ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
VŨ THỊ THỊNH
TÍCH HỢP GIÁO DỤC NHỮNG VẤN ĐỀ KHOA HỌC
XÃ HỘI - NHÂN VĂN TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM
VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LỚP 11 THPT
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THÁI NGUYÊN - NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
VŨ THỊ THỊNH
TÍCH HỢP GIÁO DỤC NHỮNG VẤN ĐỀ KHOA HỌC
XÃ HỘI - NHÂN VĂN TRONG DẠY HỌC TÁC PHẨM
VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI LỚP 11 THPT
CHUYÊN NGÀNH : LÍ LUẬN VÀ PPDH VĂN - TIẾNG VIỆT
MÃ SỐ: 60.14.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Đỗ Ngọc Thống
THÁI NGUYÊN – NĂM 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống. Nội dung đề tài nghiên
cứu của luận văn chưa được ai công bố trong cơng trình nào khác.
Người hướng dẫn khoa học
Tác giả luận văn
PGS.TS. Đỗ Ngọc Thống
Vũ Thị Thịnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
i
Mục lục
ii
Danh mục các chữ viết tắt
iii
PHẦN MỞ ĐẦU
1
PHẦN NỘI DUNG
14
CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những luận điểm cơ bản về dạy học tích hợp
14
1.1.1. Quan niệm về dạy học tích hợp
14
1.1.2. Mục tiêu của dạy học tích hợp
16
1.1.3. Vì sao phải thực hiện dạy học tích hợp?
17
1.1.4. Một số phương thức tích hợp các nội dung
20
1.1.5. Tích hợp nội dung và tích hợp như một khoa học sư phạm
22
1.2. Yêu cầu của chương trình Ngữ văn trung học về dạy học tích hợp
24
1.2.1. Tích hợp ba phần Văn, Tiếng Việt và Làm văn
24
1.2.2. Tích hợp ngang và tích hợp dọc
26
1.2.3. Tích hợp liên mơn và xun mơn
29
1.3. Tác phẩm văn học nói chung và văn xi Việt Nam hiện đại nói
31
riêng tiềm ẩn nhiều yếu tố và dữ kiện để thực hiện dạy học tích hợp
1.4. Khảo sát thực trạng việc dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam
36
hiện đại ở trung học phổ thông hiện nay
1.4.1. Nội dung yêu cầu tích hợp của sách giáo khoa Ngữ văn
36
1.4.2. Cách thức dạy học tích hợp các tri thức khoa học xã hội -
39
nhân văn qua những tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại
1.4.2.1. Khảo sát giáo án của giáo viên và dự giờ dạy học tác
phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
iii
1.4.2.2. Khảo sát bài viết của học sinh về tác phẩm văn xuôi Việt
43
Nam hiện đại
CHƢƠNG 2 : DẠY HỌC TÁC PHẨM VĂN XUÔI VIỆT NAM
HIỆN ĐẠI Ở TRUNG HỌC PHỔ THƠNG THEO U CẦU
TÍCH HỢP KIẾN THỨC KHOA HỌC XÃ HỘI - NHÂN VĂN
2.1. Xác định mục tiêu và yêu cầu tích hợp kiến thức khoa học xã hội -
50
nhân văn trong dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại ở trung
học phổ thơng
2.1.1. Mục tiêu tích hợp
50
2.1.2. Yêu cầu tích hợp
51
2.2. Khả năng và các nội dung khoa học xã hội - nhân văn có thể tích hợp
54
khi dạy các tác phẩm văn xi Việt Nam hiện đại ở trung học phổ thơng
2.2.1. Khả năng tích hợp
54
2.2.2. Nội dung tích hợp
59
2.3. Tổ chức dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại ở trung học
62
phổ thơng theo u cầu tích hợp kiến thức khoa học xã hội - nhân văn
2.3.1. Biên soạn giáo án theo yêu cầu tích hợp
62
2.3.2. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà theo yêu cầu tích hợp
70
2.3.3. Tổ chức đọc hiểu văn bản trên lớp theo yêu cầu tích hợp
73
2.3.4. Kiểm tra đánh giá theo yêu cầu tích hợp
82
CHƢƠNG 3 : THỬ NGHIỆM SƢ PHẠM
3.1. Mục đích thử nghiệm
86
3.2. Đối tượng, phạm vi và địa bàn thử nghiệm
86
3.3. Nội dung thử nghiệm
86
3.4. Hình thức thử nghiệm
86
3.4.1. Thiết kế giáo án thử nghiệm
86
3.4.2. Thử nghiệm trên lớp
105
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
3.5. Kết quả thử nghiệm
105
3.5.1. Bảng thống kê và tổng hợp kết quả thử nghiệm
105
3.5.2. Nhận xét chung về thử nghiệm
105
PHẦN KẾT LUẬN
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
109
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DHTH
:
Dạy học tích hợp
GD&ĐT
:
Giáo dục và đào tạo
GV
:
Giáo viên
HS
:
Học sinh
KHXH-NV
:
Khoa học xã hội - nhân văn
PPDH
:
Phương pháp dạy học
SGK
:
Sách giáo khoa
SGV
:
Sách giáo viên
THCS
:
Trung học cơ sở
THPT
:
Trung học phổ thơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học, kĩ thuật và cơng
nghệ, tri thức của lồi người đang gia tăng nhanh chóng, việc quy định cứng
nhắc những nội dung chi tiết trong chương trình dạy học dẫn đến tình trạng
nội dung chương trình dạy học nhanh bị lạc hậu so với tri thức hiện đại. Mặt
khác, thời gian học tập trong nhà trường có hạn, ngày càng có nhiều nội dung
giáo dục mới cần đưa vào nhà trường (dân số, mơi trường, phịng chống
HIV/AIDS, chống các tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật, an tồn giao thơng,
bảo tồn và phát triển nền văn hố dân tộc,...). Song khơng thể đặt thêm những
môn học mới mà phải lồng ghép vào các mơn học đã có. Do đó phải chuyển
từ dạy các môn học riêng rẽ sang dạy các môn học tích hợp. GV phải biết dạy
tích hợp các khoa học, dạy cho HS cách thu thập, chọn lọc, xử lí thơng tin,
biết vận dụng các kiến thức học được vào các tình huống của đời sống thực tế.
