Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CÔNG tác vận ĐỘNG QUẦN CHÚNG CHỐNG lấn CHIẾM BIÊN GIỚI của các đơn vị BIÊN PHÒNG TRÊN TUYẾN BIÊN GIỚI đất LIỀN VIỆT NAM TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.17 KB, 104 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG ĐẤU
TRANH PHÒNG CHỐNG LẤN CHIẾM BIÊN GIỚI
CỦA CÁC ĐƠN VỊ BIÊN PHÒNG TRÊN TUYẾN
BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VIỆT NAM - TRUNG QUỐC

3

12
1.1. Đấu tranh phòng chống lấn chiếm biên giới và một số vấn đề cơ
bản về công tác vận động quần chúng đấu tranh phòng chống lấn
chiếm biên giới của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất
liền Việt Nam - Trung Quốc.
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm công tác vận động quần
chúng đấu tranh phòng chống lấn chiếm biên giới của các đơn vị
biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc
Chương 2 PHƯƠNG HƯỚNG, YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH
PHÒNG CHỐNG LẤN CHIẾM BIÊN GIỚI CỦA CÁC
ĐƠN VỊ BIÊN PHÒNG TRÊN TUYẾN BIÊN GIỚI ĐẤT
LIỀN VIỆT NAM - TRUNG QUỐC HIỆN NAY

12

34

53


2.1. Dự báo tình hình và phương hướng, yêu cầu tiến hành
công tác vận động quần chúng đấu tranh phòng chống lấn
chiếm biên giới của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc hiện nay
2.2. Những giải pháp tiến hành công tác vận động quần chúng đấu
tranh phòng chống lấn chiếm biên giới các đơn vị biên phòng
trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

53

58
90
92
95


3

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thiêng liêng, bất khả
xâm phạm. Xây dựng quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền của Tổ quốc. Bởi vậy,
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta xác định: quản lý, bảo vệ
toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân và
toàn dân; của mọi ngành, mọi cấp, trong đó, Bộ đội Biên phòng là lực lượng nòng

cốt, chuyên trách. Phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, xây dựng nền Biên phòng vững mạnh là
quan điểm cơ bản, có ý nghĩa chiến lược quan trọng của Đảng và Nhà nước ta.
Đối với lực lượng BĐBP, công tác VĐQC bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ
quốc là nhiệm vụ chính trị quan trọng, một nội dung cơ bản của CTĐ,CTCT, là biện
pháp công tác cơ bản làm cơ sở nền tảng cho các biện pháp nghiệp vụ khác. Làm tốt
công tác này, sẽ góp phần đưa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đi vào
cuộc sống, trở thành hiện thực, góp phần xây dựng cơ sở địa phương ở địa bàn biên
giới và xây dựng BĐBP vững mạnh, trực tiếp xây dựng “thế trận lòng dân”, phòng
tuyến an ninh nhân dân vững chắc để bảo vệ chủ quyền ANBGQG.
Tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là biên giới “mở” “núi liền
núi, sông liền sông”. Do có những vấn đề lịch sử để lại, đường biên giới trên đất
liền Việt Nam - Trung Quốc chứa đựng nhiều yếu tố tranh chấp, phức tạp. Tuy Hiệp
ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc được ký ngày 30/12/1999,
việc PGCM giữa 2 bên hoàn thành vào năm 2008, hiện đã đưa đường biên giới mới
vào thực tiễn, song thực tế hiện nay các hoạt động xâm canh, xâm cư, chôn mồ mả,
xây kè, đắp đập, nắn dòng chảy sông suối trên biên giới... xâm phạm chủ quyền
lãnh thổ vẫn tiếp tục diễn ra, gây phức tạp đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở KVBG nước ta.
Trước tình hình đó, trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP, sự giúp đỡ, tạo điều kiện về mọi mặt của cấp ủy đảng,
chính quyền các cấp, sự phối hợp hiệp đồng với các ngành, các lực lượng, các đơn


4

vị BĐBP trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc đã phát huy sức mạnh
tổng hợp của các ngành, các lực lượng, của đồng bào các dân tộc trên KVBG hoàn
thành tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, ANBGQG. Đặc biệt, công tác VĐQC
đấu tranh phòng chống LCBG (một nội dung cơ bản trong công tác VĐQC tham gia

bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ) đã đạt được những kết quả nhất định.
Song trên thực tế, cũng bộc lộ những hạn chế như: nhận thức về vai trò của công tác
VĐQC trong đấu tranh phòng chống LCBG của cán bộ, chiến sĩ ở một số đơn vị chưa
đầy đủ nên còn có biểu hiện xem nhẹ, chỉ chú trọng tới các biện pháp công tác biên
phòng khác; có nơi nhận thức đúng nhưng quá trình tổ chức thực hiện, lãnh đạo thì
buông lỏng, thiếu kiểm tra đôn đốc, người thực hiện chưa linh hoạt, sâu sát; công tác
tuyên truyền, vận động, tổ chức, hướng dẫn quần chúng hành động ở một số vụ việc
chưa sâu sát, cụ thể; công tác tham mưu đề xuất chưa chủ động, còn lúng túng khi
gặp những tình huống phát sinh ngoài dự kiến,…Tất cả những tồn tại trên đều trực
tiếp ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng công tác VĐQC đấu tranh phòng chống
LCBG thời gian qua . Từ thực trạng công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG,
trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ bảo vệ biên giới, đã và đang đặt ra nhiều
vấn đề mới, đòi hỏi các đơn vị biên phòng cần phải vận dụng linh hoạt các biện pháp
công tác, bổ sung về chủ trương, biện pháp và phương pháp đấu tranh cho phù hợp
đáp ứng yêu cầu đặt ra, nhất là chú trọng hơn nữa công tác VĐQC đấu tranh phòng
chống LCBG góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, ANBGQG. Vì vậy, tác giả chọn
nghiên cứu đề tài “ Công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các đơn vị
biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp, là vấn đề vừa có tính lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều luận văn, luận án, công trình, bài báo khoa
học nghiên cứu về vai trò quần chúng nhân dân, phương pháp, nghệ thuật...trong bảo
vệ biên giới nói chung, đấu tranh phòng chống LCBG nói riêng được công bố, tiêu
biểu là.
Các công trình khoa học:


5

Bộ Tổng tham mưu- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2002), Vai trò của nhân

