Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thị xã Sầm Sơn trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.92 KB, 119 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_________________________________________________________________

PHẠM XUÂN TRƯỞNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG Ở THỊ XÃ SẦM SƠN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Nghệ An, 2015


2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
_________________________________________________________________

PHẠM XUÂN TRƯỞNG

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP XÃ, PHƯỜNG Ở THỊ XÃ SẦM SƠN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. BÙI VĂN DŨNG

Nghệ An, 2015


1

LỜI CẢM ƠN

Trên thực tế không có sự thành công nào mà không gắn liền với những sự
hỗ trợ, giúp đỡ dù ít hay nhiều, dù trực tiếp hay gián tiếp của người khác. Trong
suốt thời gian từ khi bắt đầu khóa học đến nay, đặc biệt là trong thời gian thực
hiện đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thị
xã Sầm Sơn trong giai đoạn hiện nay” tôi đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ của quý Thầy, Cô, Ban Thường vụ Thị ủy, lãnh đạo, chuyên viên Ban
Tổ chức Thị ủy, Đảng ủy các xã, phường ở thị xã Sầm Sơn, gia đình, bạn bè,
đồng nghiệp về thời gian, vật chất và tinh thần trong suốt thời gian học tập, công
tác và thực hiện đề tài luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành về tất cả sự giúp đỡ đó.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Bùi Văn Dũng,
Trưởng khoa Kinh tế, trường Đại học Vinh đã tận tình, trực tiếp hướng dẫn và
chỉ bảo cho tôi hoàn thành luận văn này.
Với tất cả lòng biết ơn sâu sắc của mình, tôi xin kính chúc Ban Giám hiệu
trường Đại học Vinh, Ban Thường vụ Thị ủy Sầm Sơn, các thầy cô giáo, bạn bè,
đồng chí, đồng nghiệp mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
Trân trọng!
Sầm Sơn, tháng 9 năm 2015
Tác giả đề tài


Phạm Xuân Trưởng


2
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
KẾT LUẬN...........................................................................................111

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những nhiệm vụ tổng quát trong năm năm tới mà Đại hội
Đảng bộ thị xã Sầm Sơn lần thứ XVI, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần
thứ XVIII và Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội lần thứ XII của Đảng đã
xác định: “Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo về
Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ...”. Có thể nói vấn đề con người luôn được
Đảng, Nhà nước, các cấp các ngành đặc biệt quan tâm, trong đó có đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
dưới sự lãnh đạo của Đảng, đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt cấp xã,
phường, thị trấn nói riêng đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp giành độc
lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Từ trước đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị cũng
như các chính sách về công tác cán bộ nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ đáp
ứng những đòi hỏi của yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng qua các giai đoạn khác
nhau. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá
VIII) về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng,
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng” [9, tr.66].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn

hoá thế giới, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã từng nói: “Cán bộ là cái gốc của


3
công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [25,
tr.425]. Trong thời kỳ thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bên cạnh những thuận
lợi to lớn, cơ bản cũng có không ít thử thách, khó khăn, trong đó có các nguy
cơ tác động đến sự nghiệp cách mạng và công tác cán bộ. Bởi vậy, nhiệm vụ
xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung cũng như cán bộ ở cơ sở nói riêng càng có
ý nghĩa hết sức quan trọng.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5, khóa IX, ngày
18/3/2002 đã ra nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Hội nghị Trung ương 6 khóa IX có Nghị quyết về
công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay. Điều đó càng thấy rõ tầm quan trọng,
tính cấp thiết của vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường nhằm xây dựng cơ sở vững mạnh, bảo
đảm cho đất nước ổn định và phát triển, đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giành
được thắng lợi.
Thực tiễn cho thấy, nơi nào có sự quan tâm đầy đủ và làm tốt công tác cán
bộ ở xã, phường thì nơi đó, tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế, văn hóa
phát triển, quốc phòng - an ninh được giữ vững, cán bộ được dân tin, mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được triển khai
có kết quả. Ngược lại, ở đâu công tác cán bộ không được quan tâm, đội ngũ cán
bộ không đủ năng lực, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống... thì ở đó nội
bộ mất đoàn kết, mất dân chủ, có nơi còn bị những kẻ xấu kích động, trở thành
những “điểm nóng”, phức tạp kéo dài.
Thanh Hóa là tỉnh đất rộng, người đông, Sầm Sơn là một thị xã du lịch

trọng điểm của tỉnh Thanh Hóa, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt xã, phường có ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát


4
triển của tỉnh Thanh Hóa nói chung và đối với Thị xã Sầm Sơn nói riêng. Nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt xã, phường là để xây dựng được đội ngũ
cán bộ xã, phường có bản lĩnh chính trị vững vàng, giỏi về chuyên môn nghiệp
vụ, có phẩm chất đạo đức tốt và đủ năng lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao. Việc nghiên cứu, tìm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt xã, phường ở thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa là rất cần thiết, có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ
xã, phường có bản lĩnh chính trị vững vạng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có
phẩm chất đạo đức tốt, đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ chính trị của
thời kỳ mới. Xuất phát từ những lý luận và thực tiễn nói trên, qua học tập,
nghiên cứu, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã, phường ở thị xã Sầm Sơn trong giai đoạn hiện nay” để làm
luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học.
Khi nghiên cứu về cán bộ và đội ngũ cán bộ, các Văn kiện Đại hội Đảng
lần thứ VIII, IX, X, XI, Đảng ta đã rất quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, coi đó
là công việc gốc của Đảng. Do tầm quan trọng của công tác xây dựng đội ngũ
cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, cho đến nay việc nghiên cứu vấn đề
xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng đã có rất nhiều bài viết của các đồng chí lãnh
đạo Đảng và Nhà nước. Đồng thời, có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
công tác cán bộ dưới nhiều hình thức như sách chuyên khảo, tham khảo, luận án
tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, tạp chí. Trong số các bài viết đã đăng trên các tạp chí,
các đề tài, công trình nghiên cứu, các luận văn, luận án liên quan tới đề tài về
xây dựng đội ngũ cán bộ đã được công bố như:
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về những yêu cầu đối với cán bộ
và xây dựng đội ngũ cán bộ:

Bùi Đình Phong: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức cách
mạng và sự thống nhất giữa đức và tài” [35]; Trần Văn Phòng: “Tiêu chuẩn đạo
đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay” [36]; PGS.TS. Nguyễn Phú


5
Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”[51]. Trong nhóm các công trình nghiên cứu này, các tác giả
đã tập trung nghiên cứu, nêu rõ những luận cứ khoa học, đồng thời đặt ra những
yêu cầu, tiêu chuẩn đối với cán bộ và việc xây dựng đội ngũ cán bộ nhằm đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về nội dung, phương pháp, cách
thức xây dựng đội ngũ cán bộ:
Cao Thị Minh Nguyệt, “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp xã - thực tế của thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An”[34]; PGS. PTS Đức Vượng:
“Hồ Chí Minh với vấn đề đào tạo cán bộ”[54]; Tiến Hải: “Đánh giá, bố trí, sử
dụng cán bộ”[18]; Nguyễn Văn Côi “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
ở huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay” [7]; TS Thang
Văn Phúc và TS Nguyễn Minh Phương: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân” [37]; Th.s Nguyễn Thế Vinh - Vụ Chính quyền địa phương - Bộ Nội vụ
“Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX)” [53].
Trong các nhóm công trình nghiên cứu nêu trên các tác giả đã làm sáng tỏ
các vấn đề và nhiều khía cạnh khác nhau về cán bộ và công tác cán bộ, một số
công trình nghiên cứu đã tập trung đề cập đến xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn; đề xuất giải pháp nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp xã, phường, thị trấn nói chung. Các công trình đó, các
tác giả mới chỉ nghiên cứu đổi mới xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung hoặc ở
các lĩnh vực, các ngành và các địa phương khác..., chưa có công trình nào
nghiên cứu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thị

xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Trong luận văn này, chúng tôi sẽ tập trung nghiên
cứu vấn đề đó.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu


6
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận và phân tích thực trạng những vấn đề đặt
ra trong công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
xã, phường, thị trấn, luận văn đề xuất những quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường của thị xã
Sầm Sơn trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn cần làm rõ những vấn đề cơ bản sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn hiện nay.
- Nghiên cứu thực trạng nhằm đánh giá sát đúng những kết quả đạt được,
những hạn chế còn tồn tại, chỉ rõ những nguyên nhân của những kết quả và
những tồn tại hạn chế, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thị xã Sầm Sơn từ năm
2010 đến nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường thị xã Sầm Sơn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã, phường của thị xã từ năm 2010 đến 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về thời gian: nghiên cứu từ năm 2010 đến 2015.
+ Về không gian: các xã, phường ở thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

+ Về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu quan điểm, những chủ
trương, sự chỉ đạo của Trung ương, tỉnh Thanh Hóa và thị xã Sầm Sơn về
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường ở thị xã Sầm
Sơn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


7
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đối
với cán bộ cấp chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành,
liên ngành khác nhau như phương pháp lịch sử - lôgic, phương pháp điều tra,
khảo sát, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp giữa lý luận và tổng kết
thực tiễn.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Đóng góp về mặt lý luận: Trình bày tương đối có hệ thống quan điểm về
xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước ta; nêu lên sự cần thiết nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở hiện nay.
- Đóng góp về mặt thực tiễn: Chỉ rõ kết quả đạt được, hạn chế trong quá
trình xây dựng đội ngũ cán bộ, bước đầu rút ra một số giải pháp từ thực tiễn
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở của thị xã Sầm Sơn,
tỉnh Thanh Hóa.
Kết quả nghiên cứu đã giúp cho bản thân thực hiện tốt nhiệm vụ tham
mưu cho cấp ủy về công tác tổ chức, cán bộ; có thể dùng làm tài liệu tham khảo
và góp phần tổng kết thực tiễn đường lối lãnh đạo nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cơ sở của thị xã Sầm Sơn và những địa phương khác.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn chia làm 3 chương và 9 tiết.