1.2. Tích hợp là một trong những xu thế dạy học hiện đại hiện đang
được quan tâm nghiên cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế
giới. Ở nước ta, từ thập niên 90 của thế kỉ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng
mơn học tích hợp với những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung
nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng vào nhà trường phổ thông, chủ yếu ở bậc
tiểu học và cấp THCS. Trước đó, tinh thần giảng dạy tích hợp chỉ mới được
thực hiện ở những mức độ thấp như liên hệ, phối hợp các kiến thức, kĩ năng
thuộc các môn học hay phân môn khác nhau để giải quyết một vấn đề giảng
dạy.
Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử
nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương trình và SGK THPT. Chương trình
THPT, mơn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT dự thảo đã ghi rõ: “Lấy quan
điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình, biên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
soạn sách giáo khoa và lựa chọn các phương pháp giảng dạy”, “Nguyên tắc
tích hợp phải được quán triệt trong tồn bộ mơn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt
đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt
trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp
trong sách giáo khoa; tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và
tích hợp trong hoạt động học tập của học sinh; tích hợp trong các sách đọc
thêm, tham khảo.” [2]
Như vậy, ở nước ta hiện nay, vấn đề cần hay khơng cần tích hợp trong
xây dựng nội dung chương trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương
pháp giảng dạy ở bộ môn Ngữ văn không đặt ra nữa. Bài tốn đang đặt ra
trong lĩnh vực lí luận và PPDH bộ môn là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận
dụng DHTH vào dạy học Ngữ văn nói chung và ở THPT nói riêng nhằm hình
thành và phát triển năng lực cho HS một cách có hiệu quả hơn, góp phần thực
hiện tốt mục tiêu GD&ĐT của bộ mơn.
1.3. Tích hợp được vận dụng vào nền giáo dục nước ta, đang là vấn đề
mới mẻ, cịn nhiều lúng túng về lí luận cũng như cách thức thực hiện. Trong
những năm đầu thực hiện thay đổi chương trình SGK, thay đổi phương pháp
giảng dạy theo hướng tích hợp, chúng ta khơng khỏi bỡ ngỡ, lúng túng trước
vấn đề mới mẻ này. GV và HS đang từng bước làm quen với chương trình
mới, cách dạy - học mới. Chính vì vậy mà trong q trình thực hiện chương
trình, cả GV lẫn HS khơng tránh khỏi những khó khăn. Chương trình SGK
mới, cách dạy - học mới theo hướng tích hợp yêu cầu đối với GV và HS ở
một mức độ cao hơn hẳn so với chương trình và cách dạy - học cũ. Để thực
hiện được chương trình tích hợp, bắt buộc GV và HS phải đầu tư thời gian
nhiều hơn cho việc soạn bài, tham khảo tài liệu, suy nghĩ để tìm ra hướng tiếp
cận phù hợp, tìm ra cách hiểu, cách lí giải vấn đề sát thực, có cơ sở lí luận.
Làm sao để trong một giờ học, bài học, GV phải tổ chức, hướng dẫn, định
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
hướng để thúc đẩy được sự hoạt động bên trong của HS. HS phải tự tìm tịi,
khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức mà bài học chứa đựng. Đồng thời từ kiến
thức của bài học, mơn học đó, HS biết liên hệ, mở rộng sang những kiến thức
của bài học, mơn học khác có liên quan. Thực hiện tốt được những u cầu đó
khơng phải là điều dễ dàng đối với cả GV và HS.
Một thực trạng dễ nhận thấy nữa là: phần lớn GV chưa hiểu kĩ, hiểu sâu
về tích hợp nên nhiều khi vận dụng vào bài dạy cụ thể còn nhiều vướng mắc,
lúng túng.
