phải những rào cản mà được cho là không một cuộc đàm
phán quốc tế nào từ trước đến nay có thể giải quyết được. Phối hợp các hành
động ứng phó với BĐKH từ tất cả các quốc gia trong bối cảnh mà các tác động
dài hạn của BĐKH là không chắc chắn và thay đổi theo khu vực địa lý, mức độ
phát triển và sự tăng trưởng dân số ở các quốc gia là khác nhau, mối quan tâm
và ưu tiên của các quốc gia cũng khác nhau luôn là những thách thức rất lớn.
* Các giải pháp khắc phục:


+ Cần luật hóa, xây dựng được hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ về biến đổi
khí hậu để nhằm mục đích thực hiện các cam kết quốc tế và hạn chế các tác động
của biến đổi khí hậu, góp phần bảo vệ môi trường. Để làm được điều này trước
hết phải nâng cao nhận thức của toàn dân về vấn đề biến đổi khí hậu.Tiếp tục
hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, đặc biệt nên xây dựng luật bảo về
không khí.Vì đất đai,nước, rừng cũng đều tài nguyên thiên nhiên và đều có luật
chuyên ngành điều chỉnh nhưng không khí thì chưa có.
Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện một số văn bản còn thiếu hoặc quy định
chưa đầy đủ như: quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong công
tác quản lý môi trường không khí, tránh chồng chéo; xây dựng các quy chế phối
hợp về quản lý chất lượng không khí; nghiên cứu, đánh giá và đề xuất lồng ghép
quy định bảo vệ môi trường không khí vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội;
xây dựng và ban hành các văn bản quy định về kiểm kê nguồn thải; cơ chế công
bố thông tin; kế hoạch quản lý môi trường không khí;

+ Nên đưa trách nhiệm của pháp nhân vào bộ luật hình sự để xử lý trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân gây ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi
trường không khí nói riêng.


+ Giảm nhẹ phát thải nhà kính ở các nước phát triển: nhóm cho rằng các mục
tiêu giảm phát thải khí nhà kính của các nước phát triển cần có cơ chế giám sát,
báo cáo, và kiểm tra (MRV); đồng thời cần có một khung tính toán phổ quát và
có tính đối chiếu cho các loại khí nhà kính, và một mẫu báo cáo chuẩn.

+ Cần đầu tư và hoàn thiện các công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường
không khí:
Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, máy móc, thiết bị và công nghệ
hiện đại cho trạm quan trắc không khí.

Tập trung xây dựng mạng lưới quan trắc chất lượng không khí tại các thành
phố lớn, khu công nghiệp để giám sát, phát hiện các vấn đề ô nhiễm không khí,
hoặc các nguồn khí thải gây ô nhiễm môi trường không khí
+ Để phát triển các dự án CDM ở nước ta cần:
-Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc chỉ đạo, xem xét phê duyệt và thu hút
những chương trình dự án.
- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc chỉ đạo, xem xét, phê duyệt và thu hút
những chương trình dự án thực hiện CDM từ bên ngoài.
- Thúc đẩy dự án nông nghiệp phát thải thấp.
- Phải có những chính sách cụ thể, xây dựng kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn
cụ thể để tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng trong việc thực hiện các dự án đầu
tư của các nước công nghiệp phát triển.
- Khuyến khích việc phát triển các mô hình thân thiện với môi trường, các mô hình
nông lâm kết hợp hiệu qủa. Áp dụng các công nghệ sạch, tiến bộ trong quá trình
sản xuất.
- Có các hình thức tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân và áp dụng
CDM một cách sâu rộng.
- Lồng ghép các hoạt động thực hiện CDM vào trong các chính sách phát triển
kinh tế xã hội của quốc gia, chính quyền địa phương các cấp.


- Có các chương trình chính sách, cơ chế thu hút vốn đầu tư đối với các nước, các
tổ chức doanh nghiệp nước ngoài.
* Chuyên mục thông tin của bạn.
Tham dự Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 21 Công ước khung của Liên hợp quốc
về biến đổi khí hậu (COP 21) tại Paris (Pháp), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng
định, từ nay đến năm 2020, mặc dù là một nước đang phát triển, gặp nhiều khó
khăn về nguồn lực, chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam vẫn cam
kết giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030, có thể giảm đến 25% nếu
nhận được hỗ trợ hiệu quả từ cộng đồng quốc tế, và sẽ đóng góp 1 triệu USD vào

Quỹ Khí hậu xanh giai đoạn 2016-2020.
Tuy nhiên, bản Dự thảo thõa thuận COP21 bỏ ngỏ những bất đồng lớn. Văn
kiện đã được rút ngắn còn 14 trang và cho thấy các bên đã đạt được một số thỏa
hiệp. Tuy nhiên lại bỏ lửng những vấn đề quan trọng và gây tranh cãi nhiều
nhất, trong đó có cam kết chia sẻ trách nhiệm tài chính để cắt giảm khí thải ,
những bất đồng chính vẫn chưa được giải quyết. Tranh cãi lớn nhất là sự phân
chia trách nhiệm tài chính, nhất là cam kết ràng buộc từ các nước phát triển, và
cơ chế gây quỹ chống biến đối khí hậu . Ngoài ra, là mức độ tham vọng về mục
tiêu của thỏa thuận, và cách thức giám sát việc thực hiện thỏa thuận. Ngoài ra,
các tổ chức phi chính phủ cũng đánh giá vẫn còn thiếu vắng quyết tâm chính trị
trong việc giảm phát thải khí nhà kính sau năm 2020. Theo kế hoạch, phiên bản
cuối cùng của thỏa thuận sẽ đã được thông qua vào ngày 18h ngày 11/12/2015.
CẢM ƠN CÔ VÀ CÁC BẠN ĐÃ THEO DÕI



×