dân các dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ANBGQG, Nxb QĐND, H. ; Bộ
Tổng tham mưu- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2002), Công tác VĐQC tham gia
bảo vệ chủ quyền ANBG của Bộ đội Biên phòng, Nxb QĐND, H. Hai công trình
trên đã đi sâu làm rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ biên
giới, quan niệm về công tác VĐQC; phương pháp, cách thức tiến hành công tác
VĐQC trong bảo vệ biên giới. Làm rõ tính tất yếu khách quan của việc Bộ đội Biên
phòng phải phát huy, dựa vào quần chúng nhân dân trong nhiệm vụ quản lý, bảo vệ
chủ quyền ANBGQG, chỉ rõ những nhân tố chi phối tới hiệu quả công tác VĐQC,
tới huy động sức mạnh của nhân dân vào nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ANBG. Đánh
giá thực trạng ưu điểm và hạn chế, nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế trong
công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới những năm qua; rút ra
kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo về công tác VĐQC, nghệ thuật trong huy động sức
mạnh của quần chúng. Đồng thời, hai công trình trên đã xác định yêu cầu và chỉ rõ
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ
quyền ANBGQG trong những năm tiếp theo.
Bộ Tổng tham mưu - Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2002), Phương pháp
đấu tranh chống lấn chiếm biên giới đất liền của Bộ đội Biên phòng, Nxb QĐND,
H. Công trình khái quát đặc điểm tình hình biên giới Việt Nam, thống kê các vụ
việc LCBG, chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn, phương thức LCBG của nước láng giềng,
trên cơ sở những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ
chức đấu tranh trên thực địa, dự báo về tình hình LCBG có thể xảy ra trên các tuyến
biên giới. Công trình cung cấp cho người đọc cũng như các đơn vị biên phòng
những phương pháp chủ yếu nhằm đấu tranh có hiệu quả với các vụ việc lấn chiếm
biên giới, đồng thời cũng nêu lên những quan điểm chỉ đạo cơ bản trong đấu tranh
với các hình thức, vụ việc mà lực lượng lấn chiếm biên giới tiến hành; huy động sức
mạnh tổng hợp của mọi nguồn lực, vận dụng linh hoạt các hình thức phương pháp
đấu tranh là tư tưởng cốt lõi được thể hiện trong cuốn sách này. Đây thực sự là một
công trình được nghiên cứu công phu, đề cập một cách khá toàn diện về phương
pháp đấu tranh chống LCBG đất liền của Bộ đội Biên phòng.
Các luận văn, luận án



6

Tăng Huệ (1996), Nghiên cứu phương pháp đấu tranh của BĐBP tỉnh phòng
và chống lấn chiếm biên giới phía Bắc, luận án tiến sĩ khoa học quân sự, HVQP, H.
Trên cơ sở làm rõ những quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về chính sách đối
ngoại, đặc biệt với các nước láng giềng, những quan điểm về công tác biên phòng,
chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy BĐBP trong lãnh, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ biên giới, tác giả đi sâu là rõ những quan điểm, tư tưởng, âm mưu, ý đồ, phương
thức, thủ đoạn cơ bản trong hoạt động lấn chiếm biên giới của phía Trung Quốc
những năm qua, nhất là sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ. Theo tác giả,
muốn có chủ trương, phương pháp đấu tranh hiệu quả bên cạnh việc quán triệt,
nắm vững những quan điểm, chủ trương của trên, thì phải nắm vững âm mưu, ý đồ,
thủ đoạn của lực lượng lấn chiếm, dẫn giải một số vụ việc có tính điển hình, tác giả
khẳng định: Phương pháp đấu tranh là vấn đề cơ bản, quan trọng trong phòng và
chống LCBG, trong đó tác giả nhấn mạnh vai trò to lớn của quần chúng trong cuộc
đấu tranh, chú trọng cách bố trí, sử dụng lực lượng, phương tiện, phương pháp đấu
tranh, đối sách đối với từng phương thức lấn chiếm. Từ đó, đề tài đi vào làm rõ tính
cấp thiết, phân tích thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân ưu điểm, hạn chế, xác định
phương hướng, yêu cầu và nhóm 5 giải pháp cơ bản trong phương pháp đấu tranh
phòng và chống LCBG. Đây là công trình được nghiên cứu tương đối công phu, có
tính thực tiễn hết sức sâu sắc bởi chính tác giả có nhiều năm trên cương vị là người
lãnh đạo, từng chỉ đạo giải quyết thành công nhiều vụ việc LCBG trên địa bàn các
tỉnh biên giới phía Bắc, là cơ sở để tác giả luận văn kế thừa, phát triển trong nghiên
cứu về đấu tranh phòng chống LCBG ở các đơn vị cơ sở BĐBP.
Đặng Vũ Liêm (1997), Vai trò nhân dân các dân tộc trong sự nghiệp bảo
vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia phía Bắc nước ta hiện nay, luận án tiến sĩ
triết học, H. Đề tài đã luận giải những vấn đề cơ bản về vai trò nhân dân các dân tộc
trong sự nghiệp bảo vệ biên giới trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam,

chỉ rõ tính tất yếu khách quan của việc phát huy vai trò của quần chúng trong công
tác này, đặc điểm của các dân tộc trên biên giới; vai trò và những yêu cầu cơ bản về
phát huy sức mạnh quần chúng trong bảo vệ biên giới; đưa ra quan niệm, bốn tiêu
chí đánh giá, xác định những vấn đề có tính nguyên tắc trong phát huy vai trò của
nhân dân. Đánh giá thực trạng ưu điểm, hạn chế, chỉ ra nguyên nhân của những ưu


7

điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm phát huy vai trò của nhân dân các dân
tộc trên biên giới trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền ANBGQG. Xác định phương
hướng, yêu cầu và đề xuất năm giải pháp cơ bản để phát huy vai trò của quần chúng
nhân dân vào nhiệm vụ bảo vệ biên giới hiện nay. Qúa trình nghiên cứu luận văn,
tác giả đã kế thừa một số vấn đề cơ bản được trình bày trong công trình này, nhất là
nghệ thuật tổ chức, phát huy vai trò của quần chúng trong bảo vệ biên giới.
Vũ Hồng Khanh (2002), Phương pháp vận động quần chúng đấu tranh chống
xâm canh, xâm cư của Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc, luận văn thạc
sĩ Biên phòng, HVBP, H. Đây là một đề tài có đối tượng nghiên cứu tương đối gần
với luận văn của tác giả và xâm canh, xâm cư là một trong những phương thức chủ
yếu trong hoạt động LCBG của nước láng giềng trong những năm qua. Đề tài kết
cấu 3 chương, nội dung làm rõ quan niệm công tác vận động quần chúng; quan
niệm phương pháp VĐQC đấu tranh chống xâm canh, xâm cư của Bộ đội Biên
phòng; xác định nội dung phương pháp VĐQC đấu tranh chống xâm canh, xâm cư,
xây dựng được hệ tiêu chí đánh giá, phân tích thực trạng ưu điểm, hạn chế, đồng
thời chỉ rõ nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế, rút ra kinh nghiệm VĐQC cho
Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc; dự báo tình hình và đề xuất 5 giải
pháp đồng bộ nâng cao hiệu quả công tác VĐQC trong đấu tranh chống xâm canh,
xâm cư trong tình hình mới.
Bùi Duy Lợi (2004), Công tác vận động quần chúng tham gia quản lý bảo vệ
đường biên, cột mốc của Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới phía Bắc trong giai

đoạn hiện nay, luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, HVCTQS, H. Đây là một đề tài
được nghiên cứu công phu, nghiêm túc. Từ việc trình bày về đặc điểm khu vực biên
giới phía Bắc, BĐBP các tỉnh phía Bắc, đề tài chỉ rõ vai trò quần chúng nhân dân,
đưa ra quan niệm công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ đường biên, cột mốc,
chỉ ra những tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng công tác VĐQC; phân tích thực
trạng ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế và rút ra
kinh nghiệm nâng cao hiệu quả công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ đường
biên cột mốc các tỉnh biên giới phía Bắc hiện nay. Đề tài đã làm rõ sự phát triển của


