Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG tác vận ĐỘNG QUẦN CHÚNG PHÒNG CHỐNG MUA bán NGƯỜI QUA BIÊN GIỚI của bộ đội BIÊN PHÒNG TỈNH lào CAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.55 KB, 101 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
An ninh biên giới
An ninh chính trị
Bảo vệ biên giới
Bộ đội Biên phòng
Cán bộ, chiến sĩ
Khu vực biên giới
Kinh tế - xã hội
Mua bán người
Quần chúng Nhân dân
Trật tự an toàn xã hội
Trong sạch vững mạnh
Vận động quần chúng

Chữ viết tắt
ANBG
ANCT
BVBG
BĐBP
CBCS
KVBG
KT - XH
MBN
QCND
TTATXH
TSVM
VĐQC

MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU
3
Chương 1: CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
12

1


PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI QUA BIÊN GIỚI
CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LÀO CAI NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những vấn đề về chất lượng công tác vận động quần
chúng phòng, chống mua bán người qua biên giới của Bộ
đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng

12

công tác vận động quần chúng phòng, chống mua bán
người qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
Chương 2: YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO

29

CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI QUA BIÊN GIỚI
CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng

50


công tác vận động quần chúng phòng, chống mua bán người
qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai hiện nay
2.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng công tác vận động

50

quần chúng phòng, chống mua bán người qua biên giới
của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

57
81
83
89

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Những năm gần đây, “Mua bán người đã trở thành một vấn nạn, gây bức
xúc trong toàn xã hội, không chỉ ở Việt Nam mà trên phạm vi toàn thế giới.
Tình hình tội phạm mua bán người nói chung diễn biến ngày càng phức tạp, đa
dạng; tính chất, quy mô và thủ đoạn hoạt động ngày càng nghiêm trọng, tinh vi,
xảo quyệt” [28; 24]; nhiều trường hợp có tổ chức chặt chẽ và có tính xuyên
quốc gia, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định về ANCT, TTATXH.

2



Phòng, chống tội phạm MBN qua biên giới ở nước ta là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp, các lực lượng mà nòng cốt là các
cơ quan bảo vệ pháp luật, trong đó có lực lượng BĐBP. BĐBP tỉnh Lào Cai
luôn xác định công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới là nhiệm vụ
chính trị quan trọng, thường xuyên. Làm tốt công tác này, sẽ góp phần đưa
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đi vào cuộc sống; củng cố và
tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước, BĐBP với nhân dân
địa phương; giữ vững ANCT, TTATXH trên địa bàn biên phòng; tạo điều
kiện tích cực cho việc xây dựng, phát triển KT - XH, xây dựng nền biên
phòng toàn dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh
nhân dân vững chắc, bảo vệ vững chắc chủ quyền ANBG quốc gia; làm tốt
công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới còn góp phần trực tiếp
xây dựng BĐBP Lào Cai vững mạnh toàn diện.
Nhận thức rõ vai trò của quần chúng, tầm quan trọng của công tác VĐQC,
cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng trong BĐBP
tỉnh Lào Cai đã chú trọng tiến hành công tác VĐQC phòng, chống MBN qua
biên giới. Do vậy, đấu tranh phòng, chống MBN đã đạt được kết quả nhất định,
BĐBP tỉnh Lào Cai đã phá nhiều vụ án với số lượng nạn nhân lớn, hình thức, thủ
đoạn tinh vi, xảo quyệt, hạn chế được tình trạng MBN qua biên giới. Tuy nhiên,
thực trạng MBN qua biên giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, chất lượng
công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới vẫn còn những hạn chế, bất
cập cả về nhận thức, trách nhiệm và nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành.
Những hạn chế tồn tại nêu trên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác
VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới.
Từ thực trạng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới,
trước đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, ANBG quốc gia,
nhiệm vụ công tác biên phòng đang đặt ra nhiều vấn đề mới, đòi hỏi BĐBP

3



tỉnh Lào Cai phải vận dụng linh hoạt sáng tạo, đổi mới nội dung, hình thức,
biện pháp công tác, trong đó có công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới.
Trước những yếu tố tác động đến chất lượng công tác VĐQC phòng,
chống MBN qua biên giới và yêu cầu nâng cao chất lượng công tác VĐQC
phòng, chống MBN qua biên giới. Cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chủ
trì, cơ quan chức năng trong BĐBP tỉnh Lào Cai cần nâng cao nhận thức,
trách nhiệm; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên; bồi dưỡng nâng
cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ chuyên trách VĐQC; đổi mới nội dung, vận
dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp VĐQC; phát huy sức mạnh tổng
hợp của mọi lực lượng. Do đó, tiến hành có chất lượng công tác VĐQC
phòng, chống MBN qua biên giới là một vấn đề rất quan trọng, cần thiết và có
ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn, nhằm nâng cao nhận thức, tinh thần trách
nhiệm của CBCS, phát huy vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong
VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới.
Do đó, nghiên cứu luận giải làm sáng tỏ cơ sở lí luận, thực tiễn và
đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác VĐQC phòng, chống
MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai hiện nay có ý nghĩa sâu sắc cả
về lí luận và thực tiễn, là vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Những năm qua VĐQC và đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN
qua biên giới được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trong đó, đã có
một số công trình tiêu biểu đã được công bố như sau:
* Các công trình nghiên cứu về công tác VĐQC trong BĐBP:
Phạm Đức Phương (2010), Công tác vận động quần chúng đấu
tranh phòng, chống lấn chiếm biên giới của các đơn vị biên phòng trên
tuyến biên giới đất liền Việt - Trung hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học
Chính trị, Học viện Chính trị. Luận văn làm rõ cơ sở lí luận thực tiễn;
đánh giá thực trạng công tác VĐQC đấu tranh phòng, chống lấn chiếm