8
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP XÃ HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản
Để nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vấn đề này cần làm rõ một số khái
niệm sau:
1.1.1. Khái niệm “cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn”
Theo Từ điển Tiếng Việt-2000 của Nhà xuất bản Đà Nẵng, từ “chủ chốt”
là “quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào”
[52, tr.174].
Theo Điều 4, Luật cán bộ, công chức Quốc hội thông qua ngày
13/11/2008: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công
dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu
tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [38]. Do đó người cán
bộ có những đặc trưng sau:
+ Cán bộ cấp xã là những người được uỷ nhiệm của Đảng, Nhà nước và
các tổ chức khác trong hệ thống chính trị cấp xã, lấy danh nghĩa của tổ chức đó
để hoạt động.
+ Cán bộ cấp xã giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong một tổ
chức của một hệ thống chính trị cấp xã.
+ Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân công công tác sau khi hoàn

thành các chương trình đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị được
đề bạt, bổ nhiệm hoặc bầu cử.


9
+ Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung
chất lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Như vậy hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ cấp xã là người lãnh đạo
quản lý, người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, làm việc, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Hoặc được hình thành từ
tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ nhiệm, đề bạt
hoặc bầu cử.
Từ những nội dung trình bày nêu trên có thể hiểu “cán bộ chủ chốt cấp
xã” là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt
trong hệ thống chính trị cấp xã; người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan
trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực công tác
được giao; là những người đại diện một tổ chức, một tập thể chủ yếu do bổ
nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan Đảng, chính quyền
cấp xã (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể cấp xã và là những người chịu
trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn
vị hoặc lĩnh vực công tác được đảm nhận.
1.1.2. Khái niệm “chất lượng”
Theo Từ điển Tiếng Việt-2000 của Nhà xuất bản Đà Nẵng, từ “chất
lượng” nghĩa là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một sự vật, sự
việc [52, tr.144].
Khi đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã một vấn đề đặt ra
là hiểu cho đúng thế nào là chất lượng của đội ngũ cán bộ. Chất lượng của đội
ngũ cán bộ được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau:
Thứ nhất, chất lượng của đội ngũ cán bộ được thể hiện thông qua hoạt

động của bộ máy chính quyền cấp xã, ở việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của chính quyền cấp xã.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ cán bộ được đánh giá dưới góc độ phẩm


10
chất đạo đức, trình độ năng lực và khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao
cũng như hiệu quả công tác của họ.
Thứ ba, chất lượng của đội ngũ cán bộ còn được đánh giá dưới góc độ khả
năng thích ứng, xử lý các tình huống phát sinh của người cán bộ đối với chức
trách, nhiệm vụ được giao.
Tóm lại, chất lượng của đội ngũ cán bộ là chỉ tiêu tổng hợp chất lượng của
từng cán bộ. Đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, muốn xác định chất lượng
cao hay thấp ngoài việc đánh giá phẩm chất đạo đức phải có hàng loạt chỉ tiêu
đánh giá trình độ năng lực và sự tín nhiệm của nhân dân địa phương đối với
người cán bộ đó. Chẳng hạn, các lớp đào tạo huấn luyện đã qua; bằng cấp về
chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, năng lực quản lý nhà nước, pháp luật v.v...; độ
tuổi; thâm niên công tác v.v...
1.2. Cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã
1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò và sự cần
thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
C. Mác, Ph. Ăngghen là người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học,
là lãnh tụ vĩ đại đầu tiên của phong trào cách mạng vô sản trên thế giới đã đưa ra
những tư tưởng, quan điểm cơ bản về tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ
cán bộ. Song do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, chưa có một đảng vô sản nào
giành được chính quyền nên Mác và Ăngghen chưa thể bàn cụ thể về cán bộ và
công tác cán bộ trong điều kiện Đảng cầm quyền. Nhưng chính các ông đã trực
tiếp bắt tay vào việc tuyển chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ cho tổ chức cộng sản
có tính quốc tế đầu tiên là “Ủy ban thông tin cộng sản” [23, tr.125]. Trong Đại

hội Liên đoàn những người cộng sản, Mác và Ăngghen đã nêu rõ nguyên tắc tổ
chức một đảng cách mạng của giai cấp vô sản là phải lựa chọn cho mình những
đại biểu công nhân giác ngộ nhất, tiêu biểu nhất theo phương châm: “cần phải
sàng lọc từng người một” [23, tr.176].