Đối với bậc THPT, việc học tập và vận dụng tư tưởng sư phạm tích hợp
đã nhiều năm nay, song tác dụng do tích hợp mang lại chưa cao do chưa xác
định rõ mục tiêu tích hợp nên tích hợp chưa nhất quán, chưa triệt để, nhiều
chỗ còn gượng ép…
1.4. Tháng 06 - 2012, tại Đại hội đồng của UNESCO, Tổng Giám đốc
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc - bà Irina Bokova
khẳng định: KHXH-NV ngày càng đóng vai trò quan trọng và nhấn mạnh sự
cần thiết phải nâng cao nhận thức chung của công chúng về nhu cầu KHXHNV trong việc góp phần tạo ra tương lai mà nhân loại mong muốn. Tổng
Giám đốc UNESCO cũng nêu rõ nhân loại ngày nay phải xử lí các vấn đề và
thách thức mới về xã hội cũng như về đường lối mới hướng tới bền vững.
KHXH-NV đóng vai trị quan trọng sống cịn để phát triển các chính sách tốt
hơn nhằm đáp ứng các nhu cầu và giải quyết các thách thức mà nhân loại
đang đối mặt. Đây là vấn đề cốt lõi để đảm bảo phát triển bền vững trong thế
kỉ tới [61]. Trong nhà trường phổ thông, một số mơn học có khả năng tích
hợp những nội dung KHXH-NV vào bài học, trong đó mơn văn là một mơn
học có khả năng đặc biệt.
1.5. Q trình dạy học văn là quá trình phức hợp đan kết nhiều q
trình tâm lí, ngơn ngữ, văn học, sư phạm. Cũng như nhiều mơn học khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn là một khoa học - khoa học giáo
dục Ngữ văn, nó vừa có tính giáo dục, tính thẩm mĩ, lại vừa mang chức năng
là một loại công cụ đối với các môn học khác, do đó nhiệm vụ của nó rất lớn
lao. Quan điểm thực tiễn khi xây dựng chương trình Ngữ văn (2006) của Bộ
GD&ĐT cũng đã chỉ ra khá rõ: “Chương trình mơn Ngữ văn đáp ứng u cầu
đào tạo nguồn nhân lực trong thời kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Chương
trình trang bị cho học sinh những hiểu biết về xã hội, về con người, về cái đẹp
và phát triển năng lực giao tiếp, tư duy, góp phần hình thành năng lực hoạt
động thực tiễn cho những chủ nhân tương lai của đất nước” [3, tr. 7]. Đó là
những cơ sở cho việc vận dụng quan điểm tích hợp vào thực tế dạy học Ngữ
văn nói chung và dạy các tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thơng
nói riêng. Vận dụng tư tưởng sư phạm tích hợp sẽ tạo cơ hội liên kết các môn
học trong nhà trường phổ thơng để thực hiện mục đích giáo dục chung là hình
thành con người phát triển tồn diện.
Đối tượng dạy và học của giờ văn chủ yếu là các hiện tượng văn học
(gồm tác phẩm, tác giả, các trào lưu và giai đoạn lịch sử văn học...) nhưng chủ
yếu là tác phẩm văn học. Chương trình Đọc văn trong nhà trường phổ thơng
hiện nay có quy mơ lớn, bao gồm nhiều tác phẩm văn học có giá trị được trình
bày theo hệ thống thể loại (hay kiểu văn bản) kết hợp với tiến trình lịch sử
văn học. Trong đó, bài học về tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại chiếm
một thời lượng khơng nhỏ trong chương trình.
Khái niệm Văn xuôi Việt Nam hiện đại ở đây được hiểu là các tác phẩm
văn xuôi Việt Nam viết từ đầu thế kỉ XX với khởi đầu là tiểu thuyết Tố Tâm
(1925) của Hoàng Ngọc Phách cho đến nay. Với khoảng thời gian tám mươi
lăm năm - gần một thế kỉ, văn xuôi Việt Nam hiện đại đã trải qua những
chặng đường đầy biến động, trở thành một đề tài rất lí thú đối với cơng việc
nghiên cứu và phê bình văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
Quan điểm tuyển chọn tác phẩm vào chương trình và SGK Ngữ văn
hiện hành là “giàu giá trị nhân bản, thể hiện tất cả những mối quan hệ đa
dạng của con người, đáp ứng mục tiêu giáo dục nhân cách hài hồ cho học
sinh” [57]. Các tác phẩm văn xi Việt Nam hiện đại được giảng dạy trong
chương trình Ngữ văn THPT là những tác phẩm có giá trị, chiếm vị trí quan
trọng trong nền văn học dân tộc. Những vấn đề nhà văn đặt ra trong các tác
phẩm này gần gũi với những vấn đề mà cuộc sống cũng như tuổi trẻ ngày nay
đang tìm câu trả lời. Nhưng để dạy tốt những tác phẩm thuộc thể loại này, để
HS có thể hiểu và yêu quý cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm được học là
điều không dễ, nhất là trong bối cảnh xã hội và thực tế dạy học hiện nay. Hơn
nữa, đây lại là những tác phẩm tiềm ẩn nhiều nội dung và dữ kiện để thực
hiện tích hợp giáo dục các tri thức, kĩ năng KHXH-NV.
Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực tiễn của phương pháp giáo dục
theo quan điểm tích hợp và PPDH Ngữ văn ở trường phổ thông, chúng tôi
chọn đề tài: Tích hợp giáo dục những vấn đề khoa học xã hội - nhân văn
trong dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại lớp 11 THPT với mong
muốn góp phần vào việc chỉ ra con đường, cách thức tích hợp các nội dung
KHXH-NV vào giảng dạy phần văn xi Việt Nam hiện đại trong chương
trình THPT.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tích hợp là tư tưởng, là nguyên tắc, là quan điểm hiện đại trong giáo
dục cũng như trong dạy học văn. Đây là vấn đề đã thu hút sự quan tâm của
các nhà phương pháp và những người làm công tác giáo dục. Đề cập vấn đề
này, mỗi tác giả bàn đến ở một góc độ khác nhau nhưng tất cả đều có chung
sự khẳng định về vị trí, vai trị quan trọng, về tính tất yếu khách quan của việc
tích hợp trong dạy học Ngữ văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
Từ sau năm 2000, sự hợp nhất cả ba phần Văn - Tiếng Việt - Làm văn
trong một cuốn sách Ngữ văn THCS, THPT đã thể hiện mối quan hệ mật thiết
giữa các phần này. Từ đó các cuốn sách như SGK, SGV, các tài liệu hướng
dẫn dạy và học văn khác lần lượt được ra đời đã chú trọng đến vấn đề tích
hợp trong dạy học ba phân mơn trên. Cấu trúc chương trình các cấp học được
xây dựng theo mơ hình những đường trịn đồng tâm. Trong hướng dẫn học bài
và dạy học, có những vấn đề yêu cầu cần phải sử dụng nguyên tắc tích hợp
trong tiết dạy. Ở SGK, văn bản văn học vừa là đối tượng học tập vừa là ngữ
liệu, phương tiện để phục vụ học tập các phân môn Tiếng Việt, Làm văn.
Ngược lại, khi học đọc hiểu văn bản văn học lại dùng những tri thức khoa học
của phân môn Tiếng Việt và Làm văn để khai thác. PPDH Ngữ văn ở THPT
dựa trên hai trục Đọc văn và Làm văn cũng thể hiện rất rõ tính chất tích hợp.
Dạy Đọc văn là để cung cấp tri thức và phương pháp cho Làm văn và ngược
lại, dạy Làm văn là để củng cố tri thức và phương pháp đọc hiểu văn bản văn
học.
Trong số tài liệu chúng tơi thu thập được, có một số tài liệu tiêu biểu
sau bàn về tích hợp trong dạy học văn: Phương pháp dạy học văn, tập 1 và tập
2 (Phan Trọng Luận chủ biên, NXB Giáo dục, 1999); Tích hợp trong việc dạy
- học Ngữ văn bậc THCS (Nguyễn Văn Đường, Tạp chí Giáo dục, số 46,
2002); Tích hợp trong dạy học Ngữ văn (Nguyễn Thanh Hùng, Tạp chí Khoa
học giáo dục, số 6, 2003); Đổi mới giờ học Ngữ văn ở THPT theo quan điểm
tích hợp (Đỗ Ngọc Thống, 3/2003); Phương pháp dạy học Ngữ văn ở THCS
(Nguyễn Thanh Hùng, NXB Đại học Sư phạm, 2007); Tích hợp trong dạy học
Ngữ văn ở trường phổ thơng (Kiều Mai, Tạp chí Dạy và học ngày nay,
10/2007); Nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp dạy - học văn
(Nguyễn Huy Quát, NXB Đại học Thái Nguyên, 2011); Văn học nhà trường Những điểm nhìn (Phan Trọng Luận, NXB Đại học sư phạm, 2011); Chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thơng Việt Nam (Đỗ Ngọc Thống, NXB
Giáo dục, 2011); các cuốn Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên của Bộ Giáo dục;
các cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ văn THPT do tác giả Phan Trọng Luận,
Hoàng Hữu Bội biên soạn...
Trong những tài liệu trên, các tác giả đã giúp GV thấy được những yêu
cầu của đổi mới chương trình Ngữ văn và sự cần thiết của việc đổi mới PPDH
văn theo quan điểm tích hợp. Tuy nhiên, những tài liệu trên chủ yếu tập trung
vào vấn đề DHTH ba phân môn của môn Ngữ văn chứ chưa đề cập tới vấn đề
tích hợp các kiến thức KHXH-NV trong dạy học Ngữ văn nói chung và dạy
học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại nói riêng một cách cụ thể và chuyên
sâu, chưa nêu thành nguyên tắc.