8

tình hình nhiệm vụ, phân tích phương hướng, yêu cầu và đề xuất sáu giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác VĐQC tham gia quản lý, bảo vệ đường biên, cột mốc hiện
nay.
Ngoài các luận văn, luận án tiêu biểu trên, quá trình nghiên cứu tác giả có
tiếp thu, kế thừa tinh thần những nội dung cơ bản trong các đề tài của các tác giả
như : Nâng cao chất lượng công tác VĐQC của BĐBP Lào Cai hiện nay (2000),
Đề tài cấp khoa thuộc Học viện Chính trị do Thạc sĩ Phạm Văn Đáng làm chủ
nhiệm; Phan Quốc Việt (2003), Hiệu quả công tác vận động quần chúng phòng
chống di dịch cư tự do ở khu vực biên giới của BĐBP các tỉnh Tây Nguyên hiện
nay, Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, Học viện CTQS, H; Vũ Mạnh Lượng
(2004), Công tác vận động quần chúng đấu tranh phòng chống truyền đạo trái
phép ở khu vực biên giới của đồn biên phòng các tỉnh Tây Bắc hiện nay, Luận văn
thạc sỹ khoa học chính trị, Học viện CTQS, H; Hà Văn Long (2005) Công tác vận
động quần chúng tham gia đấu tranh chống lấn chiếm biên giới của Bộ đội Biên
phòng tỉnh Quảng Ninh , Luận văn thạc sỹ biên phòng, Học viện Biên phòng, H;
Đặng Mạnh Cường (2005), Nâng cao hiệu quả đấu tranh chống lấn chiếm biên
giới của Bộ đội Biên phòng tỉnh Cao Bằng trong tình hình mới, luận văn thạc sĩ
khoa học Biên phòng, HVBP, H.....

Các bài báo, tham luận khoa học.
Bàn về vai trò của quần chúng trong bảo vệ biên giới, đổi mới công tác biên
phòng... có rất nhiều tác giả quan tâm, đăng viết. Đặng Vũ Liêm (2001), “Đổi mới
công tác VĐQC góp phần xây dựng và bảo vệ chủ quyền ANBG của BĐBP”, Kỷ
yếu Hội nghị tổng kết công tác dân vận của quân đội trong những năm đổi mới,
Nxb QĐND, H, tr. 224 - 238. Trần Hoa (2008), “Đổi mới toàn diện, đồng bộ công
tác biên phòng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới trong tình hình mới”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học - Đổi mới công tác xây dựng ,
quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong quá trình hội nhập
quốc tế. Bộ tư lệnh BĐBP - Tạp chí cộng sản, H, tr 30-35. Lê Thái Ngọc (2008),
“Bộ đội Biên phòng đổi mới công tác vận động quần chúng tham gia quản lý, bảo


9

vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới”, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học - Đổi mới công tác xây dựng , quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên
giới quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế. Bộ tư lệnh BĐBP - Tạp chí cộng
sản, H, tr.240 -245. Lê Văn Sơn (2009), “Kinh nghiệm công tác lãnh đạo, chỉ đạo
quần chúng nhân dân phối hợp với BĐBP đấu tranh chống lấn chiếm biên giới, bảo
vệ chủ quyền, lãnh thổ quốc gia”, Kỷ yếu Hội nghị điển hình tiên tiến và sơ kết 20
năm thực hiện “Ngày Biên phòng toàn dân”. Cục chính trị BĐBP, H, tr. 272- 281...
Các công trình, luận văn, luận án, bài viết nêu trên từ nhiều góc độ khác nhau đều
luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn công tác VĐQC, phương pháp đấu tranh
phòng chống LCBG. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn
diện, hệ thống về công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các đơn vị biên
phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc dưới góc độ CTĐ, CTCT.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn và đề xuất một số giải pháp cơ bản tiến

hành công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các đơn vị biên phòng trên
tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ hoạt động đấu tranh phòng chống LCBG và công tác VĐQC đấu
tranh phòng chống LCBG của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền
Việt Nam - Trung Quốc.
Đánh giá thực trạng công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các
đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc rút ra nguyên
nhân và bài học kinh nghiệm.
Đề xuất phương hướng, yêu cầu và những giải pháp cơ bản tiến hành công
tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu Công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của
các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Phạm vi nghiên cứu


10

Luận văn tập trung nghiên cứu công tác VĐQC đấu tranh phòng chống
LCBG của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc. Các số liệu, tư liệu điều tra, khảo sát tập trung ở Cục chính trị BĐBP, các đơn
vị và các cơ quan chức năng ở Bộ chỉ huy BĐBP các tỉnh biên giới Việt Nam Trung Quốc trong thời gian từ 2003 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn của luận văn
Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quần chúng và công tác
VĐQC; các hiệp ước, hiệp định về biên giới đã ký kết giữa Việt Nam - Trung Quốc,
luật BGQG; các chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Tư lệnh BĐBP về công tác VĐQC; qua
tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm về công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG

của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc
Cơ sở thực tiễn.
Cơ sở thực tiễn của luận văn là công tác VĐQC đấu tranh phòng chống
LCBG của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc, các số liệu, báo cáo tổng kết công tác vận động quần chúng và tuyên truyền
đặc biệt của BĐBP các tỉnh (thành) qua các năm, kết quả khảo sát, điều tra của
chính tác giả ở các đồn biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc. Ngoài ra, tác giả còn kế thừa, có chọn lọc kết quả nghiên cứu ở một số công
trình khoa học của các tập thể, cá nhân có liên quan.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, đường lối, nghi quyết của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nghị quyết, chỉ thị của quân đội, BĐBP về quần chúng và công tác quần chúng.
Luận văn còn được nghiên cứu trên quan điểm hệ thống cấu trúc, logic- lịch sử
và các quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích đánh giá các vấn đề có liên quan.
Phương pháp nghiên cứu.


11

Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ
thống hóa các nguồn tài liệu liên quan đến công tác VĐQC trong quân đội nói
chung, công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các đơn vị biên phòng
trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc nói riêng; các công trình nghiên
cứu khoa học như sách báo, luận văn, luận án, đề tài khoa học có liên quan đến việc
nghiên cứu đề tài. Các phương pháp cụ thể:
Phương pháp quan sát: quan sát quá trình tiến hành công tác VĐQC và quan
sát thực tiễn công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các đơn vị biên
phòng có liên quan đến đề tài qua băng hình, chiến lệ, qua thực tế.
Phương pháp trò chuyện, trao đổi, tọa đàm: Thực hiện trò chuyện, trao đổi,

tọa đàm với lãnh đạo, chỉ huy các cấp, cơ quan chính trị, tham mưu và một số đồn
biên phòng ở 7 tỉnh biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Nội dung hướng vào
tìm hiểu phương pháp, cách thức, những hoạt động cụ thể của các bộ, chiến sỹ biên
phòng trong công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG.
Phương pháp điều tra bằng phiếu câu hỏi: Tiến hành điều tra bằng các mẫu
phiếu câu hỏi in sẵn đối với cán bộ, chiến sỹ và cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp
của bộ đội biên phòng ở 7 tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc để tìm hiểu quan
điểm, thực trạng công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG, đồng thời khẳng
định tính khách quan của một số nhận định trong luận văn.
Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của một số nhà khoa học, lãnh đạo chỉ
huy các cấp của Bộ đội Biên phòng về nội dung của đề tài.
Tiến hành xử lý các số liệu và sử dụng toán học để đảm bảo tính khách quan
của kết quả nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho cấp ủy, chỉ huy các đơn vị cơ
sở của BĐBP trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc trong lãnh đạo,
chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả nội dung, hình thức, phương pháp VĐQC phòng
chống LCBG trong tình hình hiện nay.Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy học tập với các đối tượng
trong lực lượng BĐBP.


