Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG đội NGŨ cán bộ CHỦ CHỐT cấp xã ở HUYỆN THANH OAI THÀNH PHỐ hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (672.61 KB, 124 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban chấp hành

BCH

Bí thư đảng ủy

BTĐU

Cán bộ, đảng viên

CB, ĐV

Chủ nghĩa đế quốc

CNĐQ

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

“Diễn biến hòa bình”

“DBHB”

Trong sạch vững mạnh



TSVM

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1.

3
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ 19
1


CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở HUYỆN THANH OAI,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
1.1.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt và những vấn đề cơ bản nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Thanh
Oai, thành phố Hà Nội

1.2.

19


Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai,
thành phố Hà Nội

Chương 2.

44

YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT
CẤP XÃ Ở HUYỆN THANH OAI, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI HIỆN NAY

2.1.

65

Tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Thanh Oai, thành phố
Hà Nội hiện nay

2.2.

65

Những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã ở Thanh Oai, thành phố Hà Nội hiện nay

74


KẾT LUẬN

95

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

97

PHỤ LỤC

102

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở tổng kết xây dựng đội
ngũ cán bộ trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta chỉ rõ, mức chính xác của
đường lối chính sách, đều tùy thuộc cuối cùng ở chất lượng công tác cán bộ. Vì
vậy, công tác cán bộ là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng, là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Để xây dựng và thực hiện thắng lợi Cương
lĩnh, chiến lược và các nhiệm vụ chính trị do Đại hội Đảng đề ra, công tác cán
bộ, đặc biệt là việc bồi dưỡng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ chủ chốt càng cấp
bách, đòi hỏi phải được đổi mới cả quan điểm, tổ chức, phương pháp, quy chế
và chính sách. Theo quan điểm đó Đảng ta khẳng định, Đổi mới cán bộ lãnh
đạo các cấp, là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng phải nắm chắc để thúc đẩy
những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy rằng,

cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công, hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém.
Tại Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng ta đã
ban hành nghị quyết về đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị xã,
phường, thị trấn. Nghị quyết đã nhấn mạnh vai trò của đội ngũ cán bộ, công
chức và đề ra một loạt chủ trương, biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, là một nội dung của công tác cán
bộ. Vì vậy, phải quán triệt quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, nội dung công tác
cán bộ của Đảng vào xác định phương hướng, mục tiêu và cơ cấu, yêu cầu về
nâng cao chất lượng; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, những quan điểm, đường lối của Đảng về công tác cán bộ qua từng
giai đoạn của cách mạng; quán triệt mục tiêu phương hướng xây dựng đội ngũ
cán bộ, đánh giá vị trí, vai trò, thực trạng, cơ cấu đội ngũ cán bộ hiện nay,
3


những ưu khuyết điểm và tìm ra những nguyên nhân và đưa ra các giải pháp cơ
bản xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới.
*Vai trò, vị trí cán bộ xã: Xã là một đơn vị cấp hành chính cuối cùng
trong bốn cấp của hệ thống quản lý hành chính, là cấp thấp nhất theo sự phân
cấp quản lý nhưng thấp nhất không đồng nghĩa với ít quan trọng nhất. Do vậy,
xây dựng đội ngũ cán bộ xã là nhiệm vụ rất quan trọng. Có thể đánh giá vị trí,
vai trò của cán bộ cấp xã trên một số khía cạnh sau:
Đội ngũ cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong việc hiện thực
hoá sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước về mọi mặt của đời sống
kinh tế - xã hội ở cơ sở. Đội ngũ cán bộ xã là người giữ vai trò quyết định trong
việc quán triệt, tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp uỷ cấp trên, cấp uỷ
cùng cấp và mọi chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của chính quyền cấp trên,
cũng như mọi chương trình, kế hoạch của chính quyền xã. Cán bộ xã là cầu nối

quan trọng nhất giữa Đảng, nhà nước với nhân dân. Đội ngũ cán bộ xã giữ vai
trò quyết định trong việc xây dựng và thúc đẩy phong trào cách mạng của quần
chúng ở cơ sở.
*Vai trò, vị trí công tác cán bộ xã: Công tác cán bộ là một bộ phận trong
công tác xây dựng Đảng, là công tác Đảng liên quan chặt chẽ với việc xác định
đường lối, chủ trương, chính sách và nhiệm vụ chính trị, với việc sắp xếp tổ
chức, bộ máy, cơ chế và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong cả hệ
thống chính trị. Hiểu một cách tổng quát xây dựng đội ngũ cán bộ cấp xã toàn
bộ hoạt động của chủ thể có đủ thẩm quyền và trách nhiệm pháp lý, nhằm làm
nên, tạo ra một đội ngũ cán bộ xã đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có lập
trường chính trị vững vàng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương,
cơ sở. Đồng thời còn bao hàm cả việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã
hiện có, để đội ngũ này thích ứng với cơ chế mới, yêu cầu mới của nhiệm vụ
chính trị đang đặt ra. Chủ thể xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã bao
gồm: các Huyện uỷ, Thị uỷ, trong đó trước hết là Ban Thường vụ Huyện uỷ,
4


