Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

Năng lực của đội ngũ tri thức khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 135 trang )



1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 7
1. Tính cấp thiết của đề tài 7
2. Câu hỏi nghiên cứu 11
3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 11
3.1. Ý nghĩa lý luận 11
3.2. Ý nghĩa thực tiễn 11
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 12
4.1. Mục đích nghiên cứu 12
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 12
5. Đối tượng - khách thể - phạm vi nghiên cứu 13
5.1. Đối tượng nghiên cứu 13
5.2. Khách thể nghiên cứu 13
5.3. Phạm vi nghiên cứu 13
6. Phương pháp nghiên cứu 13
6.1 Phương pháp phân tích tài liệu 13
6.2. Phương pháp phỏng vấn sâu 14
6.3. Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc 14
7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 15
7.1. Giả thuyết nghiên cứu 15
7.2. Khung lý thuyết 16
NỘI DUNG CHÍNH 17
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 17
1.1. Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu 17
1.1.1. Lý thuyết hành động xã hội 17
1.1.2. Lý thuyết cấu trúc - chức năng 19
1.1.3. Lý thuyết hệ thống 20



2
1.2. Các khái niệm công cụ 22
1.2.1. Khái niệm trí thức/ trí thức khoa học xã hội và nhân văn 22
1.2.2. Khái niệm năng lực/phát huy năng lực 24
1.2.3. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa 26
1.3. Tổng quan vấn đề nghiên cứu 28
1.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về trí thức 32
CHƯƠNG 2: ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: ĐẶC ĐIỂM VÀ NĂNG LỰC 39
2.1. Khái quát về đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn ở nước
ta hiện nay 39
2.2. Đặc điểm đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam
hiện nay 48
2.2.1. Trình độ chuyên môn của trí thức khoa học xã hội và nhân văn 48
2.2.2. Kỹ năng tin học và ngoại ngữ của trí thức khoa học xã hội và nhân
văn 52
2.2.3. Hoạt động chuyên môn của trí thức khoa học xã hội và nhân văn 59
2.3. Tự đánh giá của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn về
năng lực và mức độ phát huy năng lực 63
2.3.1. Tự đánh giá về năng lực của trí thức khoa học xã hội và nhân văn 63
2.3.2. Tự đánh giá về mức độ phát huy năng lực của đội ngũ trí thức khoa
học xã hội và nhân văn 66
2.4. Một số yếu tố ảnh hưởng tới sự phát huy năng lực của đội ngũ trí
thức khoa học xã hội và nhân văn 75
2.4.1. Phù hợp giữa lĩnh vực đào tạo với công việc 75
2.4.2. Môi trường làm việc 79
2.4.3. Về điều kiện sống 95



3
2.4.4. Thái độ của gia đình đối với công việc của đội ngũ trí thức khoa
học xã hội và nhân văn 101
2.4.5. Mong đợi của trí đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn 102
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 109
1. Kết luận………………………………………………………… 109

2. Khuyến nghị…………………………………………………… 111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
PHỤ LỤC 123



4
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Cơ cấu đội ngũ trí thức Việt Nam phân theo ngành đào tạo và bậc
đào tạo 41
Bảng 2.2: Cơ cấu giới của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn 43
Bảng 2.3: Số lượng ngoại ngữ sử dụng được của tri thức khoa học xã hội và
nhân văn 54
Bảng 2.4: Trí thức khoa học xã hội và nhân văn tự đánh giá các kỹ năng ngoại
ngữ 55
Bảng 2.5: Trí thức khoa học xã hội và nhân văn tự đánh giá các kỹ năng tin
học 57
Bảng 2.6: Đánh giá về việc hoàn thành nhiệm vụ của trí thức khoa học xã hội
và nhân văn 60
Bảng 2.7: Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn tự đánh giá năng lực
trí tuệ 64

Bảng 2.8: Mức độ phát huy năng lực trong công việc của trí thức khoa học xã
hội và nhân văn 67
Bảng 2.9: Tương quan giữa mức độ phát huy năng lực và giới tính của trí thức
khoa học xã hội và nhân văn 70
Bảng 2.10: Những yếu tố cần thiết để phát huy năng lực làm việc của cán bộ
khoa học xã hội và nhân văn 73
Bảng 2.11: Sự phù hợp giữa công việc với chuyên môn của trí thức khoa học
xã hội và nhân văn 75
Bảng 2.12: Số lần chuyển công việc của trí thức khoa học xã hội và nhân văn 77
Bảng 2.13: Mức độ phù hợp với chuyên môn của công việc đầu tiên 77
Bảng 2.14: Mức độ phù hợp với chuyên môn của công việc thứ hai 78