12

7. Kết cấu luận văn
Đề tài gồm: mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và phụ lục.


13


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG
LẤN CHIẾM BIÊN GIỚI CỦA CÁC ĐƠN VỊ BIÊN PHÒNG TRÊN TUYẾN
BIÊN GIỚI ĐẤT LIỀN VIỆT NAM - TRUNG QUỐC
1.1. Đấu tranh phòng chống lấn chiếm biên giới và một số vấn đề cơ bản
về công tác vận động quần chúng đấu tranh phòng chống lấn chiếm biên giới
của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc.
1.1.1. Lấn chiếm biên giới và đấu tranh phòng chống lấn chiếm biên giới
trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
* Khái lược lịch sử biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam - Trung Quốc được hình thành
từ thời Nhà nước Văn Lang- Âu Lạc, nhà nước đầu tiên ở Việt Nam. Nước Văn
Lang gồm 15 bộ, có biên giới phía Bắc và phía Tây gần trùng với đường biên giới
phía Bắc (phía Tây và Tây Bắc ngày nay của nước ta). Biên giới phía Nam là dải
núi Hoành Sơn (ranh giới giữa tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay), phía Đông
giáp biển Đông. Sau khi Triệu Đà thu phục được An Dương Vương, đặt ách đô hộ,
nhà Triệu chia nước ta thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân sát nhập vào nước
Nam Việt của nhà Hán. Nước ta bắt đầu vào thời kỳ Bắc thuộc. Các triều đại phong
kiến phương Bắc luôn tìm mọi cách để thôn tính, đồng hoá nước ta thành những
quận, huyện của Trung Quốc. Song với ý chí độc lập, tự cường, không chịu khuất
phục của dân tộc ta, các thế hệ người Việt Nam đã đấu tranh giữ vững nền độc lập,
tự chủ, bảo vệ biên cương, lãnh thổ của Tổ quốc.
Sau khi buộc triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước đầu hàng và áp đặt chế độ
thuộc địa đối với nước ta (1883), ngày 9/6/1885 chính phủ Pháp ký với triều đình
Mãn Thanh (Trung Quốc) Hiệp ước Thiên Tân, quy định hai bên tiến hành khảo
sát, nghiên cứu hoạch định đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Sau hai
năm nghiên cứu khảo sát, ngày 26/6/1887 Chính phủ Pháp đã ký với nhà Thanh



14

“Hiệp ước hoạch định biên giới”; xác định những điểm chưa được giải quyết
trong Công ước 1885. Đầu tháng 6/1895, hoàn thành xong việc phân giới cắm
mốc tại thực địa với đường biên giới quốc gia trên đất liền giữa Việt Nam Trung Quốc dài 1.306 km, có 314 cột mốc.
Khi cách mạng hai nước thành công (Việt Nam năm 1945, Trung Quốc năm
1949), tháng 01/1958 theo thỏa thuận giữa hai Đảng, hai Nhà nước, khẳng định tôn
trọng đường biên giới lịch sử theo Hiệp ước 1887 và Công ước 1895, là cơ sở pháp
lý khẳng định tính chất hiệu hữu đối với đường biên giới quốc gia để chính phủ hai
nước giải quyết các vấn đề nảy sinh trên biên giới. Tuy nhiên trên thực tế ở giai
đoạn này hệ thống đường biên, cột mốc biên giới do không được chú trọng quản lý,
bảo vệ đúng mức, một số cột mốc do thời gian bị hư hỏng, một số không còn
nguyên vị trí, bị dịch chuyển xuống phía Nam.
Trong những năm 1970 đến cuối những năm 1980 tình hình thay đổi, quan
hệ hai nước xấu đi, vấn đề biên giới trở nên căng thẳng, đường biên giới trên thực tế
đã không còn nguyên vẹn theo Hiệp ước hoạch định biên giới 1887. Kể từ nửa sau
năm 1988, tình hình căng thẳng trên biên giới hai nước lắng xuống. Hai bên bắt đầu
nối lại các hoạt động đàm phán về bình thường hóa quan hệ và giải quyết vấn đề
biên giới. Sau nhiều vòng đàm phán về biên giới, năm 1991 lãnh đạo hai nhà nước
đã ký “Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên biên giới giữa hai nước
Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa”. Đến tháng 10/1993 giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đạt được thỏa
thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ, nhằm xây
dựng đường biên giới Việt Nam - Trung Quốc thành đường biên giới hòa bình, hữu
nghị, góp phần phát triển quan hệ hữu nghị và láng giềng thân thiện giữa hai nước
Từ năm 1993 đến năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành 7 vòng
đàm phán Chính phủ, 16 vòng đàm phán cấp nhóm công tác liên hợp. Trong quá
trình đàm phán, hai bên đã căn cứ vào Công ước Pháp - Thanh năm 1887; 1895 và

các văn kiện kèm theo để đối chiếu, đưa ra đường chủ trương của mình và phân loại
các khu vực hai bên có nhận thức khác nhau để giải quyết (điểm C) (theo “bản đồ
chủ trương” mà Trung quốc trao đổi với ta năm 1994 trên thực địa, thì biên giới
Trung Quốc sẽ lấn sang đất ta 200 km2 so với đường biên giới do lịch sử để lại)[42,


15

tr.2]. Cuối năm 1999, hai bên đã cơ bản giải quyết xong toàn bộ các khu vực có
nhận thức khác nhau, chủ yếu là 164 điểm C [18, tr.164] và thống nhất được một
đường biên giới duy nhất thể hiện trên bản đồ (theo đó khu vực tranh chấp hai bên
rộng khoảng 231 km2, thống nhất khoảng 114 km2 quy thuộc Việt Nam, 117 km2
quy thuộc Trung Quốc). Ngày 30/12/1999, Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã
được Bộ trưởng Bộ ngoại giao hai bên ký kết tại Hà Nội.
Sau Hiệp ước ký kết, hai bên thành lập Ủy ban liên hợp phân giới cắm mốc
biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc để triển khai công tác PGCM trên toàn
tuyến biên giới. Hai năm chuẩn bị, qua nhiều vòng đàm phán, tháng 9/2002, 12
nhóm Liên hợp PGCM đã song phương triển khai PGCM trên thực địa. Với tinh
thần quyết tâm nỗ lực của cả hai bên, sau gần 6 năm, đến cuối tháng 8/2008 công
tác PGCM trên thực địa đã hoàn thành. Theo đó, hai bên đã hoạch định đường biên
giới dài 1449,566 km, trên toàn tuyến hai bên cắm 1971 cột mốc (trong đó 1627
mốc đơn, 232 mốc đôi, 111 mốc ba), đi qua địa giới của 161 xã (phường, thị trấn),
31 huyện thị, thuộc 7 tỉnh: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai,
Điện Biên và Lai Châu. Đối diện là 14 huyện, thuộc hai tỉnh Quảng Tây và Vân
Nam của Trung Quốc [2, tr.19].
Ngày 18/11/2009 cùng với hai văn bản pháp lý quan trọng khác, Hiệp định
về Quy chế quản lý biên giới đã được Chính phủ hai nước ký kết, theo đó, ngày
14/07/2010 Quy chế này bắt đầu có hiệu lực. Với kết quả PGCM Việt Nam - Trung
Quốc cơ bản đã có một đường biên giới trên đất liền tương đối rõ ràng và một hệ

thống cột mốc khá dày, hoàn chỉnh, tạo ra hành lang pháp lý cơ bản trong công tác
quản lý, bảo vệ và giải quyết các vấn đề này sinh trong công tác bảo vệ chủ quyền,
an ninh biên giới.
* Hoạt động lấn chiếm biên giới trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam
-Trung Quốc
Trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc, quá trình hình thành và
phân chia biên giới các nhà nước phong kiến Việt Nam và Trung Quốc chưa có văn


16

bản pháp lý nào để quản lý bảo vệ biên giới. Đến giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp
và triều đình Mãn Thanh ký Hiệp ước về biên giới ngày 26/4/1887 và Công ước bổ
sung ngày 20/6/1895. Đây là những văn bản đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho 2 Nhà
nước Việt Nam - Trung Quốc quản lý, BVBG sau này. Lịch sử cho thấy, tuyến biên
giới này, luôn bị các nhà nước phong kiến Trung Quốc dùng mọi thủ đoạn để xâm
lấn, mở rộng bờ cõi.
Trước ngày 18/11/2009 thời điểm mà Chính phủ hai nước ký Nghị định thư
Phân giới cắm mốc, biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài 1306km với 314
cột mốc, trải qua quá trình biến cố lịch sử, lúc biên giới hòa bình hữu nghị, lúc xảy
ra xung đột, cùng với sự tác động của thiên nhiên môi trường, ý thức của người dân
hai bên biên giới làm cho tình hình đường biên, cột mốc không còn nguyên vẹn.
Trong số 314 mốc thì có 47% mốc bị đập phá, xói mòn làm đổ nghiêng, vỡ phần
trên của mốc... và 13 mốc bị mất. Hệ thống văn bản, sơ đồ để lại phục vụ cho công
tác quản lý biên giới không đầy đủ, thiếu chính xác. Lợi dụng tình hình đó, Trung
Quốc chủ trương “trên đàm, dưới lấn” với khẩu hiệu khi đàm phán “chia đôi” nhằm
gặm nhấm dần lãnh thổ của ta.
Kể từ khi có Hiệp định tạm thời về biên giới Việt Nam - Trung Quốc
(7/11/1991), hai nhà nước bình thường hoá quan hệ, tình hình biên giới đã có bước
cải thiện, các vấn đề về biên giới đã được giải quyết trên nguyên tắc chung. Tuy

nhiên, với quan điểm "biên giới mềm", chính sách "Cường biên" và âm mưu của
mình, Trung Quốc không những không thực hiện một cách nghiêm túc Hiệp định đã
ký mà còn thường xuyên vi phạm, nhiều điểm, nhiều đoạn biên giới Trung Quốc
cho dân và lực lượng vũ trang lấn sâu vào lãnh thổ nước ta nhằm thực hiện ý đồ "sự
việc đã rồi" hoặc đổ lỗi cho chính quyền địa phương tự động tiến hành. Ngoài các
điểm họ lấn chiếm trước đây, họ còn tiếp tục tìm cách lấn chiếm các điểm mới, tạo
ra nhiều khu vực tranh chấp (điểm C), đẩy mạnh hoạt động khiêu khích và đe dọa,
tạo nên không khí căng thẳng và mất ổn định trên biên giới nhằm thực hiện “bản đồ
chủ trương” mà họ đã trao đổi với ta năm 1994 khi hai bên tiến hành phân giới cắm
mốc


17

Thực tế, từ 2003 đến nay, Trung Quốc vẫn thường xuyên tiến hành các hoạt
động LCBG nước ta, diễn ra ở nhiều nơi với quy mô, thời gian khác nhau bất kể
ngày hay đêm. Lực lượng tham gia LCBG của Trung Quốc gồm BĐBP, dân binh,
dân thường được trang bị vũ khí, phương tiện đầy đủ. Âm mưu, thủ đoạn LCBG của
nước láng giềng dù công khai hay bí mật đều rất nhanh chóng, có tổ chức, có kế
hoạch cụ thể, họ đơn phương tiến hành quản lý biên giới theo Hiệp ước biên giới
đất liền ở một số khu vực, đồng thời tăng cường các hoạt động vũ trang ở những
khu vực tranh chấp để khẳng định quyền quản lý thực tế của họ, có những điểm,
khu vực phía Trung Quốc lấn chiếm nhiều lần, mặc dù ta đã gửi thư phản kháng
khẳng định chủ quyền, tiến hành các biện pháp ngăn chặn, đấu tranh kiên quyết trên
thực địa và trên bàn đàm phán.
Tính từ năm 2003 đến hết năm 2009 và 4 tháng đầu năm 2010 phía Trung
Quốc đã tiến hành 1128 vụ LCBG dưới 4 hình thức cơ bản, trong LCBG thì xâm canh,
xâm cư là chủ yếu. Các hoạt động lấn chiếm của nước láng giềng được thể hiện:
Một là, tăng cường các hoạt động tuần tra, xâm nhập, đe dọa, ngăn cản
nhân dân ta sản xuất, rà phá bom mìn phục vụ PGCM có lợi cho họ.

Thông thường họ dùng lực lượng BĐBP đóng giả thường dân, dân binh... có
sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang với đầy đủ trang bị, trắng trợn ngăn cản lực lượng
ta làm nhiệm vụ, vu khống là vi phạm chủ quyền của họ mặc dù ta có đủ căn cứ để
khẳng định đó là đất của ta. Từ năm 2003 đến tháng 6/2010 xảy ra 339 vụ / 7500
lượt BĐBP và dân binh nước láng giềng vi phạm Hiệp định tạm thời.
Hoạt động tuần tra, xâm nhập của lực lượng vũ trang Trung Quốc tiến hành
thường xuyên, vào mọi thời gian trong các tuần, tháng trong năm song thường tập
trung trọng điểm vào tháng 4 đến tháng 7 và tháng 9 đến tháng 12, điạ điểm xảy ra
trên địa bàn cả 7 tỉnh biên giới.
Hai là, xây dựng sửa chữa các công trình quân sự, kinh tế trên biên giới và ở
những khu vực đã lấn chiếm của ta, trái với Hiệp định tạm thời và thỏa thuận của
hai bên sau khi ký Hiệp ước Biên giới đất liền.
Lợi dụng những khó khăn của ta trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới,
phía Trung Quốc bí mật cho các lực lượng tiến hành xây dựng các công trình quân


18

sự, kinh tế, dân sự sang đất ta như: làm đường, xây dựng cầu cống, đê kè uốn nắn
dòng chảy trên sông suối biên giới, từ năm 2003 đến tháng 6/2010 xảy ra 223 vụ.
Ba là, chôn mồ mả, tạo dấu hiệu mới sang lãnh thổ nước ta.
Hoạt động xâm táng, tạo dấu hiệu mới của phía Trung Quốc tuy không phải
là hình thức mới song luôn là vấn đề phức tạp cho ta trong quá trình đấu tranh
phòng chống do bên cạnh vấn đề quốc gia, quốc giới thì đây còn là vấn đề tế nhị
và hết sức nhạy cảm, được tiến hành chủ yếu vào ban đêm hoặc những ngày thời
tiết sương mù trong khoảng thời gian từ tháng 2- 4 hàng năm. Vì vậy, rất khó khăn
cho công tác phát hiện và đấu tranh của ta. Từ năm 2003 đến tháng 6/2010 xảy ra 129
vụ/ 194 mộ (trong đó có 107 mộ giả), chôn mốc giả 56 vụ/ 63 mốc.
Bốn là, xâm canh, xâm cư và tái xâm canh ở những khu vực đã xâm canh và
mở rộng xâm canh ở những khu vực mới để khẳng định quyền quản lý thực tế của

Trung Quốc ở những khu vực đó.
Hoạt động xâm canh, tái xâm canh được phía Trung Quốc tiến hành một
cách có hệ thống, có kế hoạch và mục đích rõ ràng. Đó không chỉ là việc chiếm đất,
canh tác thuần túy, mà còn thực hiện ý đồ gây mất ổn định ở KVBG. Hoạt động này
có sự chỉ đạo từ trên xuống, nhưng phía Trung Quốc luôn thực hiện ý đồ "ném đá
giấu tay", khiêu khích hoặc làm ngơ trước những hành động của dân Trung Quốc
xâm canh, xâm cư sang lãnh thổ Việt Nam.
Từ 2003 đến tháng 6/2010 xảy ra 383 vụ/257,6 ha, địa bàn xảy ra ở hầu hết 7
tỉnh biên giới, lực lượng tiến hành chủ yếu là dân binh và nhân dân KVBG, thời
gian từ tháng 4 đến tháng 6 và tháng 10 đến tháng 12 trong năm.
Tình hình trên đặt ra yêu cầu các đơn vị cơ sở BĐBP các tỉnh biên giới đất
liền Việt - Trung phải cảnh giác đề phòng, phát hiện kịp thời, có đối sách phù hợp,
sử dụng đồng bộ các biện pháp công tác, coi trọng công tác VĐQC tập trung đấu
tranh ngăn chặn có hiệu quả hoạt động LCBG.
* Đấu tranh phòng chống lấn chiếm biên giới trên tuyến biên giới đất liền
Việt Nam - Trung Quốc.


19

Lấn chiếm biên giới là hoạt động có tổ chức của nước tiếp giáp lấn chiếm
dần từng phần khu vực biên giới của quốc gia liền kề, làm thay đổi đường biên giới
đã xác định,nhằm mở rộng lãnh thổ trái phép [20, tr.48]. Đây là hành động vi phạm
chủ quyền lãnh thổ, vi phạm quy chế biên giới của một nước, bằng việc cố ý làm
thay đổi nguyên trạng đường biên giới chung với nước láng giềng. LCBG luôn là
vấn đề mang tính lịch sử giữa hai nhà nước, hai quốc gia có chung đường biên giới.
Lấn chiếm biên giới có thể diễn ra trong mọi điều kiện hoàn cảnh, dù biên giới
hòa bình, hữu nghị hay đối địch, trong thời bình cũng như thời chiến, nhất là đối với
tuyến biên giới phức tạp, đường biên giới còn nhiều vấn đề tồn tại do lịch sử để lại như
tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.

Đối với tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc hình thức và thủ
đoạn LCBG của nước đối diện biểu hiện cả trên phương diện pháp lý và ngoại giao
bằng cách tạo chứng cứ, lý lẽ hoặc lợi dụng những vấn đề lịch sử, dân tộc để đơn
phương xóa bỏ các điều ước biên giới đã ký kết. Trên thực địa, thường gây nên sự
tranh chấp biên giới như đóng chốt, xê dịch, phá hủy đường biên, mốc giới, tự ý xây
kè, đắp đập làm thay đổi dòng chảy sông suối biên giới; xâm canh, xâm cư, chôn
mồ mả; xây dựng các công trình quân sự trên đường biên giới… dùng lực lượng vũ
trang tiến công và chiếm đóng qua biên giới vào lãnh thổ nước ta như năm 1979.
Có thể nói, hình thức, thủ đoạn LCBG của nước láng giềng đối với nước ta là rất đa
dạng, nhằm mục đích là mở rộng lãnh thổ trái phép, tạo ra “việc đã rồi” hoặc dùng các thủ
đoạn khác, tạo chứng cứ pháp lý có lợi cho việc đàm phán phân giới cắm mốc trên thực
địa. Hậu quả làm cho tình hình KVBG mất ổn định, gây xáo trộn trong đời sống nhân dân,
tạo ra tâm lý hoang mang, không yên tâm làm ăn sản xuất, quan hệ 2 nước láng giềng căng
thẳng, thậm chí có thể dẫn đến xung đột vũ trang. Vì vậy, LCBG và đấu tranh phòng
chống LCBG trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc mang tính chất của
cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc sâu sắc, có ý nghĩa chính trị rất lớn.
Đấu tranh phòng chống LCBG trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc là
tổng thể các biện pháp chính trị, quân sự, đối ngoại của cấp ủy đảng, chính quyền, nhân dân
và các lực lượng trên khu vực biên giới mà nòng cốt, chuyên trách là cán bộ, chiến sĩ BĐBP


20

nhằm phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi làm thất bại các ý đồ và hoạt động xâm phạm chủ quyền
lãnh thổ, lấn chiếm biên giới do nước có chung đường biên giới gây ra đối với nước ta.
Đấu tranh phòng chống LCBG là những hoạt động tích cực, chủ động của các
lực lượng tham gia vào nhiệm vụ bảo vệ biên giới, là một bộ phận quan trọng trong sự
nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền ANBGQG. Đồng thời, cũng là một bộ phận của cuộc
đấu tranh về quan điểm, tư tưởng giữa các nước có chung đường biên giới. Nếu như
trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, các quốc gia trên thế giới giải quyết vấn đề

LCBG, lãnh thổ thường bằng vũ lực, xung đột vũ trang thì những năm gần đây xu
hướng đã thay đổi. Vấn đề dùng vũ lực, dùng sức mạnh quân sự dần dần được thay
thế bằng đấu tranh ngoại giao, đấu tranh chính trị. Thực tế này, phản ánh xu thế
hòa bình, hợp tác giữa các quốc gia, đó cũng là hình thức đấu tranh phù hợp. Đấu
tranh bằng hình thức ngoại giao, đấu tranh chính trị sẽ làm cho các quốc gia có
tranh chấp tránh được xung đột vũ trang, thậm chí tránh được nguy cơ chiến tranh
khu vực. Trong xu thế đó, Đảng, Nhà nước ta có chủ trương: “thực hiện chính
sách xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài với các nước láng
giềng; giải quyết các vấn đề biên giới quốc gia thông qua đàm phán trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích chính đáng của nhau”[41,
tr.4]. Đồng thời, Đảng, Nhà nước ta cũng xác định trách nhiệm quản lý bảo vệ chủ
quyền ANBG của các lực lượng, ban ngành, chính quyền các cấp và nhân dân:
“Xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới, KVBG là nhiệm vụ của Nhà nước và của
toàn dân, trước hết là của chính quyền, nhân dân KVBG và các lực lượng vũ trang
nhân dân”[41, tr.8]. Đây chính là quan điểm về xây dựng và bảo vệ biên giới,
đồng thời thể hiện sự quán triệt quan điểm quần chúng, phát huy vai trò quần
chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền ANBGQG của Đảng và Nhà nước ta.
Đấu tranh phòng chống LCBG trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc dựa trên cơ sở các hiệp định, hiệp nghị, thỏa thuận được ký kết giữa hai nhà
nước và điều ước quốc tế, được thực hiện bằng nhiều hình thức, biện pháp: phản
kháng, kiến nghị thông qua đồn biên phòng, đấu tranh công khai, trực diện bằng lực


21

lượng quần chúng có tổ chức và đấu tranh ở cấp Bộ ngoại giao, cấp Nhà nước, đảm
bảo nguyên tắc giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia, không làm
phương hại tới mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa hai nhà nước. Để đấu tranh
phòng chống LCBG đạt hiệu quả, BĐBP cần tiến hành đồng bộ các biện pháp công

tác biên phòng, song luôn phải xác định biện pháp trinh sát nắm tình hình là mũi
nhọn, biện pháp VĐQC đấu tranh là cơ bản, nền tảng để tiến hành các biện pháp
khác, biện pháp vũ trang, kiểm soát, đối ngoại, công trình kỹ thuật là hỗ trợ quan
trọng. Coi trọng và làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương
(nhất là Ban chỉ đạo chống LCBG các cấp) lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành,
các lực lượng tổ chức quần chúng tích cực tham gia cùng BĐBP quản lý, bảo vệ
chủ quyền ANBG nói chúng, đấu tranh phòng chống LCBG nói riêng, làm thất bại
mọi âm mưu, ý đồ LCBG của nước láng giềng.
1.1.2. Một số vấn đề cơ bản về công tác vận động quần chúng đấu tranh
phòng chống lấn chiếm biên giới của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới
đất liền Việt Nam - Trung Quốc
* Bộ đội Biên phòng ở khu vực biên giới Việt Nam- Trung Quốc.
Lực lượng BĐBP đã được Bộ Chính trị khóa VII chỉ rõ: “Bộ đội biên phòng
được sự chỉ huy thống nhất từ Trung ương đến đơn vị cơ sở, trực thuộc sự chỉ huy
và quản lý toàn diện của Bộ Quốc phòng”[27,tr. 4]. Hệ thống tổ chức đó gồm: Bộ
Tư lệnh BĐBP, Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh (thành phố) và các đồn biên phòng.
Đảng ủy, Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh vừa chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy,
Bộ Tư lệnh BĐBP, vừa chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy (Thành ủy). “Đồn
biên phòng là đơn vị cơ sở của BĐBP làm nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền an
ninh biên giới quốc gia, duy trì thực hiện các hiệp định, hiệp nghị, quy chế về biên
giới thuộc phạm vi được giao”[40,tr.47]; đồn biên phòng được đặt dưới sự lãnh đạo,
chỉ huy trực tiếp của Đảng ủy, chỉ huy BĐBP tỉnh và sự chỉ đạo của cơ quan nghiệp
vụ cấp trên.
Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của BĐBP, các đồn biên phòng có quân số,
trang bị, biên chế tổ chức theo quy định của QĐND Việt Nam, có sự lãnh đạo, chỉ


22

huy chặt chẽ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Trong hệ thống tổ chức của

BĐBP, lực lượng chuyên trách làm công tác VĐQC cũng được bố trí theo hệ thống
dọc; ở Bộ Tư lệnh BĐBP có Phòng VĐQC; ở Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh (thành
phố) có Ban VĐQC và các đồn biên phòng có đội VĐQC, biên chế sĩ quan chỉ huy
làm đội trưởng, đội phó, số còn lại chủ yếu là quân nhân chuyên nghiệp và chiến sĩ.
Quân số đội VĐQC biên chế từ 7 đến 9 đồng chí.
Trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc dài hơn 1400km đi qua
7 tỉnh biên giới, tương ứng là 7 Bộ chỉ huy Biên phòng tỉnh, với 71 đồn biên phòng
hơn 4000 cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm bám trụ trên biên cương của Tổ quốc. Về
cơ bản các đồn biên phòng đều được trên quan tâm đầu tư xây dựng cơ bản, được
bố trí ở những vị trí thuận lợi cho công tác quản lý biên giới, song hầu hết các đồn
biên phòng ở địa bàn xa sự chỉ huy, chỉ đạo của Bộ Chỉ huy biên phòng tỉnh, do đó
mang tính độc lập tác chiến cao. Với biên chế, trang bị còn hạn chế song phải đảm
nhiệm trên một địa bàn rộng, một số đồn phụ trách từ 3 đến 5 xã biên giới với chính
diện 25 đến 45 km đường biên giới, 5 đến 7 cột mốc chính và phụ.
Từ những đặc điểm trên đặt ra cho công tác VĐQC của các đơn vị biên
phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc cần phải đổi mới và
nâng cao chất lượng, biết vận dụng linh hoạt nội dung, hình thức, biện pháp tiến
hành, thường xuyên chăm lo xây dựng củng cố đội ngũ chuyên trách công tác
VĐQC ở các đồn biên phòng đảm bảo đủ số lượng, nâng cao được chất lượng công
tác “Mỗi cấp ủy chỉ huy các cấp trong BĐBP phải nhận thức sâu sắc hơn vị trí, yêu
cầu công tác VĐQC trong tình hình mới... Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các
cấp ủy, chỉ huy đối với công tác VĐQC” [23, tr.12].
* Quan niệm về công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các đơn
vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc.
Bộ đội Biên phòng là lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng, Nhà nước
được giao nhiệm vụ nòng cốt, chuyên trách trong quản lý bảo vệ chủ quyền ANBG.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, các đơn vị BĐBP phải tiến hành đồng bộ các
biện pháp công tác biên phòng: vũ trang, trinh sát, VĐQC, kiểm soát biên phòng,
đối ngoại biên phòng và công trình kỹ thuật. Mỗi biện pháp công tác là một mũi



23

chiến đấu, có đối tượng, lực lượng, phương thức đấu tranh riêng và có quy luật
riêng, nhưng mỗi biện pháp đều phải lấy chính trị làm gốc, phải quán triệt và thực
hiện nghiêm chỉnh đường lối đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Trong đó,
công tác VĐQC là một nội dung CTĐ, CTCT, một biện pháp nghiệp vụ quan trọng,
cơ bản là cơ sở nền tảng cho các biện pháp công tác khác.
Hơn 50 năm qua, sự lớn mạnh và trưởng thành của BĐBP luôn gắn liền với
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
sự giúp đỡ lớn lao của đồng bào các dân tộc vùng biên giới. Công tác VĐQC là một
nhiệm vụ cơ bản thường xuyên, quan trọng; là trách nhiệm của toàn thể đảng viên,
các tổ chức đảng trong BĐBP. Việc vận động thuyết phục quần chúng phục vụ cách
mạng, bảo vệ chủ quyền ANBG Tổ quốc là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sức
mạnh và sự trưởng thành của BĐBP như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một vạn
công an chỉ có hai vạn tai, hai vạn mắt, hai vạn tay chân, nhưng nhân dân có hàng
triệu tai, hàng triệu mắt, hàng triệu tay chân. Cho nên chúng ta phải dựa vào dân để
hoạt động”[40, tr.404]. Bất kỳ trong tình huống nào, cũng phải bám chắc lấy dân,
dựa vào dân để tồn tại. Đó là cái chìa khóa của mọi thắng lợi.
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Đối với KVBG chúng lợi dụng
vấn đề dân tộc, tôn giáo, lợi dụng khó khăn của đồng bào các dân tộc về đời sống kinh
tế, văn hóa để lôi kéo, kích động gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Trước tình
hình đó, Đảng ta đã chỉ rõ nhiệm vụ cho BĐBP: “Liên hệ chặt chẽ với quần chúng, dựa
vào quần chúng để thực hiện nhiệm vụ, đồng thời tuyên truyền vận động nhân dân
vùng biên giới, tăng cường đoàn kết dân tộc, thực hiện các chủ trương và chương trình
kinh tế- xã hội của Đảng và Nhà nước tích cực xây dựng cơ sở chính trị, xây dựng nền
Biên phòng toàn dân, thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh”[27, tr.3].
Đảng ta cũng chỉ rõ “Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu của Đảng, Nhà nước và của toàn dân”[31,

tr.117]. Vì vậy: “Công tác VĐQC luôn luôn là vấn đề có tầm quan trọng chiến lược
trong mọi thời kỳ của cách mạng” [28, tr.251]. Trong sự nghiệp quản lý, bảo vệ chủ