Thị uỷ và những người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp
huyện; tổ chức cơ sở đảng xã, mà trực tiếp là Ban Thường vụ đảng uỷ xã,
phường, thị trấn, và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị xã.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ xã nhằm tìm ra những con người thật sự có
bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức và năng lực đủ sức gánh vác những
trọng trách của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Công tác đó bao
gồm: việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách về cán bộ và công tác cán
bộ của Đảng; xác định tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ và đội ngũ cán bộ, những tiêu
chí nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ và thực hiện đồng bộ các khâu trong công
tác cán bộ: quản lý, đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng, bảo vệ chính trị nội bộ và thực hiện chính sách cán bộ.
* Về chất lượng đội ngũ cán bộ: Tiêu chí đánh giá, chất lượng đôi ngũ

cán bộ được đánh giá qua 3 tiêu chí: Số lượng cán bộ; chất lượng cán bộ và cơ
cấu đội ngũ cán bộ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xã trong giai đoạn
hiện nay cần: Đảm bảo đủ số lượng, xây dựng và đảm bảo thực hiện cơ cấu hợp
lý (về tuổi; về giới; về chuyên môn nghiệp vụ; về dân tộc; về khu vực địa
lý…), đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được
giao; mỗi cán bộ đều có đủ tiêu chuẩn về năng lực; đạo đức; lấy kết quả hoàn
thành nhiệm vụ của cán bộ làm thước đo chủ yếu để đánh giá
*Về nội dung công tác cán bộ ở xã: Nội dung công tác cán bộ ở xã bao
gồm: Công tác đánh giá cán bộ, việc đánh giá, nhận xét cán bộ giữ vai trò
quan trọng, có tác dụng phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết
điểm, hạn chế, thiếu sót của mỗi cán bộ để bố trí, sử dụng cán bộ hợp lý, góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên đánh giá cán bộ là
công việc rất khó, đòi hỏi phải công tâm khách quan. Phải căn cứ vào tiêu
chuẩn cán bộ và việc hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ để đánh giá, trọng dụng
những người có đức, có tài.

5


*Trình độ học vấn phổ thông của cán bộ chủ chốt xã: Về trình độ chuyên
môn: Thực tế cho thấy, trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ còn thấp. Mặt
khác, số được đào tạo qua các chuyên nghành chưa đáp ứng với yêu cầu thực
tiễn ở cơ sở, không theo đúng với quy hoạch, còn chắp vá.Về trình lý luận
chính trị, trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ xã vẫn còn thấp, số chưa
qua đào tạo còn cao. Đối với cán bộ chủ chốt mà số chưa qua đào tạo cao như
vậy là điều rất đáng lưu ý bởi họ phải là những người có lập trường chính trị
vững vàng, có khả năng lĩnh hội chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng,
pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ này tham gia công tác chủ yếu là ở
lòng nhiệt tình cách mạng, một lòng một dạ đi theo Đảng chứ chưa hoàn toàn
dựa vào niềm tin có cơ sở khoa học vào chủ nghĩa xã hội, vào sự lãnh đạo của

Đảng. Việc bố trí, sử dụng: cán bộ sau đào tạo còn bất cập, chưa phù hợp
giữa chuyên môn đào tạo với lĩnh vực phụ trách. Công tác quy hoạch, đào tạo
và bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ thiếu sự đồng bộ. Với thực trạng đó, đa số họ
làm việc chủ yếu theo kinh nghiệm, lối mòn, chất lượng và hiệu quả công tác
không cao. Về đánh giá cán bộ cán bộ xã, như nhận định của Trung ương
những năm gần đây thì không chỉ đối với cán bộ xã mà cán bộ các cấp nói
chung vẫn là khâu yếu. Khâu yếu là nhiều nơi còn hình thức, thể hiện ở kết quả
đánh giá cán bộ nhiều cơ sở không tương xứng với thực chất hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị cơ sở. Hiện nay, đời sống kinh tế ở cơ sở
tuy có nâng lên nhưng vẫn còn chậm, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhưng lại có nguy cơ
tái nghèo. Đời sống kinh tế - xã hội của đồng bào là như vậy nhưng trách
nhiệm thì thuộc về tập thể, chứ không phải là riêng của một cán bộ nào cả.
Thực trạng trên cho thấy việc đánh giá cán bộ còn hình thức, đây cũng chính
là nguyên nhân cho các khâu tiếp theo của việc xây dựng đội ngũ cán bộ
xã. Về công tác qui hoạch đội ngũ cán bộ xã: Hạn chế trong công tác này là
một số cấp uỷ chưa nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của công tác qui hoạch cán
bộ nên việc tổ chức thực hiện còn lúng túng. Trong qui hoạch còn dàn trải, tính
6