4


biên giới của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Trung hiện nay; đề xuất phương hướng yêu cầu và những giải pháp cơ bản
nâng cao hiệu quả công tác VĐQC tham gia đấu tranh phòng, chống lấn
chiếm biên giới của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền
Việt - Trung trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Văn Thúy (2011), Bộ đội Biên phòng tỉnh vận động quần chúng
tham gia bảo vệ biên giới Tây Bắc trong tình hình mới. Luận án tiến sĩ quân sự.
Luận án khái quát lịch sử BĐBP tỉnh VĐQC tham gia BVBG; làm rõ cơ sở
lí luận và thực tiễn BĐBP tỉnh VĐQC tham gia BVBG Tây bắc trong tình hình mới;
dự báo tình hình có liên quan và đề xuất những vấn đề chủ yếu về BĐBP tỉnh
VĐQC tham gia BVBG Tây bắc trong tình hình mới.
Dương Ngọc Hưởng (2013), Phát huy vai trò của Bộ đội Biên phòng
tỉnh Lạng Sơn trong công tác vận động quần chúng hiện nay. Luận văn
thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị. Luận văn làm rõ thực chất và những yếu tố
quy định phát huy vai trò của BĐBP trong công tác VĐQC; khảo sát đánh giá
thực trạng phát huy vai trò của BĐBP tỉnh Lạng Sơn trong công tác
VĐQC hiện nay; đề xuất các giải pháp phát huy vai trò của BĐBP tỉnh Lạng Sơn
trong công tác VĐQC hiện nay.
Nguyễn Minh Trường (2014), Nâng cao năng lực của cán bộ chính trị
Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Bình trong công tác vận động quần chúng
hiện nay. Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị. Luận văn làm rõ một số
vấn đề lí luận về năng lực và nâng cao năng lực của cán bộ chính trị BĐBP
tỉnh Quảng Bình trong công tác VĐQC; khảo sát, đánh giá thực trạng nâng cao
năng lực của các bộ chính trị BĐBP trong công tác VĐQC hiện nay;
đề xuất một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực của cán bộ chính trị
BĐBP tỉnh Quảng Bình trong công tác VĐQC hiện nay.
Nguyễn Văn Sơn (2014), Công tác vận động quần chúng phòng, chống

di cư tự do ở khu vực biên giới của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc trong giai
đoạn hiện nay. Luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước,

5


Học viện Chính trị. Luận văn phân tích làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về hoạt
động di cư tự do và công tác VĐQC phòng, chống di cư tự do ở KVBG của
đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc; đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân
và rút ra một số kinh nghiệm công tác VĐQC phòng, chống di cư tự do ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc; xác định rõ yêu cầu và đề xuất
những giải pháp cơ bản tăng cường công tác VĐQC phòng, chống di cư tự do ở
KVBG của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc trong giai đoạn hiện nay.
Trịnh Thanh Hải (2015), Phát huy vai trò đội ngũ cán bộ làm công
tác vận động quần chúng của Bộ đội Biên phòng hiện nay. Luận văn thạc sĩ
Triết học, Học viện Chính trị. Luận văn làm rõ thực chất và những yếu tố
quy định phát huy vai trò đội ngũ cán bộ làm công tác VĐQC của BĐBP;
đánh giá đúng thực trạng phát huy vai trò đội ngũ cán bộ làm công tác
VĐQC của BĐBP hiện nay; đề xuất các giải pháp cơ bản phát huy vai trò
của đội ngũ cán bộ làm công tác VĐQC của BĐBP hiện nay.
Các công trình trên đều khẳng định: VĐQC luôn là một trong sáu biện pháp
nghiệp vụ biên phòng, là cơ sở nền tảng để tiến hành các biện pháp công tác khác.
Đây là những công trình có giá trị lí luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác VĐQC trong BĐBP hiện nay. Tuy nhiên,
các công trình này chưa đi sâu nghiên cứu chất lượng công tác VĐQC phòng,
chống MBN qua biên giới.
* Các công trình nghiên cứu về đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN:
Vũ Trọng Tiệp (2010), Thực trạng và giải pháp đấu tranh phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh
Quảng Ninh. Đề tài đề cập đến đặc điểm tình hình có liên quan đến tội phạm

buôn bán phụ nữ qua biên giới; thực trạng công tác phòng ngừa, phát hiện
đấu tranh tội phạm buôn bán phụ nữ qua biên giới; công tác phối hợp giữa
các lực lượng trong đấu tranh phòng, chống buôn bán phụ nữ qua biên giới;
một số vấn đề rút ra qua nghiên cứu tình hình tội phạm buôn bán phụ nữ;
dự báo tình hình liên quan đến hoạt động tội phạm buôn bán phụ nữ qua biên giới;
một số giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ qua biên giới ở KVBG Quảng Ninh.

6


Nguyễn Bá Lâm (2010), Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn đấu tranh
phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới. Luận văn thạc sĩ Biên phòng,
Học viện Biên phòng. Luận văn làm rõ nhận thức chung về đấu tranh phòng,
chống tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới của BĐBP; thực trạng
đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới của BĐBP
tỉnh Lạng Sơn; dự báo tình hình quốc tế, khu vực và trong nước có liên quan đến
hoạt động của tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới; đề xuất một số giải pháp
cơ bản nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
mua bán phụ nữ qua biên giới của BĐBP tỉnh Lạng Sơn.
Kẹo Chăng Phêng Phô Xay (2011), Hoạt động của lực lượng Cảnh sát nhân
dân Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong phòng, ngừa tội phạm mua bán
người qua biên giới Lào - Thái Lan. Luận án tiến sĩ chuyên ngành Luật
học, Học viện Cảnh sát nhân dân. Luận án nghiên cứu làm rõ nhận thức
về tội phạm MBN qua biên giới, bổ sung lí luận, làm rõ nguyên nhân và điều kiện
của tình trạng tội phạm này. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm này một cách có hiệu quả.
Phan Công Chuyển (2015), Điều tra tội phạm mua bán người qua biên
giới Việt Nam - Campuchia theo chức năng của lực lượng Cảnh sát hình
sự. Luận án tiến sĩ chuyên ngành Tội phạm học và điều tra tội phạm,

Học viện Cảnh sát nhân dân. Luận án đã nghiên cứu một cách có hệ thống
những vấn đề lí luận về điều tra tội phạm MBN qua biên giới theo chức
năng của lực lượng Cảnh sát hình sự; làm rõ tình hình và đặc điểm hình sự
tội phạm MBN qua biên giới Việt Nam - Campuchia; thực trạng hoạt động
điều tra tội phạm này của lực lượng Cảnh sát hình sự Công an các tỉnh biên giới
Việt Nam - Campuchia; nhận xét, đánh giá kết quả đạt được, hạn chế
và nguyên nhân của hạn chế trong điều tra tội phạm MBN qua biên giới
Việt Nam - Campuchia. Luận án đã dự báo những yếu tố tác động đến hoạt động
điều tra tội phạm MBN qua biên giới Việt Nam - Campuchia trong thời gian tới.