11
V.I. Lênin là người đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận của chủ
nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga. Trong tác phẩm “Những
nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta”, khi nói về vai trò của người lãnh
đạo phong trào cách mạng, Người đã chỉ rõ: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai
cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng
ngũ của mình những lãnh đạo chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả
năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [19, tr.473].
Tổng kết những năm đầu của cách mạng (1917-1922), V.I.Lênin đã khẳng
định: “Nghiên cứu con người, tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then
chốt; nếu không thế thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy
lộn” [21, tr.449].
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và sự cần thiết phải nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là một trong những viên ngọc quý,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi
các cấp uỷ đảng cần quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người:
“Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc
chung của chúng ta” [26, tr.273] .
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, hơn ai hết Chủ tịch Hồ
Chí Minh thấy rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ. Người chỉ rõ: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”[26, tr.269]. “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán
bộ tốt hoặc kém” [26, tr.240]. “Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt

thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”
[27, tr.46].
Theo Hồ Chí Minh, làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới,
đây là nhiệm vụ rất vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề, là một cuộc đấu tranh lâu
dài, gian khổ, phức tạp. Để hoàn thành nhiệm vụ đó đòi hỏi Đảng phải xây dựng


12
được một đội ngũ cán bộ có đủ đức, đủ tài, trong đó đức là quan trọng hàng đầu.
Người chỉ rõ, đạo đức là “gốc”, nền tảng của người cách mạng. Người nhấn
mạnh: “Cũng như sông thì phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông
cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
[26, tr.252-253].
Đạo đức của người cán bộ cách mạng được thể hiện trước hết ở chỗ: luôn
đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết, trước hết, biết giải quyết đúng đắn
giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Đạo đức cách mạng là
sống lành mạnh, trong sạch, không xa hoa, lãng phí, không hủ hoá, tham ô,
không đặc quyền đặc lợi. “Đạo đức cách mạng là bất kì ở cương vị nào, bất kì
làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng một dạ phục vụ
lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích xây dựng chủ
nghĩa xã hội” [31, tr.306].
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ phải có đức nhưng cũng phải có tài. Tài của
người cán bộ thể hiện ở năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, trong đó
đặc biệt là năng lực nắm bắt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng và Chính phủ. Cùng với đức và tài, người cán bộ còn phải có phong
cách công tác quần chúng, thường xuyên liên hệ mật thiết với nhân dân, biết
lắng nghe ý kiến, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, khéo tổ chức và lãnh
đạo nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người yêu cầu cán bộ càng phải:

“giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân
chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi..., cách
xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng
giữa trời, nhất định thất bại” [26, tr.286].
Để hoàn thành nhiệm vụ, cán bộ dù ở cương vị nào cũng phải tích cực học
tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt để có đủ năng lực giải quyết các


13
vấn đề càng dễ dàng, công việc càng trôi chảy; để học tập tiến bộ, Hồ Chí Minh
yêu cầu người cán bộ phải “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học
nhân dân, không học ở nhân dân là một khuyết điểm rất lớn” [27, tr.50].
Để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
từng giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải làm tốt
công tác cán bộ:
Một là, phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ. Theo Bác, muốn có cán
bộ tốt thì Đảng phải làm tốt công tác huấn luyện cán bộ, “huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng” [26, tr.269]. Theo Người, huấn luyện cán bộ phải toàn
diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học.
Trong đội ngũ cán bộ có cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể,
cán bộ ở Trung ương, địa phương và cơ sở... Huấn luyện cán bộ cũng phải có
nội dung, kế hoạch phù hợp với từng loại cán bộ trong những lĩnh vực cụ thể.
Theo Hồ Chí Minh, huấn luyện cán bộ là công việc thường xuyên, công phu, lâu
dài, cần phải kiên trì và bền bỉ mới có kết quả tốt. Bởi vì: “Không phải vài ba
tháng hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt... cần phải công
tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới được” [26, tr.282].
Hai là, phải hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Đây là công việc hệ trọng và
rất khó. Đánh giá đúng cán bộ là xác định chính xác ai là cán bộ tốt, ai là cán bộ
kém, ai mạnh ở chỗ nào, yếu ở chỗ nào, khả năng hoàn thành công việc đến đâu,
quan hệ với quần chúng ra sao... Trên cơ sở đó mà bố trí, sử dụng, đề bạt đúng

cán bộ. Muốn hiểu, đánh giá đúng cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ và
tiêu chuẩn này phải luôn phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong từng giai đoạn
cách mạng. Đánh giá cán bộ phải công tâm, khách quan; không đơn thuần theo
bằng cấp, học vị, tuổi tác; không hẹp hòi, định kiến cá nhân.
Về phương pháp đánh giá, Hồ Chí Minh yêu cầu phải đặt cán bộ trong
phạm vi công tác và môi trường mà người cán bộ hoạt động. Kết hợp theo dõi
thường xuyên với đánh giá định kỳ, tổng hợp nhiều nguồn thông tin để phân


14
tích, chọn lọc một cách khách quan. Nhận xét, đánh giá công khai; đánh giá để
giúp cán bộ phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Để đánh giá đúng cán bộ, người làm
công tác cán bộ phải biết tự đánh giá chính mình. “Muốn biết rõ cán bộ, muốn
đối đãi một cách đúng đắn với các hạng người, trước hết phải sửa những khuyết
điểm của mình. Mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”
[26, tr.278].
Ba là, phải khéo dùng cán bộ. Khéo dùng cán bộ thể hiện ở chỗ xếp người
đúng việc, vì việc mà xếp người. Người căn dặn: “Dùng người cũng như dùng
gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được” [26,
tr.72]. Người phê bình: “Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người. Thí
dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành thử hai người
đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người thì cả hai người đều thành công”
[33, tr.211].
Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở chỗ biết kết kợp các thế hệ cán bộ một
cách đúng đắn. Người dạy, trong đội ngũ cán bộ của Đảng có cán bộ già, có cán
bộ trẻ. Cán bộ già là vốn quý của Đảng, họ có kinh nghiệm về mặt lãnh đạo,
được rèn luyện, thử thách nhiều trong thực tế đấu tranh... Còn cán bộ trẻ tuy
chưa có một số ưu điểm như cán bộ già, nhưng họ lại hăng hái, nhạy cảm với cái
mới, chịu khó học tập, cho nên tiến bộ rất nhanh.

Khéo dùng cán bộ còn thể hiện ở trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài
Đảng. Theo Người, bất kỳ ai có khả năng, đủ tiêu chuẩn, cần cho nhu cầu của
cách mạng là phải dùng..., vì Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là
của dân tộc. Khéo dùng cán bộ là còn phải mạnh dạn đề bạt những cán bộ trẻ có
đủ tiêu chuẩn và có triển vọng vào các cương vị lãnh đạo, quản lý.
Bốn là, phải “có gan cất nhắc cán bộ”. Có gan tức là phải mạnh dạn. Sở dĩ
Người nói như vậy vì chúng ta thường hay “rụt rè” hoặc “quá khắt khe” trong
việc đề bạt cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, có gan cất nhắc cán bộ nghĩa là người


15
cán bộ được cất nhắc có thể còn điểm yếu, song phải biết được khuyết điểm của
họ để sau khi cất nhắc tiếp tục giúp đỡ họ tiến bộ. Có gan cất nhắc là không sợ
người được cất nhắc sẽ vượt mình. Có gan không có nghĩa là làm nóng vội, làm
ẩu, làm liều, càng không vì danh lợi của mình mà cất nhắc cán bộ. Hồ Chí Minh
yêu cầu: “Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, vì tài năng, vì cổ động cho đồng chí
khác thêm hăng hái. Như thế, công việc nhất định chạy. Nếu vì lòng yêu ghét, vì
thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà lại gây lên mối lôi thôi trong
Đảng. Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào” [26, tr.281-282].
Sau khi cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin,
tự trọng của họ, giúp họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Người còn nhắc nhở: “Cất
nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không
xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy họ xuống,
chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên, thả xuống ba lần
như thế là hỏng cả đời” [26, tr.282].
Năm là, phải thương yêu, chăm sóc bảo vệ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ không phải vài ba tháng hoặc vài ba năm là đào tạo được một người cán
bộ tốt, mà cần phải công tác, đấu tranh, huấn luyện lâu năm mới có được. Hơn
nữa, trong đấu tranh, có rất nhiều thử thách, nguy cơ dẫn đến mất cán bộ. Vì
vậy, Đảng phải yêu thương cán bộ.

Nhưng thương yêu không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương
yêu là giúp họ học tập, tiến bộ thêm, là giúp họ giải quyết những vấn đề khó
khăn... Thương yêu là luôn chú ý đến công tác của họ, kiểm thảo họ. Hễ thấy
khuyết điểm thì giúp đỡ họ sửa chữa ngay, để vun trồng cái thói có gan phụ
trách, cả gan làm việc của họ. Đồng thời, phải nêu rõ những ưu điểm, những
thành công của họ. Phải vun đắp chí khí của họ, để đi đến chỗ “thắng cũng
không kiêu, bại không nản,”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đời ai cũng có khuyết điểm, có làm
việc thì có sai lầm. Vì vậy, đối với cán bộ mắc sai lầm, ta quyết không nên nhận


16
rằng họ muốn như thế, mà công kích họ. Trái lại, khi họ sai lầm thì dùng cách
thuyết phục để giúp họ sửa chữa, phải có thái độ thân thiết, giúp đỡ và động viên
họ hăng hái tiến lên.
1.2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò và sự
cần thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo được nhân dân
nhiệt liệt hưởng ứng và hăng hái thực hiện, đã thu được những thành tựu rất
quan trọng. Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta
đã chỉ ra 4 nguy cơ lớn của đất nước: Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và toàn thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ
nghĩa; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa
bình” của các thế lực thù địch. Đồng thời, Hội nghị nhận định “Công tác cán
bộ vẫn là một khâu yếu. Đội ngũ cán bộ nhìn chung chưa ngang tầm đòi hỏi
của nhiệm vụ”.
Cán bộ quyết định mọi công việc. Trong hệ thống các cơ quan quản lý
hành chính nhà nước, cán bộ chính quyền cấp xã có vị trí hết sức quan trọng. Họ
là những người quán triệt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước đưa vào cuộc sống, biến chủ trương, đường lối của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước thành hiện thực. Cán bộ chính quyền cấp xã
có vai trò to lớn và trách nhiệm hết sức nặng nề trong hệ thống quản lý nhà
nước. Cán bộ chính quyền cấp xã được Nhà nước trao cho thẩm quyền quản lý
nhà nước ở địa phương. Do phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, trực tiếp
giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện pháp luật, thực hiện quyền và
nghĩa vụ công dân. Cán bộ chính quyền cấp xã, ngoài phẩm chất chính trị, cần
phải có trình độ, năng lực nhất định và cần nhất là phải tạo dựng được uy tín
trong cộng đồng dân cư.
Kết luận 37-KL/TW của Hội nghị Trung ương 9 (khóa X), khẳng định:
“Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt


17
trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng”. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng, cần tiếp tục đặt ra yêu cầu chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài, được nhân dân tin yêu.
1.3. Những tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã
1.3.1. Về “Đức”
Đức của người cán bộ, đảng viên là đạo đức cách mạng. Người coi đạo
đức cách mạng là “nền tảng”, là “cái gốc” của người cán bộ. Đức của người cán
bộ cách mạng thể hiện ở phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, là lòng
trung thành vô hạn đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, với chế độ XHCN;
là trình độ giác ngộ mục tiêu, lý tưởng XHCN, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì
mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó. Đức được thể hiện ở sự trong sáng, thành thật,
trung thực, không cơ hội, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, biết hy
sinh lợi ích cá nhân để phục tùng lợi ích tập thể, lợi ích của Tổ quốc, của nhân
dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh, gần gũi với quần chúng, gương mẫu gắn
bó với nhân dân, khiêm tốn học hỏi, thực sự cầu thị. Có tinh thần đoàn kết,

thương yêu, tương thân, tương ái lẫn nhau. Đức là cái gốc giúp người cán bộ
cách mạng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm
vụ của Đảng và nhân dân giao phó. Người nói: “cây phải có gốc, không có gốc
thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”[26, tr.252-253]. Đạo đức cách mạng
tạo nên uy tín của cán bộ, đảng viên. Đó là cơ sở để giáo dục, thuyết phục và
lãnh đạo quần chúng nhân dân, là tấm gương sáng cho mọi người noi theo
Người cán bộ chủ chốt cấp xã muốn khẳng định được uy tín của mình
trước nhân dân, trước hết đó phải là người cán bộ có phẩm chất chính trị vững
vạng, đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, luôn có tinh thần thái độ phục vụ nhân
dân. Xây dựng các tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ, công chức và hình


18
thành ở họ các phẩm chất đạo đức tương ứng với vị trí, vai trò, chức năng nhiệm
vụ của đội ngũ cán bộ là việc làm cần thiết và cấp bách, nhất là trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường đang có sự chuyển biến nhanh chóng và xã hội xuất hiện nhiều vấn đề
hết sức phức tạp, trong đó phải kể đến trình độ dân trí và những yêu cầu, đòi hỏi
của xã hội đối với đội ngũ cán bộ cũng ngày một cao hơn. Thêm vào đó công tác
quản lý xã hội cũng đòi hỏi người cán bộ phải tạo lập cho mình một uy tín nhất
định đối với nhân dân, đặc biệt là những cán bộ chủ chốt cấp xã.
Việc nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống ở người cán bộ, công
chức đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm, nhất là sau khi cách
mạng thành công, ngoài việc lãnh đạo, quản lý đất nước, trước những khó khăn
phải chống thù trong, giặc ngoài, Bác vẫn chăm lo việc giáo dục đạo đức cho
người cán bộ trong các cơ quan chính quyền nhà nước còn non trẻ. Người đã xác
định: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy” [29, tr.269], khi nói chuyện với
cán bộ tỉnh Thanh Hóa ngày 20/2/1947, Người nhấn mạnh: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu

cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được” [24, tr.54]. Người
cán bộ tốt ở đây phải là người có đủ cả năng lực trình độ lẫn đạo đức cách mạng.
Bác yêu cầu: “Một người cán bộ tốt phải có đạo đức cách mạng”. Theo Bác,
muốn có đạo đức cách mạng, mỗi người cán bộ phải hội tụ được các phẩm chất
“trí”, “tín”, “nhân”, “dũng”, “liêm”. Khi điều kiện và tình hình cách mạng thay
đổi, trong khi nói chuyện với anh, chị em công chức ở Thủ đô, Bác đã nhắc nhở:
“Chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”. Cần, kiệm, liêm,
chính là nội dung cốt lõi của đạo đức cách mạng của mọi người, đặc biệt đối với
cán bộ, đảng viên. Những đức tính cần có ấy của con người giống như bốn mùa
của trời, bốn phương của đất; nếu thiếu một trong những đức tính đó con người
không thể trở thành người theo nghĩa tốt đẹp của từ này. Theo Bác:


19
“Cần” tức là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch,
sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười
biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng
liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”. Tất thảy mọi người ai
cũng “cần” thì bản thân mới tiến bộ, gia đình mới ấm no và hạnh phúc, quê
hương mới phồn thịnh, đất nước mới giàu mạnh. Song, theo Hồ Chí Minh “cần”
phải đi liền với “kiệm”.
“Kiệm” theo Hồ Chí Minh là tiết kiệm, sử dụng có kế hoạch và có mục
đích, không xa xỉ hoang phí, phô trương hình thức. Theo Người, để xây dựng
cuộc sống mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không những phải tiết kiệm
tiền bạc, sức lực mà còn phải biết tiết kiệm cả thời gian, bởi nếu của cải có hết
thì còn làm lại được, nhưng thời gian trôi qua rồi thì không bao giờ có thể lấy lại
được. Khi nói đến mối quan hệ giữa “cần” và “kiệm” Hồ Chí Minh nói rằng, nếu
chúng ta “cần” mà không “kiệm” thì như thùng không đáy; còn nếu “kiệm” mà
không “cần” thì lấy gì mà “kiệm”.
“Liêm” tức là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, sống trong

sạch, không tham lam. Không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham sung
sướng, không ham người tân bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không
bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Như vậy
để trở thành người có phẩm chất đạo đức tốt, phải hội đủ các yếu tố: cần, kiệm,
liêm, chính.
“Chính” nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình; không
tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển
điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người; không nịnh hót
người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đoàn kết thật thà; không dối trá, lừa lọc. Người “chính” thấy “việc thiện dù
nhỏ mấy cũng làm. Việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh. Việc gì dù lợi cho mình,


20
phải xét nó có lợi cho nước không? Nếu không có lợi mà có hại cho nước thì
quyết không làm” [26, tr.645].
Bác nói: “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền
hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chímh thì dễ trở nên hủ bại, biến
thành sâu mọt của dân” [28, tr.392]. Ngay từ những ngày đầu xây dựng chính
quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mình có quyền dùng người thì phải
dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn, mà kéo
vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn
mình” [26, tr.105].
1.3.2. Về “Tài”
Tài của người cán bộ là trình độ, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ một
cách tốt nhất, có hiệu quả nhất. Tài được thể hiện ở trình độ, năng lực chuyên
môn nghiệp vụ, khả năng nhận thức đúng các quy luật, sáng tạo trong giải quyết
công việc; luôn làm chủ được tri thức khoa học và có khả năng hiểu biết sâu
rộng về các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực chuyên môn của mình. Bác nói: “Phải có
chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là đức, chuyên môn là tài”(3). “Tài”

còn là khả năng hoạt động thực tiễn, kỹ năng và hiệu quả thực hành các công
việc được giao. Người cán bộ cách mạng phải có năng lực trí tuệ và năng lực
hoạt động thực tiễn, có trình độ kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng hoạt động
tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Dù hoạt động trên bất kỳ lĩnh vực
nào thì người có “Tài” phải là người có sự hiểu biết thấu đáo và thực hành thành
thạo các công việc mà mình đảm nhiệm. Người chỉ rõ: “Ngày nay, Đảng yêu cầu
cán bộ và đảng viên chẳng những thành thạo về chính trị mà còn phải giỏi về
chuyên môn, không thể lãnh đạo chung chung” [31, tr.313]. "Tài” của người cán
bộ phải được nhìn nhận, đánh giá theo từng loại công việc và vì thế phải tìm
chọn cán bộ có tài và bố trí phù hợp với yêu cầu sử dụng của từng nhiệm vụ.
Người căn dặn: “không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta


21
phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm
của họ. Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người”[26, tr.274].
Đối với cán bộ chủ chốt cấp xã là những người trực tiếp tiếp xúc với
nhân dân do vậy phải có được những tố chất cơ bản về trình độ kiến thức pháp
luật, kinh tế, văn hóa, xã hội... Sự am hiểu và nắm vững đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành thạo nghiệp vụ chuyên môn, kỹ thuật
xử lý thông tin... để giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước một
cách khôn khéo, minh bạch, dứt khoát, hợp lòng dân và không trái pháp luật.
Người cán bộ quản lý phải được đào tạo chuyên sâu về nghề nghiệp của mình,
phải am hiểu công việc chuyên môn do mình phụ trách, phải có kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn. Đồng thời, người cán bộ phải có sự ham mê, yêu nghề,
chịu khó học hỏi, tích lũy kinh nghiệm. Người cán bộ phải có khả năng thu
thập, chọn lọc và xử lý thông tin, khả năng quyết định đúng đắn, kịp thời. Vì
vậy, việc nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện
cho cán bộ chủ chốt cấp xã, phường là vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết
trong mục tiêu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường

hiện nay.
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã của nước ta hiện nay đông nhưng
không mạnh, nguyên nhân là do những hạn chế về trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý nhà nước, quản lý kinh tế... đã dẫn tới hạn
chế trong năng lực quản lý điều hành công việc, lúng túng trong việc lập kế
hoạch, trong việc xử lý tình huống khi kế hoạch đưa ra không phù hợp thực
tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã vừa phù hợp với công cuộc
đổi mới của đất nước, vừa thuận theo ý Đảng, lòng dân; trẻ hóa đội ngũ cán
bộ chính quyền cấp xã là nhu cầu, là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây
dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới, làm cho đội ngũ cán bộ tràn đầy sức
sống. Đội ngũ cán bộ không được trẻ hóa thì thiếu sức sống, bảo thủ. Nơi nào
mà các cán bộ cấp trên biết lựa chọn và dìu dắt, có nhiều cán bộ mới thì ở đó


22
công việc tiến triển tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “... cán bộ mới, vì
công tác chưa lâu, kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm, nhưng họ lại có
những ưu điểm hơn cán bộ cũ đó là họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng
kiến hơn”. Đội ngũ cán bộ không được tri thức hóa và chuyên môn hóa thì
không thể hoàn thành nhiệm vụ. Cán bộ có tư cách, tác phong tốt, phải toàn
tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, dám nói thật, dám bảo vệ cái đúng, đấu tranh
chống những tiêu cực, quan liêu, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ. Có mối
quan hệ tốt với các đồng nghiệp và quần chúng nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì
vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”; Người yêu cầu: “... Đảng
phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu,
phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc của
chúng ta” [26, tr.269].
Con người ta không phải là thánh hiền, không ai có thể nói mình không có
sai lầm, nhưng cần tránh định kiến sẵn. Dùng một cán bộ lão thành, cũng có thể

có những ý kiến nhưng nhìn chung về cơ bản vẫn tương đối dễ dàng thông qua;
nhưng đề bạt một cán bộ trung niên hay thanh niên thì thường hay có những cái
nhìn khắt khe hơn, việc thông qua khó khăn hơn và nhất là thường cho rằng cán
bộ trẻ chưa có đóng góp nhiều cho đất nước.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói đến
vấn đề cán bộ cũ và cán bộ mới. Đảng càng phát triển thì cần đến cán bộ mới
càng nhiều. Theo quy luật tự nhiên, khi cán bộ cũ già đi, “nếu không có cán bộ
mới thế vào, thì ai gánh vác công việc của Đảng”.
Tài năng của một con người không phải là bất biến suốt đời, mà là
một quá trình vận động như mũi tên bay. Khoa học nghiên cứu và thấy rằng
đường cong tuổi tác của những người làm công tác quản lý nói chung thì ở
độ tuổi 50 là tuổi đỉnh cao. Khi nói về phẩm chất, năng lực của người cán
bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nói: Người có đức mà không có tài thì làm


23
việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức thì vô dụng. Nhưng chữ “đức” ở
đây phải được hiểu cho đúng. Không thể coi những người gọi dạ, bảo vâng,
đúng cũng gật, sai cũng gật không có chính kiến gì... là những người có
chữ “đức”. Trong khi đó lại coi những người có chính kiến rõ ràng, dám đấu
tranh phê bình, dám chống lại những sai trái như quan liêu, tham nhũng lại bị
coi là kiêu căng tự mãn, là thiếu “đức”. Nói về tiêu chuẩn cán bộ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn coi trọng cả đức và tài, trong đó đức là gốc. Người chỉ rõ yêu cầu
đối với cán bộ là: “Phải có chính trị trước rồi có chuyên môn; chính trị là đức,
chuyên môn là tài. Có tài mà không có đức là hỏng... Đức phải có trước tài”. Để
nhấn mạnh tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ cách mạng, Bác viết: “Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có
gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức; không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [26, tr.252-253].
Yêu cầu đặt ra hiện nay là xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đủ

phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền thực sự
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Họ phải có tinh thần yêu nước sâu
sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện
có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tận tụy
phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, xây dựng được lòng tin trong
nhân dân, cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung
thực, không cơ hội, không tham nhũng quan liêu và kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng. Có sự hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước. Có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ
năng lực và sức khỏe để làm việc, đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ mà tổ
chức và nhân dân giao phó. Đặc biệt là đối với các cán bộ giữ cương vị chủ chốt
trong chính quyền cấp xã.
Cán bộ muốn làm được việc, thì phải được dân tin, dân phục, dân yêu và
Người cũng chỉ rõ: “Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải tự mình


×