Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ rèn LUYỆN PHONG CÁCH tư DUY hồ CHÍ MINH của đội NGŨ cán bộ TRƯỜNG CAO ĐẲNG văn hóa NGHỆ THUẬT QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.89 KB, 88 trang )

MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta khẳng định: Đảng
lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Đó là kết luận quan trọng, thể
hiện sự phát triển mới về nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta.
Vì vậy, nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung, rèn luyện phong cách tư duy triết học Hồ Chí Minh nói riêng vừa là yêu
cầu bức thiết trước mắt vừa là vấn đề cơ bản, lâu dài để nâng cao phẩm chất, năng
lực của người cách mạng. Đồng thời thể hiện lòng thành kính của cán bộ, Đảng
viên, quân và dân ta trong thực hiện ước nguyện của Người: xoá nghèo nàn, lạc
hậu, xây dựng nước Việt nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh,
tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, vấn đề nghiên cứu, học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh là vấn đề có ý nghĩa thời sự rất quan trọng, đang thu hút sự quan tâm nghiên
cứu của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, đặc biệt là các nhà khoa học trong và
ngoài quân đội. Từ khi có Nghị quyết số 23 của Ban Bí thư Trung ương về đẩy
mạnh học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đến nay, việc nghiên cứu, học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh trở thành đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp trong nước, đem lại
kết quả bước đầu rất đáng khích lệ.
Đối với sự nghiệp “trồng người”, đào tạo nghệ sĩ- chiến sĩ của Trường Cao
đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội thì nghiên cứu, học tập, rèn luyện phong cách tư
duy Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ Nhà trường là việc làm rất thiết thực, bổ ích,
là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ tư duy khoa học, bản lĩnh chính trị, trau
dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, góp phần
đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo chiến sĩ- nghệ sĩ; thực
hiện tốt mục tiêu, mô hình và phương châm giáo dục, đào tạo của Nhà trường:
“Thường xuyên đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy, phát huy tinh thần
dân chủ, đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm, tích cực, sáng tạo, phấn đấu dạy tốt, học tốt,
quản lý và phục vụ tốt”.




Nghiên cứu, học tập, rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh đang trở
thành nhu cầu cấp bách, là điều kiện cần thiết để cán bộ, giáo viên Nhà trường phát
triển tư duy biện chứng duy vật, khắc phục phương pháp tư duy siêu hình và các
biểu hiện của nó như áp đặt ý muốn chủ quan, duy ý chí; máy móc, giáo điều, kinh
nghiệm, lối làm việc chưa khoa học: tuỳ tiện, giản đơn; “coi nhẹ” giáo dục tư
tưởng, đạo đức, lối sống, rèn luyện kỷ luật, điều lệnh Quân đội, pháp luật Nhà
nước; “coi nặng”, thậm chí tuyệt đối hoá “tay nghề” chuyên môn, nghiệp vụ văn
hoá, nghệ thuật. Điều đó là có hại, sẽ làm chậm quá trình phát triển và hoàn thiện
nhân cách người học viên đào tạo nghệ sĩ- chiến sĩ; đồng thời, làm giảm sút chất
lượng đào tạo, xây dựng Nhà trường. Để người học viên tiến bộ, trưởng thành,
xứng đáng là người chiến sĩ- nghệ sĩ, luôn đứng vững trên mặt trận đấu tranh văn
hoá- tư tưởng, lý luận của Đảng. Trước hết, đội ngũ cán bộ, giáo viên Nhà trườngnhững người đang thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo phải thường xuyên phấn
đấu nâng cao trình độ mọi mặt, phẩm chất và năng lực, đức và tài. Một trong
những giải pháp tốt nhất để người cán bộ, giáo viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao là rèn luyện phong cách tư duy khoa học Hồ Chí Minh. Vì lẽ đó, chúng
tôi chọn đề tài luận văn: “Rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của đội
ngũ cán bộ Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta
khởi xướng và lãnh đạo đã và đang thu được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh
vực. Cùng với sự phát triển ấy, nhận thức và tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ
quân đội có bước phát triển mới. Việc Đảng ta khẳng định: nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng và của nhân ta là chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trở thành định hướng chính trị quan trọng, cuốn hút
nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu làm rõ nhận định ấy.
Hơn mười năm qua, nhiều công trình khoa học có giá trị nghiên cứu khá sâu
sắc về thân thế, sự nghiệp, đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh đã được công bố.
Được biết là các công trình của các tác giả: Phạm Văn Đồng: “Những nhận thức cơ



bản về tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.1998; Võ
Nguyên Giáp: “Về tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
H.1993; Trần Đình Châu: “Tư tưởng nhân văn trong di sản quân sự Hồ Chí Minh”,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.1999; Vũ Ngọc Khánh: “Minh triết Hồ Chí
Minh”, Nhà xuất bản Văn hoá- thông tin, H.1999; Lê Hữu Nghĩa: “Tư tưởng triết
học Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Lao động, H.2000; Trần Văn Phòng: “Học tập
phong cách tư duy Hồ Chí Minh”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.2000; Hồ
Kiếm Việt: “Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh”, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, H.2002;...
Ngoài ra, trên các báo và tạp chí đã có nhiều bài viết và tiểu luận được đăng
tải. Các công trình này đã góp phần chỉ ra ý nghĩa, giá trị và đề xuất nhiều nội
dung quan trọng làm sáng tỏ nhiều vấn đề về tư tưởng, đạo đức, tác phong, phong
cách Hồ Chí Minh. Chúng ta có thể kế thừa, nghiên cứu, học tập và thu nhận được
nhiều điều bổ ích về tư tưởng, đạo đức, lối sống cao đẹp của Hồ Chí Minh để phát
triển, hoàn thiện nhân cách người cách mạng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về phong
cách tư duy và học tập, rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của đội ngũ cán
bộ Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội thì chưa có công trình khoa học
nào đề cập, nghiên cứu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
-Mục đích:
+ Bước đầu làm sáng tỏ bản chất, đặc trưng và vai trò phong cách tư duy Hồ
Chí Minh và rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ Trường
Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng rèn luyện
phong cách tư duy Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ Nhà Trường, chỉ ra tính tất
yếu và đề xuất một số giải pháp rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của cán
bộ, giáo viên Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội hiện nay.
- Nhiệm vụ:

+ Tìm ra bản chất, đặc trưng và vai trò rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí
Minh.


+ Đánh giá thực trạng rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của cán bộ,
giáo viên Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội hiện nay.
+ Đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản về rèn luyện phong cách tư
duy Hồ Chí Minh của cán bộ, giáo viên Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân
đội hiện nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và chỉ thị, nghị quyết
của Đảng uỷ quân sự Trung ương, chỉ thị của Bộ trưởng Bộ quốc phòng, Tổng cục
chính trị và các tác phẩm, bài viết, bài nói chuyện của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và Quân đội ta. Đồng thời, nghiên cứu, tham khảo kết quả của các công trình
khoa học có liên quan.
Luận văn còn dựa trên những số liệu điều tra, khảo sát và thống kê thực tế
của tác giả về thực trạng phong cách tư duy của cán bộ, giáo viên Trường Cao
đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội hiện nay.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận mácxít: chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng đồng thời một số phương
pháp như phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp trừu
tượng hoá và khái quát hoá, phương pháp điều tra xã hội học và phương pháp
chuyên gia...
5.
Ý nghĩa của luận văn
Với kết quả đạt được, luận văn sẽ góp phần nhất định trong việc giúp cán bộ,
giáo viên Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội học tập, rèn luyện phong
cách tư duy khoa học Hồ Chí Minh nhằm định hướng phát triển tư tưởng, đạo đức,
lối sống và các phẩm chất, năng lực nhà giáo nghệ sĩ- chiến sĩ trong quá trình đổi

mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, học tập và giảng dạy tại Nhà trường.
Đồng thời giúp cán bộ, giáo viên tự giác đấu tranh, khắc phục tư duy siêu hình,
phiến diện, thiếu sáng tạo trong công tác quản lý, lãnh đạo, chỉ huy và giảng dạy ở
Nhà trường.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm
nghiên cứu về vấn đề này.
6.
Kết cấu của luận văn


Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và một
số phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu làm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
THỰC CHẤT VÀ VAI TRÒ RÈN LUYỆN PHONG CÁCH TƯ DUY
HỒ CHÍ MINH CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TRƯỜNG CAO ĐẲNG VĂN
HOÁ NGHỆ THUẬT QUÂN ĐỘI HIỆN NAY

1. 1 Thực chất rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của đội ngũ
cán bộ Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội
1.1.1 Phong cách tư duy Hồ Chí Minh
Về phong cách Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên
cứu tiếp cận ở những hướng khác nhau như phong cách giao tiếp, phong cách
ứng xử, phong cách làm việc, phong cách học tập… Riêng về phong cách tư duy
Hồ Chí Minh, cho đến nay còn ít được quan tâm nghiên cứu. Trước đây, chúng
ta hay sử dụng khái niệm tác phong dùng để chỉ phong cách Hồ Chí Minh; kể từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, khái niệm phong cách Hồ Chí
Minh được sử dụng phổ biến hơn và gần như thay thế cho khái niệm tác
phong. Phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống chỉnh thể phong cách của Người và là một trong những di sản vô giá mà
Người để lại cho chúng ta.

Để làm rõ bản chất và đặc trưng phong cách tư duy Hồ Chí Minh cần phải
làm rõ một số khái niệm như: phong cách; phong cách tư duy; phong cách tư duy
Hồ Chí Minh và rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Trên cơ sở ấy, phân


tích, làm sáng tỏ thực chất rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của đội ngũ
cán bộ trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội.
Về phong cách, Khái niệm này đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở
phương Tây, khái niệm phong cách được đề cập từ rất lâu và được hiểu như là một
hiện tượng độc đáo, cá biệt trong văn học, nghệ thuật. Phong cách thường được
tiếp cận trên những nội dung cơ bản sau:
- Là tổng thể những dấu hiệu đặc trưng nghệ thuật của một thời đại, một xu
hướng hoặc một bút pháp cá nhân của người nghệ sĩ, hoặc tổng thể những dấu hiệu
đặc trưng của riêng cá nhân nào đó khác với người khác.
- Là tổng thể các phương pháp sử dụng công cụ ngôn ngữ đặc trưng của một
nhà văn, một tác phẩm nào đó.
- Thể hiện nét đặc sắc có tính chức năng của ngôn ngữ nghệ thuật
- Là cách thức thực hiện những biện pháp của riêng mình
- Là cách thể hiện mình như cách giao tiếp, ứng xử, ăn mặc… Trong Đại từ
Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nhà xuất bản Văn hoá thông tin ấn hành
năm 1999, trình bày khái niệm phong cách theo những nghĩa sau:
- Là vẻ riêng trong lối sống, làm việc của một người hay một hạng người
nào đó.
- Là phiên dạng của ngôn ngữ có những đặc điểm trong lựa chọn kết hợp và
tổ chức các phương pháp ngôn ngữ liên quan tới giao tiếp.
- Là toàn bộ những thủ pháp sử dụng phương tiện ngôn ngữ đặc trưng cho
từng nhà văn, tác phẩm thể loại.
- Là việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ theo nguyên tắc tu từ.
Giáo sư Đặng Xuân Kỳ cho rằng, phong cách không chỉ được hiểu theo
nghĩa hẹp, giới hạn trong văn học, nghệ thuật mà còn được hiểu theo nghĩa rộng,

tức là lề lối, phong cách, cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách, đã trở


thành nề nếp ổn định của một người hay một lớp người, được thể hiện trong tất cả
các mặt hoạt động như lao động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (bao gồm cả
nói và viết)… tạo nên những giá trị, những nét riêng biệt của chủ thể đó.
Cho dù hiểu theo nghĩa hẹp hay nghĩa rộng thì phong cách bao giờ cũng là
cái riêng, độc đáo có tính hệ thống, ổn định và đặc trưng của chủ thể đó. Phong
cách không mang yếu tố bẩm sinh mà được hình thành bởi sự phấn đấu, rèn luyện,
trau dồi không ngừng của chủ thể. Tất nhiên, phong cách của mỗi người bao giờ
cũng là sản phẩm tổng hoà của những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định; được
tạo nên bởi các nhân tố như truyền thống văn hoá, lối sống, thói quen, điều kiện
sống, sự trải nghiệm thực tiễn, dấu ấn cá nhân… luôn mang tính ổn định và được
thể hiện trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của chủ thể.
Như vậy, phong cách nếu được hiểu theo nghĩa hẹp thì nó chỉ được giới hạn
trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, còn theo nghĩa rộng thì nó được thể hiện trong
tất cả các mặt hoạt động của con người. Trong đó, tác phong làm việc, tác phong
công tác, tác phong sinh hoạt chỉ là những bộ phận của phong cách con người nói
chung. Bởi lẽ, tác phong luôn luôn được hiểu là lối làm việc, sinh hoạt, cách sống
riêng của mỗi người hay sinh hoạt của một số nghề nghiệp, tổ chức. Như vậy, nói
đến tác phong chủ yếu là nói đến cách sống, đặc trưng sinh hoạt, lối làm việc. Còn
phong cách là nét riêng được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động của mỗi con
người. Do vậy, phong cách của cán bộ, đảng viên trong lãnh đạo, tổ chức, quản lý
nói chung, phong cách trong tiến hành giáo dục, đào tạo; trong tổ chức, lãnh đạo,
quản lý và chỉ huy của cán bộ Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội nói
riêng, sẽ bao hàm rất nhiều nội dung khác nhau chứ không chỉ giới hạn ở phong
cách làm việc, phong cách công tác, sinh hoạt.
Phong cách tư duy là những đặc điểm riêng có tính hệ thống, ổn định trên
cơ sở của một cách thức thể hiện phương pháp tư duy và nội dung, kết quả của tư



duy. Chính vì vậy, phong cách tư duy bao giờ cũng được thể hiện ra thành những
đặc trưng cụ thể. Phong cách tư duy có quan hệ mật thiết với phương pháp tư duy,
nhưng không đồng nhất với nó. Phương pháp tư duy khác phong cách tư duy ở
chỗ, nó là một hệ thống các nguyên tắc, xuất phát từ các quy luật tồn tại, vận động
của bản thân sự vật, hiện tượng, được con người nhận thức, vận dụng để định
hướng, điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng như hoạt động nhận thức của mình,
nhằm biến đổi sự vật, hiện tượng theo mục đích đã định. Rõ ràng, phương pháp
biện chứng duy vật là phương pháp tư duy phổ biến nhất, khoa học nhất, từ trước
đến nay chưa có một phương pháp tư duy nào vượt qua được phương pháp này.
Bởi lẽ, phương pháp biện chứng duy vật là phương pháp tư duy khoa học, giúp con
người hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn có hiệu quả, là cơ sở để tạo nên
phong cách tư duy khoa học. Do vậy, có nhiều phong cách tư duy khác nhau ở
những người khác nhau, mặc dù ở họ có chung một phương pháp tư duy. Chính vì
vậy, phong cách tư duy là nét độc đáo, nét cá nhân, nét riêng tư của một người
nào đó.
Ở đây cũng cần nói thêm rằng, tư tưởng không phải bắt nguồn từ tư duy
thuần túy, càng không phải là sản phẩm của tư duy thuần túy. Do vậy, cần phải
phân biệt rõ tư duy và tư tưởng, không thể đồng nhất hai khái niệm này giống như
một số người từ trước đến nay thường nhầm lẫn. Vì tư duy là quá trình con người
suy ngẫm, xuất phát từ những cứ liệu sinh động của thực tiễn và từ tư tưởng đương
thời để đi tới xác định tư tưởng của chính mình. Đó là kết quả của quá trình hoạt
động của não người, đi từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. (Từ trực quan
sinh động đến tư duy trừu tượng), đó là quá trình đi sâu vào các tầng bản chất của
sự vật, nghiên cứu quá trình tồn tại, vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tượng, của đối tượng để từ đó phát hiện ra tính quy luật của đối tượng. Đỉnh cao


của quá trình này là khái niệm hoá, từ đó mà xác định các luận điểm, những tư
tưởng được thể hiện bằng những mệnh đề phán đoán, suy lý. Như vậy, tư tưởng là

kết quả của một quá trình tư duy, mà nguồn gốc của nó là ở ngoài tư duy của chủ
thể. Khoa học tư duy có nhiệm vụ nghiên cứu và làm sáng tỏ quá trình đó. Thực
chất của quá trình này, theo Ph.Ăngghen: là sự thống nhất giữa lôgíc học và phép
biện chứng.{1,tr.238}. Còn V.I. Lênin lại cho rằng: đó là sự thống nhất giữa phép
biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học{8,tr.382}.
Các tác giả trong “Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh” đều thống
nhất cho rằng, nghiên cứu phong cách Hồ Chí Minh là nghiên cứu theo nghĩa rộng:
tổng hợp của phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách diễn đạt, phong
cách ứng xử, phong cách sinh hoạt của Người. Với đối tượng, phạm vi nghiên cứu
của luận văn, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu về phong cách tư duy của Người.
Về phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Tác giả Cao Đức Thái đã phác thảo
những nét đặc sắc trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh như sau: “Luôn độc lập
suy nghĩ vượt lên trên mọi thành kiến tư tưởng, gắn liền tình cảm với lý trí; bao giờ
cũng hướng mọi suy nghĩ tới hành động, nắm vững điều kiện khách quan, phát huy
nỗ lực chủ quan và luôn luôn dựa trên tổng kết kinh nghiệm để tiến lên nắm lấy
những tri thức mới”{34,tr.38}. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đề cập phong
cách tư duy Hồ Chí Minh ở những nét sau: “Luôn gắn lý luận cách mạng với thực
tiễn cách mạng; tính hệ thống; diễn đạt giản đơn, sáng tỏ, dễ hiểu, dễ nhớ, có sự
thuyết phục mạnh mẽ”{4,tr.97}. Giáo sư Đặng Xuân Kỳ viết: “nét đặc sắc nhất của
phong cách tư duy Hồ Chí Minh là tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo”{6,tr.3}.
Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, phong cách tư duy Hồ Chí Minh là một
bộ phận quan trọng tạo nên phong cách của Người, đó là phong cách tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Chính nét
đặc sắc này đã làm cho phong cách tư duy của người vừa mang tính thời đại, vừa
có tính dân tộc, vừa có giá trị phổ biến bền vững, vừa có tính độc đáo với sắc thái
rất riêng Hồ Chí Minh.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo là nét đặc sắc nhất của phong cách tư duy Hồ Chí
Minh. Đối với Người, độc lập là không lệ thuộc, không bắt chước, không theo
đuôi. Tự chủ là tự mình làm chủ mọi suy nghĩ và hành động của mình, làm chủ bản



thân và công việc của mình, tự bản thân mình phải thấy trách nhiệm lớn lao trước
đất nước và dân tộc. Còn sáng tạo là dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng lọc bỏ những cái
cũ đã được thực tiễn kiểm nghiệm là không đúng, những cái gì cũ, lạc hậu, lỗi thời
không còn phù hợp; tìm tòi, nghiên cứu, đề xuất những cái mới có thể trả lời được
những câu hỏi mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra. Tuy nhiên, cái mới thường bao
hàm những giá trị của cái cũ, nhưng lại vươn lên trên cái cũ, bổ sung thêm những
giá trị mới. Ở đây, cái mới sáng tạo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là cái
mới phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam,
cũng như phù hợp với quy luật phát triển chung của tiến trình lịch sử xã hội loài
người.
Theo Hồ Chí Minh: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ; Cái gì cũ mà không xấu,
nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý; Cái gì cũ mà tốt thì phải phát
triển thêm; Cái gì mới mà hay thì ta phải làm”{16,tr.94}. Với tinh thần đó, Người
viết: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều
điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”{23,tr.46}.
Chính phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đã
giúp Người tìm ra cái mới phù hợp với thực tiễn, biết phát triển những luận điểm,
những tư tưởng cũ trong điều kiện mới. Chẳng hạn, Người đã kế thừa, phát triển,
nâng cao những luận điểm tiến bộ về quyền tự do, bình đẳng của con người trong
triết học phương Tây cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX. Trong lời mở đầu của
Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh đã trích luận điểm bất hủ của Tômát
Giephécxơn- nhà khai sáng nổi tiếng trong lịch sử đấu tranh của nhân dân Mỹ,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”{12,tr.1}. Nhưng Hồ Chí Minh không
chỉ dừng lại ở đó mà đã phát triển thêm: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”{13,tr.1}. Mặt khác, nhờ có tư duy độc lập, tự
chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh mà những quy luật khách quan của cách mạng Việt

Nam đã được phát hiện và vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, đạt hiệu quả.


Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo đã hình thành từ rất sớm trong phong
cách tư duy Hồ Chí Minh, ngay từ lúc Người còn ở tuổi thiếu niên và mới bước
vào tuổi thanh niên. Khi tìm đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo ở Hồ Chí Minh được củng cố, phát triển và thông qua quá trình rèn
luyện, trau dồi, qua thực tiễn đấu tranh cách mạng đã trở thành đặc điểm bản chất,
thành thuộc tính bền vững của phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
Phải có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh mới chấp nhận và
vượt lên mọi hoàn cảnh cuộc sống cực nhọc của thân phận một người vô sản làm
thuê để có điều kiện đi nhiều nơi, quan sát và tìm hiểu nhiều cuộc cách mạng,
nhiều tư tưởng, học thuyết và đã trở thành một người hiểu biết nhiều nhất tình hình
các dân tộc thuộc địa ở những thập kỷ đầu của thế kỷ XX.
Tinh thần độc lập trong tư duy đã giúp Hồ Chí Minh đi tới những nhận định
độc lập. Khi mới đến nước Pháp, Người đã phát hiện thấy hai nước Pháp- một
nước Pháp của những kẻ giàu có, của bọn tư bản, đế quốc, thực dân và một nước
Pháp của những người vô sản, những người lao động nghèo khổ. Khi đến nước
Mỹ, Người không giống như những người khác chỉ thấy ánh sáng trên đầu thần tự
do toả sáng. Vượt lên trên họ, Người còn nhìn thấy số phận của những người nô lệ
da đen, những phụ nữ đang bị dẫm đạp dưới chân vị thần ấy.
Tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo đã làm cho suy nghĩ của Người nhanh
chóng khác biệt với suy nghĩ của Phan Chu Trinh, Phan Văn Tường về con đường
cứu nước, mặc dù cả ba người đều có tinh thần yêu nước thiết tha, sâu nặng. Vì
thế, ở Pari, các ông có nhiều cuộc tranh luận thâu đêm. Cuối cùng, Hồ Chí Minh là
người tán thành Quốc tế III, tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp năm (1919 –
1920) và khẳng định sự lựa chọn dứt khoát của Người: Tiếp thu chủ nghĩa MácLênin, đứng hẳn về cách mạng tháng Mười Nga và Quốc tế cộng sản. Còn hai cụ:
Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường thì dừng lại ở con đường cải lương, mà chính
các cụ sau này thừa nhận thất bại.
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong tư duy Hồ Chí Minh đã thực sự có

bước phát triển nhảy vọt khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác- Lênin. Kể từ đây, độc
lập, tự chủ mới thực sự đi đến sáng tạo, trình độ tư duy của Người đã đạt đến độ
chín muồi để đối chiếu, so sánh, lựa chọn, chắt lọc và tổng hợp cứ liệu mà thực


tiễn Việt Nam và thế giới đã cung cấp, để từ đó hình thành tư tưởng mới với những
kết luận mới.
Đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy ánh sáng soi
đường cách mạng, trước hết, cho hoạt động tư duy của mình. Học thuyết cách
mạng và khoa học đã mở ra chân trời mới và rộng lớn cho sự sáng tạo và Người
nhận thấy, tiếp nhận nó phải rất sáng tạo. Tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo của
Hồ Chí Minh đã nhanh chóng hoà nhập với chủ nghĩa Mác- Lênin, tiếp biến lý
luận và phương pháp luận của một học thuyết “chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất”, từ đó, từng bước lập thành một hệ thống tư tưởng, luận điểm
sáng tạo, hiếm thấy ở những nhà cách mạng đương thời.
Hồ Chí Minh không chỉ độc lập, tự chủ, sáng tạo trong tư duy mà còn độc
lập, tự chủ và sáng tạo cả trong hoạt động thực tiễn, trong hành động cách mạng,
trong kháng chiến chống xâm lược và trong xây dựng đất nước. Tháng 6 năm
1949, khi trả lời phỏng vấn của các phóng viên báo “FRANC TIREUR” về vấn đề:
Việt Nam có trông đợi sự giúp đỡ của quân đội nước ngoài (Trung Hoa và Liên
Xô) không ? Có sợ bị nước ngoài thống trị không ? Hồ Chí Minh trả lời: “Thắng
lợi của Việt Nam sẽ là độc lập và thống nhất thực sự. Chúng tôi bao giờ cũng trông
ở sức mình. Chúng tôi không sợ ai cả. Không nước nào có thể thống trị được
chúng tôi”{17,tr.647}. Với tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, Hồ Chí Minh cùng
Đảng ta chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua cơn hiểm nghèo thời
điểm sau cách mạng Tháng Tám và vượt qua gềnh thác giữa hai ngọn sóng XôTrung trong những năm 60 của thế kỷ XX.
Tính thiết thực trong tư duy Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ, sau cách
mạng tháng Tám năm 1945, Người đã tìm mọi cách để ngăn chặn một cuộc chiến
tranh có thể xảy ra. Người “đã sử dụng đến mức tối đa sự mềm dẻo xung quanh
tấm thảm xanh để thăm dò những khả năng cho một giải pháp hoà bình có thể thực

hiện được bằng thoả hiệp”{31,tr.94}. Người đã sẵn sàng đi tới một giải pháp
không bạo lực, đến một nền hoà bình thương lượng. Nhưng khi thực dân Pháp gây
hấn ở Hải Phòng, lập tức Người tỏ thái độ kiên quyết: “Chúng ta muốn hoà bình,
chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp


càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta một lần nữa. Không! chúng ta thà hy
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ”{11,tr.480}.
Phong cách tư duy thiết thực gắn với thực tiễn đất nước đã giúp Hồ Chí
Minh sáng tạo trong vận dụng và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin. Mọi suy nghĩ của Người luôn xuất phát từ những điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể. Tất cả mọi tư tưởng, lý luận đều được khái quát từ thực tiễn, đặc biệt là thực
tiễn cách mạng. Khi đề cập đến việc phát triển phong trào cách mạng ở phương
Đông, Người luôn lưu ý Ban Phương Đông của Quốc tế cộng sản rằng: “Nói chung
thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống
còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”{10,tr.263}.
Như vậy, những thuộc tính độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực gắn với thực
tiễn đất nước và thời đại đã hoà quện vào nhau, bổ sung, hỗ trợ, thúc đẩy cho nhau
để cùng tạo nên nét độc đáo riêng trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh. Thực tế
lịch sử đã chứng minh, có những nhà hoạt động cách mạng quốc tế cũng có lối tư
duy độc lập, tự chủ, sáng tạo nhưng không thiết thực và không gắn với thực tiễn
đất nước họ cũng như thời đại. Do đó, cuối cùng họ lại rơi vào ảo tưởng, chủ quan,
nóng vội. Ngược lại, những người có tư duy thiết thực, gắn với thực tiễn đất nước
nhưng lại không độc lập, tự chủ, sáng tạo nên cuối cùng họ rơi vào hoặc là chủ
nghĩa xét lại, hoặc là chủ nghĩa thực dụng, thiển cận.
Ở Hồ Chí Minh, nhờ có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo mà Người đã không
xa rời phương pháp biện chứng duy vật, không xa dời chủ nghĩa Mác- Lênin. Do
có tư duy lý luận gắn với thực tiễn đất nước và thời đại nên Người không rơi vào
xét lại, không rơi vào chủ nghĩa dân tộc, không sa vào chủ nghĩa thực dụng. Phong
cách tư duy Hồ Chí Minh luôn thấm đượm phong cách tư duy Việt Nam, tư duy

phương Đông và cũng rất hiện đại. Nó vừa có giá trị dân tộc độc đáo nhưng lại vừa
có giá trị bền vững và phổ biến.
Có thể nói, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với
thực tiễn đất nước và thời đại của Hồ Chí Minh chính là phong cách tư duy Việt
Nam nói riêng, phong cách tư duy phương Đông nói chung; là chủ nghĩa Mác-


Lênin mà đặc biệt là phương pháp biện chứng duy vật; là bản sắc cá nhân của
chính tư duy Hồ Chí Minh .
Thật vậy, một trong những đặc điểm nổi bật của tư duy Việt Nam và phương
Đông là thiên về suy nghĩ và diễn đạt bằng hình ảnh hơn là bằng khái niệm. Thực
tế, trước cách mạng tháng Tám năm 1945, đại đa số quần chúng nhân dân lao động
Việt Nam mù chữ, thất học. Nếu diễn đạt bằng những lý luận cao siêu thì họ sẽ
không hiểu được; Hồ Chí Minh đã căn cứ vào trình độ dân trí, vào tình hình thực
tiễn đất nước cũng như ưu thế của lối tư duy bằng hình ảnh để diễn đạt lý luận cách
mạng. Chẳng hạn, khi nói đến bản chất ăn bám, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, đế
quốc đối với người lao động ở cả chính quốc và thuộc địa, Hồ Chí Minh đã dùng
hình ảnh con đỉa hai vòi: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào
giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các
thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai
vòi”{9,tr.298}. Bằng cách so sánh giản đơn, điển hình này, Hồ Chí Minh đã diễn
đạt một cách dễ hiểu mối quan hệ giữa cách mạng ở chính quốc với cách mạng
thuộc địa. Với hình ảnh con đỉa hút máu thì bất cứ người Việt nam bình thường
nào cũng có thẻ hiểu và cảm nhận được bản chất bóc lột, ăn bám của chủ nghĩa
thực dân, đế quốc.
Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa phong cách tư duy Việt Nam, tư duy
phương Đông mà còn kế thừa toàn bộ những tinh hoa trí tuệ của tư duy phương
Tây, đặc biệt là phương pháp tư duy biện chứng duy vật của chủ nghĩa MácLênin. Chính Người đã từng nói rằng, chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp
tư duy biện chứng. Do đó, Người luôn căn dặn cán bộ, đảng viên “...Phải nâng cao
sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác- Lênin… mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng

ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta”{26,Tr.292}. Đối với
Người, học tập chủ nghĩa Mác- Lênin là phải học “cái tinh thần sử trí mọi việc, đối
với mọi người và đối với bản thân mình” {26,tr.292}.
Để kế thừa và phát huy được những giá trị của tư duy dân tộc, tư duy
phương Đông và tư duy biện chứng duy vật đòi hỏi chủ thể phải có trí thông minh,
sự nhạy bén với cái mới, thiết thực, cụ thể và sáng tạo. Hồ Chí Minh là người có


kiến thức sâu rộng, được tiếp xúc với nhiều nền văn hoá khác nhau, am hiểu và sử
dụng được nhiều ngoại ngữ, những phẩm chất đó đã tạo nên bản sắc riêng trong tư
tưởng và phong cách tư duy của Người.
Chúng ta đều rõ, Hồ Chí Minh không phải là người Việt Nam đầu tiên đến
nước Pháp, cũng không phải là người Việt Nam đầu tiên đọc sơ thảo luận cương
của V.I. Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng chỉ có Người là người Việt
Nam đầu tiên và duy nhất, biết được đây là cái cần cho Tổ quốc, cho dân tộc, đó là
con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc ta và các dân tộc thuộc địa. Nhờ có tư
chất thông minh hơn người, phong cách tư duy độc đáo Hồ Chí Minh mới biết
được những vấn đề trọng đại đó. Dĩ nhiên, chỉ có thông minh với phong cách tư
duy độc đáo thôi thì chưa đủ, mà ở Người còn có nhiều hoài bão lớn lao, có tình
thương yêu bao la, sâu sắc đối với người lao động, với nhân dân và dân tộc mình.
Với bản lĩnh kiên định, khí tiết kiên cường, đấu tranh vì mục tiêu và lý tưởng cao
cả. Đồng thời có lòng tin mãnh liệt ở sức mạnh của quần chúng nhân dân, Hồ Chí
Minh đã trở thành một vĩ nhân với một phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng
tạo, thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại. Người: “đã biết làm giàu vốn
trí tuệ của mình bằng những di sản quý báu của văn hoá nhân loại. Người biết kế
thừa các học thuyết đó một cách có phê phán, chọn lọc, không bao giờ sao chép
máy móc, cũng không bao giờ phủ định một cách giản đơn, mà có sự phân tích một
cách sâu sắc để tìm ra những yếu tố tích cực, làm giàu thêm vốn kiến thức và hành
trang tư tưởng của mình”{5,tr.43}.
Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có những luận điểm rất sáng

tạo về con đường đưa một nước nông nghiệp lạc hậu vốn là thuộc địa nửa phong
kiến đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Có nhiều vấn đề
Người không đủ thời gian và điều kiện để giải quyết, nhưng tư tưởng của Người là
những tiền đề lý luận và phương pháp luận hết sức quan trọng để định hướng cho
sự phát triển hợp quy luật của đất nước. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là phong
cách duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất nước và thời đại
của Người đã trở thành cơ sở cho việc hoạch định đường lối cách mạng đúng đắn,
xây dựng những nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam, giúp Đảng


cộng sản và nhân dân Việt Nam “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, vượt qua mọi khó
khăn, thử thách, vững bước đi theo con đường mà Người đã dày công lựa chọnCon đường độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Tại sao Hồ Chí Minh lại có phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,
thiết thực gắn với thực tiễn đất nước và thời đại? Đây không phải hoàn toàn chỉ là
vấn đề thiên tài đầy bí hiểm không thể lý giải được, mặc dầu chúng ta không hề
phủ nhận những điều ấy ở các vĩ nhân. Từ đặc điểm bản chất và những thuộc tính
bền vững của phong cách tư duy Hồ Chí Minh cũng như toàn bộ quá trình hoạt
động thực tiễn của Người, chúng ta có thể tìm thấy những lời giải đáp cho câu hỏi
vừa đặt ra như sau:
Thứ nhất, mọi suy nghĩ của Hồ Chí Minh dù trực tiếp hay gián tiếp đều
gắn với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Mục tiêu xuyên suốt qua trình tư duy của
Người là tìm cho được con đường cứu dân, cứu nước, con đường xây dựng một
nước Việt Nam giàu mạnh- văn minh, có thể “theo kịp các nước khác trên toàn
cầu” và “sánh vai các cường quốc năm châu”. Đó cũng là “ham muốn tột bậc” mà
Người hằng khao khát, ôm ấp, theo đuổi và quyết tâm thực hiện bằng được.
Hồ Chí Minh không chỉ tìm thấy con đường cứu nước, mà luôn suy nghĩ tìm
mọi cách thực hiện thắng lợi con đường đã lựa chọn. Chính những điều ấy đã làm
cho tư duy Hồ Chí Minh vượt hẳn lên so với tư duy của các nhà yêu nước thuộc
các thế hệ trước cũng như đương thời.
Thứ hai, phong cách tư duy Hồ Chí Minh thấm đượm sâu sắc, nông nàn

chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam trong thời đại mới. Thật vậy, chủ nghĩa
yêu nước là một trong những di sản vô cùng quý giá đã được xây dựng và bồi đắp
trong chiều dài lịch sử Việt Nam, qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, trở
thành tinh hoa, niềm tự hào sâu sắc và cốt lõi của nền văn hoá, truyền thống Việt
Nam. Nhờ có chủ nghĩa yêu nước mà các thế hệ người Việt đã vượt lên mọi gian
khổ, hy sinh, tập hợp mọi lực lượng của dân tộc, làm nên những kỳ tích vĩ đại,
những biểu tượng oai hùng, vinh quang trở thành động lực thúc đẩy các thế hệ
tương lai phấn đấu đưa dân tộc vươn lên những tầm cao mới.
Hồ Chí Minh với tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí kiên cường, tư duy
chính trị sắc bén, nhạy cảm, phương pháp tư duy khoa học và cách mạng, đã khắc


phục được những hạn chế của chủ nghĩa yêu nước truyền thống và đưa chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam lên một tầm cao mới, tầm cao của thời đại mới.
Thứ ba, tư duy Hồ Chí Minh mở rộng, tìm hiểu, nghiên cứu gạn lọc, kế thừa
mặt tiến bộ của các học thuyết đã có. Trước khi đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ
Chí Minh đã từng theo học Nho giáo, tiếp cận Phật Giáo, Lão giáo, Thiên Chúa
giáo, làm quen với tư tưởng của các nhà Khai sáng và cách mạng tư sản Tây Âu.
Sau khi đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Người còn tìm hiểu thực chất tư tưởng dân
tộc, dân quyền, dân sinh trong chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, thuyết bất hợp
tác, bất bạo động của Găngđi - hai nhà tư tưởng lớn của hai quốc gia lớn nhất châu Á.
Quá trình tư duy của Người là quá trình suy ngẫm, so sánh, lọc bỏ, lựa chọn,
phân biệt đúng sai, hay dở, tiến bộ hay lạc hậu, phù hợp hay không phù hợp với
cách mạng Việt Nam. Khi đến với chủ nghĩa Mác- Lênin,Người đã nhanh chóng
nắm bắt được linh hồn của chủ nghĩa Mác- Lê nin là phép biện chứng duy vật, tiếp
nhận lập trường, quan điểm, phương pháp cách mạng và khoa học của học thuyết
ấy. Từ ấy, phong cách tư duy của Người vừa quán triệt tinh thần cách mạng triệt
để, vừa có cơ sở khoa học chắc chắn. Người thấy rất rõ triết lý sống động của Đức
Phật, của đức chúa Giêsu hay học thuyết của Khổng Tử, dù đó không phải là
những học thuyết khoa học, cách mạng. Người chỉ ra rằng, những học thuyết ấy rất

giàu tình thương yêu con người, nhưng chỉ khuyên răn con người cam chịu hoặc
chỉ muốn khôi phục lại trật tự, ổn định trong xã hội đương thời (nô lệ, phong kiến),
có khi còn “phát ngôn bênh vực những kẻ bóc lột, chống lại những người bị áp
bức”. Tuy nhiên, Người vẫn đánh giá cao lòng từ bi của Đức Phật, lòng bác ái của
Đức chúa Giêsu, đạo đức, học vấn và kiến thức uyên bác của Khổng Tử, mà Người
coi đó là “những vị chí tôn” rất đáng kính phục.
Thật khó tìm thấy một nhà mácxít nào khác đã tìm thấy cái tinh tuý, phát biểu và
đánh giá cao các học thuyết của Khổng Tử, Phật Thích ca Mâu ni, Giêsu như Hồ Chí
Minh. Người viết:
“Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có
ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có
ưu điểm của nó là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử,


Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những điểm chung đó sao ? Họ đều muốn mưu
cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống
trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng, họ nhất định chung sống với
nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy” {33}.
Phải có tư duy rộng mở, không định kiến, không thành kiến mới có thể đi
đến những nhận định độc đáo như vậy. Tư duy như vậy chỉ có ở Hồ Chí Minh.
Thứ tư, hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng nâng cao kiến thức trên
nhiều lĩnh vực. Hồ Chí Minh đã làm giàu trí tuệ của mình trên một cơ sở nền văn
hoá phong phú của nhân loại. Đây chính là điều kiện không thể thiếu để có một
phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với thực tiễn đất nước
và thời đại.
Phát triển và vận dụng phương pháp tư duy biện chứng duy vật vào thực
tiễn, Hồ Chí Minh trở thành nhà biện chứng thực tiễn, biện chứng hành động.
Những tố chất đặc biệt ấy ở Hồ Chí Minh không phải chỉ do một nhà trường nào

đó trang bị, mà còn chủ yếu bằng tự học. Trong danh sách các đại biểu tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (năm 1920), ở phần học vấn Hồ Chí Minh ghi “tự
học”. Có thể nói, thông qua trường đời rộng lớn với những hoạt động thực tiễn vô
cùng phong phú của bản thân mình, tinh thần tự học của Người ngày càng được
nâng cao. Chỉ riêng về tự học ngoại ngữ, biết và giỏi nhiều thứ tiếng trên thế giới
đã chứng minh tinh thần tự học của Người thật là vĩ đại, chừng ấy cũng đủ là tấm
gương mẫu mực để cán bộ, giáo viên trường cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội
suốt đời phấn đấu noi theo.
Hồ Chí Minh lấy tự học làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ kiến
thức văn hoá của mình. Điều quan trọng hơn cả là Người vừa hoạt động thực tiễn,
vừa tự học, vừa tổng kết kinh nghiệm cuộc sống để từng bước đi tới đỉnh cao của
trí tuệ, từ một người đi “tìm đường” trở thành một lãnh tụ dẫn đường cho cả một
dân tộc; từ một người yêu nước, một người cộng sản trở thành một nhà văn hóa
kiệt xuất của nhân loại.
Những nội dung trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh không tách rời nhau,
mà kết hợp với nhau, đan xen vào nhau trong quá trình tư duy để hình thành những


tư tưởng mới đầy tính sáng tạo và thiết thực. Chính vì vậy, tư duy của Người hoàn
toàn xa lạ với những gì sơ cứng, giáo điều. Người đặt vấn đề học tập chủ nghĩa
Mác- Lênin rất rõ ràng: đó là học tập tinh thần cách mạng và khoa học, là nắm
vững lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin “để xử trí mọi việc” trong
cách mạng Việt Nam. Người không tự trói mình, cũng không trói buộc người khác
hoặc để người khác trói buộc mình vào những câu chữ, những nguyên tắc cứng
nhắc.
Như vậy, phong cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, thiết thực, gắn với
thực tiễn đất nước và thời đại của Hồ Chí Minh đã thực sự đóng góp to lớn vào
việc phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin và đã nâng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam lên
một tầm cao mới, đưa trí tuệ Việt Nam lên ngang tầm trí tuệ tiên phong của thời
đại. Vì vậy, phong cách tư duy của Người không chỉ đưa đến những tư tưởng phản

ánh đúng đắn quy luật vận động và phát triển của cuộc sống mà còn soi sáng con
đường cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi vinh quang. Hơn nữa, tư tưởng của
Người còn là những dự báo khoa học về sự phát triển tương lai của dân tộc, đã và
đang thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định tính đúng đắn: khoa học và cách
mạng.
Từ sự phân tích trên, có thể khái quát bước đầu đặc trưng cơ bản của phong
cách tư duy Hồ Chí Minh là: luôn độc lập, tự chủ, sáng tạo trong suy nghĩ, định
hướng nhận thức và hành động đúng đắn; luôn có sự thống nhất chặt chẽ giữa
tình cảm cách mạng và tri thức khoa học; mọi suy nghĩ đều hướng tới hành
động cải tạo và xây dựng xã hội mới không có áp bức, bóc lột, bất công; tôn
trọng điều kiện khách quan, phát huy tối đa nỗ lực chủ quan; thường xuyên
tổng kết kinh nghiệm khái quát lý luận khoa học, gắn lời nói với việc làm, lý
luận với thực tiễn, lấy thực tiễn làm gốc.
Đặc trưng thứ nhất, phong cách tư duy Hồ Chí Minh luôn độc lập, tự chủ,
sáng tạo trong suy nghĩ, định hướng nhận thức và hành động đúng đắn. Sau thất


bại của các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Hoàng Hoa Thám, Trịnh Văn
Cấn, Nguyễn Aí Quốc đã rất thận trọng, độc lập suy nghĩ, quyết định khước từ đề
nghị của các vị tiền bối, không đi theo con đường Đông Du, Người tự chọn đường
đi cho riêng mình: sang châu Âu, tới đất nước của kẻ thù đang xâm lược Tổ quốc
mình để tìm hiểu thực chất đằng sau những mỹ từ “tự do”, bình đẳng”, “ bắc ái” là
gì?
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, Hồ Chí Minh đã hướng đến con
đường cách mạng Tháng Mười và chủ tâm nghiên cứu tư tưởng, đường lối của
cuộc cách mạng đó. Cuối năm 1920, tại Pháp, Người đã đọc, nghiên cứu kỹ học
thuyết của V.I Lênin: những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa.
Người thấy cách mạng Tháng Mười Nga và rộng hơn là chủ nghĩa Mác- Lênin
chính là con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc ta.
Thời điểm giác ngộ chân lý đó là giờ phút hạnh phúc nhất, không bao giờ

phai mờ trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Sau này, Hồ Chí Minh kể
lại rằng: Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin
tương biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà
tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo:
-Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta.
Đặc trưng thứ hai, phong cách tư duy Hồ Chí Minh luôn có sự thống nhất
chặt chẽ giữa tình cảm cách mạng và tri thức khoa học.
Thật vậy, nếu không có tình cảm cách mạng trong sáng thì không thể tiếp
thu, kế thừa và tích luỹ được những tri thức có giá trị từ thực tiễn, và như thế cũng
không thể có sáng kiến cách mạng. Khi tình cảm đã giá lạnh thì trí tuệ cũng sẽ khô
cằn; hoặc tình cảm sai lạc thì lý trí sẽ mất phương hướng.


Tình cảm là một hình thái đặc biệt của tư duy, của ý thức con người, phản
ánh quan hệ con người với con người và quan hệ giữa con người với thế giới xung
quanh. Tình cảm tham gia vào tất cả mọi hoạt động của con người và trở thành một
trong những động lực quan trọng của những hoạt động ấy. Tri thức có biến thành
tình cảm mãnh liệt thì tri thức mới sâu sắc và phải thông qua tình cảm thì tri thức
mới biến thành hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.
Với tình cảm mãnh liệt, trong sáng đối với con người, với nhân dân và dân
tộc, Hồ Chí Minh đã quan sát kỹ và suy ngẫm đúng đắn trên con đường tìm đến
chủ nghĩa Mác- Lênin; lòng yêu thương bao la đối với đồng bào và Tổ quốc mình
đã từng bước nâng lên và trở thành lòng yêu thương đối với tất cả những người đau
khổ trên thế giới. Những tri thức khoa học, tình cảm cách mạng đã giúp Người
nhanh chóng tiếp thu một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và chính lý luận khoa học, cách
mạng ấy đã bồi đắp thêm những tình cảm vốn có của Người, giúp Người tăng thêm
nghị lực để vượt qua khó khăn, thử thách, lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của sự
nghiệp giải phóng dân tộc.

Hồ Chí Minh có một cách hiểu độc đáo về chủ nghĩa Mác- Lênin. Với
Người, lý luận Mác- Lênin không chỉ bao gồm các nguyên lý, quy luật, phạm trù,
khái niệm trừu tượng và chỉ thuộc về nhận thức lý trí mà còn bao hàm cả tình
nghĩa. Người nói: “Hiểu chủ nghĩa Mác- Lênin là phải sống với nhau có tình có
nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà vẫn sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là
hiểu chủ nghĩa Mác- lênin”{28,tr554}.
Đặc trưng thứ ba, mỗi suy nghĩ đều hướng đến hành động cải tạo và xây
dựng xã hội mới. Là một trong những lãnh tụ chính trị đi rất nhiều nước trên thế
giới, am hiểu sâu sắc lịch sử tư tưởng và thể chế chính trị của nhiều nước, nhiều
dân tộc, nghiên cứu và tiếp thu nhiều tư tưởng, học thuyết khác nhau từ cổ đến
kim, từ Đông sang Tây. Nên mỗi suy nghĩ của Hồ Chí minh bao giờ cũng vậy,
luôn hướng đến hành động cải tạo và xây dựng xã hội mới.


Điều đó thể hiện rõ ở quan niệm về lý tưởng, mục tiêu cao đẹp của cuộc
sống con người: độc lập cho đất nước, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Phấn đấu
cho mục tiên, lý tưởng ấy trở thành hoài bão mãnh liệt, một niềm tin, niềm say mê
tột độ, chi phối tư duy và hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người. Hồ
Chí Minh bày tỏ: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”{14,tr.161}. Suốt cuộc đời, Người luôn
trăn trở, ăn không ngon, ngủ không yên vì “lo nỗi nước nhà”. Bất kỳ ở nơi đâu,
làm việc gì, Người đều hướng tới độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Người từng nói: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục
đích là làm cho ích quốc lợi dân”{15,tr.240}.
Tìm thấy ở chủ nghĩa Mác- Lênin lời giải đáp và con đường thực hiện mục
tiêu, lý tưởng cao cả, Hồ Chí Minh khẳng định: chủ nghĩa Mác- Lênin là “học
thuyết đúng đắn nhất, cách mạng nhất”, “đó là cái cần thiết cho chúng ta, là con
đường giải phóng chúng ta”. Với lý luận cách mạng và khoa học soi đường, Người
về nước thực hiện cuộc vận động cách mạng trong quần chúng nhân dân lao động.