7


Đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra
tội phạm MBN qua biên giới Việt Nam - Campuchia theo chức năng,
nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát hình sự.
Các công trình trên đều khẳng định: vị trí, vai trò của các lực lượng
chức năng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm MBN; hoạt động điều tra,
đánh bắt tội phạm MBN qua biên giới. Đây là những công trình có giá trị
lí luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tội phạm MBN
qua biên giới hiện nay. Tuy nhiên, các công trình này chưa đi sâu nghiên cứu
chất lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới.
* Các công trình nghiên cứu về công tác VĐQC phòng, chống
mua bán phụ nữ qua biên giới:
Nguyễn Văn Cường (2010), Công tác vận động quần chúng của
Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Ninh phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ
qua biên giới. Luận văn thạc sĩ Biên phòng, Học viện Biên phòng. Đề tài đề cập
đến tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về công tác quần chúng; nhiệm vụ của BĐBP trong phòng, chống tội phạm
mua bán phụ nữ qua biên giới; công tác VĐQC của BĐBP trong phòng,

chống tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới; một số đặc điểm tình hình
có liên quan; thực trạng công tác VĐQC phòng, chống mua bán phụ nữ
qua biên giới của BĐBP tỉnh Quảng Ninh; tác giả dự báo tình hình có liên quan
và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác VĐQC tham gia phòng,
chống mua bán phụ nữ qua biên giới của BĐBP tỉnh Quảng Ninh.
Đào Xuân Dũng (2010), Bộ đội Biên phòng tỉnh Lạng Sơn vận động
quần chúng tham gia phòng, chống buôn bán phụ nữ qua biên giới .
Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Học viện, Học viện Biên phòng. Đề
tài đề cập đến quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đấu
tranh phòng, chống buôn bán phụ nữ qua biên giới; công tác VĐQC tham gia
phòng, chống buôn bán phụ nữ qua biên giới của BĐBP; một số đặc điểm
tình hình có liên quan; thực trạng công tác VĐQC phòng, chống buôn bán

8


phụ nữ qua biên giới của BĐBP tỉnh Lạng Sơn; tác giả dự báo tình hình
và yêu cầu nâng cao chất lượng công tác VĐQC tham gia phòng, chống
buôn bán phụ nữ qua biên giới của BĐBP tỉnh Lạng Sơn trong thời gian tới
và đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng công tác VĐQC tham gia phòng,
chống buôn bán phụ nữ qua biên giới của BĐBP tỉnh Lạng Sơn.
Các công trình trên đều khẳng định: vị trí, vai trò, đặc điểm, thực trạng
công tác VĐQC phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới.
Đây là những công trình có giá trị lí luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục QCND tham gia phòng, chống
mua bán phụ nữ qua biên giới hiện nay. Tuy nhiên, các công trình này chưa đi sâu
nghiên cứu chất lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới.
* Các báo cáo nghiên cứu, sáng kiến phân tích định lượng về MBN:
Trường Đại học An Giang (2011), Báo cáo Sáng kiến phân tích định lượng
về buôn bán người. Báo cáo đề cập đến tính cấp thiết của thống kê, mục tiêu

khảo sát, địa bàn khảo sát tại tỉnh An Giang; đưa ra các phương pháp nghiên
cứu, kết quả khảo sát và một số kiến nghị; tài liệu tham khảo.
Tổ chức Di cư Quốc tế (2012), Báo cáo Nghiên cứu về mua bán trẻ em trai
tại Việt Nam. Công ty in cổ phần khoa học công nghệ mới. Báo cáo đề cập
luật pháp và chính sách liên quan đến MBN; hiểu biết về mua bán trẻ em trai
của chính quyền địa phương và cộng đồng; các trường hợp nạn nhân bị mua bán;
kết luận và kiến nghị về chống mua bán trẻ em.
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên đây đã tập trung nghiên cứu
làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về công tác VĐQC bảo vệ chủ quyền,
ANBG quốc gia nói chung, về công tác VĐQC phòng, chống mua bán phụ nữ
qua biên giới nói riêng. Đây là những tài liệu khoa học có giá trị cả về lí luận
và thực tiễn giúp cho tác giả tham khảo và nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay,
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống, toàn diện,
chuyên sâu về chất lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới
của BĐBP tỉnh Lào Cai. Vì vậy, đề tài “Chất lượng công tác vận động quần chúng
phòng, chống mua bán người qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai

9


hiện nay” là một vấn đề mới và không trùng lặp với bất kì công trình
khoa học nào đã nghiên cứu và công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận giải làm sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn chất lượng
công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai;
đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác VĐQC phòng, chống
MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Làm sáng tỏ những vấn đề về chất lượng công tác VĐQC phòng,

chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và một số kinh nghiệm
nâng cao chất lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới
của BĐBP tỉnh Lào Cai.
- Làm rõ những yếu tố tác động, xác định yêu cầu nâng cao chất lượng
và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công tác VĐQC phòng,
chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là chất lượng công tác VĐQC phòng, chống
MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai hiện nay.
* Phạm vi
Đề tài tiếp cận dưới góc độ công tác đảng, công tác chính trị,
nghiên cứu, khảo sát chất lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới
của BĐBP tỉnh Lào Cai. Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát tập trung vào
11 đồn biên phòng tỉnh Lào Cai từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Cơ sở lí luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lí luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác dân vận; về công tác dân vận trong Quân đội; công
tác VĐQC trong BĐBP.

10


* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP
tỉnh Lào Cai hiện nay; các báo cáo tình hình và kết quả công tác đấu tranh
phòng, chống MBN của Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Lào Cai; các báo cáo tình hình
và kết quả công tác VĐQC của Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Lào Cai; số liệu,

tư liệu điều tra, khảo sát của tác giả về chất lượng công tác VĐQC phòng,
chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành.
Trong đó, chú trọng phương pháp phân tích tổng hợp, lôgíc và lịch sử,
tổng kết thực tiễn, điều tra khảo sát, thống kê, so sánh và phương pháp
xin ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần cung cấp thêm những luận cứ
khoa học giúp cấp uỷ, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng, lực lượng chuyên trách
làm công tác VĐQC của BĐBP tỉnh Lào Cai vận dụng trong lãnh đạo, chỉ đạo
và tiến hành có hiệu quả các nội dung, hình thức, phương pháp VĐQC phòng,
chống MBN qua biên giới. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
nghiên cứu, giảng dạy ở các nhà trường trong BĐBP và quân đội.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
các công trình khoa học của tác giả đã được công bố và phụ lục.
CHƯƠNG 1
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG PHÒNG, CHỐNG
MUA BÁN NGƯỜI QUA BIÊN GIỚI CỦA BỘ ĐỘI BIÊN PHÒNG
TỈNH LÀO CAI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