khả thi chưa cao; chất lượng và cơ cấu của qui hoạch còn nhiều mặt hạn chế;
về trình độ trong qui hoạch chưa đảm bảo yêu cầu; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ,
cán bộ người dân tộc thiểu số có nơi còn thấp.
Công tác tạo nguồn qui hoạch cán bộ xã: Công tác đào tạo cán bộ chưa
được quan tâm đúng mức. Mặt khác, trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là chưa
gắn chặt với qui hoạch, chưa tập trung đào tạo chuyên môn gắn với ngành nghề
thế mạnh của địa phương nhất là chưa xây dựng được chiến lược đào tạo cán
bộ lâu dài; áp lực về chuẩn hoá cán bộ cho nên đào tạo tại chức còn nhiều, chưa
chú trọng bồi dưỡng về kỹ năng chuyên môn. Đội ngũ cán bộ xã chưa qua đào
tạo trình độ chuyên môn và lý luận chính trị còn nhiều. Công tác luân chuyển:

còn chậm so với mục tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ cơ sở. Đồng thời, các cấp
ủy đảng chưa chú ý đúng mức đến việc luân chuyển và thực hiện chính sách sát
hợp với đối tượng này.
*Các xã trên địa bàn huyện Thanh Oai: Từ ngày 1 tháng 8 năm 2008, toàn bộ
tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội theo Nghị quyết của Kỳ họp thứ 3
Quốc hội khóa XII ngày 29 tháng 5 năm 2008. Theo đó, huyện Thanh Oai là
huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội. Phía Bắc và phía Tây Bắc Huyện
Thanh Oai giáp quận Hà Đông (với Sông Nhuệ chảy ở rìa phía Đông Bắc
huyện, là ranh giới tự nhiên), phía Tây giáp huyện Chương Mỹ (với Sông Đáy
là ranh giới tự nhiên), phía Tây Nam giáp huyện Ứng Hòa, phía Đông Nam
giáp huyện Phú Xuyên, phía Đông giáp huyện Thường Tín và phía Đông Bắc
giáp huyện Thanh Trì. Diện tích tự nhiên của huyện là 129,6 km². Dân số là
175.800 người, theo thống kê năm 2009. Huyện Thanh Oai có huyện lỵ là thị
trấn Kim Bài và các xã: Cao Viên, Bích Hòa, Cự Khê, Mỹ Hưng, Tam Hưng,
Bình Minh, Thanh Mai, Thanh Cao, Thanh Thùy, Thanh Văn, Đỗ Động, Kim
Thư, Kim An, Phương Trung, Dân Hòa, Tân Ước, Liên Châu, Hồng Dương,
Cao Dương, Xuân Dương. Thanh Oai là một vùng quê với rất nhiều làng nghề
như nón lá làng Chuông, quạt nan, mây tre, giang đan làng Vác, xã Cao Viên,
7


làng Bình Đà xã Bình Minh ngày xưa rất nổi tiếng với nghề làm pháo, nghề cơ
khí ở làng Rùa xã Thanh Thùy. Gần chục năm trở lại, các khu công nghiệp mở
ra thu hút nhiều lao động địa phương. Hiên nay thành phố Hà Nội đang triển
khai xây dựng nhiều dự án trên địa bàn huyện: trục đường phát triển phía Nam
với các khu độ thị như (Mỹ Hưng, Thanh Hà A, Thanh Hà B), dự án đường
vành đai 4, cụm công nghiệp Cao Viên, Bình Đà.
Thanh Oai có nét đặc trưng của nền văn hóa đồng bằng Bắc Bộ với rất
nhiều đình chùa cổ kính và những làng nghề lâu đời, đặc sắc nhất làng làm nón
lá ở Phương Trung (Làng Chuông), điêu khắc ở Võ Lăng (Dân Hoà), Dư Dụ

(Thanh Thuỳ) cùng với nghề làm pháo tại Cao Viên, Thanh Cao và Bình Đà.
Ngoài ra rải rác khắp huyện là nghề mây tre đan. Làng Chuông đã được công
nhận là làng điển hình của văn hóa đồng bằng bắc bộ. Những đình chùa nổi
tiếng là chùa Bối Khê, đình Bình Đà ..v.v. Tôn giáo chủ yếu là đạo Phật và
Thiên chúa giáo. Hầu như mỗi làng đều có đình, chùa cổ kính. Trung tâm của
Thiên chúa giáo trong vùng là nhà thờ Thạch Bích tại xã Bích Hòa và nhà thờ
Từ Châu tại xã Liên Châu.
Quốc lộ 21B là huyết mạch giao thông của huyện, từ Hà Đông đi chùa
Hương và sang Hà Nam, qua thị trấn Kim Bài. Quốc lộ 6 qua phía Tây Bắc
huyện, dự án đường trục phía nam Hà Nội đi qua huyện, ngoài ra còn có tỉnh lộ
71. Phía Đông Bắc có tuyến đường sắt vành đai phía Tây Hà Nội chạy qua, để
tới ga Văn Điển. Các xã trên địa bàn huyện Thanh Oai được thành lập theo
Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
*Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở huyện Thanh Oai: Trong những năm
qua Huyện ủy Thanh Oai đã quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng,
chỉ thị, nghị quyết của Thành ủy Hà Nội vào xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã phù hợp với đặc điểm, tình hình, nhiệm vụ của địa phương. Nhờ đó
chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đã từng bước được nâng lên,
góp phần nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực và
8