Trong số các tài liệu trên, quan tâm tới vấn đề DHTH các tri thức
KHXH-NV trong dạy học Ngữ văn phải kể tới một số cơng trình sau:
Cuốn Phương pháp dạy học văn do Phan Trọng Luận chủ biên xuất bản
lần đầu tiên năm 1991, đến nay đã tái bản lần thứ hai (có bổ sung sửa chữa)
năm 1999. Cuốn sách xuất bản lần thứ hai được in thành hai tập, số trang
cũng tăng thêm hơn hai trăm trang, chủ yếu tập trung vào PPDH tác phẩm văn
chương ở THPT. Tác giả đã chỉ ra con đường tiếp cận và cắt nghĩa tác phẩm
văn chương trong nhà trường phổ thông theo các quan điểm sau: quan điểm
tiếp cận lịch sử phát sinh hay là sự vận dụng một cách thích hợp những hiểu
biết ngồi văn bản (xã hội, văn hoá, nhà văn…) để cắt nghĩa tác phẩm; quan
điểm tiếp cận văn bản; quan điểm tiếp cận hướng vào đáp ứng của HS. Tác
giả đưa ra những nhận định có ý nghĩa xác đáng về thực trạng dạy học văn
trong nhà trường hiện nay và nguyên nhân của nó: 1. Điều đáng lo đầu tiên là
khoảng cách ngày càng rộng giữa văn hố ngồi xã hội với văn học trong nhà
trường, xã hội càng biến động và biến đổi càng lộ rõ khoảng cách đó; 2. Cuộc
sống xã hội ngày càng phát triển cùng với những diễn biến mới trên mọi lĩnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố nghệ thuật càng bộc lộ rõ những hạn
chế trong nội dung giảng dạy văn học của nhà trường; 3. Văn học nhà trường
đi quá chậm so với thành tựu khoa học của một số ngành như lí luận văn học,
nghiên cứu văn học và một số ngành khoa học nhân văn khác; 4. Sự giảm sút
về chất lượng nhân văn; 5. Sự non yếu về năng lực văn, kĩ năng văn [35, tr.
87-97]. Đó cũng chính là thực tế mà chúng ta phải ghi nhận, từ đó có phương
hướng và biện pháp cụ thể để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng dạy - học
văn trong nhà trường. Nắm được tầm quan trọng về PPDH văn theo quan
điểm tích hợp như trên nên trong cơng trình này cũng như trong cuốn Văn học
nhà trường - Những điểm nhìn, tác giả đã có những chỉ dẫn chung về phương
pháp, song thiếu những mơ hình thiết kế cụ thể nhằm giúp GV tích hợp các tri
thức KHXH-NV trong dạy học phần văn xuôi Việt Nam hiện đại ở trường
THPT.
Tác giả Đỗ Ngọc Thống trong bài viết Đổi mới giờ học Ngữ văn ở
THPT theo quan điểm tích hợp ngồi việc chỉ ra cơ sở lí luận cho việc xây
dựng giờ văn theo quan điểm tích hợp cịn xây dựng mơ hình chung cho các
giờ học tác phẩm văn chương ở trường phổ thông theo quan điểm trên. Tuy
nhiên bài viết mới chỉ đưa ra một bản thiết kế - một giáo án cụ thể thực hiện
theo mơ hình trên (dạy học văn bản Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi trong
chương trình Ngữ văn 10).
Trong cơng trình Nghiên cứu văn học và đổi mới phương pháp dạy học văn, tác giả Nguyễn Huy Quát đã đưa ra biện pháp sử dụng các phương
tiện nghe nhìn có ý nghĩa tích hợp các tri thức KHXH-NV trong dạy học tác
phẩm văn chương như: sử dụng băng ghi âm, những đoạn phim tư liệu phục
vụ cho việc hiểu rõ bối cảnh lịch sử - xã hội được phản ánh trong tác phẩm;
sử dụng những đoạn phim xung quanh những vấn đề về lịch sử văn hoá của
các dân tộc (trong và ngồi nước) có liên quan đến việc hiểu tác phẩm; sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
dụng những đoạn phim về phong cảnh thiên nhiên và đặc điểm địa lí ở những
vùng xa lạ với HS nhưng có liên quan đến việc hiểu tác phẩm;...[46, tr. 330331]. Đó chính là những gợi ý về cách thức tích hợp cho GV trực tiếp đứng
lớp.
Trong Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam,
tác giả Đỗ Ngọc Thống có dẫn ra những ví dụ từ PPDH văn hiện đại của các
nước có nền giáo dục phát triển (Mĩ, Hàn Quốc, Pháp, Anh), đồng thời nêu ra
nguyên tắc, biện pháp thực hiện DHTH, đưa ra phương hướng kiểm tra đánh
giá theo quan điểm tích hợp [57]. Những gợi dẫn đó có thể xem là những định
hướng cho GV về DHTH các tri thức trong dạy học văn. Tuy nhiên, cũng như
các cơng trình nghiên cứu của các tác giả khác, trong cơng trình này tác giả
cũng chưa nghiên cứu chuyên sâu về DHTH các tri thức KHXH-NV trong
dạy học phần văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Bên cạnh những tài liệu trên, chúng tơi cịn chú ý tới những tài liệu về
tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ mơi trường, tích hợp nội dung giáo dục kĩ
năng sống trong môn Ngữ văn. Ngày 31/01/2005, Bộ GD&ĐT đã chỉ thị Về
việc tăng cường công tác giáo dục bảo vệ môi trường. Ngày 12/08/2008, Bộ
GD&ĐT ra công văn số 2737/GDĐT - GDTrH Về việc tích hợp nội dung giáo
dục bảo vệ môi trường vào các môn học cấp THCS và THPT. Trong đó, đưa
ra những mơn học thực hiện tích hợp nội dung giáo dục bảo vệ mơi trường
gồm: bậc THCS có các mơn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục cơng dân, Vật
lí, Sinh học, Cơng nghệ; bậc THPT có các mơn Ngữ văn, Địa lí, Giáo dục
cơng dân, Vật lí, Hố học, Sinh học, Cơng nghệ.