5
Bảng 2.15: Đánh giá của trí thức khoa học xã hội và nhân văn về người quản
lý 83
Bảng 2.16: Đánh giá của cán bộ khoa học xã hội và nhân văn về những khó
khăn trong công việc 84
Bảng 2.17: Tương quan giữa đánh giá những khó khăn trong công việc và
giới tính của trí thức khoa học xã hội và nhân văn 86
Bảng 2.18: Đánh giá của trí thức khoa học xã hội và nhân văn về các chính
sách, chế độ ở cơ quan theo thang điểm trung bình 87
Bảng 2.19: Đánh giá về các yếu tố phát triển khoa học và công nghệ của trí
thức khoa học xã hội và nhân văn 93
Bảng 2.20: Điều kiện về nhà ở của trí thức khoa học xã hội và nhân văn 95
Bảng 2.21: Mức đóng góp thu nhập cho gia đình của cán bộ khoa học xã hội
và nhân văn 97
Bảng 2.22: Mức đóng góp đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho gia đình của trí thức
khoa học xã hội và nhân văn 98
Bảng 2.23: Số lượng xe máy trong gia đình trí thức khoa học xã hội và nhân

văn 99
Bảng 2.24: Phòng làm việc riêng của trí thức khoa học xã hội và nhân văn 101
Bảng 2.25: Quan điểm của gia đình về công việc của cán bộ khoa học xã hội
và nhân văn 101
Bảng 2.26: Những mong muốn của cán bộ khoa học xã hội và nhân văn 104
Bảng 2.27: Mong đợi về môi trường làm việc của cán bộ khoa học xã hội và
nhân văn 105
Bảng 2.28: Mức độ sẵn sàng làm việc tại vùng khó khăn của cán bộ khoa học
xã hội và nhân văn 106


6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biều đồ 1: Về môi trường làm việc của trí thức khoa học xã hội và nhân văn 80
Biều đồ 2: Đánh giá về mức độ hợp lý của sự phân công công việc của trí
thức khoa học xã hội và nhân văn 81


7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trí thức là nền tảng của tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức vừa là lực lượng
sáng tạo, truyền bá tri thức vừa là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Đây
cũng là một nhóm xã hội quan trọng đặc biệt là trong thời đại kinh tế trí thức
hiện nay.
Cha ông ta đã xem: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, “phi trí bất
hưng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý
báu của dân tộc, ở nước khác như thế, Việt Nam càng như thế”. [Hồ Chí

Minh, 1947, t5, tr.156]. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng
luôn đề cao vai trò của đội ngũ trí thức, của nguồn lực trí thức.
Từ năm 1975 đến nay, đội ngũ trí thức đã có nhiều đóng góp trong việc
nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống chính trị và nâng cao trí tuệ, sức lãnh
đạo của Đảng, phát triển kinh tế, giáo dục, bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa nhân loại, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Trí
thức đã và đang trở thành nguồn tài nguyên quý giá nhất trong mọi tài
nguyên, là động lực của tăng trưởng kinh tế với sự ra đời, phát triển của nền
“kinh tế tri thức”.
Hiện nay, một trong những vấn đề đáng quan tâm chính là sự lãng phí
năng lực, sử dụng chưa đúng năng lực, chưa đúng chuyên môn đào tạo của
đội ngũ trí thức nói chung và trí thức khoa học xã hội và nhân văn nói riêng.
Ông cha ta có câu: “Một người biết lo bằng một kho người hay làm” chính vì
vậy đội ngũ trí thức càng có vai trò quan trọng trong việc quyết định nhịp độ
phát triển của nền kinh tế tri thức.
Báo cáo chính trị đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nêu rõ: “Phải tạo
nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo


8
hướng hiện đại. Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta có thể
và cần rút ngắn thời gian. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế xã hội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, nhiều điều kiện nhưng chủ yếu nhất vẫn là phụ thuộc
vào con người”. [Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo Chính trị Đại hội IX,
2001]. Sự khẳng định này đã thể hiện đúng đắn trong hoàn cảnh nước ta đang
ở giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Do đó khi so sánh các
nguồn lực với tư cách là các điều kiện, tiền đề để phát triển đất nước và thực
hiện công nghiệp hóa thì nguồn lực trí thức, năng lực của đội ngũ trí thức đặc
biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn đóng vai trò quyết định.
Trong Nghị quyết Trung ương 7 khóa X của Ban chấp hành Trung

ương Đảng cũng khẳng định rất rõ vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết nhấn mạnh:
“Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và
công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt trong chiến
lược phát triển, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia”; “Xây dựng đội ngũ trí
thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất
nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ
thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền
vững”. [Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị 7 Ban Chấp hành Trung ương
khóa X, 2008, tr.90-91].
Nghị quyết số 27 - NQ/T.Ư về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta cũng quan niệm
rằng: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về
lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền
bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá
trị đối với xã hội”. [Nghị quyết số 27 khóa X, 2008].