11


1.1. Những vấn đề về chất lượng công tác vận động quần chúng phòng,
chống mua bán người qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
1.1.1. Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai và công tác vận động quần chúng
phòng, chống mua bán người qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai

* Khái quát về Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
Lào Cai là tỉnh biên giới phía Bắc, phía Tây giáp với tỉnh Lai Châu,
phía Đông giáp với tỉnh Hà Giang, phía Nam giáp với tỉnh Yên Bái, phía Bắc
tiếp giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc). BĐBP tỉnh Lào Cai có nhiệm vụ quản lí,
bảo vệ “182,086 km đường biên giới quốc gia, với 127 cột mốc” [16; 2].
Địa bàn KVBG gồm “398 thôn, bản, tổ dân phố (trong đó, có 97 thôn, bản giáp biên),
26 xã, phường, thị trấn thuộc 04 huyện và 01 thành phố Lào Cai,
24.711 hộ/103.805 khẩu, 17 dân tộc sinh sống: Dân tộc kinh 7700 hộ/25.568 khẩu,
chiếm 33,50%; dân tộc Mông 5.911 hộ/19.920 khẩu, chiếm 25,72%;
dân tộc Dao 2.448 hộ/11.810 khẩu, chiếm 10,53%; dân tộc Dáy 2.034 hộ/7.739 khẩu,
chiếm 8,85%; dân tộc Nùng 2.200 hộ/9.826 khẩu, chiếm 9,57%; dân tộc Tày
721 hộ/2.730 khẩu, chiếm 3,13%; còn lại là các dân tộc khác” [3; 8].
Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai quân số hiện có “929 cán bộ, chiến sĩ,
trong đó sĩ quan là 275 đồng chí, quân nhân chuyên nghiệp là 499 đồng chí,
hạ sĩ quan, chiến sĩ là 152 đồng chí, công nhân viên quốc phòng là 3 đồng chí” [2; 8].
Về cơ cấu tổ chức gồm: Bộ Chỉ huy và 08 phòng, ban trực thuộc (Tham mưu,
Chính trị, Trinh sát, Hậu cần, Kĩ thuật, Phòng chống tội phạm ma túy, Văn
phòng và Ban Tài chính). Ngoài ra, còn có các đơn vị như: Đại đội thông tin,
trung đội vận tải, bệnh xá. Các đơn vị cơ sở gồm có 11 đồn biên phòng
và 01 Tiểu đoàn Huấn luyện - cơ động (d19). Biên chế BĐBP tỉnh Lào Cai
theo mô hình loại 1, có 2 cặp cửa khẩu quốc tế, 01 cửa khẩu quốc gia
và các trạm kiểm soát biên phòng, các tổ đội công tác. Các đơn vị trong
BĐBP tỉnh Lào Cai được trang bị “súng Tiểu liên AK; K54, K59; RPD;
B41, M79; đại liên; 12,7 ly; Cối 60, 82 mm và công cụ, khí tài bảo đảm
cho thực hiện nhiệm vụ A2 và phòng chống tội phạm, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ” [2; 2].

12


Lực lượng chuyên trách làm công tác VĐQC của BĐBP tỉnh Lào Cai

gồm 46 đồng chí [58], được tổ chức chặt chẽ từ cơ quan Bộ Chỉ huy
(Ban VĐQC gồm 03 đồng chí) và các đồn biên phòng (Đội VĐQC gồm
04 đồng chí). Cán bộ làm công tác VĐQC được đào tạo cơ bản và có kinh nghiệm
trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân. Ngoài ra, mỗi xã biên giới
được tăng cường 01 cán bộ, sĩ quan hoặc quân nhân chuyên nghiệp để tham mưu
giúp địa phương phát triển KT - XH, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở.
* Hoạt động mua bán người qua biên giới
- Quan niệm về mua bán người qua biên giới
Hoạt động MBN liên quan chặt chẽ đến quyền của con người. Bảo vệ
quyền con người về thực chất là phải làm tốt công tác phòng, chống việc
con người bị đưa ra làm vật mua bán hoặc trao đổi. Vấn đề này trên thực tế
đã được nhiều quốc gia quan tâm. Phòng, chống MBN đã trở thành một nội dung
của nhiều hội nghị và được ghi nhận trong Công ước của Liên Hiệp quốc
về ngăn chặn hành vi phạm tội có tổ chức đa quốc gia. Hiệp ước được Văn phòng
Liên Hiệp Quốc tại Palermo, Ý sửa đổi năm 2000 và được gọi tắt là Hiệp ước Palermo.
Điều 3, Hiệp ước Palermo định nghĩa MBN là “hình thức tuyển dụng,
chuyên chở, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người, bằng những công cụ
như dây thừng, hay dùng lực hoặc các hình thức khác như cưỡng bức,
ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, dụ dỗ, lạm dụng quyền lực hay vị trí của nhóm yếu thế
hay qua việc cho hoặc nhận hoặc hỗ trợ tiền để đạt được sự thỏa thuận
của một người để kiểm soát người khác vì mục đích bóc lột. Mục đích bóc lột gồm
ít nhất, bóc lột tình dục, lao động cưỡng bức hay cung cấp các dịch vụ không
mong muốn, nô lệ hay các hình thức giống nô lệ, chiếm đoạt, hay cắt bỏ các
cơ quan trên cơ thể” [50; 1-2].
Từ cách tiếp cận trên, có thể hiểu:
Mua bán người là tội phạm được thực hiện thông qua các hành vi
tìm kiếm, đua đón, chứa chấp, chuyển giao và tiếp nhận người, bằng cách đe dọa
dùng bạo lực hay các hình thức lừa gạt, ép buộc, bắt cóc, lạm dụng quyền lực,

13



hoặc bằng việc cho hay nhận tiền hoặc lợi ích vật chất để giành được sự kiểm soát
đối với người, phục vụ cho mục đích kiếm lời.
Mua bán người qua biên giới là hoạt động của cá nhân hay tổ chức
với ý đồ, mục đích mua chuộc, dụ dỗ, lừa gạt, khống chế và đưa người
qua biên giới ra nước ngoài một cách bất hợp pháp để mua bán, trao đổi
lấy tiền hoặc các giá trị vật chất khác.
- Tội phạm mua bán người qua biên giới
Mua bán người là loại tội phạm được quy định tại Điều 150, Chương XIV,
Bộ luật Hình sự Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “1. Người nào
dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bằng thủ đoạn khác thực hiện
một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích
vật chất khác; b) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục,
cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích
vô nhân đạo khác; c) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để
thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản này. 2. Phạm tội
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 08 năm đến 15
năm: a) Có tổ chức; b) Vì động cơ đê hèn; c) Gây rối loạn tâm thần và
hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%; d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 31% trở lên, trừ trường hợp
quy định tại điểm b khoản 3 Điều này; đ) Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; e) Đối với từ 02 đến 05
người; g) Phạm tội 02 lần trở lên. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Có tính chất chuyên
nghiệp; b) Đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; c) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của
nạn nhân 46% trở lên; d) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát; đ) Đối với 06 người
trở lên; e) Tái phạm nguy hiểm. 4. Người phạm tội còn có thể bị
phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư

trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” [39;
97-98].