24

quyền ANBGQG, BĐBP phải đương đầu với nhiều loại đối tượng, các loại kẻ thù
có tổ chức, có âm mưu thâm độc và thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Để đấu tranh có
hiệu quả thì trước hết đồng bào các dân tộc ở KVBG là chỗ dựa cơ bản, là sức mạnh
vững chắc nhất của BĐBP trên biên cương của Tổ quốc.
Công tác VĐQC tham gia đấu tranh phòng chống LCBG là một hoạt động cụ
thể, một nội dung cơ bản, quan trọng của công tác VĐQC tham gia bảo vệ chủ
quyền ANBGQG, mang đầy đủ những đặc trưng, tính chất khó khăn, phức tạp,
quyết liệt của công cuộc đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ quốc gia,
để đấu tranh phòng chống LCBG giành được thắng lợi, nhất thiết các đơn vị biên
phòng phải biết huy động, phát huy tối đa sức mạnh của QCND trên KVBG.
Từ cách hiểu trên có thể quan niệm: Công tác VĐQC đấu tranh phòng chống
LCBG của các đơn vị biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung
Quốc là tổng thể các hoạt động, các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, nghiệp
vụ do BĐBP tiến hành để tuyên truyền, vận động, tổ chức, hướng dẫn nhân dân ở
khu vực biên giới tham gia cùng BĐBP bảo vệ đường biên, mốc giới, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự xã hội; ngăn ngừa, phát hiện và trực tiếp tham gia đấu tranh
với mọi hoạt động lấn chiếm biên giới, giữ vững chủ quyền lãnh thổ, xây dựng biên
giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển với nước láng giềng.
Trong đấu tranh phòng chống LCBG thì công tác VĐQC có vị trí, vai trò
quan trọng. Bởi lẽ, biên chế, tổ chức, lực lượng, trang bị của các đồn biên phòng có
hạn; địa bàn rộng, nhiệm vụ nặng nề, đòi hỏi các đơn vị biên phòng trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị phải biết dựa vào QCND. Bên cạnh đó, công tác VĐQC đấu
tranh phòng chống LCBG còn liên quan trực tiếp đến đến vấn đề dân tộc, thân tộc,
quan hệ ngoại giao, kinh tế, chính trị giữa hai bên biên giới. Do vậy, nếu không huy

động được sức mạnh của quần chúng, dựa vào sự giúp đỡ, tạo điều kiện của cấp ủy
đảng, chính quyền các ban ngành, đoàn thể địa phương thì sẽ rất khó khăn trong
công tác phòng ngừa phát hiện, đặc biệt là trong đấu tranh trên thực địa đối với các
hoạt động xâm phạm chủ quyền, LCBG của các lực lượng nước đối diện. Thực tiễn
sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh BGQG những năm qua đã khẳng định vai trò
và sức mạnh của QCND trong công tác biên phòng.


25

Mục tiêu công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG là nhằm giáo dục,
nâng cao giác ngộ, ý thức trách nhiệm của đồng bào các dân tộc ở KVBG đối với sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền ANBG, thúc đẩy sự phát triển của nền biên phòng toàn
dân lên một bước mới, làm cho mỗi người dân trở thành chủ nhân thực sự ở KVBG,
góp phần củng cố đoàn kết dân tộc, mối quan hệ quân dân càng thêm gắn bó cùng
nhau chung sức đồng lòng bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc.
Chủ thể tiến hành công tác VĐQC là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành,
của cán bộ, chiến sĩ BĐBP. Ở đồn biên phòng, đội VĐQC là lực lượng nòng cốt
chuyên trách, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, Ban chỉ huy đồn,
trực tiếp là đồng chí chính trị viên, chính trị viên phó phụ trách công tác VĐQC.
Đối tượng VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG rất đa dạng, đó là nhân dân các
dân tộc ở KVBG, các già làng, trưởng bản, từng hộ gia đình ở các thôn bản giáp biên,
cấp ủy, chính quyền xã và các cơ quan, các lực lượng, ban ngành đóng trên địa bàn
biên phòng, ngoài ra còn là chính quyền, lực lượng vũ trang, nhân dân KVBG nước đối
diện. Tùy theo từng đối tượng để có nội dung, phương pháp, hình thức VĐQC.
Về nhiệm vụ công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG của các đơn vị
biên phòng trên tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc phải phục vụ nhiệm
vụ chính trị của đồn biên phòng là quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh
biên giới. Cụ thể là thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục,
tổ chức, hướng dẫn và phát động quần chúng tham gia bảo vệ chủ quyền ANBG;

với khả năng điều kiện của mình, đồn biên phòng tích cực tham gia xây dựng cơ sở
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố phòng tuyến nhân dân biên giới ngày
càng vững mạnh, làm cơ sở nền tảng cho nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ANBG; xây
dựng củng cố quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt với nhân dân, thực hiện quân với
dân một ý chí bảo vệ biên giới. Công tác VĐQC của đồn biên phòng trên tuyến biên
giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc được tiến hành thường xuyên, liên tục với lực
lượng, phương tiện trang bị hiện có để bám nắm địa bàn; trường hợp khác do yêu
cầu nhiệm vụ có thể huy động nhiều lực lượng phối hợp cùng đồn biên phòng giải
quyết tập trung những vấn đề đột xuất xảy ra.


26

Nội dung cơ bản của công tác VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG
Lãnh đạo và tổ chức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, giác ngộ
chính trị cho QCND ở KVBG. Đây là nội dung quan trọng hàng đầu
Thường xuyên giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất
chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, truyền thống đấu tranh chống bọn phản
động phá hoại biên giới, bảo vệ đường biên, mốc giới, quê hương, làng bản của
nhân dân các dân tộc ở biên giới.
Tuyên truyền giáo dục ý thức quốc gia, quốc giới. Giáo dục lòng tự hào về
đoàn kết dân tộc, xây dựng tình đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế, quan hệ láng
giềng thân thiện, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác phát triển. Giáo
dục nhân dân các dân tộc thường xuyên có ý thức cảnh giác cách mạng, nhận rõ bản
chất âm mưu, thủ đoạn... phá hoại của địch, các bọn phản động, phần tử xấu, giáo
dục và chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đối phó với các tình huống LCBG xảy ra.
Thường xuyên củng cố và phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị ở các xã
biên giới, làm tham mưu cho địa phương để thực hiện tốt cơ chế trong đấu tranh
phòng chống LCBG. Xây dựng quy chế phối hợp giữa đồn biên phòng với UBND
xã trong quản lý, bảo vệ đoạn đường biên, cột mốc, tạo thành phong trào quần

chúng tham gia quản lý, bảo vệ biên giới, thực hiện các chương trình kinh tế, văn
hóa - xã hội, xây dựng cơ sở đảng, chính quyền xã, phường biên giới vững mạnh,
tạo niềm tin, đùm bọc, giúp đỡ của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trên biên giới
đối với mọi hoạt động của cán bộ, chiến sĩ BĐBP.
Tuyên truyền cho nhân dân hiểu rõ âm mưu, thủ đoạn và hành động LCBG
của nước đối diện. Tổ chức học tập, bồi dưỡng nâng cao ý thức trách nhiệm và
phương pháp đấu tranh phòng chống LCBG cho QCND.
Phương pháp VĐQC đấu tranh phòng chống LCBG.
Được hiểu là hệ thống các cách thức được sử dụng để tiến hành VĐQC, làm
thất bại ý đồ và hành động LCBG của các thế lực thù địch, phương pháp VĐQC chủ
yếu là vận động, thuyết phục, hướng dẫn, tổ chức cho QCND tham gia cùng cấp ủy,


×