9
Cho đến Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ phương hướng:
"Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm
chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ
xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có chính sách đặc biệt đối với nhân
tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của
các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính
sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng
và Nhà nước". [Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị Đại hội XI, 2011,

tr. 241-242].
Với mục tiêu: "Đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt
chất lượng cao, số lượng đông và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên
tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Đảng và Nhà nước với
trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí". [Đảng Cộng sản Việt
Nam, Hội nghị 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X, 2008, tr.90].
Chính vì vậy, đội ngũ trí thức phải chiếm vị trí trung tâm trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội. Đây được xem là nguồn lực của mọi nguồn lực,
là nhân tố quan trọng bậc nhất để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một
nước công nghiệp. Do đó, khai thác, sử dụng có hiệu quả và phát triển đội ngũ
trí thức là vấn đề quan trọng góp phần thực hiện thành công quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn có nguồn lực chất lượng tốt, chúng
ta phải có những hoạt động tích cực để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
mà trước hết phải bắt đầu từ việc giáo dục, đào tạo.


10
Giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng, tay nghề trong hoạt động,
nâng cao tay nghề, hình thành phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức và tâm
lý, tạo nên những hình mẫu con người đặc trưng và tương ứng với những xã
hội khác nhau, tạo ra năng lực hoạt động cho mỗi cá nhân trong xã hội. Đó
chính là chiến lược đúng đắn của Nhà nước ta hiện nay nhưng muốn làm được
điều đó, chúng ta cần phải nghiên cứu một cách chính xác để đưa ra những
giải pháp hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả, năng lực hoạt động sáng tạo, tư duy
khoa học của đội ngũ trí thức và phát huy được hết tiềm năng của nguồn lực
này trong sự nghiệp đổi mới - hội nhập của nước ta hiện nay.
Với tư cách là chủ thể chính sáng tạo ra tri thức khoa học, đội ngũ
trí thức Việt Nam chính là lực lượng đi đầu cho sự phát triển của đất

nước. Cho nên, nước ta cần phải phát huy tối đa tiềm năng trí tuệ của đội
ngũ trí thức, đặc biệt là đội ngũ trí thức thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và
nhân văn.
Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam, trong những
năm qua đã có những đóng góp to lớn vào đời sống chính trị, xã hội của đất
nước như: Tham gia chuẩn bị, góp ý kiến cho các văn kiện, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước; phổ biến kiến thức, khuyến khích đưa nhanh các tiến bộ
khoa học vào đời sống… Tuy nhiên, đội ngũ trí thức trong nền kinh tế trí thức
hiện nay bên cạnh những kết quả đã đạt được, đội ngũ trí thức khoa học xã
hội và nhân văn vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như: Hiệu quả hoạt
động chưa tương xứng với tiềm năng của đội ngũ này, chưa đáp ứng tốt
những yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói
riêng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới.
Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn về tìm hiểu năng lực của
nguồn lực trí thức nói chung và trí thức khoa học xã hội và nhân văn nói


11
riêng ở Việt Nam hiện nay, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Năng lực của đội
ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam trong thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Câu hỏi nghiên cứu
- Năng lực của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
- Phát huy năng lực của trí thức khoa học xã hội và nhân văn chịu ảnh
hưởng của những nhân tố nào?
- Làm thế nào để phát huy năng lực của đội ngũ trí thức khoa học xã
hội và nhân văn hiện nay?

3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về
trí thức và phát triển đội ngũ trí thức làm cơ sở lý luận cho đề tài.
Dựa trên cách tiếp cận của xã hội học, vận dụng hệ thống các khái niệm
và lý thuyết làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
Dựa trên các quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển đội ngũ trí
thức nói chung và phát triển đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn nói
riêng của Đảng và Nhà nước đồng thời có sự kế thừa các nhân tố hợp lý của
những thành tựu nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn liên quan đến đề
tài trước đó để làm sáng tỏ năng lực và mức độ phát huy năng lực của đội
ngũ này cũng như những yếu tố tác động tới sự phát huy năng lực của trí
thức khoa học xã hội và nhân văn hiện nay.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn


12
Phân tích và làm sáng tỏ thực trạng sử dụng và phát huy năng lực của
đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn với việc phát triển
kinh tế - xã hội, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người mới trong thời
kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Kết quả mà luận văn đạt được có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho việc tìm hiểu thực trạng phát huy năng lực của đội ngũ trí thức trong lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam trong thời kỳ thời kỳ công
nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay cũng như tìm hiểu về chất lượng
nguồn lực con người trong các giai đoạn phát triển khác nhau dưới sự tác
động của nền kinh tế thị trường hiện nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu này hướng tới làm sáng tỏ năng lực và mức độ phát huy

năng lực của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn hiện nay, từ đó đề
xuất những khuyến nghị góp phần nâng cao và phát huy năng lực của đội ngũ
trí thức khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Mô tả khái quát về đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn hiện
nay.
- Đánh giá mức độ phát huy năng lực của đội ngũ trí thức khoa học xã
hội nhân văn hiện nay.
- Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát huy năng lực của đội
ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn.
- Đề xuất những khuyến nghị nhằm phát huy năng lực của đội ngũ trí
thức khoa học xã hội và nhân văn hiện nay.



13
5. Đối tượng - khách thể - phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Năng lực của đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn ở Việt Nam hiện nay.
5.2. Khách thể nghiên cứu
Đội ngũ trí thức trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.
5.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sử dụng số liệu khảo sát của đề tài KX.03.22/06-10: “Xây
dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng
đất nước trong thế kỷ XXI” do GS.TS Nguyễn Văn Khánh làm chủ nhiệm đề
tài, đã được nghiệm thu vào đầu năm 2011.
Đề tài đã tiến hành khảo sát đội ngũ trí thức ở 4 địa bàn là Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Bình Dương. Trong nghiên cứu này, tác
giả giới hạn khai thác số liệu khảo sát về trí thức khoa học xã hội và nhân văn

ở Việt Nam hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp phân tích tài liệu
Những tài liệu về các công trình nghiên cứu, các bài báo, luận văn liên
quan đến nguồn lực, đội ngũ trí thức, phát huy năng lực của đội ngũ trí thức.
Đây là phương pháp hỗ trợ cho việc thu thập các thông tin liên quan đến nội
dung nghiên cứu của đề tài.
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích thứ cấp được rút ra từ bộ số liệu
được khảo sát của đề tài KX.03.22/06-10: “Xây dựng và phát huy nguồn lực trí
tuệ Việt Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước trong thế kỷ XXI”.
Được sự cho phép của chủ nhiệm đề tài, tác giả đã phân tích riêng 328
trường hợp trí thức khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam được khảo sát


14
trong đề tài. Đây là sự phân tích dữ liệu định lượng mà người khác đã thu thập
để sử dụng cho vấn đề của người nghiên cứu.
Cơ cấu mẫu phân tích trong đề tài:



Tần suất
Phần trăm
1
Giới
Nam
174
53 %
Nữ
154

47%
2
Tình trạng hôn nhân
Chưa từng kết hôn
85
25,9%
Đang có vợ/chồng
238
72,6%
Ly thân/ly hôn/góa
5
1,5%
3
Học vị
Cử nhân/kỹ sư
216
65,9%
Thạc sỹ
92
28%
Tiến sỹ
20
6,1%

6.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Để làm sáng rõ hơn cho vấn đề nghiên cứu và có thêm cơ sở để đánh
giá năng lực, mức độ phát huy năng lực của trí thức khoa học xã hội và nhân
văn hiện nay, với 40 trường hợp phỏng vấn sâu (20 nam và 20 nữ), tác giả đã
tập trung vào:
Đối tượng phỏng vấn: trí thức làm việc trong lĩnh vực giáo dục, nghiên

cứu, quản lý…
Mục đích phỏng vấn: Thu thập thông tin về khả năng tự đánh giá năng
lực của trí thức; mức sống, điều kiện tác động tới năng lực và môi trường làm
việc của trí thức cũng như những nhìn nhận, đánh giá, quan điểm về vấn đề sử
dụng năng lực của trí thức khoa học xã hội và nhân văn hiện nay ở nước ta…
6.3. Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc
Bên cạnh quá trình thu thập những kết quả của điều tra bằng bảng hỏi,
trưng cầu ý kiến và những thông tin từ phỏng vấn sâu cho thấy nghiên cứu
cần được bổ sung những dữ liệu định tính. Do đó, phương pháp phỏng vấn


15
bán cấu trúc đã được lựa chọn nhằm làm rõ hơn những thông tin định lượng
đã thu thập được.
Bảng hỏi bán cấu trúc tập trung vào các vấn đề sau: đánh giá các tiêu
chí quan trọng và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên của đội ngũ trí thức, đánh giá về
trình độ ngoại ngữ và tin học, mức độ hoàn thành công việc, chế độ khen
thưởng và cơ chế khen thưởng, sự ủng hộ và tạo điều kiện của gia đình đội
ngũ trí thức.
Số lượng phỏng vấn bán cấu trúc: 40 trường hợp ( 20 nam, 20 nữ)
7. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết
7.1. Giả thuyết nghiên cứu
Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn ngày càng tăng về số
lượng và chất lượng ngày càng được nâng cao.
Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn đã phát huy tốt năng lực
và đang dần đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới thực trạng phát huy năng lực của
đội ngũ trí thức… trong đó các nhân tố: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, định
hướng giá trị, chuyên môn nghề nghiệp và hệ thống chính sách của Đảng và

Nhà nước ban hành đang có ảnh hưởng rất lớn tới đội ngũ trí thức và vấn đề
phát huy năng lực của đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay.



16

7.2. Khung lý thuyết

Bối cảnh KT-VH-CT-XH

Đặc điểm của trí thức
KHXH&NV


Gia đình

Năng lực của trí thức
KHXH&NV

Trí thức KHXH&NV



Cá nhân



Tự đánh
giá về

năng lực
Đánh giá
mức độ
phát huy
năng lực


17
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Các lý thuyết sử dụng trong nghiên cứu
1.1.1. Lý thuyết hành động xã hội
Weber được xem là nhà xã hội học đầu tiên khởi xướng quan điểm
hành động xã hội. Theo ông, đối tượng đích thực của xã hội học là hành động
xã hội. Ông nói: "Xã hội học là một khoa học cố gắng hiểu theo kiểu diễn
giải hành động xã hội để bằng cách đó đạt tới việc giải thích nhân quả về
chuỗi hành động và tác động của nó. Hành động là hành vi con người khi và
chỉ trong chừng mực khi cá nhân đang hành động gắn một ý nghĩa chủ quan
vào đó" (Bailey, 2003, tr. 185). Theo quan điểm của ông cho rằng, hành động
xã hội là hành động hướng tới sự đáp lại của người khác hay hành động xã
hội là hành động mà chủ thể gắn cho đối tượng một ý nghĩa chủ quan nhất
định. Do đó, giải thích xã hội học đối với hành động phải bắt đầu bằng việc
quan sát và lý giải trạng thái tinh thần chủ quan.
Trong khi nhà thực chứng luận nhấn mạnh đến sự kiện và quan hệ nhân
quả, thì nhà hành động luận nhấn mạnh đến sự thấu hiểu. Vì không thể đi vào
bên trong đời sống tinh thần của chủ thể nên nhà xã hội học phải phát hiện các
ý nghĩa, đạt được sự thấu hiểu bằng phương pháp lý giải, mà không thể bằng
đo lường khách quan. Vì các ý nghĩa thường xuyên được dàn xếp trong quá
trình tương tác, nên không thể thiết lập được các quan hệ nhân quả đơn giản.
Theo quan niệm của Weber, một hành động xã hội là một hành động

của một cá nhân mà có gắn một ý nghĩa vào hành động ấy, và cá nhân đó tính
đến hành vi của người khác, bằng cách như vậy mà định hướng vào chuỗi
hành động đó. Một hành động mà một cá nhân không nghĩ về nó thì không
thể là một hành động xã hội. Mọi hành động không tính đến sự tồn tại và
những phản ứng có thể có từ những người khác thì không phải là hành động


18
xã hội. Hành động không phải là kết quả của quá trình suy nghĩ có ý thức thì
không phải là hành động xã hội. Do vậy, khi đề cập đến các loại hành động xã
hội, ông đã chia hành động xã hội ra 4 loại cơ bản:
Thứ nhất là hành động xã hội theo mục đích: người hành động phải
chọn mục đích nào và phương tiện nào để đạt được mục đích, kết quả cao
nhất. Ông cho rằng chỉ đến xã hội tư bản, hành động hợp mục đích mới phát
triển đầy đủ và chiếm ưu thế.
Thứ hai là hành động xã hội theo giá trị: đây là loại hành động hợp lý
về giá trị-hướng tới những giá trị, nghĩa là khi diễn ra hành động thì chủ thể
hành động phải suy nghĩ kiểm tra.
Thứ ba là hành động xã hội theo cảm xúc: không tuân theo qui luật,
lôgic biện chứng của khoa học mà tuân theo những qui luật tâm lý.
Thứ tư là hành động theo truyền thống: là loại hành động mà chủ thể
hành động xuất phát từ cái họ cho là họ đã học hành hay kinh nghiệm từ trước
đó.
Cấu trúc của hành động xã hội gồm: Nhu cầu và lợi ích cá nhân; chủ
thể hành động; hoàn cảnh (môi trường) hành động và phương tiện (công cụ)
hành động.
1. Nhu cầu và lợi ích của cá nhân: Đây là yếu tố tạo động cơ thúc đẩy
hành động để thỏa mãn. Động cơ này sẽ tạo ra tính tích cực của chủ thể, tham
gia định hướng hành động và quy định mục đích của hành động.
2. Chủ thể hành động: Là cá nhân, nhóm, cộng đồng, xã hội.

3. Hoàn cảnh/môi trường của hành động: Là điều kiện về thời gian,
không gian vật chất và tinh thần của hành động. Sự tác động của môi trường,
hoàn cảnh tới hành động như thế nào? Tuỳ theo hoàn cảnh hành động mà các
chủ thể hành động sẽ lựa chọn phương án tối ưu nhất đối với họ.


19
4. Phương tiện/ công cụ: Là cách thức mà chủ thể sử dụng để thực
hiện hành động và đạt được mục đích của mình.
Vận dụng lý thuyết hành động xã hội, tác giả tìm hiểu mục đích và
nhu cầu được nâng cao năng lực của đội ngũ trí thức cũng như những lợi ích
từ việc tham gia các hoạt động nghiên cứu chuyên môn, hoạt động nâng cao
mức sống cho bản thân và gia đình thông qua các hành động cụ thể… của đội
ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn.
1.1.2. Lý thuyết cấu trúc - chức năng
Lý thuyết cấu trúc - chức năng với những đại diện tiêu biểu như: A.
Comte, H.Spencer, E.D.Khiem, V. Pareto. Các tác giả này đều nhấn mạnh tới
tính liên kết chặt chẽ của các bộ phận cấu thành nên một chỉnh thề mà mỗi bộ
phận đều có những chức năng nhất định góp phần đảm bảo sự tồn tại của
chỉnh thể đó với tư cách là một cấu trúc tương đối ổn định và bền vững.
Lý thuyết cấu trúc - chức năng cho rằng: một xã hội tồn tại được, phát
triển được là do các bộ phận cấu thành của nó hoạt động nhịp nhàng với nhau
để đảm bảo sự cân bằng chung của cả cấu trúc, bất kỳ sự thay đổi nào ở thành
phần nào cũng kéo theo sự thay đổi ở các thành phần khác.
Sự biến đổi của cấu trúc tuân theo quy luật tiến hoá, thích nghi, khi môi
trường có sự thay đổi và sự biến đổi cấu trúc hướng tới sự thiết lập lại trạng
thái cân bằng và ổn định.
Đối với cấu trúc xã hội, các đại diện của thuyết chức năng vừa nhấn
mạnh tính hệ thống của nó vừa đề cao vai trò quan trọng của hệ giá trị - hệ giá
trị chuẩn mực xã hội trong việc tạo dựng sự nhất trí, thống nhất, ổn định và

trật tự xã hội.
Vận dụng lý thuyết này vào vấn đề cụ thể, thuyết chức năng hướng vào
giải quyết vấn đề bản chất của cấu trúc xã hội và hệ quả của cấu trúc xã hội
đó. Đặt trong bối cảnh sự kiện, hiện tượng là tìm hiểu năng lực của đội ngũ trí


20
thức thì vấn đề là hướng vào phân tích thực trạng năng lực của trí thức hiện
nay và các thành phần tác động tới khả năng làm việc của đội ngũ trí thức
cũng như hệ thống các các cơ chế, chính sách dành cho đội ngũ trí thức nói
chung và trí thức khoa học xã hội và nhân văn nói riêng hiện nay như thế nào?
1.1.3. Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết hệ thống được áp dụng trong nghiên cứu xã hội đã coi xã
hội là một hệ thống với tập hợp những yếu tố liên hệ với nhau, tạo thành sự
thống nhất ổn định và tính chỉnh thể. Hệ thống này có những thuộc tính và
những quy luật tích hợp. Nguyên lý tính chỉnh thể là nguyên lý xuất phát
đồng thời là nguyên lý trung tâm của lý thuyết hệ thống. Nó cho thấy đặc
trưng cơ bản nhất của hệ thống là tính thống nhất chỉnh thể. Tính thống
nhất của hệ thống còn là sự thống nhất trong đa dạng hay gọi đó là nguyên
lý tính phức thể. Hệ thống là một thể phức tạp, đa cấu trúc, đa chức năng,
phức tạp về các loại quan hệ. Trong cấu trúc có hệ thống đóng khác với hệ
thống mở; hệ thống thuần nhất khác với hệ thống không thuần nhất; Hệ thống
điều khiển với hệ thống bị điều khiển. Còn trong chức năng có những phạm
trù thể hiện hành vi, hành động, hoạt động nhằm duy trì hệ thống; trong quan
hệ có quan hệ vĩ mô khác quan hệ vi mô, quan hệ bên trong (nội tại) khác với
quan hệ bên ngoài
Lý thuyết hệ thống trong xã hội học gắn liền với tên tuổi Talcott
Parsons - nhà xã hội học người Mỹ.
Về mặt lý thuyết, Parsons xem xét hệ thống trong một trục toạ độ 3
chiều: Cấu trúc - Chức năng - Kiểm soát. Tức là hệ thống nào cũng có cấu

trúc của nó, hệ thống luôn nằm trong trạng thái động vừa tự biến đổi vừa trao
đổi với môi trường xung quanh, hệ thống có khả năng điều khiển và tự điều
khiển.


21
Parsons đã đưa ra sơ đồ nổi tiếng về hệ thống chức năng xã hội, viết tắt
là AGIL. Trong đó gồm bốn loại yêu cầu chức năng hợp thành:
(A)- Thích ứng với môi trường.
(G)- Hướng đích - huy động các nguồn lực để đạt mục tiêu.
(I) - Liên kết, phối hợp các hoạt động.
(L)- Duy trì khuôn mẫu để tạo ra sự ổn định, trật tự.
Tương ứng với sơ đồ AGIL, trong bất kỳ hệ thống xã hội nào, người ta
có tiểu hệ thống kinh tế; tiểu hệ thống chính trị; tiểu hệ thống pháp luật và
tiểu hệ thống các giá trị, chuẩn mực xã hội được quy chuẩn thông qua các
thiết chế của gia đình, nhà trường, tổ chức văn hoá, tôn giáo.
Sự tương quan và tương tác trong sơ đồ AGIL sẽ đảm bảo trật tự, ổn
định của hệ thống xã hội.
Với những đặc trưng, tính chất nói trên, chúng ta có thể vận dụng lý
thuyết hệ thống vào nghiên cứu năng lực của đội ngũ trí thức khoa học xã hội
và nhân văn trong giai đoạn công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay.
Trước hết coi năng lực của cá nhân như là tổng hợp của nhiều yếu tố
thống nhất. Tính chỉnh thể của năng lực thể hiện qua các yếu tố cấu thành như
điều kiện môi trường làm việc, điều kiện và sự tác động của gia đình, khả
năng của bản thân cá nhân. Trong đó điều kiện môi trường làm việc thể hiện ở
cơ sở vật chất, mối quan hệ với đồng nghiệp, năng lực của người quản lý…;
về khía cạnh gia đình đó là nhà ở, phương tiện sinh hoạt, sự quan tâm-tạo điều
kiện của gia đình…; về khả năng của cá nhân đó là tính tự chủ, tính nhanh
nhạy, khả năng làm việc độc lập, sự tham gia các hoạt động chuyên môn…

Đến lượt nó, năng lực của cá nhân lại chịu tác động của tổ hợp các yếu
tố kinh tế xã hội như nghề nghiệp, gia đình, địa vị xã hội, giới, học vấn và


22
môi trường xã hội. Nghiên cứu năng lực của đội ngũ trí thức khoa học xã hội
và nhân văn cần phải đặt trong tổng thể hệ thống những yếu tố này.
Ngoài ra còn phải xem xét năng lực của cá nhân như một phạm trù có
tính hệ thống luôn luôn biến đổi và ngày càng được nâng lên. Khi xã hội phát
triển, năng lực của cá nhân cũng chuyển động theo đúng khả năng của mỗi cá
nhân. Sự hướng đích của mọi sự phát triển là tạo ra sự cân bằng, hài hoà trong
hệ thống năng lực của từng nhóm xã hội nói chung và nhóm trí thức khoa học
xã hội và nhân văn nói riêng đồng thời có sự ảnh hưởng đến các phương diện
khác của xã hội.
Như vậy, vận dụng lý thuyết hệ thống vào tìm hiểu năng lực của trí
thức khoa học xã hội và nhân văn sẽ giúp lý giải phần nào theo các nguyên lý
của hệ thống, và thông qua đó để phân tích những đặc điểm của sự biến đổi và
những nhân tố tác động đến đội ngũ trí thức này hiện nay.
1.2. Các khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm trí thức/ trí thức khoa học xã hội và nhân văn
Khái niệm “Trí thức”
Hiện nay, còn có nhiều cách tiếp cận, cách hiểu khác nhau về trí thức:
- Đại từ điển Tiếng Việt cho rằng: “Trí thức là những người chuyên làm
việc lao động trí óc”. [Nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hà Nội, 1998,
tr.1705].
- Từ điển Bách khoa Việt Nam xác định: Trí thức, “tầng lớp xã hội làm
nghề lao động trí óc, trong đó bộ phận chủ yếu là người có trình độ học vấn
cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát minh.
Trí thức bao gồm các nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy giáo, thầy
thuốc, luật sư, nhà văn, nghệ sỹ…”. [Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà

Nội, 2005, t.4, tr.582].


23
- Theo Đề án phát triển trí thức Việt Nam, có 3 cách hiểu về trí thức
như sau:
Trí thức là người lao động trí óc, có hiểu biết sâu và rộng, thông
thường, có trình độ đại học và tương đương trở lên, có năng lực sáng tạo, có
trình độ phát triển về trí tuệ, nhạy bén với cái mới và quan tâm đến đổi mới
để phát triển.
Trí thức là người có trình độ chuyên môn sâu, rộng trong một lĩnh vực
nhất định, được hình thành qua đào tạo, bồi dưỡng và phát triển không ngừng
bằng con đường tự đào tạo, lao động và hoạt động sáng tạo của mỗi cá nhân.
Trí thức có nhu cầu cao về đời sống tinh thần và hướng tới các giá trị
chân - thiện - mỹ; có lòng tự trọng, khát vọng tự do, dân chủ, công bằng.
Nghị quyết 27 - Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7
(khóa X) xác định rõ: Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học
vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng
tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật
chất có giá trị đối với xã hội.
Thực tiễn đổi mới đã khách quan hóa vai trò và tầm quan trọng của trí
thức đối với sự phát triển của đất nước và dân tộc. Nhận thức rõ vấn đề này,
Đảng ta khẳng định: “Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã
hội, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày
nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo
nên sức mạnh của mọi quốc gia trong chiến lược phát triển”. [Đảng Cộng sản
Việt Nam, Hội nghị 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Hà Nội, 2004,
tr.88].
Mặc dù đã có nhiều cách hiểu, khái niệm, định nghĩa khác nhau về trí

thức hiện nay nhưng trong phạm vi luận văn này, tác giả sử dụng định nghĩa


24
trí thức theo tinh thần của Nghị quyết số 27. Đây là định nghĩa đã khái quát
đặc trưng và tiêu chí cơ bản của trí thức Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở định
nghĩa này, khi hoạch định chính sách, chế độ cần phải cụ thể hoá, như ấn định
bằng cấp nào là trí thức, tiêu chí đối với trí thức trong các lĩnh vực, ngành
nghề, các thời kỳ khác nhau; cần xác định rõ trí thức là những người như thế
nào
Nghị quyết 27/TW cũng xác định khái niệm “Đội ngũ trí thức”: Là lực
lượng những người lao động, chủ yếu là lao động trí óc, có trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn nhất định, đang hoạt động nghề nghiệp trên các lĩnh vực
kinh tế xã hội bao gồm: khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, văn hoá nghệ
thuật, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, hệ thống các tổ chức chính trị,
chính trị xã hội, xã hội nghề nghiệp, và các hội trí thức…
Đội ngũ trí thức đã nghiên cứu, cung cấp nhiều luận cứ khoa học, giúp
Đảng bộ, chính quyền địa phương vận dụng cụ thể hóa các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước sát với điều kiện thực tiễn của địa phương, góp
phần trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.
Khái niệm “Trí thức khoa học xã hội và nhân văn”
Trí thức khoa học xã hội nhân văn nằm trong cơ cấu chung của trí thức
Việt Nam và là bộ phận hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn.
Họ có tri thức sâu rộng về xã hội và về con người. Bằng lao động sáng tạo của
mình, họ tham gia vào đời sống chính trị - xã hội và trở thành một nguồn lực
trí tuệ quan trọng giúp cho xã hội không ngừng tiến bộ.
1.2.2. Khái niệm năng lực/phát huy năng lực
Khái niệm “Năng lực”
Theo Từ điển Tiếng Việt “Năng lực” được hiểu là: Khả năng, điều kiện
chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Hay năng

lực là một phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành


25
một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao. [Từ điển Tiếng Việt, 1994,
tr.639].
Trong Tâm lý học, Năng lực là một trong những vấn đề được quan tâm
nghiên cứu, có ý nghĩa thực tiễn và lý luận to lớn vì sự phát triển năng lực của
mọi thành viên trong xã hội sẽ đảm bảo cho mọi người tự do lựa chọn một
nghề nghiệp phù hợp với khả năng của cá nhân, làm cho hoạt động của cá
nhân có kết quả hơn, và cảm thấy hạnh phúc khi lao động. Như vậy, theo
quan điểm của những nhà tâm lý học, năng lực là tổng hợp các đặc điểm,
thuộc tính tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt
động, nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao.
Việt Nam hiện nay, có khá nhiều nhà nghiên cứu tới các vấn đề năng
lực của con người trong đó có liên quan tới những năng lực nghề nghiệp đã
định nghĩa: Năng lực nghề nghiệp là sự tương ứng giữa những đặc điểm tâm
sinh lý của con người với những yêu cầu do nghề đặt ra”. [Phạm Tất Dong,
1989, tr.72].
Trong một số công trình nghiên cứu khoa học, các nhà Tâm lý học
cũng đưa ra những quan niệm khác nhau về năng lực: "Nói đến năng lực lao
động và công tác là nói tới tay nghề và đạo đức…". [Phạm Minh Hạc, 1996,
tr. 325]…
Như vậy, bất cứ hoạt động nào của con người, để thực hiện có hiệu quả,
con người cần phải có một số phẩm chất tâm lý cần thiết và tổ hợp những
phẩm chất này được gọi là năng lực. Theo quan điểm của Tâm lý học mác xít,
Năng lực của con người luôn gắn liền với hoạt động của chính họ. Như vậy,
nội dung và tính chất của hoạt động được quy định bởi nội dung và tính chất
của đối tượng của nó, do đó khi nói đến năng lực cần phải hiểu năng lực
không phải là một thuộc tính tâm lý duy nhất nào đó (như khả năng tri giác,

trí nhớ ) mà là sự tổng hợp các thuộc tính tâm lý cá nhân (sự tổng hợp này

×