5
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng về con người của triết học Mác-Lênin được hình thành
trên cơ kế thừa biện chứng những tư tưởng tiến bộ của nhân loại; từ đó,
triết học Mác - Lênin đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên lịch sử
của con người. Trong tư tưởng khoa học và cách mạng ấy, con người vừa
là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của lịch sử. Bản chất nhân đạo, mục
tiêu cao cả, thước đo nhân văn của sự phát triển xã hội là phát triển vì con
người, đưa con người từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự
do. O
Triết học Mác-Lênin còn khẳng định rằng, để có những con người
phát triển toàn diện, cần phải có một nền kinh tế phát triển cao, một nền
văn hóa tiên tiến, một nền khoa học - kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục
phát triển. Việc tạo ra những thành tựu kinh tế - xã hội đó không những là
điều kiện để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là điều kiện duy
nhất để tạo ra những con người phát triển toàn diện; trong đó, sự phát triển
tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Những quan điểm trên của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
đã được thực tiễn hơn một thế kỷ qua chứng minh tính đúng đắn của nó.
Song, ngày nay, đứng trước sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, chủ
nghĩa Mác-Lênin nói chung và quan niệm về con người của triết học MácLênin nói riêng đang bị tấn công từ nhiều phía. Những kẻ chủ trương xét lại
chủ nghĩa Mác cho rằng, tư tưởng giải phóng con người của triết học Mác đã
cũ, lạc hậu, một chiều và không tưởng; rằng, học thuyết Mác đã bị những
người kế tục làm cho xơ cứng, trở thành cái không thể vận dụng và phát
triển phù hợp với thời đại mà khoa học - kỹ thuật đang tiến nhanh như vũ
6
bão; rằng, triết học Mác đã bị giáo điều hóa, học thuyết Mác về con người
bị khủng hoảng, ngừng trệ; rằng, do chỉ do chú ý đến con người trong đấu
tranh giai cấp mà chưa chú ý đến con người cá nhân, con người với tư
cách là chủ thể sáng tạo, nên quan niệm của triết học Mác về con người đã
bộc lộ nhiều bất cập, trở thành cái mang tính áp đặt, giả tạo và duy ý chí,
v.v.
Trước tình hình đó, việc làm rõ thực chất quan điểm của triết học
Mác-Lênin về con người để bảo vệ tính khoa học và cách mạng của chủ
nghĩa Mác-Lênin là một yêu cầu cấp thiết.
Trên bình diện thực tiễn, nhờ những thành tựu đạt được trong quá
trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang bước vào
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm biến nước ta từ
một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp có cơ sở
vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất; đời sống vật chất
và tinh thần cao; quốc phòng, an ninh vững chắc; dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII và tại các Hội nghị
Trung ương của mình, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: công nghiệp hóa
gắn với hiện đại hóa phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững... Tăng trưởng kinh tế gắn với
cải thiện đời sống nhân dân; phát triển văn hóa, giáo dục. Nâng cao dân trí,
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và đồng bộ; kết hợp đào tạo kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức nhằm hình
thành một đội ngũ lao động giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; có tác phong
công nghiệp, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; có ý thức phấn đấu vì
sự phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Chỉ những con
7
người như vậy mới đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
Trong khi vấn đề đặt ra như vậy thì, do nhiều nguyên nhân, vấn đề
xây dựng con người, phát huy vai trò của họ lại đang đứng trước những
khó khăn không nhỏ cả từ phương diện nhận thức lẫn tổ chức thực tiễn.
Về nhận thức, chúng ta thấy có hai cực đoan sai lầm: Một là, tuyệt đối hóa
vai trò nhân tố con người tới mức tái sinh trở lại yếu tố của bệnh duy ý
chí; hai là, tuyệt đối hóa nhân tố kỹ thuật-công nghệ dẫn tới xuất hiện yếu
tố của chủ nghĩa kỹ trị. Về mặt thực tiễn: việc đầu tư cho sự phát triển
nguồn lực con người chưa thật sự được xem trọng; việc phát huy nguồn
nhân lực đang có cũng chưa thật có hiệu quả... Không khắc phục những
thiếu sót trên đây, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa khó đi tới đích.
Để góp phần giải quyết có hiệu quả vấn đề vừa nêu, việc làm rõ giá trị
khoa học, bản chất cách mạng trong quan điểm của triết học Mác-Lênin về
con người sẽ giúp chúng ta thấy rõ rằng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay chỉ có thể thắng lợi nhờ chiến lược phát triển
con người Việt Nam toàn diện với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự nghiệp đó.
Xuất phát từ cách đặt vấn đề như vậy, chúng tôi chọn vấn đề:
"Quan điểm của triết học Mác-Lênin về con người với việc xây dựng con
người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" làm đề tài
của luận án này.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề con người trong triết học Mác - Lênin đã được các nhà
khoa học thế giới và Việt Nam đề cập đến từ nhiều góc độ khác nhau.
Liên quan tới đề tài này, ở Liên xô (trước đây) và Cộng hòa dân
chủ Đức (cũ) đã có nhiều cuốn sách được xuất bản. Chẳng hạn:
8
N.M.Beredơnôi: "Vấn đề con người trong các tác phẩm của C.Mác", M.,1981;
D.M.Kakabátde: "Con người với tư cách một vấn đề triết học", Tbidixi,
1970; "Những vấn đề về chủ nghĩa nhân đạo trong triết học Mác - Lênin",
M., 1975. Nhiều bài báo, công trình nghiên cứu về con người đã được đăng
tải trên tạp chí Những vấn đề triết học của Nga, có nhiều bài đã được dịch
ra tiếng Việt và được đăng trên tạp chí Triết học. Trong số các công trình
có liên quan tới đề tài này, đáng chú ý nhất là hai tập: "Con người-những ý
kiến mới về một đề tài cũ" do nhà xuất bản Điétxơ xuất bản năm 1982 tại
Béc-lin, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội dịch và cho xuất bản năm 1986. Đây
là một công trình phối hợp của một số nhà khoa học Liên xô và Cộng hòa
dân chủ Đức.
Những năm gần đây, nhiều cuốn sách về con người tiếp tục được
xuất bản tại Liên bang Nga, song, do điều kiện hạn chế, chúng tôi không
thể đề cập tới trong luận án này.
Trong những năm qua ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu
vấn đề con người trong triết học Mác - Lênin. Chỉ điểm qua tình hình
nghiên cứu vấn đề này từ năm 1975 đến nay cũng đủ thấy điều đó. Năm
1978, Viện Triết học đã cho xuất bản cuốn: "Về vấn đề con người và xây
dựng con người mới" (Giáo sư Phạm Như Cương chủ biên), trong đó giới
thiệu một cách tương đối hệ thống những ý kiến của Mác, Ăngghen, Lênin
và các đồng chí lãnh đạo Đảng ta về vấn đề con người. Trong những năm
tiếp theo, nhiều bài viết đã đề cập tới vấn đề: làm thế nào để tạo ra được
những con người lao động kiểu mới, những con người biết tổ chức, biết quản
lý nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và toàn bộ các mặt của đời sống xã hội.
Từ năm 1991 đến năm 1995, công trình khoa học cấp nhà nước KX-07:
"Con người Việt Nam-mục tiêu và động lực phát triển kinh tế-xã hội" do
GS-TS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm đã tiến hành nghiên cứu con người
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới. Cùng với quá trình thực hiện chương
trình nghiên cứu cơ bản này, đã có hàng trăm bài báo, báo cáo khoa học
9
của các nhà khoa học trong cả nước viết về con người được liên tục đăng
tải trên các tạp chí Cộng sản, Triết học, Nghiên cứu lý luận, Thông tin lý
luận, Khoa học xã hội... Các tác giả như Nguyễn Duy Quý, Lê Hữu Tầng,
Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Thị Ngọc Trầm, Dương Phú Hiệp, Lê Thi,
Phạm Như Cương, Nguyễn Ngọc Long, Phạm Ngọc Quang, Đặng Hữu
Toàn,... đã công bố nhiều bài báo đề cập đến các góc độ khác nhau của việc
xây dựng con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhiều luận án tiến sĩ xung quanh vấn đề con người cũng đã được bảo
vệ trong những năm qua. Chẳng hạn, Nguyễn Thế Kiệt: "Vai trò của
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc xây dựng con
người mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam"; Vũ Thị
Tùng Hoa: "Mối liên hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong quá trình
hình thành và phát triển con người"... Các luận án tiến sĩ trên đã đi sâu giải
quyết ở các góc độ khác nhau nhiều vấn đề có liên quan tới quan niệm của
triết học Mác - Lênin về con người, tới việc xây dựng con người Việt Nam.
Song, cho đến nay, việc vận dụng quan điểm của triết học Mác-Lênin về con
người vào việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với tư cách là một luận án tiết sĩ triết học vẫn chưa có.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài nêu trên để thực hiện luận án tiến sĩ triết
học của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Luận án có mục đích: Góp phần nhận thức những quan điểm cơ
bản của triết học Mác-Lênin về con người. Trên cơ sở đó, phân tích những
yêu cầu đối với việc xây dựng con người Việt Nam trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và đề ra phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng
con người đáp ứng yêu cầu đó.
Để đạt được mục đích đó, luận án có nhiệm vụ:
10
- Trình bày một cách khái quát những quan điểm cơ bản của triết
học Mác-Lênin về con người.
- Làm rõ thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta và
một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
- Đề ra phương hướng và một số giải pháp nhằm xây dựng con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện trên cơ sở những tác phẩm chính yếu của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
xây dựng con người; các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng
thời, tham khảo các công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong,
ngoài nước có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp tổng quát được vận dụng trong quá trình nghiên cứu
và thực hiện luận án là phương pháp biện chứng duy vật; kết hợp các
phương pháp: lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, phương pháp so
sánh, hệ thống hóa và điều tra xã hội học.
5. Cái mới về mặt khoa học của luận án
- Luận án góp phần nhận thức rõ hơn những quan điểm cơ bản của
triết học Mác-Lênin về con người.
- Góp phần làm rõ những yêu cầu đối với việc xây dựng con người
Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Góp phần đề ra phương hướng và những giải pháp có tính khả thi
nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
11
- Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc
hoạch định chiến lược phát triển con người trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy triết học Mác-Lênin nói chung, quan niệm của
triết học Mác - Lênin về con người nói riêng trong sự vận dụng cụ thể vào
nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm ba chương, 7 tiết.
Chương 1
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
VỀ CON NGƯỜI
1.1. QUAN ĐIỂM VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI
Trên cơ sở tiếp thu một cách có chọn lọc, kế thừa và phát triển
những tư tưởng hợp lý của các nhà triết học trong lịch sử nhân - loại từ
triết học ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp cổ đại, đến các nhà triết học cổ điển
Đức, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khắc phục được những hạn chế
của họ, và do vậy, các ông đã đưa ra được những tư tưởng đúng đắn về
bản chất con người, về con người.
Ngày nay, chúng ta đều nhận thức được rằng con người là chủ thể
của xã hội. Nói đến xã hội, người ta hiểu ngay rằng đó là sản phẩm riêng
có của con người trong sự gắn kết cộng đồng, trong những mối quan hệ đa
dạng của họ. Ai đó có nói đến tính chất "xã hội" của những loài vật có tổ
12
chức bầy đàn, có tổ chức cuộc sống tinh vi, phức tạp thì cũng chỉ là nói
đến "cái xã hội" theo nghĩa nào đó, có cái gì đó mang tính "tổ chức" gần
với tổ chức xã hội của con người mà thôi, chứ bản thân việc tổ chức cuộc
sống của những loài sinh vật đó dù có tinh vi đến đâu cũng không thể có
xã hội theo đúng nghĩa của nó.
Xã hội loài người là một kết cấu phức hợp, bao gồm những mối
quan hệ đa dạng của con người. Bản thân con người không chỉ là sản phẩm
cao nhất trong sự phát triển lâu dài của tự nhiên, mà còn là một thực thể xã
hội phức tạp. Con người ngay từ khi là con người đã tự mình khám phá tự
nhiên, thúc đẩy xã hội phát triển và khám phá những bí mật của chính bản
thân mình. Có thể nói rằng, trong suốt quá trình phát triển lâu dài của lịch
sử tư tưởng nhân loại, con người bao giờ cũng là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học. Mỗi ngành khoa học nghiên cứu một mặt, một khía
cạnh nào đó của con người. Trong đó, các nhà khoa học tự nhiên thường
tập trung vào bản thể sinh học của con người, các nhà khoa học xã hội lại
tập trung vào lĩnh vực tinh thần-một lĩnh vực hết sức đặc trưng-của con
người. Các nhà khoa học ấy đã có nhiều thành công đáng kể trong công
cuộc khám phá con người. Ngày nay, sinh học hiện đại đã có thể chỉ ra
một cách tương đối chính xác cấu trúc vi mô của cơ thể con người, hơn
nữa, còn chỉ ra được cấu trúc và chức năng của bộ não người. Những phát
hiện của sinh học hiện đại đã trở thành cơ sở khoa học chắc chắn để loài
người nhận thức về chính mình. Tuy vậy, khi phải đối mặt với những câu
hỏi, như bản chất con người là gì? con người có vai trò gì trong thế giới tự
nhiên?... thì không chỉ sinh học hiện đại, mà cả các môn khoa học khác
(như tâm lý học, đạo đức, y học, sử học hay dân tộc học...) cũng không dễ
gì trả lời một cách đầy đủ và có sức thuyết phục.
Khi xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử, vạch ra vai trò quyết
định của sản xuất vật chất và các hình thức giao tiếp, các quan hệ sản xuất
13
được phát triển từ chính quá trình sản xuất vật chất ấy và ngày càng hoàn
thiện cùng với sự phát triển xã hội, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã tạo
ra bước ngoặt căn bản trong quan niệm về con người, về bản chất con
người. Các ông cho rằng bản thân những trừu tượng tư biện chỉ là sản
phẩm, là sự thể hiện của những điều kiện sản xuất và giao tiếp nhất định
nào đó. Phê phán quan niệm duy tâm - tư biện về bản chất con người, các
ông đã coi những trừu tượng tư biện chẳng qua chỉ là sự xuyên tạc mang
tính tư tưởng hệ bản chất thực sự của con người. Chẳng hạn, đối với các
khái niệm "thực thể", "bản chất của con người" mà phái Hêghen trẻ đưa ra,
C.Mác nhận xét rằng: "Tổng số những lực lượng sản xuất, những tư bản và
những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi thế hệ
thấy hiện có, là cơ sở hiện thực của cái mà các nhà triết học hình dung là
"thực thể", "bản chất con người", của cái mà họ tôn sùng hoặc đả kích, một
cơ sở hiện thực mà tác động và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của
con người không hề bị ngăn trở bởi việc nhà triết học ấy với tư cách là "tự
ý thức" và "kẻ duy nhất" nổi dậy chống lại nó" [69, 3; tr. 55] (số thứ nhất
chỉ thứ tự trong "Danh mục tài liệu tham khảo", số thứ hai (nếu có) chỉ số
tập, số tiếp theo là trang trong tài liệu).
Đối với những suy luận của Stiếcnơ (một đại diện tiêu biểu của
phái Hêghen trẻ) về mối quan hệ giữa cái nhân tính và phi nhân tính, giữa
con người và không phải con người, C. Mác cho rằng những suy luận về
cái nhân tính và cái phi nhân tính ấy chỉ có ý nghĩa và hợp lý, nếu quy nó
về biện chứng của sự phát triển sản xuất và các phương thức đáp ứng nhu
cầu của con người. Ông viết: "Từ ngữ khẳng định "người" thích ứng với
những quan hệ nhất định thống trị trong một giai đoạn phát triển nào đó
của sản xuất và thích ứng với phương thức thỏa mãn nhu cầu do những
quan hệ ấy quyết định,-cũng tựa như từ ngữ phủ định "phi thân" thích hợp
14
với những ý đồ hòng phủ định bên trong phương thức sản xuất hiện hành
những quan hệ thống trị ấy và phương thức thỏa mãn nhu cầu thống trị
trong điều kiện có những quan hệ ấy, những ý đồ do chính cái giai đoạn
sản xuất ấy không ngừng sản sinh ra hàng ngày" [69, 3, tr. 633-634].
Để tìm ra bản chất con người và nhận thức đời sống con người,
theo các ông, người ta không cần đến những trừu tượng tư biện ấy. Để tìm
ra bản chất đích thực của con người, nhận thức đúng đời sống con người,
các ông khẳng định, cần phải nghiên cứu một cách cụ thể đời sống sinh
hoạt hiện thực của con người. Chỉ bằng cách nghiên cứu cụ thể đời sống
sinh hoạt hiện thực của con người, mới có thể biết được những hoạt động
của con người ấy. Do vậy, với các ông, nhiệm vụ nhận thức con người cần
phải được tiến hành trên cơ sở của quan niệm duy vật về lịch sử.
Để làm rõ việc đặt ra theo một cách mới nhiệm vụ nhận thức con
người ở các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, trước hết chúng ta cần phải lưu ý
tới bức thư của Ph. Ăngghen gửi C.Mác ngày 19-11-1844. Trong bức thư
này, Ph. Ăngghen đã chỉ rõ, "con người" của Phoiơbắc là "cái phái sinh từ
Thượng đế"; Phoiơbắc đi từ Thượng đế đến "con người" và, vì vậy, "con
người" của ông vẫn còn được phủ lên trên một lớp "hào quang trừu tượng
thần thánh". Ph.Ăngghen cho rằng con đường thật sự dẫn đến "con người"
là con đường hoàn toàn ngược lại. Chúng ta phải xuất phát từ cái "tôi", từ
"cá nhân mang tính kinh nghiệm, có thể xác", nhưng không phải để giẫm
chân ở điểm này như Stiếcnơ, mà phải từ cá nhân đó vươn tới "Con
người". "Con người" sẽ mãi mãi chỉ là nhân vật hư ảo, nếu cơ sở của nó
không phải là "con người mang tính kinh nghiệm". Chúng ta phải xuất
phát từ chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa duy vật, nếu chúng ta muốn làm
cho ý niệm của chúng ta và đặc biệt là "con người" của chúng ta trở thành
một cái gì đó hiện thực. Chúng ta phải từ cái đơn nhất để rút ra cái phổ
biến, "chứ không phải từ cái chính bản thân mình hoặc từ cái không tồn
15
tại, như Hêghen đã làm". Và, theo ông, "cá nhân mang tính thể xác là cơ
sở thực sự, là xuất phát điểm thực sự cho "con người" của chúng ta" [69,
27, tr. 23]. Như vậy, theo Ph.Ăngghen, chúng ta cần phải nghiên cứu một
cách cụ thể, một cách kinh nghiệm về các cá nhân, và mục đích cuối cùng
của việc nghiên cứu các cá nhân trong hiện thực kinh nghiệm của họ là tiến
tới "con người". Với quan niệm ấy, Ph.Ăngghen coi phạm trù "con người"
là phạm trù tối cao của nhận thức, đồng thời phải luận chứng vì sao nó là
phạm trù tối cao của nhận thức. Theo ông, chúng ta chỉ có thể hiểu "con
người" theo đúng nghĩa của nó, khi xuất phát từ các cá nhân kinh nghiệm,
bằng xương, bằng thịt và chỉ có trên cơ sở ấy, các cá nhân mới không còn
đơn giản là các cá nhân, mà trở thành những con người hiện thực với đúng
nghĩa của nó.
Dõi theo quá trình hình thành quan niệm về con người của các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác, chúng ta thấy, chỉ khi đã ý thức được một cách rõ
ràng lịch sử nhân loại là sự cải biến không ngừng "bản tính con người",
rằng "bản tính nội tại của con người" bao giờ cũng là sản phẩm của lịch sử,
thì nhận thức về bản chất của con người mới trở nên rõ ràng.
Để làm rõ vấn đề này, theo chúng tôi, cần phải lưu ý rằng, vào thời
điểm các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác tiến hành xây dựng quan niệm của
mình về bản chất con người, các nhà triết học tư biện Đức thường lạm
dụng các thuật ngữ "bản chất con người’, "tộc loại", "bản tính con
người"...để trình bày quan niệm của họ về con người. Và, do sự lạm dụng
đó, họ đã biến những luận điểm của mình thành những câu nói trống rỗng,
khoa trương. Bởi vậy, khi đối lập một cách có ý thức phương pháp tư duy
của mình với những triết lý tư biện, các ông đã phải cố tránh sử dụng
những thuật ngữ nêu trên, khi trình bày các quan điểm của mình. Sự
nghiêm ngặt về mặt thuật ngữ này là một trong những biểu hiện cụ thể, nói
lên tính triệt để, kiên quyết của các ông trong tranh luận. Và nhờ đó, thế
16
giới quan mới, quan niệm mới về con người, về bản chất con người của
các ông mới mang tính khoa học và cách mạng so với các kiểu thế giới
quan, các quan niệm của các nhà triết học tiền bối. Khi tiến hành luận
chiến với các nhà triết học tư biện Đức về vấn đề con người, các nhà sáng
lập chủ nghĩa Mác đã đối lập một cách toàn diện, triệt để quan điểm của
mình với quan điểm của các nhà triết học ấy và luôn nhấn mạnh sự mới
mẻ trong cách tiếp cận của mình. Các ông sử dụng những khái niệm được
vay mượn từ các nhà triết học cổ điển Đức không phải vì mục đích khoa
trương, hình thức, mà là để xây dựng cơ sở phương pháp luận cho toàn bộ
sự phê phán triết học duy tâm tư biện và chủ nghĩa duy vật nhân bản để
luận chứng cho quan niệm duy vật về lịch sử của các ông. Các ông không
đặt thành vấn đề cấp bách việc xem xét những lập luận trừu tượng, tư biện
về đời sống sinh hoạt của con người có nội dung khách quan hay không.
Với các ông, bản thân đời sống sinh hoạt của con người đã vốn mang tính
hiện thực, hoạt động cơ bản của con người là hoạt động sản xuất vật chất
của những cá nhân nắm quyền làm chủ các lực lượng sản xuất nhất định,
hoạt động trong khuôn khổ của những quan hệ sản xuất và giao tiếp nhất
định. Bởi vậy, theo các ông, các khái niệm - dẫu đó là những khái niệm trừu
tượng, tư biện, song đó là những khái niệm phản ánh đời sống sinh hoạt
hiện thực, phản ánh hoạt động sản xuất vật chất của con người, tất yếu
phải mang tính khách quan.
Điều đó cho thấy, đối với các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, hiện
thực bao giờ cũng là cụ thể và mang tính đặc thù, nhiệm vụ của nhận thức
là đạt tới và phản ánh đúng tính cụ thể, đặc thù đó. Những lập luận về con
người, về hoạt động con người về vật chất chỉ là phương tiện để giải quyết
nhiệm vụ đó. Nhưng, để những lập luận ấy giữ được vai trò này, chúng
phải được xem xét trong văn cảnh những hiện tượng và quan hệ cấu thành
cơ sở hiện thực của chúng. Với quan niệm đó, các ông cho rằng, khi giải
17
quyết vấn đề con người, cần phải chấm dứt những bàn luận chung chung,
trừu tượng về con người, phải xuất phát từ những con người với tư cách là
những "cá nhân kinh nghiệm", những cá nhân mà trong đời sống sinh hoạt,
trong mọi hoạt động đều luôn dựa vào những tiền đề hiện thực, trong
những điều kiện thực tiễn xác định. Tương tự như vậy, các ông cho rằng
cần phải chấm dứt những bàn luận chung chung, trừu tượng về hoạt động
lao động; phải nghiên cứu hoạt động con người trong tính quy định cụ thể
của nó, tức là trong tổng thể các lực lượng sản xuất của con người, các
quan hệ sản xuất cũng như các hình thức tổ chức xã hội của nó.
Trong quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen, giới tự nhiên bao giờ
cũng tồn tại hiện thực đối với con người và là đối tượng cho hoạt động của
con người; song, trong mọi hoạt động của mình, con người luôn xuất phát
từ những nhu cầu của bản thân mình. Điều này đặc trưng cho sự vận động
lịch sử của đời sống sinh hoạt hiện thực của con người cũng như cho việc
nhận thức sự vận động ấy. Trong quá trình nhận thức lịch sử nhân loại,
con người bao giờ cũng bắt đầu từ sự nhận thức về bản thân mình với tư
cách là tiền đề xuất phát. Nhận thức về lịch sử không phải là sự nhìn nhận
cái bên ngoài. Lịch sử là kết quả hoạt động của chính con người. Với ý
nghĩa đó, nhận thức về lịch sử thực chất cũng là sự tự nhận thức và hoạt
động của chính con người, là khát vọng nắm bắt tiến trình lịch sử của con
người dựa trên những thành tựu mới nhất về con người, tức là từ chính bản
thân con người. Song, các nhà triết học tư biện lại không xuất phát từ đó,
họ xuất phát từ những lập luận triết học trừu tượng của mình và coi những
lập luận ấy là đỉnh cao lý luận, để từ đó, nhìn nhận lịch sử và chỉ nhận
thấy ở lịch sử ấy sự vận động của các tư tưởng, các phạm trù, gán ép nội
dung hiện thực của cuộc sống vào những khái niệm trừu tượng của tư duy.
Trong bối cảnh đó, với việc chuyển sang lập trường vô sản, các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác đã đoạn tuyệt với thứ triết học tư biện truyền
18
thống của triết học cổ điển Đức. Trong quan niệm về lịch sử nhân loại, các
ông đã căn cứ vào các điều kiện, xu hướng và nhiệm vụ hiện thực của
phong trào cách mạng do giai cấp vô sản tiến hành mà các ông đã nhận
thức được khi xây dựng học thuyết về chủ nghĩa tư bản với tư cách là một
phương thức sản xuất xã hội. Từ những nghiên cứu lý luận về xã hội tư
bản với tư cách là một hệ thống xã hội đặc thù được đặc trưng bởi một sự
phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, phân hóa xã
hội, v.v., các ông đã phát hiện ra những đặc trưng phổ biến trong đời sống
sinh hoạt xã hội của con người. Trong xã hội tư bản, những đặc trưng đó,
theo các ông, đã đạt tới mức độ phát triển cao, nhờ vậy, cơ sở hiện thực
của tồn tại con người đã trở nên rõ ràng và, do đó, cũng đã xuất hiện xu
hướng vượt ra khỏi khuôn khổ của xã hội ấy. Với các ông, xã hội tư bản
đã trở thành đối tượng nghiên cứu mà từ đó, các ông nhìn nhận sự phát
triển của con người trong tính chỉnh thể của nó.
Quan điểm ấy cho thấy, đối với các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, để
nhận thức được vấn đề con người, bản chất con người, trước hết cần nhận
thức những điều kiện sinh hoạt và phát triển của con người trong khuôn
khổ xã hội tư bản, gắn với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại hệ
thống nô dịch tư bản chủ nghĩa. Khi còn chưa có được những nhận thức
đầy đủ, sâu sắc về chủ nghĩa tư bản với tư cách là một phương thức sản
xuất đặc thù, khi sự phân tích một cách lịch sử - cụ thể về chủ nghĩa tư bản
ở các ông đang còn chịu ảnh hưởng của quan niệm nhân bản-trừu tượng,
trong quan niệm của các ông về con người chúng ta vẫn còn bắt gặp các
khái niệm trừu tượng (như tộc loại, bản chất tộc loại, tha hóa và v.v.) với
tư cách là các khái niệm cơ bản, then chốt. Chỉ khi quan niệm duy vật về
lịch sử đã được hình thành trên một cơ sở vững chắc, chỉ khi xã hội tư bản
đã được hiểu là một phương thức tồn tại mang tích lịch sử - cụ thể của con
người mà trong đó, những điều kiện hiện thực để chuyển sang một phương
thức tồn tại khác của con người đang hình thành, các ông mới không còn
19
sử dụng những khái niệm trừu tượng ấy với tư cách là cơ sở cho sự hình
thành phương pháp nghiên cứu của mình. Chỉ khi đó, các ông mới nhận
thấy việc nâng những khái niệm trừu tượng ấy lên cấp độ các phạm trù
nền tảng với tư cách là các yếu tố cấu thành hệ thống lý luận là trở ngại
cho việc nhận thức hiện thực về con người, cho sự nghiên cứu cụ thể về
những điều kiện và triển vọng phát triển của con người. Chỉ từ đó, cách
xem xét con người của các ông mới trở nên rõ ràng, đứng vững trên lập
trường duy vật về lịch sử.
Đối với các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, hướng nghiên cứu ấy cần
phải được coi là tiền đề, là cách tiếp cận với quan niệm duy vật về đời
sống sinh hoạt hiện thực của con người. Nếu chỉ dừng lại ở tiền đề này tức
là biến nó thành câu nói rỗng tuếch, biến con người thành sự trừu tượng tư
biện có thể "phù hợp và không phù hợp" với mọi giai đoạn và mọi thời đại
phát triển xã hội.
Khi xuất phát từ con người hiện thực để nghiên cứu đời sống sinh
hoạt của con người, các ông đã khẳng định rằng con người cần phải được
hiểu trong hoàn cảnh sinh hoạt hiện thực-cụ thể của họ. Những tiền đề của
quan niệm duy vật về lịch sử ấy, theo các ông, "là những con người, không
phải những con người ở trong một tình trạng biệt lập và cố định tưởng
tượng mà là những con người trong quá trình phát triển - quá trình phát
triển hiện thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm - của họ dưới những
điều kiện nhất định" [69, 3, tr. 38]. "Những tiền đề xuất phát của chúng tôi,
- các ông viết,- không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo
điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí
tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và
những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có
sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy,
20
những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm
thuần túy" [69, 3, tr. 28-29].
Chính vì vậy, khi nói tới những tiền đề của quá trình hoạt động
sinh hoạt hiện thực của con người, -tiền đề để nhận thức con người, -các
ông luôn nhấn mạnh rằng các ông nói tới những điều kiện và yếu tố hoạt
động sinh hoạt-cụ thể của con người. Các ông không nói một cách chung
chung, trừu tượng về con người, về hoạt động và điều kiện sinh hoạt của
họ, mà về những con người cụ thể, hoạt động cụ thể của họ trong những
điều kiện lịch sử - cụ thể. Đối với các ông, quan niệm duy vật về lịch sử
là phương pháp đem lại khả năng xác nhận hệ thống những tiền đề xuất
phát, cụ thể mà dựa vào đó, có thể hiểu được quá trình phát triển của con
người trong sự vận động, trong tính đa dạng của nó.
Các ông đã chỉ rõ rằng: "...Chúng ta buộc phải bắt đầu bằng việc
xác định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người và do đó là tiền
đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể
"làm ra lịch sử". Hành vi lịch sử đầu tiên hay phương diện cơ bản đầu tiên
của hoạt động xã hội của con người là sản xuất ra những tư liệu để thỏa
mãn những nhu cầu ấy của con người là những quan hệ cơ bản, mang tính
lịch sử, là những phương diện cơ bản của đời sống xã hội, các ông đã chỉ
rõ sự xuất hiện những nhu cầu mới, sự sản xuất ra bản thân con người với
tư cách một phương thức hoạt động chung, một thang bậc, một hình thức
giao tiếp xã hội nhất định của con người.
Ngày nay, cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng chỉ có triết
học Mác - Lênin mới đưa ra quan niệm đúng đắn, khoa học và mang tính
cách mạng về bản chất con người, về con người. Khi phân tích quá trình
tích lũy nguyên thủy "đầm đìa máu và bùn nhơ" của chủ nghĩa tư bản,
phân tích tình trạng lao động bị tha hóa, sự bần cùng hóa tương đối và
21
tuyệt đối của người công nhân, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã khẳng
định rằng: "Trong thời đại chúng ta, mọi vật đều tựa hồ như bao hàm mặt
đối lập của nó. Chúng ta thấy rằng máy móc có sức mạnh kỳ diệu trong
việc giảm bớt sức lao động của con người và làm cho lao động của con
người có kết quả hơn thì lại đem lại nạn đói và sự kiệt quệ đến cho con
người. Những nguồn của cải mới từ xưa đến nay chưa ai biết, dường như
do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại đang biến thành nguồn gốc của sự
nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật dường như đã được mua bằng cái
giá của sự suy đồi về mặt tinh thần. Dường như loài người càng chinh
phục được thiên nhiên nhiều hơn thì con người lại càng trở thành nô lệ của
những người khác hoặc nô lệ cho sự đê tiện của chính mình. Dường như
ngay cả ánh sáng thuần khiết của khoa học cũng không thể chiếu rọi bằng
cách nào khác ngoài cách chiếu rọi vào cái bối cảnh tối tăm của sự ngu
dốt. Tất cả những phát minh của chúng ta và tất cả sự tiến bộ của chúng ta
tựa hồ như đang dẫn tới chỗ là những thắng lợi vật chất thì được ban cho
một đời sống tinh thần, còn đời sống con người vốn đã bị tước mất các mặt
tinh thần rồi thì nay lại bị hạ xuống trình độ của những vật chất đơn
thuần" [69, 12, tr. 10]. Các ông cho rằng, chính "lao động bị tha hóa làm cho
thân thể của bản thân con người cũng như giới tự nhiên ở bên ngoài con
người, cũng như bản chất tinh thần của con người, bản chất nhân loại của
con người trở thành xa lại với con người" [68, I, tr. 121].
Điều đó cho thấy, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã trình bày
quan niệm của mình về con người với mục đích giải phóng con người khỏi
sự nô lệ, sự tha hóa, sự áp bức bất công, sự bần cùng hóa. Giải phóng
người lao động, giải phóng con người là lý tưởng cao cả của các ông. Và
trong suốt cuộc đời, các ông đã cống hiến tất cả những gì có thể làm được
cho cuộc đấu tranh giải phóng con người. Đây là điểm xuất phát khác hẳn
các nhà triết học tiền bối của các ông. Với cách đặt vấn đề như vậy, các
22
ông đã mang lại cho học thuyết về con người của mình một điểm mới về
cơ bản: coi con người là điểm xuất phát và sự giải phóng con người là mục
tiêu cao nhất mà nhân loại cần đạt tới.
Thật vậy, trong "Bản thảo kinh tế triết học năm 1844", với phạm
trù "lao động bị tha hóa", C.Mác đã xây dựng một hệ thống lý luận triết
học có khả năng soi sáng con đường giải phóng nhân loại, khắc phục triệt
để tình trạng tha hóa bản chất con người. Tuy nhiên, trước đó, khi phê
phán quan điểm trừu tượng của Hêghen về con người, ngay từ năm 1843,
C.Mác đã quan niệm con người là sinh vật - xã hội. Vì thế, trong "Góp
phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen", ở "Lời nói đầu", C.Mác
đã khẳng định: "Con người không phải là một tồn tại trừu tượng, ẩn náu
đâu
đó
ở
ngoài
thế giới. Con người chính là thế giới những con người, là nhà nước, là xã
hội" [69, 5, tr. 569].
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không phải là những người đầu
tiên đưa ra quan niệm gắn con người với xã hội, với chính trị. Trong lịch
sử triết học trước Mác, Arixtốt đã từng định nghĩa "người là động vật
chính trị". Chỉ có điều là, trong quan niệm của Arixtốt, mặt xã hội ấy của
con người chủ yếu gắn với chính trị, đạo đức và nó chỉ có ở tầng lớp chủ
nô, tầng lớp bên trên, do vậy, nó là cái mang tính đẳng cấp, chứ không
phải là cái gắn với loài người nói chung, là cái vốn có ở mỗi con người nói
riêng như quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác. Xét về thực
chất, quan niệm con người gắn với xã hội của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác khác hẳn về chất so với quan niệm về con người xã hội của Arixtốt.
Vào mùa xuân năm 1845, khi phê phán Phoiơbắc đã "hòa tan thế
giới tôn giáo vào cơ sở trần tục của nó", đã hòa tan bản chất tôn giáo vào
bản chất con người, C.Mác cho rằng: "Tôn giáo biến bản chất con người
23
thành tính hiện thực ảo tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực
thực sự. Do đó, đấu tranh chống tôn giáo là gián tiếp đấu tranh chống cái thế
giới mà lạc thú tinh thần của nó là tôn giáo" [69, 1, tr. 570]. Tôn giáo không
thể đem lại sự giải phóng cho con người một cách thực sự, mà là "thuốc
phiện của nhân dân". Tôn giáo là sự tha hóa của con người và, theo C.Mác,
"Sau khi cái hình tượng thần thánh của sự tha hóa của con người đã bị bóc
trần thì nhiệm vụ cấp thiết của cái triết học đang phục vụ lịch sử là bóc
trần sự tha hóa trong những hình tượng không thần thánh của nó [69, 1, tr.
571]. Với quan niệm đó, C.Mác cho rằng phê phán tôn giáo, phê phán tính
chất ảo tưởng về tính hiện thực của con người phải gắn liền một cách trực
tiếp với giải phóng con người về mặt tinh thần. "Việc phê phán tôn giáo
đang làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người suy nghĩ, hành
động, xây dựng tính hiện thực của mình..., để con người xoay xung quanh
bản thân mình" [69, 1, tr. 570], giúp con người trở về với sự tồn tại hiện
thực, chân chính của mình, đối mặt với chính mình trong các quan hệ xã
hội. Do vậy, trong "Luận cương về Phoiơbắc", C.Mác đã khẳng định: "Bản
chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng
biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những
quan hệ xã hội" (Chúng tôi nhấn mạnh - V.T.V) [69, 3, tr. 11].
Luận điểm trên đây là luận điểm nổi tiếng, tiêu biểu nhất của triết
học Mác-Lênin về bản chất con người. Luận điểm này đã trở thành cơ sở
lý luận khoa học cho chủ nghĩa Mác-Lênin và các khoa học khác khi
nghiên cứu, giải quyết vấn đề con người. Đúng là "khó mà tìm thấy trong
lịch sử nhận thức khoa học một chân lý mà mới nhìn tưởng như đơn giản
và rõ ràng hơn nhưng thực chất lại sâu sắc và căn bản hơn luận điểm về
bản chất con người của Mác" [105, tr. 198]. Tuy nhiên, để đến được luận
điểm ngắn gọn, súc tích này, C.Mác đã phải trải qua một quá trình nghiên
cứu khoa học nghiêm túc và hết sức tỉ mỉ. Khi tiếp thu những thành tựu
24
của triết học, trực tiếp là triết học Cổ điển Đức, C. Mác đã nhận ra những
sai lầm của Hêghen và Phoiơbắc về vấn đề bản chất con người. C. Mác đã
phê phán quan điểm duy tâm khách quan của Hêghen về con người, khi
Hêghen coi con người là hiện thân của "ý niệm tuyệt đối". C. Mác cũng
nhận rõ tính chất siêu hình trong quan niệm của Phoiơbắc, khi Phoiơbắc
đồng nhất tính sinh học vào bản chất con người, tách con người ra khỏi
đời sống xã hội và hòa tan vào bản chất tôn giáo, do đó, đã không thấy
hoạt động đích thực của con người là hoạt động thực tiễn, mà "chỉ coi hoạt
động lý luận là hoạt động đích thực của con người [69, 3, tr. 9]. C. Mác đã
chỉ rõ rằng: "Đời sống xã hội về thực chất có tính thực tiễn. Tất cả những
sự thần bí đang đưa lý luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một
cách hợp lý trong thực tiễn của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn
ấy" [69, 3, tr. 12]. Hơn nữa, trong "Luận cương về Phoiơbắc", C.Mác còn
nhấn mạnh vai trò to lớn của thực tiễn, C. Mác viết: "Các nhà triết học đã
chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo
thế giới" [69, 3, tr. 12]. Vậy là, đặc tính hiện thực của con người hay con
người tồn tại hiện thực khách quan chính là con người tồn tại trong thực tiễn
của nó. Tính hiện thực của bản chất con người được thể hiện trước hết ở
chỗ, con người tồn tại thực, hiển nhiên, cảm tính chứ không phải là cái gì đó
mang tính trừu tượng. Con người tồn tại trong tự nhiên, gắn bó chặt chẽ
với giới tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người. Khẳng
định điều này, C. Mác nhấn mạnh: "Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân
thể của con người, thân thể mà với nó con người phải duy trì một quá trình
thường xuyên để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con
người là gắn liền khăng khít với bản thân giới tự nhiên, vì con người là bộ
phận của giới tự nhiên" [68, I, tr. 117]. Như vậy, rõ ràng là, đối với C. Mác,
con người tồn tại bao giờ cũng gắn liền với điều kiện tự nhiên nhất định;
hơn thế nữa, con người là một bộ phận không thể tách rời giới tự nhiên.
25
Trong "Hệ tư tưởng Đức", C. Mác và Ph. Ăngghen còn cho rằng,
người- "đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ, những điều
kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính
họ tạo ra" [69, 3, tr. 29]. Điều đó cho thấy, khi xác định bản chất con người,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác không tập trung nghiên cứu cấu trúc cơ
thể của con người, mà tập trung vào những hoạt động của con người trong
lịch sử. C. Mác cho rằng: "Bản thân con người bắt đầu bằng sự phân biệt
với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
của mình-đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định.
Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián
tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình" [69, 3, tr. 29].
Để tồn tại, con vật cũng phải kiếm sống, nhưng cách thức kiếm
sống của chúng khác hẳn với hoạt động sản xuất của con người. Về điểm
này, C. Mác chỉ rõ: "Cố nhiên là con vật cũng sản xuất. Nó xây dựng tổ,
chỗ ở của nó, như con ong, con hải ly, con kiến...Nhưng nó chỉ sản xuất
cái mà bản thân nó hoặc con nó trực tiếp cần đến, nó sản xuất một cách
phiến diện; còn con người thì sản xuất một cách toàn diện, con vật chỉ sản
xuất vì bị chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp; còn con người sản xuất
ngay cả khi được giải phóng khỏi nhu cầu thể xác" [68, I, tr. 119].
C. Mác còn nhấn mạnh thêm: "Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân
nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên" [68, I, tr. 120].
Hơn thế nữa, việc tái sản xuất của con người không chỉ nhằm giải quyết
những nhu cầu vật chất, mà còn vì những nhu cầu tinh thần. Do đó, theo
C. Mác, "con vật chỉ chế tạo theo kích thước và nhu cầu của loài nó, còn
con người thì có thể sản xuất theo kích thước của bất kỳ loài vật nào và ở
đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng; do đó
con người cũng chế tạo theo quy luật của cái đẹp" [68, I, tr. 120]. C. Mác
còn cho rằng: "Con vật tự đồng nhất mình một cách trực tiếp với hoạt
26
động sinh sống của nó. Nó không tự phân biệt nó với hoạt động sinh sống
của nó. Nó là hoạt động sinh sống ấy còn con người thì biến bản thân hoạt
động sinh sống của mình thành đối tượng của ý chí và của ý thức của mình.
Con người có hoạt động sinh sống có ý thức... Hoạt động sinh sống có ý thức
phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh sống của con vật" [68, I,
tr. 118].
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác, con người luôn tồn tại một cách hiện thực, tồn tại với phương
thức đặc thù của nó. Phương thức hoạt động của con người hoàn toàn khác
với phương thức hoạt động của động vật nói chung. Hoạt động của con vật
hoàn toàn mang tính bản năng. Nó hành động trước hết vì miếng ăn, vì sự
bảo tồn nòi giống hay, cao hơn, là bảo vệ lãnh thổ kiếm sống. Hoạt động
của con vật chỉ là hoạt động vì sự tồn tại trực tiếp của nó, của con nó,
ngoài ra, không có ý nghĩa nào khác. Còn con người thì khác hẳn. Hoạt
động của con người là hoạt động có ý thức, hoạt động có ý thức này là
hoạt động riêng có ở con người. Đây là điểm cơ bản để phân biệt con vật
với con người. Nếu thiếu tiêu chí này, người ta có thể nhầm lẫn hoạt động
của con vật với hoạt động của con người. Nói về khả năng hành động
mạnh mẽ của cơ bắp hay một sự khéo léo nào đó của con vật, người ta có
thể so sánh với hoạt động của con người, thậm chí mắt chim ưng còn tinh
hơn mắt người, nhưng có nhiều hiện tượng chỉ con người mới nhìn thấy,
còn loài chim mắt tinh kia không thể nhìn thấy được. Điều này được giải
thích bởi con người là động vật có ý thức, có tư duy và có khả năng nhận
thức cái trừu tượng.
Trong triết học Mác - Lênin, lao động là hoạt động bản chất của
con người. Đó chính là quá trình con người chế tạo ra công cụ lao động và
dùng nó để tác động vào giới tự nhiên, tạo ra sản phẩm phục vụ cho cuộc
27
sống của mình; đồng thời, qua đó, làm biến đổi giới tự nhiên, sáng tạo ra
thế giới của mình. Thông qua lao động, con người không chỉ biến đổi giới
tự nhiên theo mục đích của mình, mà qua đó, con người còn biến đổi chính
bản thân mình. Nhờ có lao động mà con người ngày càng phát triển, ngày
càng hoàn thiện, nhận thức của con người về thế giới khách quan ngày
càng sâu sắc, khả năng chinh phục tự nhiên ngày càng có hiệu quả. Điều
này giúp cho con người trong khi khai thác tự nhiên để phục vụ cho cuộc
sống ngày càng cao của mình đã tái tạo lại tự nhiên. Hơn nữa, thông qua
lao động, con người đã gắn bó và thiết lập mối quan hệ mật thiết với tự
nhiên và với đồng loại. Với triết học Mác - Lênin, "lao động trước hết là
một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó,
bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và
kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Bản thân con người đối diện
với thực thể của tự nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên. Để
chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thức có ích cho đời
sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên về thân
thể của họ: tay và chân, đầu và hai bàn tay. Trong khi tác động vào tự
nhiên ở bên ngoài thông qua sự tác động đó, và làm thay đổi tự nhiên, con
người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó" [69, 23, tr. 266].
Thông qua lao động, con người đã tạo ra những tư liệu thỏa mãn
nhu cầu của mình; đồng thời, cũng thông qua lao động, bản chất tự nhiên
của con người được biểu hiện ra. Đó là những nhu cầu khách quan để duy
trì cuộc sống như ăn, mặc, ở, đi lại... Để thỏa mãn những nhu cầu này, con
người phải hành động. Tuy nhiên, những hành động vì cuộc sống của con
người không phải là những hành động bản năng, hành động sinh vật đơn
thuần. Tuy có một số hành động của con người cũng mang tính bản năng
thuần túy (như sinh đẻ con cái, hoạt động duy trì nòi giống), nhưng ngay ở
28
đó, con người cũng đã biết điều tiết sao cho sự sinh sản phù hợp với điều
kiện sản xuất và phù hợp với nhu cầu xã hội.
Như vậy, có thể nói, trong quan niệm của triết học Mác - Lênin,
con người bằng hoạt động lao động của mình đã làm biến đổi bản chất tự
nhiên và tạo ra bản chất xã hội của chính mình.
Con người không chỉ sống trong môi trường tự nhiên, mà còn sống
trong môi trường xã hội, nên tự nhiên và xã hội trong mỗi con người gắn
bó khăng khít với nhau. Yếu tố sinh học trong mỗi con người không phải
tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội, mà chúng hòa quyện vào nhau và tồn tại
trong yếu tố xã hội. Bản tính tự nhiên của con người được chuyển vào bản
tính xã hội của con người và được cải biến ở trong đó. Trong công trình
hợp tác: "Con người-những ý kiến mới về một đề tài cũ", các tác giả Liên
Xô và Cộng hòa dân chủ Đức đều cho rằng thông qua bản tính xã hội, bản
tính tự nhiên của con người được biến đổi về chất và thường gắn liền với
quá trình biến đổi của con người về tự nhiên. Song, khi lý giải vấn đề này,
người ta đã quên rằng quá trình đó chỉ là quá trình xuất hiện của xã hội, là
sự mở đầu cho quá trình lịch sử phát triển và trưởng thành của con người
thông qua sự phát triển của những quan hệ xã hội. Xã hội, như C. Mác đã
chỉ rõ, cho dù tồn tại với hình thức nào đi chăng nữa, thì nó vẫn cứ là sản
phẩm của sự tác động qua lại giữa con người với con người.
Trong triết học Mác - Lênin, hoạt động của con người chủ yếu là
hoạt động lao động sản xuất, hoạt động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và
thông qua những hoạt động này, con người cải tạo chính bản thân mình,
làm cho con người ngày càng hoàn thiện. Chính những hoạt động này chứ
không phải là cái gì khác đã làm biến đổi mặt sinh học của con người và
làm cho nó mang tính người-tính xã hội. Và cũng chính hoạt động thực
tiễn ấy đã làm cho những nhu cầu sinh vật ở con người trở thành nhu cầu
xã hội. Với quan niệm này, trong: "Vai trò của lao động trong quá trình
29
vượn biến thành người", Ăngghen đã viết: "Lao động là điều kiện cơ bản
đầu tiên của toàn bộ đời sống của con người, và như thế đến một lúc mà
trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: Lao động đã sáng tạo ra chính
bản thân con người" [69, 20, tr. 641]. Con người tồn tại gắn liền với lao
động, bởi nhờ có lao động mà con người thỏa mãn những nhu cầu của
cuộc sống. Vì thế, lao động không chỉ trở thành thuộc tính chung của con
người, lao động còn được xã hội hóa.
Trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, con người là
sản phẩm của sự phát triển cao nhất của tự nhiên, con người gắn bó chặt
chẽ với tự nhiên, tự nhiên là thân thể vô cơ của con người; và bằng hoạt
động thực tiễn của mình, nhất là hoạt động sản xuất, con người đã biến
thuộc tính tự nhiên của mình thành bản chất xã hội. Chỉ có trong xã hội,
con người mới thể hiện bản chất của mình. Tự nhiên và xã hội thống nhất
với nhau trong bản chất con người. Con người là một tổng thể tồn tại bao
gồm cả hai mặt tự nhiên và xã hội. Con người chính là "động vật xã hội",
động vật biết chế tạo và sử dụng công cụ lao động, động vật tự nhận thức
được mình, tự cải tạo chính mình. Con người không chỉ gắn với tự nhiên,
mà còn có khả năng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội. Con người vừa là
chủ thể của nhận thức, vừa là khách thể của nhận thức. Con người, đó là
con người hiện thực, con người nhục thể, đứng vững trên mảnh đất vững
chắc...để thu hút vào mình và tự mình lại tỏa ra tất cả các lực lượng tự
nhiên. Con người hiện thực, theo quan niệm của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác, được thể hiện ra thông qua hoạt động thực tiễn hết sức phong
phú của nó. Bằng hoạt động thực tiễn, con người hình thành nên những
phẩm chất đặc thù của nó, những phẩm chất mà không một loài vật nào có
được-phẩm chất xã hội. Từ đó, các ông cho rằng bản chất đặc thù của con
người không phải là ở thân xác, máu thịt của nó, không phải là ở thể xác
trừu tượng của nó, mà là phẩm chất xã hội của nó.