Rèn luyện kĩ năng sống cho HS được xác định là một trong những nội
dung cơ bản của Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008 - 2013 do Bộ
GD&ĐT chỉ đạo. Để giúp cho các nhà trường thực hiện giáo dục, rèn luyện kĩ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
năng sống cho HS có kết quả, Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo Viện Khoa học giáo
dục Việt Nam tổ chức biên soạn tài liệu về giáo dục kĩ năng sống cho HS qua
một số mơn học và hoạt động ngồi giờ lên lớp. Đối với bộ mơn Ngữ văn có
tài liệu Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường trung học cơ sở
và Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường trung học phổ thơng
(Nhiều tác giả, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010).
Việc tích hợp các nội dung giáo dục bảo vệ môi trường, kĩ năng sống
vào các môn học dựa trên nguyên tắc: chuyển tải các nội dung bảo vệ môi
trường vào bài học một cách tự nhiên, phù hợp nội dung bài học; làm bài học
sinh động, gắn với thực tế hơn, không làm quá tải bài học. [42]
Các tài liệu trên đã hướng dẫn GV Ngữ văn sử dụng các phương pháp
và kĩ thuật DHTH để tổ chức cho HS được thực hành, trải nghiệm một số kĩ
năng sống cơ bản, cần thiết cho các em ngay trong quá trình học môn Ngữ
văn, giúp cho việc học tập các môn học và tham gia các hoạt động giáo dục
của HS trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, thiết thực và hiệu quả hơn.
Tóm lại, vấn đề tích hợp trong dạy học Ngữ văn đã từng thu hút sự
quan tâm của các nhà phương pháp, của những GV tâm đắc với nghề. Một số
tiền đề lí luận cũng như một vài khía cạnh, phương diện của vấn đề đã được
đặt ra và luận giải. Tuy nhiên đề tài vẫn chưa được đề cập một cách tập trung
và có tính chun biệt.
Trên cơ sở tiếp thu những đóng góp rất đáng quý của các tác giả qua
các cơng trình nghiên cứu trên, tiếp tục nghiên cứu về vấn đề tích hợp trong
dạy học văn, hi vọng luận văn sẽ góp phần nào vào cái nhìn tổng thể, tồn
diện ấy.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng cũng như là cơ sở lí luận, luận văn
tập trung nghiên cứu nội dung và phương pháp nhằm tích hợp những kiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
thức KHXH-NV như: đạo đức - giáo dục công dân, địa lí, lịch sử, dân tộc học,
văn hố, phong tục, tập quán, bảo vệ môi trường, kĩ năng sống,… vào giảng
dạy các tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại trong chương trình THPT.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần tập trung giải quyết những
vấn đề sau đây:
- Khảo sát thực tiễn SGK, SGV, giáo án của GV, bài viết của HS và dự
giờ dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại ở trường THPT.
- Xây dựng cơ sở lí luận để tổ chức dạy học tác phẩm văn xuôi Việt
Nam hiện đại ở trường THPT theo hướng tích hợp những kiến thức KHXHNV.
- Đề xuất được những phương hướng về nội dung cũng như cách thức
dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại ở trường THPT theo hướng tích
hợp những kiến thức KHXH-NV. Cụ thể là đề xuất được:
+ Nội dung dạy học là những gì?
+ Hình thức dạy học ra sao?
+ PPDH như thế nào?
- Thử nghiệm sư phạm giảng dạy để đánh giá khả năng thực thi và hiệu
quả của nội dung và cách thức dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại
ở trường THPT theo hướng tích hợp những kiến thức KHXH-NV.
5. Đối tƣợng và giới hạn phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng: Văn xi trong chương trình Ngữ văn THPT.
+ Giới hạn: Văn xuôi Việt Nam hiện đại lớp 11 THPT, ban cơ bản.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi áp dụng một số phương
pháp nghiên cứu sau:
6.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Từ những thành tựu khoa học chuyên ngành và các khoa học có liên
quan trực tiếp để xác lập những luận điểm cơ bản cho vấn đề DHTH các tri
thức KHXH-NV trong giảng dạy phần văn xuôi Việt Nam hiện đại lớp 11
THPT, ban cơ bản.
6.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
Điều tra, khảo sát thực tiễn dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện
đại ở THPT qua SGK, SGV, giáo án của GV, dự giờ, bài viết của HS.
6.3. Phƣơng pháp thống kê tốn học
Nhằm xử lí số liệu thu được trong quá trình nghiên cứu.
6.4. Phƣơng pháp lấy ý kiến chuyên gia
Tham khảo ý kiến của các giáo sư, tiến sĩ, giáo viên có kinh nghiệm
trong nghiên cứu và trong giảng dạy.