hiệu quả công tác, xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có số lượng, cơ
cấu ngày càng hợp lý, chất lượng được nâng cao. Mặc dù phải đối mặt với
nhiều khó khăn do tác động của nền kinh tế - xã hội nhưng cán bộ chủ chốt cấp
xã ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội đã chủ động tổ chức quán triệt và
thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng. Cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội nhận rõ trách nhiệm, vị trí vai trò của
mình, nỗ lực vươn lên thể hiện rõ nét ở kết quả thực hiện các chức trách, nhiệm
vụ của mình. Qua đánh giá cán bộ từ năm 2010 đến - 2015, tỷ lệ cán bộ chủ

chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội, có năng lực công tác ở mức
thành thạo ngày càng tăng, chất lượng công tác được đảm bảo, thực hiện tốt các
nhiệm vụ được giao. Kết quả trưng cầu ý kiến đánh giá về mức độ hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai,
thành phố Hà Nội cho thấy, có 65 % ý kiến được hỏi đánh giá tốt, 20% ý kiến
đánh giá khá, 10 % ý kiến đánh giá trung bình, chỉ có 05 % ý kiến đánh giá kết
quả hoàn thành chức trách, nhiệm vụ ở mức yếu.
Kết quả đánh giá chất lượng đảng viên năm 2015 có 100% cán bộ chủ
chốt đều đạt tiêu chuẩn đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong đó
có 59% cán bộ chủ chốt cấp xã là đảng viên đủ tư cách hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ. [phụ lục 4].
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội
có phẩm chất đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch lành mạnh, trung thực,
chân thành, khiêm tốn giản dị, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư,
tận tụy với công việc, có tinh thần khắc phục khó khăn, có tinh thần cầu thị, ý
chí phấn đấu vươn lên. Trong công tác giải quyết đúng đắn mối quan hệ với tổ
chức và nhân dân địa phương. Phần đông có tác phong công tác sâu sát, tỉ mỷ,
lời nói đi đôi với việc làm, phát huy được tính tiền phong gương mẫu trong
công việc và cuộc sống đời thường. Hầu hết đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội hiện nay nhận thức tốt vai trò của việc rèn
9


luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức với quá trình công tác và sự tiến bộ trưởng
thành của mình, có thái độ kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sai trái,
tiêu cực, lạc hậu. Gương mẫu chấp hành pháp luật Nhà nước, không có trường
hợp vi phạm kỷ luật phải xử lý, toàn tâm toàn ý, luôn xứng là lực lượng nòng
cốt ở địa phương. Kết quả trung cầu ý kiến cho thấy, có 65% ý kiến đánh giá
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội có phẩm
chất chính trị, đạo đức tốt, 20% ý kiến đánh giá khá và 15 % ý kiến đánh giá

trung bình. Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vẫn còn
nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị cơ sở
vững mạnh, xây dựng nông thôn mới. Biểu hiện rõ nhất là sự thiếu hụt về phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ tư duy lý luận, năng lực công tác, sự
hẫng hụt giữa các thế hệ cán bộ, cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã còn có
điểm bất hợp lý.
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự
hạn chế, bất cập cả trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác cán
bộ, một số cấp ủy, tổ chức đảng, chưa nhận thức đầy đủ về mục tiêu, nội dung
và biện pháp, còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong chỉ đạo và tổ chức thực
hiện. Vì thế, đã dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm trong bố trí, sử dụng, đào
tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cũng như thực hiện chế độ, chính sách đối với cán
bộ. Ở một số cấp uỷ, việc đánh giá cán bộ còn có biểu hiện hình thức, không
thực chất, chưa chấp hành nghiêm quy trình. Chưa kiên quyết bãi miễn và đưa
ra khỏi cương vị chủ chốt những cán bộ kém phẩm chất, năng lực, không đảm
đương được nhiệm vụ. Chưa mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ có đủ tiêu
chuẩn và có triển vọng vào các cương vị lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Vẫn còn tư
tưởng phong kiến, cục bộ địa phương, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ. Tình
trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách có hiệu quả. Trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã còn nhiều hạn chế.
10


Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh
toàn diện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý xã hội, đòi hỏi ở cấp xã đội ngũ
cán bộ chủ chốt với một số lượng, cơ cấu hợp lý, có phẩm chất chính trị, đạo
đức, trình độ kiến thức, năng lực tổ chức thực tiễn và phong cách tốt.Vì vậy,
nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã trên địa bàn huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội hiện nay là

vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của cán bộ chủ chốt cấp xã, tác giả
lựa chọn vấn đề “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở
huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ
khoa học chính trị chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trong những năm qua đã có nhiều cơ quan, cán bộ khoa học, cán bộ
lãnh đạo, quản lý nghiên cứu về cán bộ và công tác cán bộ với nhiều góc độ
tiếp cận khác nhau. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu có liên quan trực
tiếp đến đề tài luận văn:
Nguyễn Phú Trọng (2001): “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, Nxb CTQG, ST, Hà Nội, 2001. Trong các công trình này tác giả đã phân
tích sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng về cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Trước yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công trình đã xác
định hệ thống quan điểm và chủ trương, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước.
Đề tài khoa học cấp nhà nước KX04.09: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân” (2002-2004) của Bộ Nội vụ. Đề tài đã nghiên cứu cơ sở lý luận và
11


thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Các công trình đã đánh giá thực
trạng công tác cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Xác định rõ vai trò của công tác xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức; khẳng định những yêu cầu khách quan của
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của chính quyền Nhà nước. Làm rõ những
tác động ảnh hưởng, qua đó khẳng định những vấn đề có tính nguyên tắc, xác

định rõ yêu cầu, giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức của hệ thống chính quyền Nhà nước.
Vũ Văn Hiền (chủ biên): Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2007).
Căn cứ vào quan điểm, đường lối xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, tác giả đã
đưa ra các giải pháp cơ bản trong tuyển chọn, quy hoạch đào tạo, sắp xếp, quản
lý sử dụng đội ngũ cán bộ để hình thành cơ cấu cán bộ hợp lý, nhằm đáp ứng
yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Thùy Anh: Nét mới trong tạo nguồn bí thư, chủ tịch xã, phường ở Đồng
Nai, Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 9 năm 2009. Bùi Văn Tiếng: Tạo nguồn
lãnh đạo xã, phường ở Đà Nẵng, Tạp chí Xây dựng Đảng, tháng 4 năm 2010.
Đoàn Minh Huấn: Tạo nguồn cán bộ hệ thống chính trị cơ sở các tỉnh Tây
Bắc nước ta hiện nay. Đề tài cấp Bộ, 2005.
Trần Hoàng Khải: Tạo nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý ở tỉnh Bạc Liêu
hiện nay, Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2010.
Hoàng Chí Bảo: Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005.
Viện nghiên cứu khoa học tổ chức Nhà nước: Hệ thống chính trị cơ sở Thực trạng và một số giải pháp đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004.

12


Nguyễn Thế Vịnh: Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo Nghị quyết
trung ương 5 khóa IX, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội, 2007.
Lê Thị Lý: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu cầu đổi
mới, Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị chuyên ngành xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
Nguyễn Mậu Dựng: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của
Đảng bộ các cấp ở Tây Nguyên hiện nay, Luận án tiến sỹ khoa học chính trị,

chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội, 2000.Tổng Cục chính trị: “Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới”, Nxb QĐND, Hà Nội, 2000.
Trần Danh Bích: “Xây dựng cơ cấu hợp lý đội ngũ cán bộ Quân đội
nhân dân Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới”, Luận án Phó tiến sĩ khoa
học quân sự, Hà Nội, 1996.
Dương Quang Bích: “Nâng cao chất lượng đào tạo giảng viên khoa học
xã hội nhân văn ở Học viện Chính trị quân sự trong giai đoạn hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng ĐCSVN, Hà Nội, 2000.
Võ Bá Dương: “Xây dựng đội ngũ giảng viên ở Trường sĩ quan Chỉ huy
kỹ thuật thông tin”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây
dựng ĐCSVN, Hà Nội, 2003.
Nguyễn Minh Khôi: “Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý GD - ĐT ở các học
viện, trường sĩ quan quân đội trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, 2005.
Dương Văn Hải: “Xây dựng đội ngũ giảng viên khoa học quân sự ở Học
viện Quốc phòng trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính
trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, 2006.
Nguyễn Văn Tháp: “Xây dựng đội ngũ giảng viên khoa học xã hội nhân
13


văn ở các trường đào tạo sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”
Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam, Hà Nội. 2007.
Lê Văn Quang, “Xây dựng đội ngũ giảng viên ở trường sĩ quan Lục
quân 1 trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên
ngành xây dựng ĐCSVN, Hà Nội 2010.
Phạm Đức Tú: “Thực trạng và giải pháp kiện toàn, phát triển đội ngũ
nhà giáo Quân đội”, Tạp chí Nhà trường quân đội, Số 04 năm 2009.

Nguyễn Thị Thu Hương, “Chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên ”.Luận văn thạc sĩ Kinh tế, trường Đại học
Nông nghiệp Hà Nội, 2013.
Trần Lưu Hải (2014), Một số vấn đề về công tác cán bộ trong hoạt động
cầm quyền của Đảng ta hiện nay Hội đồng lý luận Trung ương, Thông tin lý
luận, Hà Nội, 2014.
Đỗ Quốc Bình “ Nâng Cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
trên địa bàn huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2015- 2020 ”.Đại
học Thái Nguyên (Đại học Kinh tế và quản trị kinh nguyên), 2015.
Những công trình nghiên cứu nêu trên là những tài liệu tham khảo có giá
trị lý luận và thực tiễn để tác giả nghiên cứu, chọn lọc, kế thừa trong việc luận
giải nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.
Từ thực tiễn đổi mới công tác cán bộ trong 30 năm đất nước đổi mới, tác
giả đã khái quát rõ quan điểm của Đảng về công tác cán bộ:
Một là, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng
14


đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hai là, công tác cán bộ phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế- xã
hội và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, truyền thống yêu nước, đại đoàn kết và gắn bó mật thiết với
nhân dân, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài.
Bốn là, Gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức, đổi mới cơ
chế, chính sách với học tập là làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Năm là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của
nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Phải dựa vào nhân dân

để phát hiện, kiểm tra, giám sát cán bộ.
Sáu là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đi đôi với phát huy trách nhiêm của các
tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Tác giả đã khái quát những thành tựu ưu điểm, hạn chế của công tác bộ
trên các phương diện xây dựng tiêu chuẩn cán bộ, đánh giá cán bộ, quy hoạch
cán bộ, luân chuyển cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chỉ ra một số vấn đề và
giải pháp thực hiện bao gồm: Tiếp tục đổi mới công tác đánh giá cán bộ, Tiếp
tục nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ, đáp ứng nhiệm vụ cả trước
mắt và lâu dài, đẩy mạnh luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tạo sự
chuyển biến sâu sắc về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
theo yêu cầu tăng cường chất lượng, tinh giảm biên chế hành chính. Cải cách
hệ thống chính sách về cán bộ. Đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng
cán bộ. Tăng cường công tác giáo dục, quản lý cán bộ của cấp ủy các cấp.
Những đề tài trên đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội
15


ngũ cán bộ. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, các đề
tài đều khảng định vai trò đặc biệt quan trọng của đội ngũ cán bộ. Các công
trình đã đánh giá thực trạng, rút ra các bài học kinh nghiệm về xây dựng đội
ngũ cán bộ, khẳng định những yêu cầu khách quan của việc xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ mới. Tuy mỗi đề tài có đối tượng,
khách thể, phạm vi nghiên cứu khác nhau, nhưng đều thống nhất cho rằng, cán
bộ phải là những người mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng,
giỏi về chuyên môn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản,
hệ thống về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Thanh Oai, thành phố Hà Nội, với tính chất là một công trình khoa học độc lập.
Vì vậy, đề tài luận văn không trùng lặp với các công trình khoa học, luận văn,

luận án đã công bố trong những năm trước đây. Tác giả luận văn trân trọng kế
thừa kết quả nghiên cứu các công trình có liên quan, để luận giải làm rõ những
vấn đề cơ bản về “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã ở huyện Thanh
Oai, thành phố Hà Nội hiện nay ”, dưới góc độ chuyên ngành xây dựng Đảng
và Chính quyền Nhà nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu: Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý
luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu: Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chất
lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh
Oai, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh
Oai, thành phố Hà Nội hiện nay.
16


- Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng cán
bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu, khảo sát thực tế
chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội,
Phạm vi khảo sát ở tất cả các đảng bộ xã huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội,
tư liệu, tài liệu điều tra, khảo sát chủ yếu từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận: Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, nghị quyết của Đảng

Cộng sản
Việt Nam về công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
* Cơ sở thực tiễn: Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội hiện nay, đề tài có tham khảo một số
công trình, bài viết liên quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, các báo
cáo tổng kết về công tác xây dựng đảng thuộc Đảng bộ thành phố Hà Nội từ
năm 2011 đến 2016, các số liệu điều tra, khảo sát thực tế ở các xã huyện Thanh
Oai.
* Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê nin, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên ngành và liên ngành, chú trọng các phương pháp: phân tích, tổng hợp,
lôgíc-lịch sử, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
17


Kết quả nghiên cứu đề tài góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học để
Thường vụ Huyện ủy Thanh Oai, các đảng bộ xã nghiên cứu, vận dụng góp
phần nâng cao chất lượng cán bộ chủ chốt cấp xã. Đồng thời, có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy ở trường chính trị thành
phố Hà Nội, trung tâm bồi dưỡng chính trị, huyện.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phục lục.

18


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN NÂNG CAO CHẤT

LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ Ở HUYỆN
THANH OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

1.1. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã và những vấn đề cơ bản nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai
1.1.1. Các xã trên địa bàn huyện Thanh Oai và đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã ở huyện Thanh Oai
*Quan niệm cán bộ chủ chốt cấp xã
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Cán bộ là những người đem chủ trương,
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính
phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng”[18. tr.300]. Luật cán bộ, công chức
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp
thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, định nghĩa cán bộ: Cán bộ là
công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh
theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách Nhà nước.
Cán bộ xã ,là công dân Việt Nam, được bố trí các chức vụ: Bí thư, Phó
Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội
Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
Từ điển tiếng Việt, khái niệm chủ chốt được hiểu là giữ vai trò quan
19


trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt chi phối đối với toàn bộ hoạt động của tổ
chức, phong trào. Cán bộ chủ chốt của phong trào [168]. Theo các văn bản

hiện hành của Đảng, Nhà nước, cán bộ chủ chốt là những người đứng đầu, cấp
phó của người đứng đầu các cơ quan trong bộ máy tổ chức của Đảng, chính
quyền, ủy ban Mặt trận Tổ quốc và ban chấp hành các đoàn thể chính trị - xã
hội trong hệ thống chính trị.
Luật Cán bộ, công chức quy định cán bộ có các nghĩa vụ và quyền lợi:
Trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia. Tôn trọng nhân
dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến
và chịu sự giám sát của nhân dân. Chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực hiện đúng, đầy đủ
và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Có ý
thức tổ chức kỷ luật, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp
luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo vệ bí mật nhà nước. Chủ động và phối
hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết
kiệm tài sản Nhà nước được giao. Chấp hành quyết định của cấp trên.
Ngoài việc thực hiện quy định trên, cán bộ là người đứng đầu bộ máy
Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, còn phải thực hiện các nghĩa
vụ: Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc
thi hành công vụ của cán bộ, công chức. Tổ chức thực hiện các biện pháp
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và
chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ
cơ sở, xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có
hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền,
20


gây phiền hà cho công dân. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm

quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và
kiến nghị của cá nhân, tổ chức, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Cán bộ được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ. Được giao quyền
tương xứng với nhiệm vụ. Được bảo đảm trang thiết bị và các điều kiện làm
việc khác theo quy định của pháp luật. Được cung cấp thông tin liên quan đến
nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ. Được pháp luật bảo vệ khi thi hành công vụ.
Cán bộ được Nhà nước bảo đảm tiền lương tương xứng với nhiệm vụ,
quyền hạn được giao, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Đất nước,
được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của pháp luật. Được
hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo
quy định của pháp luật. Cán bộ được bảo đảm quyền học tập, nghiên cứu khoa
học, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội, được hưởng chính sách ưu đãi, chế
độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật, nếu bị thương
hoặc hy sinh trong khi thi hành công vụ thì được xem xét hưởng chế độ, chính
sách như thương binh hoặc được xem xét để công nhận là liệt sĩ và các quyền
khác theo quy định của pháp luật.
Cán bộ thực hiện các nghĩa vụ, quyền hạn quy định của Luật cán bộ,
công chức các quy định khác của pháp luật có liên quan, điều lệ của tổ chức mà
mình là thành viên. Cán bộ khi giữ chức vụ được hưởng lương và chế độ bảo
hiểm. Cán bộ phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt
động công vụ. Trong giao tiếp phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp,
ngôn ngữ giao tiếp phải chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc. Cán bộ phải lắng nghe ý
kiến của đồng nghiệp, công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá,
thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ. Khi thi hành công vụ, cán bộ phải mang
phù hiệu, có tác phong lịch sự, giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức,
đơn vị và đồng nghiệp. Cán bộ phải gần gũi với nhân dân, có tác phong, thái độ
21



lịch sự, nghiêm túc, khiêm tốn. Cán bộ không được hách dịch, cửa quyền, gây
khó khăn, phiền hà cho nhân dân khi thi hành công vụ.
Những việc cán bộ không được làm: Trốn tránh trách nhiệm, thoái thác
nhiệm vụ được giao, gây bè phái, mất đoàn kết, tự ý bỏ việc hoặc tham gia đình
công. Sử dụng tài sản của Nhà nước và của nhân dân trái pháp luật. Lợi dụng,
lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn, sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ
lợi. Phân biệt đối xử dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo
dưới mọi hình thức. Cán bộ không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật
nhà nước dưới mọi hình thức. Cán bộ làm việc ở ngành, nghề có liên quan đến
bí mật Nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi có quyết định
nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề
mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá
nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài. Chính phủ quy định cụ thể
danh mục ngành, nghề, công việc, thời hạn mà cán bộ không được làm và
chính sách đối với những người phải áp dụng quy định này. Ngoài những việc
không được làm trên đây, cán bộ còn không được làm những việc liên quan
đến sản xuất, kinh doanh, công tác nhân sự quy định tại Luật phòng, chống
tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và những việc khác theo
quy định của pháp luật và của cơ quan có thẩm quyền.
*Quan niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện
Thanh Oai, thành phố Hà Nội.
Cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Thanh Oai là những người được bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Chủ
tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội
Cựu chiến binh ở cấp xã. Nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ xã (theo Quyết định
04/2004/QĐ-BNV) được thể hiện:
22



Thứ nhất: Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ, Chi ủy,Thường trực đảng uỷ xã.
*Chức trách: là cán bộ chuyên trách công tác Đảng ở Đảng bộ, chi bộ (nơi
chưa thành lập Đảng bộ) xã, có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ, cùng tập thể đảng uỷ, chi uỷ lãnh đạo
toàn diện đối với hệ thống chính trị ở cơ sở trong việc thực hiện đường lỗi, chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trên địa bàn xã.
*Nhiệm vụ của Bí thư: Nắm vững Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết và
chỉ thị của cấp trên và chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cấp mình; nắm
vững nhiệm vụ trọng tâm, giải quyết có hiệu quả công việc đột xuất; nắm chắc
và sát tình hình đảng bộ, tổ chức đảng trực thuộc và của nhân dân trên địa bàn;
chịu trách nhiệm chủ yếu về các mặt công tác của đảng bộ.
*Nhiệm vụ của Phó Bí thư, Thường trực Đảng uỷ: Giúp Bí thư đảng bộ
chuẩnbị nội dung các cuộc họp và dự thảo nghị quyết của Ban Chấp hành, Ban
Thường vụ về các mặt công tác của Đảng bộ. Tổ chức việc thông tin tình hình
và chủ trương của Ban chấp hành, Ban thường vụ cho các Uỷ viên Ban chấp
hành và tổ chức đảng trực thuộc. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện nghị quyết,
chỉ thị của cấp uỷ cấp trên, của Ban Chấp hành và Ban Thường vụ.
Thứ hai: Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Bí thư Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch
Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
*Chức trách: Là cán bộ chuyên trách đứng đầu Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội ở xã; chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ
đạo tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của điều lệ của tổ
chức đoàn thể, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

23



*Nhiệm vụ: Chuẩn bị nội dung, triệu tập và chủ trì các kỳ họpcủa tổ chức
mình; cùng tập thể Ban Thường trực (Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc), Ban Thường
trực (4 tổ chức đoàn thể) xây dựng chương trình kế hoạch công tác, hướng dẫn
hoạt động đối với Ban Công tác Mặt trận, các chi hội đoàn thể ở thôn, làng, ấp,
bản, tổ dân phố; phối hợp với chính quyền, các đoàn thể cùng cấp vận động,
hướng dẫn cán bộ, đoàn viên, hội viên tổ chức mình, các tầng lớp nhân dân
tham gia thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng,
hiệp thương bầu cử xây dựng chính quyền, thực hiện quy chế dân chủ tại xã và
các phong trào thi đua của tổ chức mình theo chương trình, nghị quyết của tổ
chức chính trị - xã hội cấp trên tương ứng đề ra.
Thứ ba: Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân.
* Chức trách: Là cán bộ chuyên trách của Hội đồng nhân dân xã, chịu
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội
đồng nhân dân cấp xã, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn xã.
*Nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng nhân dân: Triệu tập, chủ toạ các kỳ
họp của Hội đồng nhân dân, phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn bị
kỳ họp Hội đồng nhân dân; chủ trì trong việc tham gia xây dựng nghị quyết của
Hội đồng nhân dân. Giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết
của Hội đồng nhân dân; tổ chức tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết các
kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân; giữ mối quan hệ với đại biểu Hội
đồng nhân dân, phối hợp công tác với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng
cấp, thông báo hoạt động của Hội đồng nhân dân với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam. Báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân lên Hội đồng nhân dân
và Uỷ ban nhân dân cấp huyện; chủ trì và phối hợp với Uỷ ban nhân dân trong
việc quyết định đưa ra bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
24



*Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân: Căn cứ vào nhiệm vụ
của Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ do Chủ tịch Hội đồng nhân dân phân công cụ thể và thay
mặt Chủ tịch Hội đồng nhân dân giải quyết công việc khi Chủ tịch Hội đồng
nhân dân vắng mặt.
Thứ tư: Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
*Chức trách: Là cán bộ chuyên trách lãnh đạo Uỷ ban nhân dân cấp xã,
chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động của Uỷ ban nhân dân
và hoạt động quản lý Nhà nước đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh,
quốc phòng đã được phân công trên địa bàn xã.
*Nhiệm vụ của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
Lãnh đạo phân công công tác của Uỷ ban nhân dân,các thành viên Uỷ ban nhân
dân, công tác chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, gồm: Tổ chức chỉ
đạo, đôn đốc, kiểm tra đối với công tác chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân
trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên, nghị
quyết của Hội đồng nhân dân và các quyết định của Uỷ ban nhân dân xã.
*Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
Tổ chức quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ theo khối công việc (khối kinh tế
- tài chính, khối văn hoá - xã hội...) của Uỷ ban nhân dân do Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân phân công và những công việc do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ủy
nhiệm khi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đi vắng.
Để đáp ứng nhu cầu hoạt động ở các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải
có lực lượng bao gồm những con người có nghề nghiệp, hoặc thực hiện một
chức năng nhất định nào đó trong một tổ chức, ngành nghề, lĩnh vực hoạt động
nhất định. Từ những nghiên cứu trên có thể quan niệm đội ngũ cán bộ chủ chốt

25



×