14


Tội phạm MBN là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền
tự do thân thể và nhân phẩm của con người thông qua các thủ đoạn dụ dỗ,
lừa gạt, khống chế, bắt cóc, lạm dụng quyền lực hoặc dùng lợi ích vật chất,
để phục vụ cho mục đích mua bán kiếm lời.
Tội phạm MBN qua biên giới là một dạng của tội phạm MBN.
Nhưng để phân biệt giữa tội phạm MBN qua biên giới với tội phạm MBN nói chung
cần căn cứ vào hành vi đưa người “vượt qua đường biên giới quốc gia”.
Hành vi này trong một vụ phạm tội cụ thể có thể đã hoặc chưa xảy ra nhưng
không làm thay đổi bản chất của vụ việc. Điều này cho thấy, tội phạm MBN
qua biên giới thường có liên quan ít nhất đến hai quốc gia và tạo thành đường dây
có tổ chức, thường được liên kết chặt chẽ với nhau. Phương thức phổ biến nhất
của những đối tượng chuyên MBN thường là một người Việt Nam móc nối
với một số đối tượng là người Trung Quốc, hoặc là người Việt Nam sinh sống,
làm ăn ở Trung Quốc, tạo thành đường dây hoạt động MBN qua biên giới.
Hình thức mánh lới lừa gạt của đối tượng MBN qua biên giới là dùng tiền bạc
để lung lạc cha mẹ của nạn nhân; môi giới hôn nhân, xuất khẩu lao động
hay du lịch, du học; giới thiệu việc làm có thu nhập cao; lợi dụng tình cảm
các cô gái rồi gạt đem bán; cưỡng ép dưới nhiều hình thức cho mượn nợ, hăm dọa;
bắt cóc bằng thuốc gây mê rồi chuyển đi.
Cũng như các loại tội phạm khác, tội phạm MBN qua biên giới
có nguồn gốc xã hội lịch sử, xuất hiện do những môi trường, hoàn cảnh nhất định.
Phòng, chống MBN qua biên giới phải có sự tham gia của nhiều cấp, ngành,
lực lượng, phải tiến hành những chính sách, biện pháp đồng bộ, phải coi trọng
cả hai mặt phòng ngừa và phát hiện, điều tra xử lí. Do vậy, phòng, chống MBN

qua biên giới là việc tiến hành tổng hợp các biện pháp của các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và công dân nhằm xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện nảy sinh tội phạm;
đồng thời, phát hiện, điều tra, xử lí kịp thời các vụ phạm tội MBN qua biên giới.
- Nạn nhân mua bán người qua biên giới
Tuyên ngôn về các nguyên tắc công lí cơ bản cho các nạn nhân của tội phạm
và lạm dụng quyền lực, định nghĩa “Nạn nhân là những người, cá nhân

15


hay tập thể, phải chịu những tổn hại, bao gồm cả thể chất, mất mát về tình cảm,
tổn thất về kinh tế, hay sự tước đoạt dần các quyền con người cơ bản của họ,
bằng những hành động vi phạm luật hình sự của nhà nước” [22; 1].
Nạn nhân tập trung “ở địa bàn các huyện Mường Khương, Si Ma Cai,
Bắc Hà, Bảo Thắng, Sa Pa (tỉnh Lào Cai); các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La,
Hà Giang, Yên Bái…và một số tỉnh phía Nam. Nạn nhân chủ yếu là phụ nữ,
trẻ em trong độ tuổi từ 15 đến 30, ở vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, trình độ
dân trí thấp, nhận thức xã hội, pháp luật còn hạn chế, thiếu việc làm,
khó khăn về kinh tế. Một số nạn nhân là học sinh, sinh viên tại các trường
phổ thông cơ sở, trung học chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh Lào Cai” [14; 2].
- Hoạt động của tội phạm MBN qua biên giới tỉnh Lào Cai
Qua nghiên cứu tình hình hoạt động MBN qua biên giới từ năm 2011
đến năm 2016, BĐBP tỉnh Lào Cai đã trực tiếp phát hiện, đấu tranh 273 vụ
MBN qua biên giới, bắt giữ và xử lí 140 đối tượng; phối hợp với các cơ quan
tiếp nhận, phân loại, xác minh và hỗ trợ cho 185 nạn nhân cư trú bất hợp pháp
từ Trung Quốc trở về [56], [57]. Hoạt động MBN diễn biến rất phức tạp
có chiều hướng gia tăng; đối tượng MBN qua biên giới rất đa dạng; địa bàn
và thời gian luôn thay đổi; phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng
MBN qua biên giới rất đa dạng, ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
* Quan niệm công tác vận động quần chúng phòng, chống mua bán

người qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ VĐQC nhân dân tích cực tham gia BVBG
trong tình hình mới, Bộ Chính trị - Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VII)
đã ra Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 08/8/1995, xác định một trong những
nhiệm vụ BĐBP phải thực hiện tốt đó là: “Liên hệ chặt chẽ với quần chúng,
dựa vào quần chúng để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời tuyên truyền vận động
nhân dân vùng biên giới, tăng cường đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương
và chương trình kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước, tích cực xây dựng cơ sở chính trị,
xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh gắn với
thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân trên vùng biên giới” [24; 3].