7. Giả thuyết khoa học
Trong bối cảnh GV chưa chú ý nhiều tới việc tích hợp những kiến thức
KHXH-NV vào dạy học tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm văn xi
Việt Nam hiện đại nói riêng, nếu đề ra được những nội dung và phương pháp
để DHTH một cách khoa học và hợp lí sẽ góp phần phát huy được sức mạnh
giáo dục tổng hợp trong dạy học Ngữ văn, đồng thời tạo ra cơ hội liên kết các
môn học trong nhà trường để thực hiện mục tiêu giáo dục chung.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Dạy học tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại ở THPT
theo yêu cầu tích hợp kiến thức KHXH-NV
Chương 3: Thử nghiệm sư phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
1.1. Những luận điểm cơ bản về DHTH
1.1.1. Quan niệm về DHTH
Trong tiếng Anh, tích hợp được viết là “integration” một từ gốc Latin
(integer) có nghĩa là “gộp lại, sáp nhập lại thành một tổng thể” (tiếng Pháp là
intégration). Theo Từ điển tiếng Việt, tích hợp là “lắp ráp, nối kết các thành
phần của một hệ thống theo quan điểm tạo nên một hệ thống tồn bộ” [44].
Tư tưởng tích hợp đã được vận dụng trong nhiều giải pháp công nghệ
thuộc mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội hiện nay, trong đó có giáo dục. Trong lí
luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có hệ thống,
ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học khác
nhau hoặc các hợp phần của bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên
cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn
học hoặc các hợp phần của bộ môn đó.
Xavier Rogiers đã đưa ra một định nghĩa về khoa học sư phạm tích hợp
như sau: “Khoa sư phạm tích hợp là một quan niệm về một quá trình học tập
trong đó tồn thể các q trình học tập góp phần hình thành ở HS những
năng lực rõ ràng, có dự tính trước những điều cần thiết cho HS, nhằm phục
vụ cho các quá trình học tập tương lai, hoặc nhằm hòa nhập HS vào cuộc
sống lao động” [60] .
Nội hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là
sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể
thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng, chứ
không phải là một phép cộng giản đơn những thuộc tính của các thành phần
ấy. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính chất cơ bản, liên hệ mật thiết với nhau,
quy định lẫn nhau, là tính liên kết và tính tồn vẹn. Liên kết phải tạo thành
một thực thể tồn vẹn, khơng cịn sự phân chia giữa các thành phần kết hợp.
Tính tồn vẹn dựa trên sự thống nhất nội tại các thành phần liên kết, chứ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
không phải sự sắp đặt các thành phần bên cạnh nhau. Khơng thể gọi là tích
hợp nếu các tri thức, kĩ năng chỉ được thụ đắc, tác động một cách riêng rẽ,
khơng có sự liên kết, phối hợp với nhau trong lĩnh hội nội dung hay giải quyết
một vấn đề, tình huống. Tư tưởng tích hợp trên được bắt nguồn từ cơ sở khoa
học và đời sống. Cuộc sống là một bộ đại bách khoa toàn thư, là một tập đại
thành của tri thức, kinh nghiệm và phương pháp. Thực tế cho thấy, những vấn
đề nảy sinh trong đời sống, sản xuất ít khi chỉ liên quan tới một lĩnh vực tri
thức nào đó mà thường địi hỏi vận dụng tổng hợp các tri thức, kĩ năng, kinh
nghiệm...
Phương thức tích hợp các mơn học trong q trình dạy học, hay DHTH,
đã được vận dụng tương đối phổ biến ở nhiều nước. Hiện nay, quan điểm tích
hợp đã chiếm một vị trí chủ đạo trong hệ thống giáo dục của các nước tiên
tiến trên thế giới. Các nước như Mĩ, Anh, Pháp, Nhật, Úc,… đã biên soạn
chương trình và chỉ đạo phương pháp giảng dạy theo hướng tích hợp, đã thu
được những thành cơng nhất định. Như vậy, quan điểm tích hợp không đơn
thuần chỉ là một đề xuất, một ý tưởng tức thời mà nó đã trở thành một vấn đề
thời sự mang tính khoa học, đã được nhiều nước trên thế giới vận dụng và thu
được những thành tựu đáng kể.
Kinh nghiệm các nước cho thấy dạy học theo nguyên tắc tích hợp sẽ
giúp người GV năng động hơn, chủ động, sáng tạo và có kiến thức vững chắc
về mọi lĩnh vực khoa học và đời sống, thành thạo trong việc tìm ra những
điểm đồng quy và hội tụ của kiến thức, kĩ năng và PPDH; giúp cho HS học
tập thơng minh, nắm vững kiến thức, có khả năng vận dụng sáng tạo kiến
thức, có kĩ năng và phương pháp của khối lượng tri thức toàn diện và hợp lí.
Tuy nhiên, việc DHTH ở trường phổ thơng khơng đơn giản vì nó khơng chỉ
liên quan tới việc thiết kế nội dung chương trình mà cịn địi hỏi sự thay đổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
đồng bộ về cách tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp dạy và học, thay đổi
việc đánh giá, kiểm tra, thi.
Để hoà nhập vào xu thế phát triển chung của thế giới, giáo dục nước ta
đang từng bước đổi mới chương trình, SGK, PPDH theo quan điểm tích hợp.
Đã có nhiều mơn học, cấp học quan tâm vận dụng tư tưởng tích hợp vào q
trình dạy học để nâng cao chất lượng giáo dục (như các môn Lịch sử, Địa lí,
Ngữ văn, Sinh học, Vật lí, Đạo đức - Giáo dục công dân... và đưa các nội
dung giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục kĩ năng sống vào các môn học).