Đồng thời, trực tiếp tổ chức, xây dựng những lực lượng cách mạng để tiến hành
đấu tranh giành độc lập, tự do, hạnh phúc.
Người đã đúc kết, khái quát nên chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập tự
do”; “Con đường cứu nước duy nhất đúng đắn là con đường cách mạng vô sản”;
“Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa”.
Theo Hồ Chí Minh, độc lập phải gắn liền với sự nghiệp giải phóng giai cấp công
nhân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đặc biệt, Người đã phát
hiện khả năng to lớn của các dân tộc thuộc địa và đã nêu lên tính chủ động của
cách mạng thuộc địa, về khả năng cách mạng thuộc địa có thể giành thắng lợi trước
cách mạng ở chính quốc. Điều ấy cho thấy, phong cách tư duy Hồ Chí Minh không
chỉ dừng lại ở việc tiếp thu những nội dung cơ bản của học thuyết cách mạng MácLênin một cách thụ động, mà còn thể hiện rõ một phong cách tư duy sáng tạo khi
vận dụng học thuyết vào tình hình cách mạng cụ thể, để rút ra những kết luận mới
phù hợp với quá trình cách mạng và chỉ đạo cách mạng Việt Nam tiến tới thành


công. Hồ Chí Minh thật xứng đáng với sự thừa nhận và tôn vinh của thế giới là
“Người khởi xướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở thế kỷ XX”, và người đầu
tiên được UNESCO suy tôn là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa
thế giới”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách
mạng xã hội chủ nghĩa, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể
hiện một cách nhất quán trong tư duy và hành động của Người, suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Đó cũng là tư tưởng xuyên suốt trong đường lối cách
mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo và thực hiện.
Về chủ nghĩa xã hội, người nêu hết sức ngắn gọn, dễ hiểu, nhằm làm nhân
dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm
no và sống cuộc đời hạnh phúc; nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của
nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy; nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung
sướng, ai nấy đều được học hành, ốm đau có thuốc chữa trị, người già, hết tuổi lao
động được nghỉ ngơi, những phong tục tập quán không tốt lạc hậu dần dần được

xoá bỏ.
Như vậy, nội dung chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh nêu ra để động viên,
hướng dẫn cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tổ chức xây dựng một xã hội mới
ở nước ta thật ngắn gọn, dễ hiểu nhưng đó là những nội dung rất cơ bản, là vấn đề
cốt lõi đòi hỏi cách mạng xã hội chủ nghĩa phải thực hiện.
Đặc trưng thứ tư, lý luận luôn đi đôi với thực tiễn, gắn liền với thực tiễn; lời
nói đi đôi với việc làm. Luận giải về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn, về tầm quan trọng của việc quán triệt nguyên tắc này, Hồ Chí Minh đã dùng
hình ảnh so sánh như: “lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng
như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có
tên”{20,tr.235}, “lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý luận mà không
áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn
quyển lý luận nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng
sách”{21,tr.234}, “lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng
ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà
đi”{22,tr.233}.


Người đã chỉ ra con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá
trình cách mạng lâu dài, gian khổ, khó khăn, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân phải đoàn
kết, “biết đồng sức, biết đồng lòng”, kiên trì phấn đấu, xây dựng, thì dù “việc gì
khó, cũng làm xong”. Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau
được mà phải làm dần dần”{25,tr.226}. Sau đó, Người nhấn mạnh: “Tiến lên chủ
nghĩa xã hội không phải cứ muốn là tức khắc có, mà phải làm thế nào cho nó tiến
lên, tức là phải lao động, lao động thiết thực”{27,tr.338}. Xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trước hết phải dựa vào tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mạnh của toàn
dân; đồng thời, phải tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế để giành lấy những
thắng lợi mới ngày càng rực rỡ, to đẹp hơn.
Hồ Chí Minh thường chứng minh lý luận bằng thực tiễn, bằng hành động;
lời nói đi đôi với việc làm cụ thể, thiết thực, nói ít làm nhiều, thấy đúng là làm, làm

tốt, tự khắc mọi người noi theo, làm theo. Chẳng hạn, trong khoảng mười năm (từ
1955 đến 1965) Người đã thực hiện hơn bảy trăm lượt đi thăm, tiếp xúc với cơ sở
địa phương, công trường, hợp tác xã, đơn vị bộ đội... mỗi năm có hơn bảy mươi
lần xuống cơ sở. Quân bình mỗi tháng có tới sáu lần tiếp xúc, gặp gỡ quần chúng.
Việc làm đó đã khẳng định, Người luôn quan tâm, sâu sát thực tiễn, lấy thực tiễn
làm mục đích, động lực cho mọi hoạt động cách mạng của mình.
Đặc trưng thứ năm, luôn coi trọng điều kiện khách quan, phát huy tối đa nỗ
lực chủ quan và tính tự giác cách mạng. Nghiên cứu, nắm vững điều kiện khách
quan, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa quy luật khách quan và hoạt động có ý
thức của con người, là một nội dung đặc biệt quan trọng trong phương pháp luận
mácxít. V.I. Lênin chỉ ra rằng, tư duy lý luận không chỉ thừa nhận tính quy luật
chung của sự phát triển lịch sử mà còn phải biết phát huy tính tích cực, năng động,
sáng tạo. Hồ Chí Minh bao giờ cũng vậy, giải quyết mọi việc đều xuất phát từ
những điều kiện khách quan, tôn trọng khách quan, nắm chắc diễn biến những điều
kiện khách quan của cách mạng. Trên cơ sở đó, phát huy tính tích cực của nhân tố
chủ quan để đề ra cương lĩnh, chiến lược, sách lược cho phù hợp với tình hình cách
mạng.


Xuất phát từ thực tiễn khách quan, tôn trọng điều kiện khách quan, đồng
thời, Người luôn luôn coi trọng nhân tố chủ quan, phát huy tối đa tính tích cực tự
giác, bao gồm sự hiểu biết lý luận, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng.
Người cho rằng, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội tất yếu phải dựa trên thắng lợi của
cuộc đấu tranh trừ diệt “chủ nghĩa cá nhân”, dựa trên một đảng lấy lợi ích của giai
cấp và của dân tộc làm mục tiêu duy nhất, một đảng tiêu biểu về “trí tuệ”, “đạo
đức”, “văn minh” và “lương tâm” của dân tộc.
Người khẳng định: Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy
vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình... Đây là kết luận rất quan
trọng, có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng đường lối chiến lược và chỉ đạo hoạt
động cách mạng của Đảng ta trong suốt gần một thế kỷ qua. Kết luận đó còn là tiền

đề tư tưởng để Đảng ta xây dựng phương châm chiến lược “dựa vào sức mình là
chính”.
Hiện nay, trong giáo dục, đào tạo cũng như xây dựng Nhà trường vững
mạnh toàn diện, người cán bộ, giáo viên chỉ có thể giải quyết tốt những vẫn đề
chính trị nhạy cảm và những vấn đề sinh động của cuộc sống đặt ra, khi họ tích cực
học tập, rèn luyện, tu dưỡng, không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên
môn, rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh.
1.1.2 Rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ
Trường Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội hiện nay
Rèn luyện, là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo từ
điển Tiếng Việt, rèn luyện là sự luyện tập nhiều trong thực tế để đạt tới những
phẩm chất hay trình độ vững vàng, thông thạo, hoặc được rèn luyện trong thực tế
đấu tranh.
Rèn luyện phong cách tư duy, là thông qua hoạt động thực tế để luyện tập,
hình thành nên những đặc điểm riêng về phẩm chất và trình độ tư duy mang tính hệ
thống, ổn định của một người nào đó.
Rèn luyện phong cách tư duy Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ Trường
Cao đẳng văn hoá nghệ thuật quân đội hiện nay là rèn luyện phong cách tư duy


×