16


Điều 10, Pháp lệnh BĐBP nêu rõ: “Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước, tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế,
xã hội, văn hoá, giáo dục, xây dựng nền biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng
toàn dân vững mạnh trong thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân
ở khu vực biên giới” [49; 4].
Khoản 2, Điều 31, Luật Biên giới quốc gia khẳng định: “Bộ đội Biên phòng
là lực lượng nòng cốt, chuyên trách, phối hợp với lực lượng Công an nhân dân,
các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản l í,
bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới
theo quy định của pháp luật” [38; 8].
Công tác VĐQC là một trong những công tác cơ bản, gắn liền với
từng bước trưởng thành của BĐBP. Một trong những truyền thống tốt đẹp tạo nên
sức mạnh của BĐBP là mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân các dân tộc
ở KVBG. Nhân ngày thành lập lực lượng Công an nhân dân vũ trang
nay là lực lượng BĐBP (03/3/1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và chỉ thị:

“Một vạn công an chỉ có hai vạn tai, hai vạn mắt, hai vạn tay chân,
nhưng nhân dân có hàng triệu tai, hàng triệu mắt, hàng triệu tay chân.
Cho nên chúng ta phải dựa vào dân để hoạt động” [36; 404]. Người còn chỉ rõ:
Khi đoàn kết được dân, tổ chức được dân, thì việc gì cũng làm được.
Qua nghiên cứu, có thể quan niệm công tác VĐQC phòng, chống MBN
qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai là một nhiệm vụ chính trị của đơn vị
được CBCS tiến hành, dựa trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, các chủ trương của địa phương về đấu tranh phòng,
chống MBN qua biên giới làm nền tảng để tuyên truyền, giáo dục, tổ chức, hướng dẫn
quần chúng ở KVBG đấu tranh ngăn chặn hoạt động MBN qua biên giới,
góp phần giữ gìn an ninh trật tự, bảo vệ vững chắc chủ quyền, ANBG quốc gia.
Quan niệm trên chỉ ra các nội dung cơ bản sau:

17


Mục tiêu công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của
BĐBP tỉnh Lào Cai nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của đơn vị, QCND
và các lực lượng tham gia đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, tiến
tới chấm dứt, loại bỏ hoàn toàn hoạt động MBN qua biên giới, góp phần
giữ gìn ANCT, TTATXH ở KVBG.
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo công tác VĐQC phòng, chống MBN qua
biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai là Đảng ủy, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh, cấp
uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị.
Lực lượng tiến hành công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên
giới của BĐBP tỉnh Lào Cai là toàn bộ CBCS trong BĐBP tỉnh Lào Cai.
Quá trình tiến hành công tác VĐQC phải phối hợp chặt chẽ với tổ chức
đảng, chính quyền, các tổ chức quần chúng ở địa phương và các đơn vị
bạn có liên quan để tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Đối tượng vận động là tổ chức và con người: bao gồm QCND ở KVBG

(chủ yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số), các lực lượng tham gia đấu tranh phòng,
chống MBN của Việt Nam, lực lượng vũ trang, nhân dân KVBG nước đối diện;
các đối tượng quản lí nghiệp vụ phạm tội MBN trên địa bàn KVBG.
Nội dung công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP
tỉnh Lào Cai là tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân về đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, Luật Biên giới quốc gia,
Quy chế KVBG, Luật Phòng, chống MBN, về hoạt động MBN qua biên giới…;
từ đó, nêu cao tinh thần cảnh giác, xác định quyền lợi và nghĩa vụ của công dân
tham gia phòng, chống MBN qua biên giới. Tham gia xây dựng, củng cố
hệ thống chính trị cơ sở ở KVBG vững mạnh là vấn đề có tính quyết định
thực hiện có chất lượng nhiệm vụ phòng, chống MBN qua biên giới.
Tham gia phát triển KT - XH các xã, phường biên giới góp phần nâng cao dân trí,
xóa đói giảm nghèo, xây dựng biên giới vững mạnh toàn diện. Thực hiện tốt
các nội dung, chương trình phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể địa phương
trong tuyên truyền, giáo dục phòng, chống MBN qua biên giới.
Hình thức VĐQC:

18


Hình thức VĐQC được xác lập trên cơ sở hoàn cảnh, điều kiện, đặc điểm
cụ thể của đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, khả năng của BĐBP và sự tham gia,
phối hợp của nhân dân trên địa bàn. Để xác định và vận dụng được hình thức
VĐQC phù hợp, chủ thể VĐQC phải làm tốt công tác điều tra, nghiên cứu các yếu tố
điều kiện, đặc điểm địa bàn, đường biên, mốc giới, quy luật hoạt động, đặc điểm
tâm lí, trình độ, cá tính... của đối tượng. Công tác VĐQC phòng, chống MBN
qua biên giới cần phải kết hợp giữa vận động thường xuyên với vận động
theo chuyên đề, giữa vận động chung với vận động cá biệt, VĐQC đột xuất,
tập hợp lực lượng giải quyết khâu trọng tâm và những địa bàn trọng điểm,
coi trọng xây dựng điển hình và phát huy sức mạnh tổng hợp của các biện pháp

công tác biên phòng trong phòng, chống MBN qua biên giới.
Phương pháp VĐQC:
Phương pháp VĐQC phổ biến được các đồn biên phòng áp dụng là VĐQC
rộng rãi và VĐQC riêng lẻ. Hiện nay, phương pháp VĐQC được đổi mới và vận dụng
là sử dụng phương pháp tuyên truyền miệng; phương pháp tuyên truyền trực quan;
phương pháp tuyên truyền bằng hành động thực tế; phương pháp tuyên truyền
thông qua các phương tiện vật chất, kĩ thuật hoặc các hoạt động văn hóa văn nghệ.
* Đặc điểm công tác vận động quần chúng phòng, chống mua bán
người qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
Thứ nhất, VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai
diễn ra trên địa bàn mà chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở chưa cao
và lực lượng chuyên trách làm công tác VĐQC của BĐBP quá mỏng.
Nhìn chung, hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể ở
KVBG được duy trì thường xuyên, có nền nếp, chất lượng hoạt động từng
bước được nâng lên. Vì vậy cơ bản đã phát huy được vai trò lãnh đạo, điều
hành hoạt động ở cơ sở; từng bước tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương
trình KT - XH, duy trì tốt các phong trào cách mạng ở địa phương. Đồng thời
đã phối hợp chặt chẽ với BĐBP và tham gia bảo vệ chủ quyền, ANBG, giữ
vững ANCT, TTATXH ở KVBG. Tuy nhiên, còn một số tổ chức cơ sở đảng,

19


chính quyền yếu kém, năng lực lãnh đạo, điều hành hạn chế; các tổ chức quần
chúng hoạt động không đều, hiệu quả thấp, nhất là các xã, bản có đồng bào
Mông. Các bản này, tuy được quan tâm xây dựng, củng cố, song hiệu quả
thấp, đội ngũ cán bộ thôn, bản trình độ, năng lực còn nhiều yếu kém. Trong
khi đó, lực lượng chuyên trách làm công tác VĐQC của BĐBP tỉnh Lào Cai
quá mỏng. Mỗi đồn biên phòng được biên chế theo quy định là 04 đồng chí;
các đồng chí làm công tác chuyên trách, phải đảm nhiệm 97/398 thôn, bản

giáp biên ở cách xa nhau. Điều đó đã tác động không nhỏ đến chất lượng
công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai.
Thứ hai, đối tượng VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới
của BĐBP tỉnh Lào Cai chủ yếu là đồng bào các dân tộc ở KVBG
vốn có truyền thống gắn bó, cố kết với cộng đồng.
Hầu hết các dân tộc thiểu số sống trên biên giới hai nước có quan hệ
lịch sử lâu đời về dân tộc, thân tộc, dòng họ, cùng phong tục, tập quán.
Mặt bằng dân trí ở các xã, bản biên giới tỉnh Lào Cai còn rất thấp, cơ sở hạ tầng
và các thiết chế văn hóa, xã hội vừa thiếu lại vừa yếu. Phong tục tập quán còn
lạc hậu, nặng nề. Đây là vấn đề khó khăn cho CBCS trong tuyên truyền, giáo dục,
VĐQC chấp hành Luật Biên giới quốc gia, quy chế KVBG đất liền. Đó cũng là
điều kiện thuận lợi cho đối tượng lợi dụng qua lại biên giới để MBN.
Thứ ba, VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai
hoạt động ở địa bàn xa xôi, hẻo lánh, vùng sâu, vùng xa; địa bàn trọng điểm,
xung yếu về chính trị, KT- XH.
Cán bộ, chiến sĩ BĐBP làm công tác VĐQC luôn gắn bó với dân, phải
thực hiện “ba cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm). Công tác VĐQC của BĐBP
tỉnh Lào Cai là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan
chức năng và mọi CBCS, mỗi người theo chức năng, nhiệm vụ được giao mà có
trách nhiệm tiến hành công tác VĐQC, trong đó Ban VĐQC (Phòng Chính trị)
các tổ, đội VĐQC (đồn biên phòng) là lực lượng nòng cốt, chuyên trách.
Nội dung VĐQC của BĐBP tỉnh Lào Cai trong tình hình mới có sự phát triển mới,
nó không chỉ đơn thuần là tuyên truyền, vận động mà phải làm tham mưu cho

20


cấp ủy đảng, chính quyền địa phương; tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị;
tham gia thực hiện các chương trình phát triển KT - XH; tổ chức nhân dân
đấu tranh phòng, chống MBN qua biên giới. Quá trình hoạt động, lực lượng làm

công tác VĐQC của BĐBP tỉnh Lào Cai có quan hệ, phối hợp với nhiều lực lượng,
các cấp, các ngành. Mọi hoạt động của công tác VĐQC vừa mang tính chất
an ninh, quốc phòng và đối ngoại.
Thứ tư, VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai
thường phân tán nhỏ, lẻ, xa sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy và đồn biên phòng.
Các đồn biên phòng phụ trách từ 1- 3 xã biên giới. Thường các xã có diện tích
tự nhiên rất rộng, gồm nhiều thôn, bản. Xuất phát từ đặc điểm về tổ chức
và nhiệm vụ, nên các tổ, đội VĐQC thường hoạt động phân tán, nhỏ lẻ, xa chỉ huy,
chỉ đạo của cấp trên. Do vậy, khi tiến hành VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới
CBCS đội VĐQC phải chủ động phát huy cao độ tinh thần độc lập, sáng tạo,
linh hoạt, nhạy bén xử trí các tình huống ở địa bàn đúng chủ trương, đường lối
của Đảng và pháp luật Nhà nước; phải chủ động tổ chức quán triệt mục tiêu, yêu cầu
từng đợt vận động; phải tìm mọi cách thông tin, liên lạc giữa các tổ, đội VĐQC,
địa bàn và chỉ huy đơn vị để bảo đảm định hướng, bảo đảm lãnh đạo, chỉ đạo,
xin ý kiến trong VĐQC phòng, chống MBN ở địa bàn.
* Vai trò công tác vận động quần chúng phòng, chống mua bán người
qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
Vận dụng và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn thấy và luôn đánh giá đúng vai trò của quần
chúng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng nhân dân thì việc khó mấy,
to mấy cũng làm được” [35; 292]. Vì vậy, Người căn dặn: Trong mọi việc
đều phải dựa vào quần chúng... lấy sức quần chúng mà vượt qua khó khăn. Vì thế,
“Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo
thì việc gì cũng thành công”, Người yêu cầu cán bộ làm công tác dân vận phải
“Óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm” [34; 698-700].

21


Hơn 86 năm qua, Đảng ta luôn coi công tác VĐQC là một nhiệm vụ cơ bản

thường xuyên, quan trọng. Vận động thuyết phục quần chúng phục vụ cách mạng
là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh và sự trường tồn của Đảng.
Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 03/6/2013, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác dân vận trong tình hình mới khẳng định: “Công tác dân vận
là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước;
là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân” [25; 1].
Công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai
có vai trò đặc biệt quan trọng, được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng, Nhà nước, BĐBP với nhân dân địa phương; củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân, giữ vững ANCT, TTATXH trên địa bàn biên phòng.
Phòng, chống MBN qua biên giới là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân
và của các cấp, các ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, vai trò
trách nhiệm của QCND ngày càng được nâng cao, thể hiện niềm tin của QCND
đối với sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, điều hành của chính quyền các cấp
ngày càng vững chắc. Mặt khác, thực hiện tốt nhiệm vụ VĐQC phòng, chống
MBN qua biên giới chính là việc xây dựng thế trận lòng dân, lực lượng hùng hậu,
quan trọng của Đảng và Nhà nước ngày càng gắn bó mật thiết hơn với vai trò
trách nhiệm được giao. Cấp ủy đảng, chính quyền các cấp có điều kiện thể hiện được
vai trò trách nhiệm của mình trong lãnh đạo, điều hành cùng chung sức đồng lòng
đấu tranh loại trừ tội phạm MBN ra khỏi đời sống xã hội. Góp phần quan trọng
trong công tác xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy tối đa
sức mạnh của QCND trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ANBG quốc gia.
Thứ hai, tạo điều kiện tích cực cho việc xây dựng, phát triển KT - XH,
xây dựng nền biên phòng toàn dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân
và thế trận an ninh nhân dân vững chắc.