1.1.2. Các mục tiêu của DHTH
DHTH nhấn mạnh các mục tiêu cơ bản sau:
- Làm cho các quá trình học tập có ý nghĩa phong phú hơn bằng cách đặt
q trình học tập vào các hồn cảnh (tình huống) để HS nhận thấy ý nghĩa của
các kiến thức, kĩ năng, năng lực cần lĩnh hội. Điều đó có ý nghĩa lớn trong
việc tạo động lực học tập cho HS, điều mà hiện nay nhiều HS đã khơng có
được và do đó việc học tập trở nên nặng nề, thiếu niềm vui và hứng thú.
Trong quá trình học tập như vậy, các kiến thức, kĩ năng, năng lực của HS đều
được huy động và gắn với thực tế cuộc sống.
- Phân biệt cái cốt yếu với cái ít quan trọng hơn. Mục tiêu này đòi hỏi
phải lựa chọn kiến thức, kĩ năng cốt yếu xem là quan trọng đối với quá trình
học tập của HS và dành thời gian cũng như các giải pháp hợp lí cho chúng.
Trong thực tế nhà trường có nhiều điều chúng ta dạy cho HS nhưng khơng
thật sự có ích, ngược lại có những năng lực cơ bản không được dành đủ thời
gian.
- Dạy HS sử dụng kiến thức trong hoàn cảnh cụ thể. Thay vì tham nhồi
nhét cho HS nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, DHTH chú trọng tập dượt cho
HS vận dụng các kiến thức, kĩ năng học được vào các tình huống thực tế, có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
ích cho cuộc sống sau này làm cơng dân, làm người lao động, làm cha mẹ, có
năng lực sống tự lập. Thể hiện ở việc:
+ Nêu bật cách thức sử dụng kiến thức đã học.
+ Tạo các tình huống học tập để HS vận dụng kiến thức một cách sáng
tạo, tự lực.
Theo u cầu này thì DHTH khơng chỉ quan tâm đánh giá việc HS hiểu
những kiến thức đã học, mà còn đánh giá khả năng vận dụng kiến thức trong
các tình huống có ý nghĩa.
- Xác lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học. Trong quá trình học tập,
HS có thể lần lượt học những mơn học khác nhau, những phần khác nhau
trong mỗi môn học nhưng HS phải biểu đạt các khái niệm đã học trong những
mối quan hệ hệ thống trong phạm vi từng môn học cũng như giữa các môn
học khác nhau. Thông tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải
càng cao, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới
vận dụng được kiến thức đã học khi phải đương đầu với một tình huống thách
thức, bất ngờ, chưa từng gặp.
1.1.3. Vì sao phải thực hiện DHTH?
Có thể nêu lên một số lí do của việc thực hiện DHTH ở trường phổ
thông như sau:
- DHTH góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện của nhà trường
phổ thông.
Vận dụng DHTH là một yêu cầu tất yếu của việc thực hiện nhiệm vụ dạy
học ở nhà trường phổ thông. Như Luật giáo dục (2005) đã nêu: “Mục tiêu
giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển tồn diện về đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính
năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ
quốc”. Việc có nhiều môn học đã được đưa vào nhà trường phổ thơng hiện
nay là sự thể hiện q trình thực hiện mục tiêu giáo dục tồn diện. Các mơn
học đó phải liên kết với nhau để cùng thực hiện mục tiêu giáo dục nêu trên.
Mặt khác, hiện nay các tri thức khoa học và kinh nghiệm xã hội của loài
người phát triển như vũ bão trong khi quỹ thời gian cũng như kinh phí để HS
ngồi trên ghế nhà trường là có hạn, cho nên khơng thể đưa nhiều mơn học hơn
nữa vào nhà trường, cho dù những tri thức này là rất cần thiết. Chẳng hạn,
ngày nay người ta nhận thấy cần thiết phải trang bị nhiều kĩ năng sống cho
HS (các kiến thức về an tồn giao thơng, về bảo vệ môi trường sống, về năng
lượng và sử dụng năng lượng, về định hướng nghề nghiệp, về phát triển và
gìn giữ văn hố dân tộc...), trong khi những tri thức này không thể tạo thành
môn học mới để đưa vào nhà trường vì lí do phải đảm bảo tải học tập phù hợp
với sự phát triển của HS.
Dù khác nhau về đặc trưng bộ môn, song các môn học trong nhà trường
phổ thơng hiện nay đều có chung nhau nhiệm vụ là hiện thực hố mục tiêu
phát triển tồn diện HS. Có thể nêu những nét chung cơ bản của nhiệm vụ các
môn học được dạy trong nhà trường như sau:
+ Hình thành hệ thống tri thức, kĩ năng theo yêu cầu khoa học bộ môn.
+ Phát triển tư duy, năng lực sáng tạo cho HS phù hợp với đặc trưng
mơn học.
+ Giáo dục HS thơng qua q trình dạy học bộ mơn (như hình thành thế
giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan và thái độ, phẩm chất nhân cách
của người lao động mới,…).
+ Góp phần giáo dục kĩ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và chuẩn bị cho
HS tham gia lao động sản xuất,...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên