Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ đặc điểm sinh học, sinh thái của loài châu chấu mía hieroglyphus tonkinensis bolivar, 1912 (orthoptera acrididae) và biện pháp phòng trừ tại hòa bình.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.08 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI




NGUYỄN HỒNG YẾN



ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI
CỦA LOÀI CHÂU CHẤU MÍA Hieroglyphus tonkinensis
Bolivar, 1912 (Orthoptera: Acrididae)
VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ TẠI HÒA BÌNH













Chuyên ngành : Bảo vệ thực vật
Mã số : 62.62.01.12






TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ




HÀ NỘI - 2013

Công trình hoàn thành tại:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

Người hướng dẫn: GS.TS. NGUYỄN VĂN ĐĨNH
PGS.TS. HỒ THỊ THU GIANG



Phản biện 1: GS.TSKH. VŨ QUANG CÔN
Hội Côn trùng



Phản biện 2: PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM OANH
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội



Phản biện 3: GS.TS. PHẠM VĂN LẦM
Viện Bảo vệ thực vật



Luận án được bảo vệ tại hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại:
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
Vào hồi giờ, ngày tháng năm 2013


Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội

1

MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về họ Acrididae còn rất ít, hầu hết là những
nghiên cứu về biện pháp phòng chống. Thực tế đã cho thấy việc phòng chống
các đợt dịch châu chấu ở nước ta còn rất thụ động, thường chỉ được tiến hành
khi châu chấu đã lớn, di chuyển mạnh và gây tác hại đáng kể tới cây trồng. Đây
là điều trái ngược với nguyên tắc có tính chất mấu chốt, quyết định hiệu quả
phòng trừ châu chấu chính là việc phát hiện sớm và phòng trừ ngay từ ấu trùng
tuổi nhỏ (Matheson, 2003; Prveling, 2005).
Năm 1997 tỉnh Hòa Bình đã phải công bố dịch với loài châu chấu thuộc giống
Hieroglyphus Krauss (Nguyễn Hồng Yến, 1998), từ đó đến nay, chúng vẫn thường
phát sinh từ tháng 4 đến tháng 9 hàng năm ở tỉnh này. Cho đến nay, những dữ liệu đã
công bố ở nước ta về các loài thuộc giống Hieroglyphus Krauss chủ yếu là những
thông tin theo các tài liệu nước ngoài mà ít có những nghiên cứu chuyên sâu.
Với mong muốn tìm được những giải pháp để góp phần giải quyết những
bấp cập và hạn chế đã nêu trên, chúng tôi triển khai thực hiện đề tài “Đặc điểm

sinh học, sinh thái của loài châu chấu mía Hieroglyphus tonkinensis Bolivar,
1912 (Orthoptera: Acrididae) và biện pháp phòng trừ tại Hòa Bình”.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Đề tài đã xác định được loài châu chấu phổ biến thuộc giống Hieroglyphus
ở Hòa Bình là châu chấu mía H. tonkinensis Bolivar, 1912. Đồng thời đề tài đã
nghiên cứu một cách hệ thống về đặc điểm hình thái, sinh học và một số yếu tố
tác động đến sự phát sinh, phát triển của châu chấu mía H. tonkinensis ở tỉnh Hòa
Bình; các kết quả này là những dẫn liệu khoa học mới cho công tác nghiên cứu và
đào tạo.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài đã xác định nơi đẻ trứng tập trung của châu chấu mía H. tonkinensis;
đề xuất được biện pháp phòng chống một cách có hiệu quả bằng các biện pháp
canh tác, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học và hóa học hợp lý, trên cơ sở
giám sát sự phát sinh gây hại của chúng hàng năm. Kết quả của đề tài là cơ sở để
góp phần quản lý loài châu chấu này tại tỉnh Hòa Bình nói riêng cũng như những
vùng thường xuyên bị châu chấu gây hại trong cả nước nói chung.
3. Mục đích, yêu cầu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở những nghiên cứu về sinh học, sinh thái học của loài châu
chấu mía H. tonkinensis để xây dựng biện pháp quản lý chúng một cách hiệu

2

quả và bền vững.
3.2. Yêu cầu
- Xác định được thành phần loài châu chấu của tỉnh Hòa Bình ở khu vực
nghiên cứu.
- Xác định được đặc điểm hình thái, vị trí phân loại, mức độ phổ biến và ý
nghĩa kinh tế của châu chấu mía H. tonkinensis ở tỉnh Hòa Bình.

- Xác định được những đặc điểm sinh vật học, sinh thái học cơ bản của
châu chấu mía H. tonkinensis.
- Xây dựng được qui trình phòng chống tổng hợp đối với loài châu chấu
mía H. tonkinensis ở tỉnh Hòa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các loài châu chấu
thuộc họ Acrididae ở tỉnh Hòa Bình
Châu chấu mía Hieroglyphus tonkinensis Bolivar, 1912.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu về nhóm châu chấu thuộc họ Acrididae ở
tỉnh Hòa Bình, tại 03 huyện thường xuyên bị châu chấu gây hại trên cây trồng
nông nghiệp và lâm nghiệp (Cao Phong, Tân Lạc, Đà Bắc).
- Đề tài đi sâu nghiên cứu các đặc điểm hình thái, sinh học, sinh thái của
châu chấu mía H. tonkinensis. Tìm hiểu đặc điểm phát sinh gây hại của chúng,
đồng thời nghiên cứu áp dụng một số biện pháp canh tác, sinh học, hóa học phòng
chống châu chấu mía; từ đó xây dựng quy trình phòng chống tổng hợp loài dịch hại
quan trọng này.
5. Những đóng góp mới của đề tài
- Ghi nhận mới 4 loài châu chấu cho khu vực tỉnh Hòa Bình.
- Cung cấp dẫn liệu khoa học mới về đặc điểm hình thái, đặc điểm sinh vật
học; ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái đến tỷ lệ sống sót và sự phát sinh gây
hại của châu chấu mía H. tonkinensis ở tỉnh Hòa Bình.
- Đề xuất qui trình phòng chống tổng hợp châu chấu mía H. tonkinensis cho
tỉnh Hòa Bình.
6. Cấu trúc của luận án
Luận án chính 109 trang gồm 38 bảng, 19 hình, với 5 phần: Mở đầu (4
trang); Chương 1. Cơ sở khoa học của đề tài và tổng quan tài liệu nghiên cứu
(23 trang); Chương 2. Vật liệu, nội dung và phương pháp nghiên cứu (20 trang).
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận (60 trang); Kết luận và đề nghị (2

trang). Tổng số 94 tài liệu tham khảo (gồm 24 tài liệu tiếng Việt, 70 tài liệu
tiếng Anh).

3

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI VÀ
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Xung quanh tên gọi của loài châu chấu thuộc giống Hieroglyphus Krauss
gây hại ở tỉnh Hòa Bình có nhiều ý kiến khác nhau. Viện Bảo vệ thực vật (1976);
Phạm Thị Thùy (1998) cho rằng đó là loài H. tonkinensis Bolivar; Lưu Tham
Mưu (2000) cho rằng đó là loài H. banian Fabricius và khẳng định rất khó phát
hiện loài H. tonkinensis ở Việt Nam; tiếp theo đó, Nguyễn Thế Nhã (2003) đã
khẳng định loài châu chấu thu thập được tại tỉnh Hòa Bình là loài H. tonkinensis
Bolivar. Do đó việc tìm hiểu, chứng minh xác định tên loài châu chấu phổ biến ở
tỉnh Hòa Bình thuộc giống Hieroglyphus Krauss là loài nào và chúng có đặc điểm
gì, sẽ vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa là cơ sở thực tiễn đối với việc quản lý có
hiệu quả loài dịch hại này.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Trên Thế giới có 10 loài châu chấu thuộc giống Hieroglyphus Krauss, chúng
phân bố tương đối hẹp, chỉ có ở châu Á và châu Phi (Mason, 1974).
Thiệt hại do loài H. banian gây ra với cây lúa ở giai đoạn ôm đòng/trỗ
bông là rất đáng kể, có thể tới 50-90% số hạt (Pruthi, 1949). Ong ký sinh trứng
Scelio sp. là kẻ thù tự nhiên có vai trò quan trọng với loài châu chấu này
(Mohyuddin and Habib, 1977).
H. tonkinensis là loài dịch hại quan trọng với cây mía, ngô, lúa và nhiều
cây trồng ngắn ngày khác ở phía Nam Trung Quốc. Chúng phát sinh 1 lứa/năm;
qua đông ở giai đoạn trứng; ấu trùng thường nở vào tháng 4 hàng năm và có 6-7
tuổi; trưởng thành xuất hiện từ tháng 6- tháng 8, trưởng thành cái dài 35-52 mm,

màu xanh lục (Chen et al., 1989).
Mỗi con ấu trùng châu chấu tiêu thụ từ 100-450mg chất xanh mỗi ngày,
mỗi con châu chấu trưởng thành tiêu thụ bình quân 200mg chất xanh mỗi ngày.
Lượng chất xanh tiêu thụ bởi châu chấu có thể gấp 1,25 đến 2,5 lần lượng chất
xanh do động vật có vú tiêu thụ hàng ngày (David et al., 2006). Nhiều loài châu
chấu có khả năng di cư rất lớn, chúng có thể bay liên tục 1-3 ngày, ở độ cao đến
1000 m, khoảng cách bay xa hàng trăm km (Richman et al., 2003). Nguồn thức
ăn khác nhau có thể ảnh hưởng tới thời gian phát dục, số lượng trứng chứ không
ảnh hưởng đến chất lượng của trứng châu chấu (Chen et al., 2008).
1.3. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đã có một số danh lục công bố thành phần loài châu chấu ở nước ta, theo đó,
các tỉnh phía Bắc có 61 loài (Viện Bảo vệ thực vật, 1976); các tỉnh phía Nam có
39 loài (Viện Bảo vệ thực vật, 1999); cả nước có 73 loài châu chấu nằm trong 46
giống, trong đó có 3 loài thuộc giống Hieroglyphus là H. banian, H. tonkinensis,
H. annulicornis (Lưu Tham Mưu, 2000).

4

H. banian và H. tonkinensis là những loài thường xuyên gây hại thành
dịch ở nhiều vùng của nước ta (Lê Thị Quý, 1995; Nguyễn Thế Nhã, 2003;
Phạm Thị Thùy, 1998).
H. tonkinensis được coi là loài sâu hại nguy hiểm, ký chủ của chúng gồm
hơn 20 loài thuộc họ tre trúc và họ hòa thảo. Chúng phân bố ở toàn Việt Nam.
Trưởng thành thường đẻ trứng ở sườn đồi phía Nam, nơi có đất xốp, thực bì
thưa. Con đực sau khi giao phối chết ngay và con cái sau khi đẻ xong cũng chết
nên người ta dựa vào đặc điểm này để đánh dấu những nơi châu chấu đẻ trứng.
Sự phát triển của trứng phụ thuộc rất rõ vào nhiệt độ và địa hình, cứ lên cao 100-
200m thì thời gian trứng nở chậm đi 2-3 ngày (Nguyễn Thế Nhã, 2012).

Chương 2

VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm nuôi sinh học, nghiên cứu các đặc điểm hình thái, sinh vật học
của châu chấu mía H. tonkinensis vv tiến hành tại phòng thí nghiệm của Chi
cục Bảo vệ thực vật Hòa Bình, thành phố Hòa Bình.
Thí nghiệm về ảnh hưởng của đất, chủng loại thức ăn tới châu chấu mía
H. tonkinensis, nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của loài châu chấu này tới năng suất
lúa được thực hiện tại khu nhà lưới của Chi cục Bảo vệ thực vật Hòa Bình.
Những nghiên cứu về mức độ phổ biến, diễn biến mật độ, sự phát sinh gây
hại của châu chấu mía H. tonkinensis được tiến hành tại 3 điểm là xã Trung Hòa,
huyện Tân Lạc; xã Bình Thanh, huyện Cao Phong và xã Tu Lý, huyện Đà Bắc. Xã
Trung Hòa cũng là nơi thực hiện thí nghiệm về các biện pháp phòng trừ và thực
hiện mô hình phòng trừ tổng hợp với sự tham gia của người nông dân.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Đề tài được thực hiện từ năm 2010 đến năm 2012.
2.3. Vật liệu và dụng cụ nghiên cứu
- Các loại lá cây làm thức ăn nuôi châu chấu (lá lúa, lá mía, lá ngô, lá
luồng, lá lành hanh), các loại thuốc sâu, thuốc sinh học trừ châu chấu, dung dịch
bão hòa của các loại muối khoáng.
- Các loại đất đồi, đất cát pha, đất thịt nặng có các độ ẩm khác nhau.
- Vật liệu khác: Bông thấm nước, giấy thấm, nước cất, cồn, Phocmol, keo
dán, băng dính.
- Kính lúp soi nổi 2 mắt, kính lúp cầm tay, tủ định ôn, tủ khí hậu, tủ lạnh,
máy ảnh số, dao, kéo, thước kẹp panme; panh, bút lông, đĩa petri, lọ thuỷ tinh đựng
mẫu, khay nhựa, bình phun, ống nghiệm, hộp nuôi châu chấu.
2.4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu thành phần loài châu chấu ở tỉnh Hòa Bình và mức độ phổ biến,

5


mức độ gây hại của loài châu chấu mía Hieroglyphus tonkinensis Bolivar, 1912.
- Xác định vị trí phân loại và nghiên cứu đặc điểm hình thái của châu chấu
mía H. tonkinensis.
- Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học của châu chấu mía H. tonkinensis.
- Nghiên cứu đặc điểm sinh thái học của châu chấu mía H. tonkinensis.
- Nghiên cứu biện pháp phòng chống châu chấu mía H. tonkinensis.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp điều tra thành phần loài châu chấu, điều tra diễn biến mật
độ châu chấu mía H.tonkinensis: Thực hiện theo Qui chuẩn quốc gia QCVN 01-
38 : 2010/BNNPTNT (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2010a). Mẫu các loài châu
chấu sau khi đã xử lý được định loại theo khóa phân loại của Mistshenko, 1952
(dẫn theo Mason, 1974; Viện Bảo vệ thực vật, 1985; Lưu Tham Mưu, 2000).
* Phương pháp xác định mức độ phổ biến của châu chấu mía
H. tonkinensis: Căn cứ theo độ thường gặp và độ ưu thế số lượng của chúng tại
mỗi đợt điều tra.
* Phương pháp nghiên cứu mức độ gây hại của châu chấu mía
H. tonkinensis: Thực hiện trong nhà lưới, ở 03 giai đoạn sinh trưởng khác nhau
của cây lúa (giai đoạn đẻ nhánh, giai đoạn phân hóa đòng, giai đoạn trỗ
bông/phơi màu). Trong đó giai đoạn lúa phân hóa đòng và trỗ bông/phơi màu
thực hiện trong vụ xuân 2011 với châu chấu tuổi ấu trùng; giai đoạn lúa đẻ
nhánh thực hiện trong vụ mùa 2011 với châu chấu tuổi trưởng thành. Thí
nghiệm với 5 mật độ thả khác nhau (5 con, 10 con, 20 con và 30 con/m
2
), đánh
giá thiệt hại ở mỗi mật độ so với đối chứng không thả.
* Nghiên cứu đặc điểm hình thái châu chấu mía H.tonkinensis: Quan sát
đặc điểm hình thái, kích thước, màu sắc các pha phát dục của châu chấu được dựa
theo tài liệu hướng dẫn của Blatchley (1920).
* Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh vật học châu chấu mía H. tonkinensis

- Nghiên cứu thời gian phát triển của các giai đoạn được tiến hành trong
phòng thí nghiệm ở điều kiện nhiệt độ 25
o
C, ẩm độ 80%, thức ăn là lá lúa.
- Nghiên cứu sức sinh sản của châu chấu mía H. tonkinensis trên các loại thức
ăn khác nhau được thực hiện trong nhà lưới với 5 loại lá cây làm thức ăn (lá lúa, lá
mía, lá ngô, lá luồng, lá lành hanh). Giai đoạn ấu trùng được nuôi quần thể trong các
lồng nuôi có kích thước 1,5 x 1,5 x 2m, mỗi lồng nuôi bằng 1 loại thức ăn và nhắc lại
3 lần, mỗi lần nhắc lại của mỗi loại thức ăn nuôi 100 cá thể. Khi châu chấu vũ hóa
được ghép đôi từng cặp đực/cái và tiếp tục nuôi riêng rẽ trong các hộp có kích thước
25 x 25 x 50cm với cùng loại thức ăn như cũ để theo dõi thời điểm đẻ trứng và số
lượng trứng đẻ. Các ổ trứng thu được của mỗi loại thức ăn được bảo quản riêng trong
đất có độ ẩm 74,25 ± 0,32% tới khi trứng nở để tính tỷ lệ nở trứng.
- Nghiên cứu tập tính lựa chọn thức ăn của ấu trùng châu chấu được thực
hiện với ấu trùng tuổi 1, tuổi 2 và tuổi 3. Ở mỗi tuổi thí nghiệm được nhắc lại 3 lần,
mỗi lần nhắc lại nuôi 50 ấu trùng trong lồng nuôi có kích thước 1,5 x 1,5 x 2m,

6

được đặt đồng thời 5 loại thức ăn (lá lúa, lá mía, lá ngô, lá luồng, lá lành hanh).
Theo dõi ngày 2 lần vào 8 giờ và 16 giờ liên tục trong 5 ngày để ghi lại số lượng
ấu trùng có mặt sử dụng mỗi loại thức ăn, sau mỗi lần theo dõi lại đổi vị trí đặt
thức ăn.
- Áp dụng công thức của Ananthakrishnan (1986) để tính hiệu suất
chuyển hóa thức ăn tiêu thụ (ECI) = (Khối lượng tăng trưởng đạt được của châu
chấu / Khối lượng thức ăn tiêu thụ) x100.
* Phương pháp nghiên cứu đặc điểm sinh thái học châu chấu mía H. tonkinensis
- Nghiên cứu ảnh hưởng của địa hình tới việc lựa chọn ví trí đẻ trứng tập trung
của châu chấu: Chọn tuyến điều tra ổ trứng châu chấu từ chân đồi lên đỉnh đồi
theo 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi hướng điều tra tại 10 vị trí theo đường

dích dắc phân bố đều trên tuyến. Tại mỗi vị trí chọn diện tích điểm điều tra
20m
2
, tại mỗi điểm đó, điều tra 5 hố theo đường chéo góc, diện tích hố 0,2m
2

(40 x 50 cm) để tính số lượng ổ trứng.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các loại đất khác nhau tới sự lựa chọn vị trí
đẻ trứng tập trung của châu chấu mía H. tonkinensis được tiến hành từ khi châu
chấu vũ hóa 1 ngày tuổi, với 5 công thức, mỗi công thức nhắc lại 3 lần, Mỗi lần
nhắc lại của mỗi công thức chọn 30 cặp châu chấu khỏe mạnh, thả vào trong
lồng nuôi có kích thước 1,5 x 1,5 x 2,0m. Sử dụng lá lúa làm thức ăn nuôi châu
chấu và được thay hàng ngày. Chính giữa lồng đặt các khay đất có kích thước 25
x 25 x 15cm. Mỗi khay chứa một loại đất là một công thức thí nghiệm (gồm có
đất cát pha ven sông, đất ruộng thịt nặng, 2 loại đất feralit và cát xây dựng).
Nuôi đến khi châu chấu chết sinh lý, bỏ đất khỏi khay và tính số lượng trứng thu
được trên mỗi loại đất.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của ẩm độ đất tới tỷ lệ nở trứng của châu chấu
mía H. tonkinensis: Thí nghiệm bắt đầu vào tháng 3/2011, khi trứng châu chấu
đã chấm dứt qua đông, bắt đầu phát dục. Trứng được phát dục trong đất với 5
công thức thí nghiệm ở 5 mức ẩm khác nhau là 32,78 ± 0,16% (mức hạn vừa);
43,16 ± 0,39% (mức chớm hạn); 68,86 ± 0,24% (mức ẩm vừa); 74,25 ± 0.32%
(mức ẩm tối ưu) và 93,58 ± 0,55% (mức rất ẩm), mỗi công thức nhắc lại 3 lần.
Khi trứng nở, tính số lượng ấu trùng, từ đó tính tỷ lệ trứng nở ở mỗi độ ẩm đất.
* Phương pháp nghiên cứu biện pháp phòng trừ châu chấu mía
H. tonkinensis và xây dựng mô hình phòng trừ tổng hợp với sự tham gia của
cộng đồng
- Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp làm đất tới tỷ lệ sống sót của châu
chấu mía H.tonkinensis: Thí nghiệm được tiến hành với 3 công thức gồm để đất
tự nhiên; làm đất (bằng biện pháp cuốc và đập để đất có kích thước dưới 10cm)

vào tháng 9/2010 sau khi châu chấu đẻ trứng và tháng 2/2011 khi kết thúc qua
đông của giai đoạn trứng. Mỗi công thức có diện tích 100m
2
, nhắc lại 3 lần. Đất
sau khi cuốc được đập nhỏ, có kích thước dưới 10cm rồi để tự nhiên. Khi trứng
nở, tính tỷ lệ trứng sống sót ở mỗi công thức.

7

- Nghiên cứu ứng dụng một số loại chế phẩm sinh học trong phòng chống
châu chấu mía H. tonkinensis: Thí nghiệm thực hiện với ấu trùng tuổi 2,3 và
châu chấu trưởng thành ở trong phòng thí nghiệm và ngoài đồng ruộng, với các
chế phẩm sinh học Beauveria bassiana (2,5-4 x 10
9
bào tử/gr) và Metarhizium
anisopliae (7,5-8 x 10
10
bào tử/gr) là các công thức thí nghiệm. Thí nghiệm
trong phòng được nhắc lại 3 lần, thí nghiệm ngoài đồng ruộng theo khảo nghiệm
diện rộng, 300m
2
mỗi công thức và không nhắc lại. Tính hiệu lực của chế phẩm
trong điều kiện phòng thí nghiệm theo công thức Abbott và ở ngoài đồng ruộng
theo công thức Henderson – Tilton.
- Nghiên cứu khả năng ứng dụng một số loại thuốc hóa học trong phòng
chống châu chấu mía H. tonkinensis: Thí nghiệm thực hiện với ấu trùng tuổi 2,3
và châu chấu trưởng thành; cả trong phòng thí nghiệm và ngoài đồng ruộng, với
3 công thức là thuốc Notan 2,8EC, nồng độ 0,1%; thuốc Nibas 50ND, nồng độ
0,25% và thuốc Sumithion 50EC, pha nồng độ 0,15%. Thí nghiệm trong phòng
được nhắc lại 3 lần, thí nghiệm ngoài đồng ruộng theo khảo nghiệm diện rộng,

300m
2
mỗi công thức và không nhắc lại. Tính hiệu lực của chế phẩm trong điều
kiện phòng thí nghiệm theo công thức Abbott (1925) và ở ngoài đồng ruộng
theo công thức Henderson – Tilton (1955).
- Nghiên cứu xây dựng mô hình phòng chống tổng hợp châu chấu mía
H. tonkinensis với sự tham gia của cộng đồng: Mô hình gồm có 2 khu đồi thí
nghiệm theo 2 công thức phòng chống châu chấu. Khu đồi 1, diện tích 17,3ha,
thực hiện biện pháp phòng chống tổng hợp với sự tham gia của người dân (nông
hộ tham gia điều tra, xác định khu vực đẻ trứng, theo dõi thời điểm trứng nở,
điều tra diễn biến mật độ châu chấu và cùng thảo luận biện pháp xử lý). Khu đồi
2, diện tích 7,4 ha, phòng trừ theo phương thức cũ (chỉ xử lý khi phát hiện châu
chấu tấn công gây hại lúa). Đánh giá diễn biến mật độ và mức độ gây hại của
châu chấu trong diện tích tham gia mô hình và diện tích đối chứng; hiệu quả
thực hiện mô hình.
2.6. Phương pháp tính toán xử lý số liệu
Toàn bộ các số liệu thu thập được tính toán và xử lý thống kê bằng phần mềm
Microsoft Excel và chương trình IRRISTAT 4.0. Các số liệu tỷ lệ phần trăm, trước
khi xử lý phân tích phương sai được đổi biến thành dạng căn bậc 2 hoặc dạng
Arcsine căn bậc 2.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài châu chấu, mức độ phổ biến và mức độ gây hại của châu
chấu mía H.tonknensis ở tỉnh Hòa Bình
3.1.1 Thành phần loài châu chấu ở tỉnh Hòa Bình
Kết quả điều tra trong 2 năm 2010, 2011, chúng tôi đã thu thập, định loại
được 17 loài châu chấu tại khu vực nghiên cứu ở tỉnh Hòa Bình (bảng 3.1).

8


Bảng 3.1. Thành phần loài châu chấu thuộc họ Acrididae ở tỉnh Hòa Bình
(2010 - 2011)
TT

Tên khoa học Tên Việt Nam
Mức độ
ph


bi
ế
n

I Phân họ châu chấu lớn (Acridinae)

1 Ceracris sp. Châu chấu tre ++
2 Ceracris kiangsu Tsai, 1929 Châu chấu tre lưng vàng +++
3 Phlaeoba antennata Brunner v. Wattenwyl, 1893 Châu chấu mũ phật ++
4 Phlaeoba infumata Brunner v. Wattenwyl, 1893
(*)

Châu chấu mũ phật ++
II Phân họ châu chấu vân đùi (Catantopinae)

5 Diaboloatantops innotabilis (Walker, 1870) +
6 Hieroglyphus tonkinensis Bolivar, 1912 Châu chấu mía +++
7 Oxya chinensis (Thunberg, 1815) Châu chấu lúa Trung hoa +++
8 Oxya velox (Fabricius, 1787) Châu chấu lúa +++
9 Oxyrrhepes extensa Walker, 1859
(*)


+
10

Pseudoxya diminuta
(
Walker, 1871
)

Châu ch

u cánh ng

n

+++

11 Pseudoxya sp. +
12 Stenocatantop splendens (Thunberg, 1815) Châu chấu vệt đen đốt đùi

++
13 Xenocatantop humilis (Serville, 1838) Châu chấu vệt đen đốt đùi

++
III Phân họ châu chấu vân cánh (Oedipodinae)

14 Trilophidia annulata (Thunberg, 1815) Châu chấu u ngực +
IV Phân họ cào cào (Pyrgomorphynae)

15 Atractomorpha chinensis Bolivar, 1905 Cào cào nhỏ ++

16 Atractomorpha lata (Motschulsky, 1866)
(*)

Cào cào xanh nhỏ +
17 Atractomorpha crenulata (Fabricius, 1793)
(*)

Cào cào xanh lớn +
Ghi chú: (*) - Loài mới ghi nhận ở Hòa Bình. (+) - Ít phổ biến, độ thường gặp < 5%
(++) - Phổ biến, độ thường gặp từ 5-25% (+++)- Rất phổ biến, độ thường gặp > 25%
So sánh kết quả bảng 3.1 với danh lục 36 loài châu chấu đã được các tác
giả phát hiện tại tỉnh Hòa Bình trước đây (Viện BVTV 1976; Phạm Thị Thùy,
1998; Lưu Tham Mưu, 2000; Nguyễn Thế Nhã, 2003) thì đề tài đã ghi nhận
mới 4 loài cho tỉnh Hòa Bình là Phlaeoba infumata, Oxyrrhepes extensa,
Atractomopha lata và Atractomopha crenulata. Như vậy, số loài châu chấu đã
được phát hiện tại tỉnh Hòa Bình đến nay là 40 loài.
3.1.2. Mức độ phổ biến và mức độ gây hại của châu chấu mía H. tonkinensis
ở tỉnh Hòa Bình
H. tonkinensis là loài duy nhất trong 17 loài đã phát hiện tại Hòa Bình ghi
nhận được sự tập trung gây hại với số lượng cá thể lớn, không chỉ ở giai đoạn ấu
trùng mà cả trong giai đoạn trưởng thành. Do vậy, chúng thường chiếm số lượng
áp đảo trong quần xã châu chấu ở khu vực nghiên cứu vào thời gian vũ hóa, giao
phối và đẻ trứng (bảng 3.2).

9

Bảng 3.2. Mức độ phổ biến của trưởng thành loài châu chấu mía
H. tonkinensis (tại Cao Phong và Tân Lạc, Hòa Bình, 2010-2011)
TT Ngày điều tra
Mức độ phổ biến

Độ thường gặp (%) Độ ưu thế (%)
1 18/09/2010 33,33 11,48
2 02/10/2010 16,67 8,77
3 16/10/2010 3,33 1,59
4

18/06/2011

6,67

9,57

5 02/07/2011 60,00 44,44
6

16/07/2011

96,67

66,02

7

30/07/2011

93,33

4
6,42


8 13/08/2011 76,67 22,43
9 27/08/2011 43,33 15,38
10 03/09/2011 33,33 14,29
11 17/09/2011 20,00 5,26

Để đánh giá mức độ thiệt hại của châu chấu mía H.tonkinensis tới năng
suất lúa, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trong nhà lưới với các mật độ thả
châu chấu khác nhau, ở các giai đoạn sinh trưởng của lúa khác nhau, kết quả
được trình bày trong bảng 3.4
Bảng 3.4. Thiệt hại do châu chấu mía H. tonkinensis tới năng suất lúa
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Mật độ châu
chấu thí
nghiệm
(con/m
2
)
Giai đoạn thí nghiệm
Đẻ nhánh Phân hóa đòng
Tr


bông/ phơi màu

NS thu
hoạch
(g/m
2
)
Giảm so

với ĐC
(%)
NS thu
hoạch
(g/m
2
)
Giảm
so với
ĐC (%)
NS thu
hoạch
(g/m
2
)
Giảm so
với ĐC
(%)
5 con 438,33
a
0,23 461,33
a
2,12 424,33
a
7,28
10 con 344,67
b
21,55 425,67
b
9,69 363,33

b
20,61
20 con 119,33
c
72,84 399,33
c
15,28 156,33
c
65,84
30 con 106,67
c
75,72 371,33
d
21,22 133,67
c
70,79
Đối chứng
không th


439,33
a


471,33
a
457,67
a

LSD

0,05
= 34,91 19,48 44,56
Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang chữ cái khác nhau thì sai khác có
ý nghĩa ở mức 0,05 .
Trong cả 3 giai đoạn thí nghiệm, chỉ ở mật độ thả 5 con/m
2
là không bị thiệt
hại có ý nghĩa so với đối chứng, các mật độ cao hơn đều ảnh hưởng rõ ràng đến
năng suất. Thiệt hại lớn nhất do châu chấu mía H. tonkinensis gây ra tới năng suất
lúa là giai đoạn cây lúa đẻ nhánh. Sau 7 ngày thí nghiệm, chỉ ở ô thả 5 con/m
2
cây
lúa mới có thể hồi phục gần như hoàn toàn, ít ảnh hưởng đến năng suất. Ở các công
thức thả với mật độ cao hơn, cây lúa đều bị giảm năng suất một cách đáng kể. Đặc

10
biệt ở những ô thả 20 hay 30 con/m
2
gần như bộ lá lúa bị trụi hết, nhiều dảnh bị
gặm tới sát gốc, dù giai đoạn này khả năng tự đền bù của cây lúa là lớn nhất song
năng suất cuối cùng vẫn sụt giảm nghiêm trọng (giảm 72,84 và 75,72% ở ô thả 20
và 30 con tương ứng).
So sánh mức độ gây hại của loài H. tonkinensis với cây lúa trong các thí
nghiệm ở Hòa Bình với kết quả nghiên cứu của Rao and Cherian (1940) đối với
loài H. banian ở Madras (phía Nam Ấn Độ), thì thấy mức độ ảnh hưởng tới năng
suất lúa khi gây hại ở giai đoạn trỗ bông/ngậm sữa là tương đương, đều ở mức
thiệt hại rất nặng. Nhưng ở giai đoạn đẻ nhánh thì kết quả có sự khác biệt lớn
giữa hai nghiên cứu. Nếu kết quả nghiên cứu của Rao and Cherian (1940) cho
rằng loài H. banian gây hại ở giai đoạn đẻ nhánh sẽ ảnh hưởng không đáng kể
tới năng suất lúa sau này, thì kết quả của chúng tôi hoàn toàn ngược lại, mức ảnh

hưởng còn lớn hơn cả sự gây hại ở giai đoạn lúa phân hóa đòng. Một điểm khác
biệt nữa giữa 2 nghiên cứu thể hiện ở phương thức gây hại của châu chấu trong
giai đoạn lúa trỗ bông. Nếu loài H. banian ở Madras gây hại tới năng suất lúa
bằng cách tấn công các hoa lúa còn non thì loài H. tonkinensis ở Hòa Bình chỉ
chủ yếu tấn công bộ lá đòng, ít ăn đến hoa lúa.
3.2. Đặc điểm hình thái của châu chấu mía H. tonkinensis
Cả trưởng thành đực và cái châu chấu mía H. tonkinensis đều có màu
xanh lục, trên mảnh lưng đốt ngực trước có 3 ngấn đen chạy ngang và lõm
xuống, lông đuôi con đực cong và phân thành 2 nhánh, tấm sinh dục dưới của
con cái trơn nhẵn. Các quả trứng giữa nuôi sinh học có khối lượng trung bình
12,59 mg, dài 5,91mm và rộng 2,6mm; các chỉ tiêu này đều thấp hơn những quá
trứng thu ngoài tự nhiên (khối lượng 14,24 mg, dài 6,69 mm, rộng 2,65 mm). Điều
này giải thích tại sao khối lượng ổ trứng thu được trong tự nhiên lớn hơn trong nuôi
sinh học nhưng số quả trứng/ổ lại thấp hơn.
Ở thời điểm 1 ngày từ khi trứng nở, khối lượng và kích thước của ấu trùng
tuổi 1 chênh lệch không lớn so với khối lượng và kích thước quả trứng (13,76
mg; 7,84mm so với 12,59mg; 5,91mm). Nhưng ở tuổi 7, khối lượng ấu trùng đã
đạt 465,06mg/con, tăng gấp 33,8 lần; chiều dài đạt 22,37mm, tăng gấp 3,49 lần
so với tuổi 1.
So sánh giữa kết quả nuôi sinh học (bảng 3.9) với các tài liệu đã công bố
ở Việt Nam trước đây (Viện Bảo vệ thực vật, 1985; Lưu Tham Mưu, 2000) thấy
rằng, hầu hết các bộ phận (trừ râu đầu) của châu chấu trưởng thành 1 ngày tuổi
trong nuôi sinh học đều thấp hơn đáng kể. Kích thước trưởng thành chỉ đạt so
với những công bố trước đây đối với những cá thể thu bắt ngoài tự nhiên hoặc
khi châu chấu đã có một thời gian ăn bổ sung sau vũ hóa.

11
Bảng 3.9. Kích thước trưởng thành châu chấu mía H. tonkinensis
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011-2012)
Chỉ tiêu theo dõi

Trưởng thành đực Trưởng thành cái
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình

Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Chiều dài thân (m) 29,82 25,29 27,44±0,59

42,01

29,75

33,03±1,19
Ch
i

u d
ài cánh trư

c

(mm)

25,59


20,24

22,30±0,58

30,29

23,59

25,92±0,64

Chiều dài râu (mm) 19,13 15,65 17,60±0,40

19,35

16,40

18,01±0,36
Chiều dài mảnh lưng
đốt ngực trước (mm)
7,23 5,30 6,15±0,18 8,90 6,11 7,33±0,29
Chiều dài đốt đùi chân
sau (mm)
16,51 15,00 15,94±0,16

22,30

16,85

20,02±0,60

Ghi chú: n = 30; trong điều kiện nuôi sinh học, thức ăn là lá cây lúa, t
o
= 25
o
C, RH = 80%

3.3. Đặc điểm sinh vật học của châu chấu mía H. tonkinensis
3.3.1. Tập tính sinh sống của châu chấu mía H. tonkinensis
Trứng châu chấu tập trung nở ở những khoảng thời gian nhất định trong ngày.
Đại đa số các ổ trứng nở trong khoảng 8-10 giờ, trong khi đó ổ số trứng nở sau 18
giờ là không đáng kể (hình 3.13).
0,00
10,00
20,00
30,00
40,00
50,00
60,00
70,00
6h-8h 8h-10h 10h-12h 12h-14h 14h-16h 16h-18h 18-6h
Thoi gian trong ngay
Ty le (%)
Lan 1
Lan 2
Lan 3

Hình 3.13. Tỷ lệ ổ trứng châu chấu mía H. tonkinensis nở ở các khoảng
thời gian trong ngày (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Quá trình điều tra ngoài tự nhiên cho thấy ấu trùng châu chấu mới nở
thường sống tập trung. Ban ngày ấu trùng bò lên các cây cỏ sát mặt đất hay

những cành cây họ tre nứa ở tầm thấp để ăn lá non, chiều tối hay buổi trưa nắng
gắt chúng lại di chuyển xuống phía dưới. Những cá thể nở từ các ổ trứng gần
nhau cũng tập hợp lại với nhau, cứ như vậy đàn châu chấu lớn dần và mật độ trở
lên dày đặc, có thể tới hàng trăm con/m
2
.

12
0,00
10,00
20,00
30,00
40,00
50,00
60,00
6h-8h 8h-10h 10h-12h 12h-14h 14h-16h 16h-18h 18-6h
Thoi gian trong ngay
Ty le (%)
Tuoi 1
Tuoi 3
Tuoi 5
Vu hoa

Hình 3.14. Tỷ lệ ấu trùng châu chấu mía H. tonkinensis lột xác
và trưởng thành vũ hóa ở các khoảng thời gian trong ngày
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Thời điểm lột xác của châu chấu mía H. tonkinensis khá tập trung, đại đa
số ấu trùng lột xác trong khoảng từ 8-10 giờ sáng, riêng con trưởng thành vũ hóa
với quãng thời gian rộng hơn, gần như chúng chỉ tránh cái nắng gay gắt giữa
trưa, hay khi trời đã tối (hình 3.14).

3.3.2. Thời gian phát triển, vòng đời châu chấu mía H. tonkinensis
Ở điều kiện nhiệt độ 25
o
C, ẩm độ không khí 80%, thức ăn là lá lúa, vòng đời của
châu chấu mía H. tonkinensis rất dài, trung bình là 351,68 ± 11,32 ngày (bảng 3.11).
Bảng 3.11. Thời gian phát triển của châu chấu mía H. tonkinensis
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011-2012)
Giai đoạn phát triển
Thời gian phát triển (ngày)
Dài nhất Ngắn nhất Trung bình
Trứng 257 231 245,25±4,57

u trùng tu

i 1

11,5

7,5

9,38±0,33

Ấu trùng tuổi 2 9,5 8,0 9,01±0,16

u trùng tu

i 3

11,5


8,0

9,06±0,32

Ấu trùng tuổi 4 12,0 7,0 9,07±0,54
Ấu trùng tuổi 5 10,5 6,5 8,00±0,58
Ấu trùng tuổi 6 10,5 7,5 8,43±0,48
Ấu trùng tuổi 7 9,5 7,5 8,18±0,41
Trưởng thành trước đẻ trứng 36 29 32,05±0,57
Vòng đời 370 337,5 351,68±11,32
Thời gian sống của trưởng thành cái 64,5 51 59,56±1,10
Thời gian sống của trưởng thành đực 55,5 41 47,33±1,30
Ghi chú: n=100; t
0
C = 25
0
C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.

13
Kết quả nuôi sinh học đã xác định tất cả ấu trùng đực của loài châu chấu mía
H. tonkinensis có 6 tuổi và ấu trùng cái có 7 tuổi, chính vì lẽ đó mà trưởng thành đực
thường vũ hóa trước trưởng thành cái từ 7 đến 10 ngày. Điều này là rõ ràng hơn một
số nghiên cứu trước đây (Chen et al. , 1989; Huang and Wu, 1982) đã kết luận ấu
trùng châu chấu mía H. tonkinensis có 6-7 tuổi nhưng không nêu rõ trong trường hợp
nào (đực hay cái) hay môi trường nuôi thế nào thì có 6 hay 7 tuổi. Thời gian các tuổi
ấu trùng tương đối đồng đều, nhưng ở tuổi lớn (tuổi 5 đến tuổi 7) có xu hướng ngắn
hơn các tuổi nhỏ.
Sau giai đoạn vũ hóa, cả trưởng thành đực và cái đều cần thời gian ăn bổ
sung trước khi giao phối, giai đoạn này khối lượng cơ thể tăng rất nhanh. Nếu so
với thời điểm 1 ngày sau vũ hóa thì vào lúc bắt đầu giao phối, khối lượng trưởng

thành đực tăng bình quân 222,5mg và trưởng thành cái tăng bình quân 589mg.
Tuy nhiên sau thời gian đẻ trứng của con cái và kết thúc giao phối của con đực
thì khối lượng cơ thể lại giảm nhanh chóng, so với khi bắt đầu giao phối thì mức
giảm 249,7mg ở con đực và 401 mg ở con cái (bảng 3.12).
Bảng 3.12. Khối lượng cá thể trong các giai đoạn phát triển của châu chấu
trưởng thành (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Thời điểm theo dõi
Khối lượng con đực (mg) Khối lượng con cái (mg)
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
1 ngày sau vũ hóa 450 338 410,83±10,82

947 620 778,97±37,74

Khi bắt đầu giai đoạn
giao phối
675 592 633,30±4,01 1459 1241 1.368,0±7,71

Khi kết thúc giao
phối/đẻ trứng
412 328 383,63±4,17 1026 870 967,07±7,75
Ghi chú: n= 30; t

0
C = 25
0
C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
3.3.3 Sinh học sinh sản của châu chấu mía H. tonkinensis
Châu chấu mía H. tonkinensis là loài có tỷ lệ đực/cái ở mức độ tương
đương nhau. Kết quả nuôi sinh học cho thấy số cá thể đực, cá thể cái sống sót
đến khi trưởng thành không có sự khác biệt. Kết quả điều tra ngoài đồng ruộng
cũng cho thấy điều đó là đúng (bảng 3.13).
Bảng 3.13. Biến động tỷ lệ giới tính trong pha trưởng thành châu chấu mía
H. tonkinensis (Trung Hòa, Tân Lạc, Hòa Bình, 2011)
Ngày điều tra
Số cá thể thu thập Tỷ lệ (%)
LSD
0,05

Đực Cái Tổng số Đực Cái
18/06/2011 66

5

71 92,96 7,04 9,254817
16/07/2011 163 164 327 49,85 50,15
13/08/2011 73 74 147 49,66 50,34
17/09/2011 40 38 78 51,28 48,72
T

ng s



342

281

623





14
Trong 4 đợt điều tra ở giai đoạn trưởng thành, chỉ có đợt điều tra ngày
18/6/2011 là có tỷ lệ cá thể đực và cá thể cái chênh lệch rõ ràng, các cá thể đực
chiếm số lượng áp đảo trong số mẫu thu thập được. Lý do thời điểm đó trưởng
thành bắt đầu vũ hóa, ấu trùng đực chỉ có 6 tuổi nên vũ hóa trước, trong khi con
cái vẫn hầu hết đang ở ấu trùng tuổi 7 nên số lượng trưởng thành cái chiếm tỷ
thấp. Trong các kỳ điều tra tiếp theo số lượng đực/cái không có sự sai khác.
Điều này chứng tỏ tỷ lệ giới tính đực : cái của châu chấu mía H. tonkinensis ở
mức độ tương đương nhau.
Ở loài châu chấu mía H. tonkinensis, tương đối dễ ghi nhận hiện tượng
ghép đôi vì chúng vũ hóa tập trung và có thời gian ghép đôi khá dài, trung bình
6,75 giờ với lần giao phối đầu tiên của con cái. Thời gian từ khi vũ hóa đến ghép
đôi lần đầu của con cái trung bình 25,96 ngày. Từ khi ghép đôi giao phối tới lúc
đẻ ổ trứng đầu tiên là 6,09 ngày. Những con cái có giao phối và đẻ trứng có từ 1
đến 3 lần giao phối và đẻ từ 1 đến 4 ổ trứng, nhưng số lần giao phối tiếp theo và
số ổ trứng đẻ tiếp theo không có liên quan chặt (bảng 3.14).
Bảng 3.14. Thành thục sinh dục của châu chấu mía H. tonkinensis
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Chỉ tiêu
Giá trị

Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Thời gian từ vũ hóa đến giao phối lần đầu (ngày)

30 23,5 25,96±0,50
Thời gian từ giao phối đến đẻ ổ trứng đầu (ngày) 8 5 6,09±0,24
Thời gian từ khi đẻ xong đến chết sinh lý (ngày) 22 14 18,61±0,73
Thời gian giữa các lần đẻ (ngày) 10,5 7,5 8,90±0,28
Thời gian giao phối lần đầu của con cái (giờ) 9,5 3,5 6,75±0,54
Số lần giao phối của con cái (lần) 3 1 1,87±0,23
Số ổ trứng đẻ/con cái (ổ) 4 1 2,20±0,33
Ghi chú: n= 30; t
0
C = 25
0
C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
Kết quả thí nghiệm với 5 loại thức ăn khác nhau cho thấy mỗi loại thức ăn có
ảnh hưởng khác nhau đến thời gian thành thục sinh dục của con cái. Thức ăn là lá
mía có thời gian từ vũ hóa đến giao phối lần đầu ngắn nhất, thời gian từ giao
phối đến đẻ ổ trứng đầu tiên cũng ngắn nhất, còn các cá thể được nuôi bằng các
loại thức ăn khác không có sự khác biệt đáng kể. Mỗi loại thức ăn có tỷ lệ con
cái đẻ trứng là khác nhau. Khi nuôi bằng lá lành hanh, tỷ lệ con cái đẻ trứng là
thấp nhất, chỉ đạt 74,72% còn khi nuôi bằng lá lúa, tỷ lệ con cái đẻ trứng là cao
nhất, đạt 90,48%. Đồng thời, sức đẻ trứng cũng khác nhau khi được nuôi bằng
các thức ăn khác nhau. Thức ăn là lá lúa cho số lượng trứng trung bình/ổ và tổng
số trứng đẻ cao nhất, đạt 40,23 quả/ổ và 89,3 quả trứng; còn thức ăn là lá lành
hanh cho số lượng trứng/ổ và tổng số trứng đẻ thấp nhất, đạt 32,30 quả/ổ và 61,7

quả (bảng 3.18). Tuy nhiên tỷ lệ trứng nở ở các nguồn thức ăn khác nhau đều đạt

15
trên dưới 90% và không có sự sai khác có ý nghĩa. Điều này chứng tỏ các nguồn
thức ăn nuôi thế hệ bố mẹ không ảnh hưởng tới tỷ lệ nở của trứng thế hệ kế tiếp.
Bảng 3.18. Sức đẻ trứng của châu chấu mía H. tonkinensis
trên các loại thức ăn (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Loại thức ăn
Số
ổ trứng/ con cái

Số
quả trứng/ổ

Tổng số
quả trứng/ con cái
Lá lúa 2,22
a
±0,30 40,23
a
± 4,12
89,30
a
± 9,49
Lá mía 1,77
c
±0,31 32,77
c
± 1,61
64,57


c
± 7,38

Lá ngô 1,97
b
±0,30 36,60
b
± 1,37
72,10

b
± 6,21
Lá luồng 1,93
bc
±0,31 34,53
c
± 2,02
66,30

c
±

6,25

Lá lành hanh 1,92
bc
±0,31 32,30
c
± 1,79

61,70

c
± 6,72
LSD
0,05
= 0,21 3,28
9,99

Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang chữ cái khác nhau thì sai khác có ý
nghĩa ở mức 0,05; n= 30.
3.3.4. Khả năng tiêu thụ thức ăn của châu chấu mía H. tonkinensis
Theo dõi khả năng tiêu thụ thức ăn của châu chấu mía H. tonkinensis cho
thấy ấu trùng loài này tiêu thụ khối lượng thức ăn tăng dần từ tuổi 1 đến tuổi 7,
trong đó tăng mạnh nhất ở tuổi 6, tuổi 7 (bảng 3.20).
Bảng 3.20. Khối lượng thức ăn tiêu thụ của ấu trùng cái loài châu chấu mía
H. tonkinensis (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Tuổi ấu
trùng
Khối lượng thức ăn tiêu thụ (mg/con/ngày)
L

n nh

t

Nh


nh


t

Trung bình

1 99,67 27,67 60,38± 8,70
2

146,33

42,67

87,58± 13,24

3 187,00 42,00 109,09± 16,97
4 198,00 66,00 131,96± 13,34
5 261,00 73,00 150,37± 21,27
6 634,0 101,00 346,0± 37,46
7 1.370,00 208,00 723,15± 84,81
Ghi chú: n= 30; t
o
C = 25
o
C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
Đối chiếu khối lượng thức ăn tiêu thụ trong bảng 3.20 với số liệu tăng
trưởng khối lượng của các tuổi ấu trùng trong bảng 3.8 thấy rằng, ở những tuổi
tiêu thụ nhiều thức ăn nhất cũng là những tuổi có sự tăng trưởng khối lượng cơ
thể lớn nhất (tuổi 6, tuổi 7).
Dựa theo công thức của Ananthakrishnan (1986), hiệu suất chuyển hóa thức
ăn tiêu thụ trong các tuổi ấu trùng được tính toán và trình bày trong bảng 3.22. Giá

trị ECI ở các tuổi ấu trùng 1,2,3 trong nghiên cứu này tương đương với giá trị ECI
thu được khi Amlan et al. (2002) thực hiện nghiên cứu trên loài H. banian. Trong
các tuổi ấu trùng, tuổi 5 là tuổi có hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ lớn nhất,
đạt 9,62%. Nhìn chung, ở các tuổi ấu trùng lớn (tuổi 5,6,7) thì hiệu suất chuyển hóa
thức ăn tiêu thụ cao hơn nhiều so với ấu trùng tuổi nhỏ (tuổi 1,2,3).

16
Bảng 3.22. Hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ (ECI) của ấu trùng cái
loài châu chấu mía H. tonkinensis (Chi cục BVTV Hòa Bình, 2011)
Tuổi ấu
trùng
Khối lượng tăng trưởng
(mg)
Khối lượng thức ăn tiêu
thụ (mg)
ECI
(%)
1 7,98 566,36 1,41
2

18,75

855,95

2,19

3 30,07 988,36 3,04
4

57,22


1.196,88

4,78

5 115,72 1.202,96 9,62
6 221,59 2.920,15 7,59
7 313,88 5.915,37 5,31
Trong thời kỳ trưởng thành, châu chấu trải qua nhiều giai đoạn phát dục
khác nhau. Mỗi giai đoạn này có chức năng sinh lý khác nhau, mức độ hoạt
động của châu chấu khác nhau và lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày cũng khác
nhau. Ở giai đoạn trước giao phối là lúc châu chấu hoạt động mạnh nhất, kích
thước, khối lượng cơ thể tăng nhanh, đạt 222,5 mg đối với con đực và 589,03
mg đối với con cái so với thời điểm 1 ngày sau vũ hóa (bảng 3.12). Đây cũng là
lúc lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày của chúng là lớn nhất, trung bình
580,63±24,87 mg/ngày/con đực và 624±87,96 mg/ngày/con cái (bảng 3.23).
Giai đoạn giao phối/đẻ trứng kéo dài bình quân 14,99 ngày và con cái có thể đẻ
1 hay nhiều ổ trứng nhưng khối lượng cơ thể lúc này không tăng thêm mà còn
giảm đi, chứng tỏ năng lượng cho quá trình này không chỉ lấy từ thức ăn hàng
ngày mà còn sử dụng năng lượng dự trữ của cơ thể, thời điểm này, sức ăn của
châu chấu cũng giảm mạnh. Đặc biệt khi kết thúc quá trình giao phối, đẻ trứng,
sức ăn của châu chấu lúc này rất thấp, đạt 217,47±14,29 mg/ngày/con đực và
340,50±19,42 mg/ngày/con cái (bảng 3.23).
Bảng 3.23. Khối lượng thức ăn tiêu thụ của trưởng thành châu chấu mía
H. tonkinensis (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Giai đoạn phát dục
Khối lượng thức ăn tiêu thụ (mg/con/ngày)
Trưởng thành đực Trưởng thành cái
Lớn
nh


t

Nhỏ
nh

t

Trung bình
Lớn
nh

t

Nhỏ
nh

t

Trung bình
Giai đoạn trước giao phối 926 235 580,63±24,87

968 257 624,96±87,96

Giai đoạn giao phối/đẻ trứng 401 247 338,10±16,23

584 326 445,33±21,93

Giai đoạn sau giao phối/đẻ
trứng

263 135 217,47±14,29

432 220 340,50±19,42

Ghi chú: n= 30; t
0
C = 25
0
C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
Tương tự như các tuổi ấu trùng, hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ trong
giai đoạn trước giao phối và giai đoạn giao phối đẻ trứng của trưởng thành châu

17
chấu mía H. tonkinensis cũng có thể tính được, dựa trên sự thay đổi khối lượng cơ
thể và khối lượng thức ăn tiêu thụ của chúng ở các giai đoạn này (bảng 3.24).
Bảng 3.24. Hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ (ECI) của trưởng thành
cái châu chấu mía H. tonkinensis (Chi cục BVTV Hòa Bình, 2011)
Chỉ tiêu
Giai đoạn phát triển
Trước giao phối, đẻ trứng

Giao phối, đẻ trứng
Khối lượng tăng trưởng (mg) 589,03 -400,93
Khối lượng thức ăn tiêu thụ (mg) 16.223,96 6.675,50
ECI (%) 3,63 -6,01
Như vậy, về mặt số lượng thì khối lượng thức ăn tiêu thụ của chấu chấu
mía H. tonkinensis tăng từ tuổi 1 đến giai đoạn giao phối, đẻ trứng, song song
cùng với quá trình tăng khối lượng cá thể, sau đó thì cùng giảm dần tới khi châu
chấu trưởng thành chết sinh lý. Nhưng về mặt chất lượng (hiệu suất chuyển hóa
thức ăn tiêu thụ) thì tăng dần từ tuổi 1, đạt cao điểm vào tuổi 5, sau đó giảm dần;

đặc biệt từ khi châu chấu đã bước vào giai đoạn đẻ trứng trở đi thì giá trị này ở
mức âm, tức là châu chấu phải sử dụng tới năng lượng dự trữ trong cơ thể từ quá
trình tích lũy trước đó. Diễn biến hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ trong
quá trình sinh trưởng, phát triển của châu chấu cái được trình bày qua hình 3.18.
ECI (%)
Tuổi 3Tuổi 2
Tuổi 1
Tuổi 4 Tuổi 5 Tuổi 6 Tuổi 7 Trước GP GP/đẻ trứng
-8,00
-6,00
-4,00
-2,00
0,00
2,00
4,00
6,00
8,00
10,00
12,00

Hình 3.17. Diễn biến hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ (ECI)
trong các giai đoạn phát triển của châu chấu mía H. tonkinensis
Ghi chú: GP - Giao phối.
3.4. Đặc điểm sinh thái học của loài châu chấu mía H. tonkinensis
3.4.1. Đặc điểm phát sinh gây hại của châu chấu mía H. tonkinensis
Sau khi vũ hóa, trong thời gian ăn bổ sung, châu chấu mía H. tonkinensis
hoạt động mạnh, sức gây hại lớn, di chuyển nhanh và thành từng đàn. Đàn châu
chấu lúc này có thể ở trên khu vực trồng cây họ tre trúc (luồng, lành hanh), cũng có
thể gây hại trên khu vực trồng cây nông nghiệp (lúa, mía, ngô) nhưng thời gian
không lâu, khi nguồn thức ăn cạn, chúng di chuyển đi nơi khác. Hướng di chuyển


18
của quần thể thường trùng với hướng gió vì vậy những khu ruộng ven chân đồi, nơi
hứng gió hay bị hại nặng hơn.
Khi thành thục sinh dục, châu chấu bắt đầu ghép đôi, lúc này ít thấy chúng
xuất hiện trên ruộng trồng cây nông nghiệp mà tập trung chủ yếu ở những đồi trồng
luồng, lành hanh. Sự di chuyển của quần thể lúc này chậm lại, chính vì vậy mật độ
trở nên đông đúc, nơi nào bị hại thì chỉ sau vài ngày cây trở lên trơ trụi, hiện tượng
ghép đôi lúc này là rất phổ biến. Những nơi có hiện tượng này chính là những nơi
châu chấu sẽ tập trung đẻ trứng. Có thể dễ dàng tìm thấy xác châu chấu chết và đặc
biệt là lớp phân châu chấu rải kín mặt đất.
Do châu chấu mía H. tonkinensis chỉ có 1 thế hệ/năm, vì vậy trưởng thành
của chúng chỉ xuất hiện trong khoảng thời gian nhất định, bắt đầu từ cuối tháng 6,
cao điểm vào giữa tháng 7 đến đầu tháng 8, chúng chết dần sau khi đẻ trứng từ cuối
tháng 8 và chết hết vào giữa tháng 10 (hình 3.19).
0,00
10,00
20,00
30,00
40,00
50,00
60,00
70,00
80,00
90,00
100,00
18/09/2010
02/10/2010
16/10/2010
30/10/2010

13/11/2010
27/11/2010
11/12/2010
25/12/2010
08/01/2011
22/01/2011
05/02/2011
19/02/2011
05/03/2011
19/03/2011
02/04/2011
16/04/2011
30/04/2011
14/05/2011
28/05/2011
11/06/2011
25/06/2011
09/07/2011
23/07/2011
06/08/2011
20/08/2011
03/09/2011
17/09/2011
Thoi gian trong nam
Do thuong gap (%)

Hình 3.19. Diễn biến độ thường gặp trong năm của trưởng thành châu chấu
mía H. tonkinensis (Trung Hòa, Tân Lạc, Hòa Bình, 2010-2011)
3.4.2. Ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái đến châu chấu mía
H. tonkinensis

Sau giai đoạn qua đông ở trong đất, trứng châu chấu bắt đầu phát dục và nở
vào đầu tháng 4 đến đầu tháng 5 tùy từng năm. Kết quả theo dõi trong 3 năm (2010-
2012) tại khu vực nghiên cứu cho thấy thời điểm nở trứng năm 2010 là từ đầu đến
giữa tháng 4, năm 2011 là đầu tháng 5 và năm 2012 là cuối tháng 4 (bảng 3.25).
Qua số liệu thu thập cũng cho thấy, những năm có nhiệt độ thấp hơn thì
trứng nở muộn hơn. Cụ thể, năm 2010 có nhiệt độ trung bình các tháng trên 22
o
C
thì trứng nở sớm, tập trung trong khoảng đầu đến giữa tháng 4; ngược lại trong
các năm 2011, 2012 nhiệt độ thấp hơn, xung quanh 20-21
o
C thì trứng nở cũng
muộn hơn, từ cuối tháng 4 sang đầu tháng 5. Trong cùng một năm, ở các địa bàn
khác nhau thì thời điểm trứng nở cũng khác nhau. Tại xã Bình Thanh, huyện Cao
Phong, là nơi có địa hình thấp nhất (độ cao trung bình 158,36m) thì trứng thường
nở sớm nhất và tại Xã Tu Lý, huyện Đà Bắc có địa hình cao nhất (độ cao trung

19
bình 253,2m) trứng nở muộn nhất. Những nhận xét này cũng phù hợp với một số
nghiên cứu về mối liên quan giữa nhiệt độ môi trường hay độ cao địa hình tới thời
điểm trứng châu chấu nở (Yao et al., 2009; Nguyễn Thế Nhã, 2012).
Bảng 3.25. Thời điểm nở trứng của châu chấu mía H. tonkinensis
(Hòa Bình, 2010-2012)
Năm Chỉ tiêu theo dõi
Địa bàn theo dõi (xã, huyện)
Trung Hòa,
Tân L

c


Bình Thanh,
Cao Phong

Tu Lý,
Đà B

c

2010
Nhi

t đ


trung bình
*
(
o
C)

22,41

22,25

22,59

Ẩm độ trung bình
*
(%) 81,60 84,32 79,16
Ngày tr


ng
b

t đ

u
n


11/4/2010

09/4/2010

16/4/2010

2011
Nhiệt độ trung bình
*
(
o
C) 20,31 19,98 20,18
Ẩm độ trung bình
*
(%) 82,44 84,48 80,85
Ngày trứng bắt đầu nở 06/5/2011 05/5/2011 06/5/2011
2012
Nhiệt độ trung bình
*
(

o
C) 21,14 20,74
Ẩm độ trung bình
*
(%) 84,10 86,19
Ngày tr

ng b

t đ

u n


22/4/2012

17/4/2012


Ghi chú: Nhiệt độ không khí và ẩm độ không khí theo số liệu của Trung tâm Khí tượng
Thủy văn Hòa Bình; *: lấy số liệu bình quân của 8 tháng, từ tháng 9 năm trước đến
tháng 4 năm sau.
Vào thời điểm giao phối, đẻ trứng, châu chấu mía H. tonkinensis thường
tập trung ở những khu đồi trồng luồng, lành hanh. Tuy nhiên tại những khu vực
này, không phải chỗ nào chúng cũng đẻ trứng. Một trong những yếu tố thể hiện
sự sai khác về số lượng ổ trứng chính là các hướng đồi. Kết quả điều tra trong 3
năm (2010-2012) tại khu vực nghiên cứu cho thấy hầu hết các ổ trứng thu được
là ở hướng Nam-Tây Nam và Nam-Đông Nam với trên 90% số ổ trứng được tìm
thấy; trong khi đó rất hiếm tìm được ổ trứng ở các hướng Bắc-Đông Bắc và Tây-
Tây Bắc (bảng 3.26).

Bảng 3.26. Số lượng và tỷ lệ ổ trứng thu được trên các hướng đồi
tại khu vực nghiên cứu ở tỉnh Hòa Bình, năm 2010-2012
Đợt
điều tra
S




tr

ng thu đư

c theo các hư

ng

Bắc -
Đông Bắc
Nam -
Đông Nam
Nam -
Tây Nam
Tây -
Tây Bắc
Tổng
số
28/09/2010 1 29 84 3 117
10/10/2010 5 27 56 0 88
21/03/2011 0 33 121 5 159

09/09/2011 3 19 97 3 122
26/02/2012 3 21 75 3 102
Tổng số ổ trứng 12 129 433 14 588
T


l


(%)

2,04
c

21,94
b

73,64
a

2,38
c

100

LSD
0,05
= 16,86
Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một hàng mang chữ cái khác nhau thì sai khác
có ý nghĩa ở mức 0,05.


20
Khi thí nghiệm với các loại đất có khối lượng riêng khác nhau, chúng tôi
thu được kết quả khác nhau về số ổ trứng đẻ trên mỗi loại đất (bảng 3.27).
Bảng 3.27. Số lượng ổ trứng châu chấu mía H. tonkinensis thu được trên
các loại đất khác nhau (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình 2011)

Loại đất Màu đất
Khối lượng
riêng
(g/cm
3
)
Số ổ trứng thu được
Trung bình
(

/l

n TN)

Tỷ lệ

(%)

Cát pha ven sông Nâu xám 1,562 15,67
b
19,19
Ruộng thịt nặng Nâu 1,701 5,33
c

6,53
Đ

t

feralit

1

Vàng nâu

1,548

44,3
3
a

54,28

Đất feralit 2 Vàng nghệ 1,459 14,67
b
17,96
Cát xây

Xám đen

1,347

1,67
c


2,04

LSD
0,05

= 12,78
Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang chữ cái khác nhau thì sai khác có
ý nghĩa ở mức 0,05.
Số liệu bảng 3.27 cho thấy các loại đất khác nhau có ảnh hưởng khác
nhau đến sự lựa chọn vị trí đẻ trứng của châu chấu. Việc xác định được loại đất
loài châu chấu này ưa thích đẻ trứng nhất (đất đồi màu vàng nâu) rất có ý nghĩa
thực tiễn trong việc điều tra, khoanh vùng để xác định khu vực đẻ trứng của loài
châu chấu này, tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện nguyên tắc phát hiện
và phòng trừ sớm trong quản lý châu chấu.
Thí nghiệm tìm hiểu ảnh hưởng của ẩm độ đất tới tỷ lệ sống sót của trứng
châu chấu được tiến hành với 5 công thức được duy trì độ ẩm đất ổn định khác
nhau; mỗi độ ẩm này nằm trong một mức ẩm, gồm có mức rất ẩm, mức ẩm tối
ưu, mức ẩm trung bình, mức chớm hạn và mức hạn vừa theo qui định của Tổ
chức khí tượng Thế giới (Oldeman and Frere, 1982).
Bảng 3.28. Tỷ lệ trứng châu chấu mía H. tonkinensis sống sót ở các ẩm độ
đất khác nhau (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011-2012)
TT

Mức ẩm
Chất duy trì độ
ẩm
Độ ẩm đất duy
trì (%)
Tỷ lệ trứng sống

sót (%)
1
Rất ẩm KNO
3
93,58 ± 0,55% 4,90
c

2
Ẩm tối ưu NaNO
3
74,25 ± 0.32% 90,42
a

3
Ẩm trung bình KI 68,86 ± 0,24% 89,26
a

4
Chớm hạn K
2
CO
3
43,16 ± 0,39% 12,17
b

5
Hạn vừa MgCl
2
32,78 ± 0,16% 0,00
c



LSD
0,05
= 5,7979

Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang chữ cái khác nhau thì sai
khác có ý nghĩa ở mức 0,05.

21
Như vậy, rõ ràng ẩm độ đóng vai trò rất quan trọng tới tỷ lệ sống sót của trứng
châu chấu trong giai đoạn phát triển phôi. Đây là giai đoạn mẫn cảm của trứng với
các tác động bên ngoài, đặc biệt là yếu tố ẩm độ, vì trứng của mọi loài châu chấu
đều phải hấp thụ nước ở giai đoạn cuối để hoàn thành phát dục (Dempster,
1963), kết quả thực nghiệm của chúng tôi đã chứng minh kết luận này là đúng.
3.5. Biện pháp phòng chống châu chấu mía H.tonkinensis
3.5.1. Biện pháp canh tác
Kết quả so sánh giữa việc làm đất (cuốc đất, đập nhỏ đất dưới 10 cm)
trong giai đoạn trứng châu chấu chưa nở và để đất tự nhiên cho thấy, việc làm
đất đã thay đổi môi trường về nhiệt độ, ẩm độ, kết cấu đất vv… dẫn đến những tác
động bất lợi cho trứng châu chấu. Mặt khác các ổ trứng có thể bị phơi lộ lên trên bề
mặt đất, tạo điều kiện cho các loài thiên địch tấn công làm suy giảm số lượng trứng.
Nhìn chung cả 2 đợt làm đất vào thời điểm châu chấu kết thúc đẻ trứng trước khi
chấm dứt giai đoạn qua đông của pha trứng đều có ảnh hưởng rõ rệt tới tỷ lệ
sống sót của trứng so với đối chứng không làm đất, với tỷ lệ giảm tương ứng là
18,54% và 17,31%. Còn nếu so với số lượng trứng đẻ ban đầu thì tỷ lệ giảm tương
ứng là 32,56 và 31,33 %. Với điều kiện như ở Hòa Bình, chúng tôi cho rằng nếu
ứng dụng biện pháp này trong thực tế thì hiệu quả phòng trừ là chưa thuyết phục.
Việc làm đất chỉ nên tiến hành trên khu vực đất tương đối bằng phẳng và kết hợp
trồng cây màu, không để đất trống; còn dưới tán cây lâm nghiệp, đất dốc thì không

nhất thiết áp dụng biện pháp này vì hiệu quả không cao.
3.5.2. Biện pháp thủ công
Nhiều nơi ở tỉnh Hòa Bình, việc sử dụng châu chấu, nhất là châu chấu lúa
làm thức ăn tương đối phổ biến. Ở những xã thường xuyên có dịch châu chấu mía
H. tonknensis, thậm chí đã hình thành những người chuyên đi bắt châu chấu. Nếu
như thời điểm thu bắt châu chấu lúa thường phổ biến từ cuối tháng 5 đến giữa
tháng 7, trong giai đoạn sau khi thu hoạch lúa vụ chiêm xuân, chuẩn bị cấy lúa vụ
mùa thì việc thu bắt châu chấu mía H. tonkinensis xẩy ra muộn hơn, từ cuối tháng
6 trở đi vì trưởng thành loài này vũ hóa muộn hơn so với châu chấu lúa.
Thu bắt loài châu chấu mía H. tonkinensis cũng khó khăn hơn châu chấu
lúa vì chúng hoạt động linh hoạt và ở tầm cao hơn, xuất hiện ở những địa hình
khó khăn hơn. Trong các năm 2010-2012, ở những xã có dịch châu chấu, chính
quyền cơ sở đều vận động nông dân, chủ rừng, chủ vườn tham gia thu bắt thủ
công được trên 500kg.
3.5.3. Biện pháp sinh học
Trong quá trình điều tra diễn biến mật độ và nghiên cứu sự phát sinh gây

22
hại của châu chấu mía H. tonkinensis ngoài đồng ruộng trong các năm 2010-
2012, chúng tôi đã thu thập được 6 loại vi sinh vật và côn trùng ký sinh, ăn thịt
trên đối tượng này. Trong đó có 4 loài nấm ký sinh, 1 loài ong ký sinh và 1 loài
ăn thịt. Ngoài 6 đối tượng đã nêu, chúng tôi cũng ghi nhận được một số loài
động vật có xương sống khác sử dụng châu chấu làm thức ăn như bìm bịp, sáo,
thằn lằn, gà rừng vv nhưng rất hiếm khi bắt gặp chúng.
Kết quả xử lý bằng các chế phẩm sinh học trong phòng thí nghiệm với ấu
trùng châu chấu mía H. tonkinensis cho thấy hiệu lực xử lý là khá cao đối với cả
2 loại chế phẩm. Việc xử lý các chế phẩm sinh học trong phòng thí nghiệm với
châu chấu trưởng thành cũng cho kết quả tương tự như với ấu trùng, tuy nhiên
hiệu lực cuối cùng sau 21 ngày thấp hơn so với thí nghiệm xử lý ở giai đoạn ấu
trùng (bảng 3.33).

Bảng 3.33. Hiệu lực phòng trừ trưởng thành châu chấu mía H. tonkinensis
của các chế phẩm sinh học (Chi cục BVTV Hòa Bình, 2011)
Chế phẩm xử lý
Hiệu lực (%) sau xử lý
12 giờ 24 giờ 3 ngày 7 ngày 14ngày 21 ngày
B. bassiana (*) 3,00
a
5,63
ab
30,17
bc
64,47
bc
71,10
c
73,80
c

B. bassiana (**) 1,17
c
4,07
bcd
25,87
c
59,30
d
70,17
cd
73,03
cd

M. anisopliae (*) 3,00
ab
7,42
a
37,26
a
76,63
a
83,20
a
85,83
a
M. anisopliae (**) 1,33
cd
5,33
abc
31,13
b
68,40
b
83,03
ab
85,23
ab
LSD
0,05
1,99 2,68 3,21 2,74 3,51 2,87
Ghi chú:
- Giá trị trung bình trong cùng một cột mang chữ cái khác nhau thì sai khác có
ý nghĩa ở mức 0,05.

- B. bassiana sử dụng chế phẩm dạng 2,5-4 x 10
9
bào tử/gam.
- M. anisopliae sử dụng chế phẩm dạng 7,5-8 x 10
10
bào tử/gam.
(*) - Xử lý bằng cách phun chế phẩm vào cả thức ăn và châu chấu.
(**) - Xử lý bằng cách phun chế phẩm vào thức ăn rồi thả châu chấu
Năm 2011 là năm có điều kiện thời tiết khá ôn hòa đối với khu vực tỉnh
Hòa Bình, lượng mưa khá và rải đều, độ ẩm không khí trong các tháng 5,6,7
thường ở khoảng 80-90%. Đây là những điều kiện thuận lợi cho bào tử nấm phát
tán, lây lan, vì vậy trong cả 2 đợt xử lý chế phẩm sinh học với ấu trùng và châu
chấu trưởng thành đều cho kết quả khá tốt. Hiệu lực xử lý của chế phẩm
B. bassiana và M. anisopliae sau 28 ngày với ấu trùng là 71,7% và 86,8%; mức
tương ứng với giai đoạn trưởng thành là 67,7% và 78,9% .
Khi thí nghiệm thuốc hóa học với ấu trùng châu chấu ngoài đồng ruộng,

23
cả 3 loại thuốc Notan 2,8EC; Nibas 50ND; Sumithion 50EC đều thể hiện hiệu
lực tốt. Ở 3 ngày sau xử lý, hiệu lực của các loại thuốc Notan 2,8EC; Nibas
50ND; Sumithion 50EC đã đạt lần lượt tương ứng là 86,3; 72,3 và 71,5%, tương
đương với chế phẩm sinh học ở thời điểm 28 ngày sau xử lý. Đối với châu chấu
trưởng thành, hiệu lực của các loại thuốc hóa học thí nghiệm ngoài động ruộng
cũng cho kết quả tương tự như với ấu trùng nhưng chậm hơn.
Khi triển khai mô hình phòng chống tổng hợp châu chấu mía
H. tonkinensis với sự tham gia của nông hộ, do có phương pháp phù hợp và kế
hoạch giám sát sự phát sinh của châu chấu ngay từ giai đoạn trứng chưa nở và
xử lý sớm ngay khi phát hiện các ổ ấu trùng; nên kết quả thu được giữa diện tích
mô hình phòng chống tổng hợp với diện tích đối chứng là khác biệt rõ ràng. Mặc
dù nguy cơ phát sinh dịch châu chấu (diện tích rừng luồng, lành hanh nhiễm

châu chấu năm 2010) trong mô hình cao hơn nhiều diện tích đối chứng (17,3 ha
so với 7,4 ha); nhưng do giám sát tốt, thực hiện xử lý sớm nên diện tích cây
trồng nông nghiệp (lúa) ở khu vực mô hình bị nhiễm châu chấu đã giảm đáng kể
so với đối chứng và không có diện tích bị nhiễm nặng
Đánh gía kết quả thực hiện mô hình thấy rằng việc các hộ nông dân tham
gia trực tiếp vào quá trình giám sát sự phát sinh của châu chấu mía
H. tonkinensis và thực hiện xử lý sớm từ giai đoạn ấu trùng đã làm giảm 91,76%
diện tích lúa nhiễm dịch; giảm 81,62% diện tích phải phun thuốc; từ đó làm
giảm 49,76% chi phí thuốc và công phun so với diện tích không có sự giám sát
và xử lý muộn

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. Kết luận
1- Đã xác định được 17 loài châu chấu ở tỉnh Hòa Bình, trong đó ghi nhận
mới 4 loài cho khu hệ châu chấu ở tỉnh này là Atractomorpha lata
(Motschulsky, 1866); Atractomorpha crenulata (Fabr., 1793); Oxyrrhepes
extensa Walker, 1859 và Phlaeoba infumata Brunner V. Wattenwyl, 1893. Loài
châu chấu mía Hieroglyphus tonkinensis Bolivar, 1912 là loài có ý nghĩa kinh tế
quan trọng và là loài phổ biến ở tỉnh Hòa Bình.
2- Châu chấu mía H. tonkinensis có 1 thế hệ/năm. Ấu trùng đực có 6 tuổi,
ấu trùng cái có 7 tuổi. Vòng đời châu chấu là 351,68±11,32 ngày, trong đó giai
đoạn trưởng thành trước đẻ trứng dài 32,05 ngày.
3- Mỗi con châu chấu cái đẻ từ 1 đến 4 ổ trứng, mỗi ổ chứa trung bình
38,47 quả trứng. Lượng thức ăn tiêu thụ trong đời mỗi con châu chấu cái là

×