22



Tội phạm MBN luôn được xác định là tội phạm nguy hiểm của xã hội.
Hậu quả của MBN ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán,
đạo đức xã hội, cướp đi hạnh phúc của nhiều gia đình, tiền ẩn những nhân tố mất
ổn định về an ninh quốc gia và TTATXH. Do vậy, VĐQC phòng, chống MBN
qua biên giới có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho QCND chăm lo phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội bền vững. Tình hình an ninh trật tự trong từng gia
đình, thôn, bản, xã, phường được ổn định, ấm no, hạnh phúc. Các thiết chế văn
hóa - xã hội sẽ được QCND ủng hộ và tham gia tích cực, nhiệt tình, đông đảo.
QCND ngày càng thấy rõ hơn giá trị của việc tích cực góp phần xây dựng và bảo
vệ cuộc sống bình yên cho từng gia đình và xã hội, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
xây dựng nền biên phòng toàn dân, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế
trận an ninh nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền ANBG quốc gia.
Thứ ba, làm tốt công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới
còn góp phần trực tiếp xây dựng BĐBP tỉnh Lào Cai vững mạnh toàn diện.
Thông qua công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới chính là quá
trình rèn luyện nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng, khả
năng tiến hành quản lí của người chỉ huy, tính năng động, sáng tạo của các tổ, đội
công tác và các tổ chức quần chúng. Đồng thời, giúp cho CBCS nhận thức sâu sắc
hơn những thuận lợi, khó khăn trong xây dựng đơn vị vững mạnh, qua đó tích cực
học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng và
năng lực công tác. Xây dựng quan điểm vì dân, ý thức thái độ kính trọng dân, nâng
cao năng lực phương pháp tác phong VĐQC, tạo cơ sở thực hiện khẩu hiệu “Đồn
là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”. Hơn nữa,
trong tình hình hiện nay, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, phải lấy xây dựng
vững mạnh về chính trị làm cơ sở. Trong đó, sự vững mạnh về chính trị ở địa
phương khu vực đóng quân là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến sự vững
mạnh của các đơn vị. Nếu môi trường chính trị ở địa phương vững mạnh sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và chiến sĩ. Vì

vậy, nâng cao chất lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới là một
biện pháp trực tiếp góp phần xây dựng BĐBP tỉnh Lào Cai vững mạnh toàn diện,
hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước, nhân dân giao cho.

23


1.1.2. Quan niệm, những yếu tố quy định chất lượng và tiêu chí đánh giá
chất lượng công tác vận động quần chúng phòng, chống mua bán người
qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
* Quan niệm chất lượng công tác vận động quần chúng phòng, chống
mua bán người qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “Chất lượng: 1. Cái làm nên phẩm chất
giá trị của con người, sự vật; 2. Cái tạo nên bản chất sự vật, làm cho sự vật này
khác với sự vật kia” [46; 331].
Có thể quan niệm: Chất lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN
qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai là tổng hòa giá trị của các yếu tố, các bộ
phận, các khâu, các bước trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện của chủ thể và lực lượng; được biểu hiện ra ở nhận thức, trách nhiệm,
năng lực của chủ thể và lực lượng; ở nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành
công tác và kết quả công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới.
* Những yếu tố qui định chất lượng công tác vận động quần chúng
phòng, chống mua bán người qua biên giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Lào Cai
Một là, sự lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ chủ trì,
vai trò hướng dẫn của các cơ quan chức năng.
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết tạo nên chất
lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai.
Sự lãnh đạo thường xuyên, trực tiếp của cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác
VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới là nguyên tắc cơ bản, là nhân tố có ý
nghĩa quyết định chất lượng của công tác này. Trên cơ sở lãnh đạo, hướng dẫn của

cấp trên, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì ở các đơn vị trực tiếp lãnh đạo công
tác VĐQC bằng các nghị quyết, kế hoạch; xác định rõ nhiệm vụ, nội dung, đối
tượng và các chỉ tiêu trong từng giai đoạn. Thông qua các tổ chức đảng mà hạt
nhân là các cấp ủy, cán bộ chủ trì để quán triệt, triển khai và kiểm tra việc tổ chức
thực hiện các nghị quyết, kế hoạch của cấp trên và cấp mình ở các chi bộ trực
thuộc. Công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới được xác định là nhiệm
vụ trọng tâm, xuyên suốt của các đơn vị. Vì vậy, sự lãnh đạo của cấp trên đối với
công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới ở các đơn vị phải chủ động,

24


linh hoạt, chính xác, kịp thời, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm. Đây là cơ sở
bảo đảm công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới ở các đơn vị có chất
lượng, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ. Thực tế cho thấy, nếu cấp ủy, tổ
chức đảng chủ quan, xem nhẹ, buông lỏng sự lãnh đạo; cơ quan chính trị cấp trên
quan liêu, thiếu chỉ đạo, hướng dẫn sát sao sẽ làm cho công tác VĐQC phòng,
chống MBN qua biên giới mang tính hình thức, chiếu lệ, chất lượng thấp.
Hai là, nhận thức, trách nhiệm, năng lực của chủ thể và lực lượng
tham gia công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới.
Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng lãnh đạo, chỉ đạo
công tác VĐQC theo chức trách, nhiệm vụ được phân công. Do đó, chất lượng
công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới phụ thuộc quyết định
vào chất lượng của chủ thể. Nếu cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan
chức năng có phẩm tốt, trách nhiệm cao, có năng lực và phương pháp, tác phong
công tác tốt là cơ sở, điều kiện được nâng cao chất lượng công tác VĐQC
phòng, chống MBN qua biên giới. Ngược lại, nếu cấp ủy, tổ chức đảng,
cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng còn hạn chế về phẩm chất, năng lực thì
chất lượng công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới sẽ không cao,
các đơn vị trong BĐBP tỉnh Lào Cai không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể và nhân dân địa phương là lực lượng tham gia
vào công tác phòng, chống MBN qua biên giới. Do đó, nhận thức, trách nhiệm
của họ có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác VĐQC phòng, chống
MBN qua biên giới. Nếu họ có nhận thức tốt, trách nhiệm cao thì các đơn vị
trong BĐBP tỉnh Lào Cai có điều kiện hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ.
Ngược lại, nếu họ nhận thức không đúng đắn, đầy đủ, thiếu tinh thần trách nhiệm
trong công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới thì hoạt động của các đơn
vị trong BĐBP tỉnh Lào Cai khó có thể hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ.
Ba là, việc thực hiện nội dung, hình thức, phương pháp VĐQC phòng,
chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào Cai.
Công tác VĐQC phòng, chống MBN qua biên giới của BĐBP tỉnh Lào
Cai được tiến hành bằng nhiều nội dung, hình thức, phương pháp, theo qui
trình các bước. Đây là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu

25


×